intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi A trường Mầm Non Hải Thiện

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

6
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi A trường Mầm Non Hải Thiện" được hoàn thành với mục tiêu nhằm tìm ra những giải pháp, biện pháp tối ưu để phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất, đáp ứng được yêu cầu giáo dục hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi A trường Mầm Non Hải Thiện

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI LĂNG TRƯỜNG MẦM NON HẢI THIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ NHÀ TRẺ 24- 36 THÁNG TUỔI A TRƯỜNG MẦM NON HẢI THIỆN Lĩnh vực/ môn : Giáo dục Nhà trẻ Tên tác giả : Lê Thi Như Ý Chức vụ : Giáo viên Đơn vị công tác : Trường Mầm non Hải Thiện Năm học: 2023 - 2024
  2. MỤC LỤC Trang I. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN ............................................................................. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ, NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN .............................. 1.Tính mới, sáng tạo của sáng kiến ....................................................................... 2 2. Các giải pháp cụ thể .......................................................................................... 2 2.1.Xây dựng môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ…………………………. 2 2.2.Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động có chủ đích………………..3 2.3.Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày …………… 3 2.4.Quan tâm trẻ cá biệt…………………………………………………………. 5 2.5.Tăng cường phối hợp với phụ huynh để giáo dục ngôn ngữ cho trẻ…………5 3. Điểm mới cơ bản của giải pháp. ...................................................................... 5 4. Tính thực tiễn của sáng kiến............................................................................. 6 5. Hiệu quả áp dụng và phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến .................................. 6 5.1 Hiệu quả sáng kiến đưa lại .............................................................................. 6 5.2. Phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến .................................................................. 7 III. KẾT LUẬN ..................................................................................................... 7
  3. UBND HUYỆN HẢI LĂNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG MẦM NON HẢI THIÊN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hải Định, ngày 06 tháng 03 năm 2024 BÁO CÁO SÁNG KIẾN - Họ và tên tác giả: LÊ THỊ NHƯ Ý Giới tính: Nữ - Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: CĐSP Mầm Non - Chức vụ: Giáo viên - Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Hải Thiện - Tên sáng kiến: “Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi A trường Mầm Non Hải Thiện”. - Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục - Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 10/9/2023 I. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN Ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ tìm hiểu khám phá, nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ lời nói của người lớn trẻ sẽ được làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh…của các sự vật, hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày. Ngôn ngữ còn là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Qua quá trình tìm hiểu cũng như tiếp xúc với trẻ, tôi nhận thấy ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế về cấu, từ, cách phát âm, cách diễn đạt. Đa phần trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách thụ động, lời nói chưa rõ ràng, mạch lạc. Khi nói nhiều trẻ bị bớt âm trong các từ, nói dớ, nói lắp …nhiều khi giáo viên không hiểu trẻ muốn nói gì. Một số trẻ thì chỉ mới nói được vài ba từ hoặc chưa rõ tiếng. Mặt khác vì trẻ còn nhỏ nên những phản ứng thường chậm chạp hoặc rất khó khăn để hiểu được yêu cầu của cô giáo, thêm vào đó bộ máy phát âm của trẻ còn yếu ớt và rất nhạy cảm. Chính vì vậy mà việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là rất cần thiết và quan trọng. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp tôi luôn có những suy nghĩ để tìm ra những giải pháp, biện pháp tối ưu để phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất, đáp ứng được yêu cầu giáo dục hiện nay. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi A ở trường mầm non Hải Thiện ” để làm đề tài nghiên cứu.
  4. 2 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ, NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN 1.Tính mới, sáng tạo của sáng kiến Khi áp dụng đề tài này, tôi xây dựng môi trường giáo dục có nhiều góc trải nghiệm, thực hành để trẻ được thoải mái lựa chọn đồ chơi, kích thích trẻ tích cực khám phá tạo cơ hội cho trẻ được rèn luyện, được giao tiếp với nhau nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.Thực hiện sáng kiến này, tôi đã sử dụng một số giải pháp mới như: khảo sát, quan sát, hướng dẫn, tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm nhiều hơn nhằm thay đổi được thực trạng của lớp. Bên cạnh đó tôi đã linh hoạt sáng tạo việc đổi mới hình thức rèn kỹ năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ bằng nhiều hình thức tổ chức để trẻ thể hiện nhu cầu của bản thân bằng lời nói. Qua việc luyện tập hàng ngày dần được hình thành và phát triển như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết các vấn đề. Như vậy có thể khẳng định rằng phát triển ngôn ngữ góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. 2. Các giải pháp cụ thể 2.1. Xây đựng môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ * Môi trường trong lớp: Môi trường trong lớp rất quan trọng đối với trẻ vì hàng ngày trẻ hoạt động trong lớp là chính. Vậy nên tôi đã lựa chọn và xây dựng những khu vực hoạt động của trẻ một cách hợp lý, bắt mắt nhằm tạo cho trẻ có cơ hội trải nghiệm, phát triển ngôn ngữ, phát triển vốn từ cho trẻ trong các hoạt động. - Ở góc sách - truyện thì cô cho trẻ xem tranh truyện trong chủ đề, bộ rối tay, rối ngón tay, rối bông... Khu vực này cần có nhiều gối để trẻ có thể thư giãn, thoái mái ngồi, nằm xem tranh truyện. Bên cạnh đó là chiếc bàn nhỏ xinh để trẻ có thể đặt sách truyện lên và “xem sách”. Ngoài cách giở xem sách truyện, có thể hướng dẫn trẻ đọc những câu đơn giản, phù hợp với bức tranh đó... Cô đọc các từ để trẻ nói theo các từ, câu đơn giản về con vật, cây, quả, những hành động của con vật... - Góc bé hoạt động với đồ vật: Chuẩn bị cho trẻ búp bê, đồ dùng chăm sóc búp bê ăn ngủ…; Các khối để trẻ xếp chồng, xếp cạnh; Hột hạt, dây xâu. - Góc bé với các phương tiện giao thông: Tôi chuẩn bị cho bé mô hình về ngã tư đường phố, các phương tiện giao thông, cột đèn xanh đỏ… * Môi trường ngoài lớp: Tủ đựng đồ cá nhân của trẻ cũng được đặt ngoài cửa lớp có dán tên và ảnh của trẻ để trẻ dễ dàng nhận thấy tủ đồ của mình. Mỗi lần trẻ lấy, cất đồ dùng cá nhân cô hỏi trẻ tủ con đâu? Con tên gì? Trên các cây đều có biển tên cây. Mỗi khi cho trẻ hoạt động ngoài trời cô cho trẻ đọc tên các loài cây, tên hoa, màu hoa, lá. Cô hỏi trẻ để trẻ nói tên đồ chơi ngoài trời như; Đu quay, cầu trượt, xích đu, nhà bóng… 2.2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động có chủ đích *Thông qua hoạt động nhận biết tập nói: Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ. Trẻ ở lứa tuổi 25-36 tháng trẻ bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trong tiết dạy cô cần chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp mắt, hấp dẫn
  5. 3 gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi rõ ràng, ngắn gọn giúp trẻ trả lời, cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu Ví dụ: Ở chủ đề “ Những con vật đáng yêu ”, khi cho trẻ nhận biết “ Con Thỏ ” cô tạo tình huống gây hứng thú cho trẻ một cách nhẹ nhàng, thu hút trẻ. Sau khi cho thỏ xuất hiện, cô mượn lời thỏ để chào trẻ và dạy trẻ chào bạn thỏ. Cô đặt câu hỏi: + Con gì đây? + Tai thỏ thế nào? (dài) + Lông thỏ màu gì? (trắng) + Đuôi thỏ thế nào? (ngắn) + Thỏ thích ăn gì? (cà rốt) Với hệ thống câu hỏi này nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua việc làm quen với một số đặc điểm rõ nét về con thỏ. Ví dụ: Chủ đề “ Phương tiện giao thông cô trang trí xung quanh lớp các bức tranh về phương tiện giao thong như: Xe đạp, xe máy, ô tô và những bức tranh các phương tiện giao thông đang hoạt động … cô trò chuyện cùng trẻ về những bức tranh để trẻ nói tên, đặc điểm, môi trường hoạt động của các phương tiện giao thông đó + Tranh của cô có gì? (Xe ô tô) + Xe ô tô chạy ở đâu? (Trên đường) + Ô tô có màu gì? + Ô tô dùng để làm gì? + Còi ô tô kêu như thế nào? + Đây là cái gì? (Cô hỏi từng bộ phận của ô tô và yêu cầu trẻ trả lời) Cứ như vậy cô đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, nhờ có sự giao tiếp giữa cô và trẻ đã giúp trẻ phát huy được tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ, phát triển năng lực quan sát, phát triển các giác quan, kích thích lòng ham hiểu biết tìm tòi khám phá về những điều bí ẩn của các sự vật xung quanh. Qua đó củng cố, mở rộng vốn hiểu biết, làm giàu ngôn ngữ cho trẻ. *Qua giờ thơ, truyện: Để đưa trẻ vào tiết học với sự hứng thú thì đồ dùng trực quan là nền tảng để tổ chức việc tích cực ngôn ngữ của trẻ. Hệ thống câu hỏi của cô phải rõ ràng, ngắn gọn. Trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói cụt lủn hoặc cộc lốc. Vi dụ : Đọc thơ “Yêu mẹ ” để tiết học hứng thú, cô cho trẻ đàm thoại bức tranh vẽ mẹ bế em bé. Cô hỏi trẻ + Tranh vẽ ai đây ?( Mẹ và em bé) + Mẹ đang làm gì ? (Mẹ bế em bé) + Mẹ đang thơm em bé đấy Cô đọc diễn cảm, rõ ràng toàn bộ bài thơ, kết hợp với động tác minh họa nhẹ nhàng. Cô đọc diễn cảm nhiều lần khuyễn khích trẻ đọc nhẩm theo cô, sau đó
  6. 4 cho cá nhân, nhóm 2- 3 trẻ đọc toàn bộ bài thơ. Nếu trẻ gặp khó khăn cô có thể nhẹ nhàng giúp trẻ nhớ lại và đọc tiếp đến hết bài thơ. Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ. Cô đọc thơ cho trẻ nghe giúp trẻ cảm nhận âm điệu, vần điệu, cô có thể giải thích cho trẻ các từ khó, lạ xuất hiện trong bài nói cách khác là trẻ cũng học thêm được các từ mới qua giờ học thơ. Ví dụ: Đọc thơ: “Cháu chào ông ạ!” cô đọc cho trẻ nghe và đàm thoại với trẻ, cô đưa ra những câu hỏi gợi mở để trẻ biết tên bài thơ, tên các nhân vật và hiểu được nội dung bài thơ để trẻ ghi nhớ và đọc lại theo cô. Cô phải sửa sai lỗi ngọng như “ nhỏ xíu, lông vàng ”. Qua tác phẩm cô còn giáo dục trẻ lễ phép với người lớn. Khi gặp người lớn phải chào. Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú. Khi tiếp xúc với các câu chuyện là trẻ đã được tri giác các bức tranh có hình ảnh và từ ngữ mới tương ứng với nội dung bức tranh. Ví dụ : Trẻ nghe câu truyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ” cô muốn cung cấp cho trẻ từ “ướt lướt thướt”. Cô có thể cho trẻ xem tranh, mô hình, và giải thích từ “ướt lướt thướt”. Bên cạnh đó cô cũng chuẩn bị một số hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học: Bác gấu đen trong câu truyện cô vừa kể đi đâu? (Đi chơi rừng). Khi gặp trời mưa, bác gấu đã bị làm sao? (Ướt lướt thướt) Cô kể 1 -2 lần giúp trẻ hiểu tác phẩm và đặt tiếp hệ thống câu hỏi hướng vào việc hiểu biết các hành động của nhân vật để trẻ hiểu việc nào nên làm, việc nào không lên làm : Qua câu truyện, con yêu quý ai? (Bác gấu đen, bạn thỏ trắng. Vì bạn thỏ trắng và bác gấu đen là những người tốt bụng). Xen kẽ các câu hỏi, cô cho từng trẻ trả lời. Để hiểu rõ hơn các hình ảnh và các nhân vật hành động trong tranh khi trò chuyện với trẻ. Cô giảng giải khen ngợi và bắt chước các hành động trong tranh. Sau khi cho trẻ quan sát và trò chuyện về bức tranh cô kể mẫu cho trẻ nghe. Nội dung lời kể cần đơn giản ngắn gọn. Để hấp dẫn trẻ, trong lời kể của cô thường có các câu đối thoại giữa các nhân vật. Kết thúc lời kể là những nhận xét, khen ngợi các nhân vật, các hành động trong tranh. Cô khuyến khích trẻ kể, khi trẻ kể cô cho trẻ đứng gần tranh dùng que chỉ lên các hình đang mô tả. Từ đó ngôn ngữ của trẻ được phát triển và hoàn thiện. 2.3. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày *Hoạt động giờ đón trẻ: - Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ.Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ.
  7. 5 Ví dụ: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: + Gia đình con có những ai? + Trong gia đình ai yêu con nhất? + Mẹ yêu con như thế nào? + Buổi sáng ai đưa con đến lớp? + Bố con đưa đi bằng phương tiện gì? - Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. - Ngoài ra trong giờ đón trẻ, tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố, mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời. *Hoạt động giờ trả trẻ: Tôi cũng rèn cho trẻ thói quen chào cô, chào các bạn khi ra về, giúp trẻ kiểm tra tất cả các đồ dùng cá nhân của trẻ xem đã đầy đủ chưa. Trong khi chờ bố mẹ đến đón tôi cho trẻ ôn lại các bài thơ, câu chuyện, bài hát đã học giúp trẻ đọc chính xác, rõ ràng hơn. *Hoạt động dạo chơi ngoài trời. Hoạt động dạo chơi ngoài trời cũng là một hoạt động không thể thiếu trong chế độ sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Thông qua hoạt động ngoài trời, trẻ được tiếp xúc gần gũi với thiên nhiên, được khám phá, thỏa mãn trí tò mò. Chính vì vậy, tôi lựa chọn những nội dung trò chuyện với trẻ thật nhẹ nhàng, thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ gọi tên các đồ chơi ngoài trời như: đu quay, xích đu, Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ mọi vấn đề đang diễn ra xung quanh trẻ. +Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát vườn hoa. Cô có thể hỏi: - Đây là cây hoa gì? Cô chỉ vào từng bộ phận của hoa (Lá hoa, Cánh hoa, Nhị hoa....) để cho trẻ gọi tên. - Lá cây màu gì? Hoa màu gì? Trồng hoa để làm gì? Hoạt động dạo chơi, tham quan có tác dụng rất lớn đối với việc mở rộng tầm hiểu biết của trẻ. Thiên nhiên không chỉ mang đến cho trẻ những thứ cần thiết, mà còn hấp dẫn trẻ bởi những điều kỳ diệu mà không có gì thay thế nổi. Đồng thời trong quá trình dạo chơi trẻ được đặt nhiều câu hỏi về tên gọi, công dụng… của sự vật mà trẻ được tiếp xúc. Vì vậy, dạo chơi, tham quan có tác dụng lớn trong việc phát triển vốn từ cho trẻ. *Hoạt động giờ ăn: Trong giờ ăn tôi luôn giáo dục trẻ biết mời cô, mời các bạn ăn cơm để tạo thói quen cho trẻ. Cô giới thiệu món ăn cho trẻ xong cô hỏi lại trẻ. Hôm nay các con được ăn món gì? Thịt cung cấp chất gì? Cơm cung cấp chất gì? Canh cung cấp chất gì?… +Ví dụ: Cô hỏi câu hỏi gợi ý cho trẻ: Đố các con biết trước khi ăn cơm chúng mình phải làm gì? Các con mời như nào? Nhờ đó giúp trẻ ghi nhớ và tạo thói quen cho trẻ và cung cấp được vốn từ cho trẻ.
  8. 6 Trong khi chờ cơm các cô cấp dưỡng đưa cơm đến lớp, cô sẽ kể cho trẻ nghe câu truyện, bài thơ, bài hát.. liên quan đến giờ ăn và phép lịch sự khi ăn. Nhờ những câu chuyện đó, giúp trẻ vừa tạo thói quen lịch sự khi ăn và cung cấp cho trẻ thêm vốn từ. +Ví dụ: Câu Truyện “Tay phải và tay trái” +Khi cô kể xong hỏi trẻ: Cô vừa kể cho các con nghe câu truyện gì? +Trong câu truyện có nhân vật nào?... *Hoạt động giờ ngủ: Khi đến giờ đi ngủ tôi có thể cho trẻ đọc một số bài thơ, nghe một số ca khúc nhẹ nhàng, có lời ru êm ái, có nội dung nhắc nhở trẻ những quy tắc trong giờ ngủ để trẻ nghe. Ví dụ: Cô cho trẻ đọc bài thơ “Giờ ngủ” trẻ nghe và làm theo một số hành động trong bài thơ như: Không đùa nghịch nhau, không nói chuyện, không nghịch đồ chơi… Cứ như thế ngôn ngữ và vốn từ của trẻ cũng tăng và tạo cho trẻ một số nề nếp, thói quen, cho trẻ biết khi nào trẻ nên chơi và khi nào trẻ không nên chơi *Hoạt động chơi ở các góc: Hoạt động chơi với đồ chơi ở các góc giúp trẻ được khám phá rất nhiều thứ từ môi trường xung quanh, phát triển các giác quan, tìm hiểu sở thích của bản thân. Qua chơi trẻ học và tích lũy được nhiều kinh nghiệm và vốn sống cho mình, giờ hoạt động ở các góc trẻ được chơi và giao tiếp cùng bạn bè, phối hợp chơi cùng nhau. Chính vì vậy, ngôn ngữ nói của trẻ được tăng lên. Qua chơi ở các góc cô có thể cung cấp thêm cho trẻ từ mới và nắm bắt được khả năng về ngôn ngữ của trẻ. + Ví dụ 1: Cô đến các góc chơi: “Thao tác vai” - Cô có thể đặt các câu hỏi như: Bác đang nấu gì đấy? Cơm đã chín chưa bác? Bác đang nấu canh gì đấy?.. Ngoài ra còn tạo thêm các tình huống để các nhóm chơi được giao lưu cùng nhau. +Ví dụ 2: Cô đến góc chơi nấu ăn: Cô có thể tạo tình huống - Cô thấy búp bê có vẻ rất đói rồi. Búp bê muốn ăn cơm với trứng rán. Vậy bác nào sẽ đến cửa hàng mua trứng nào? Khi đến cửa hàng các bác nói như thế nào?... 2.4.Quan tâm trẻ cá biệt Khi giáo dục những trẻ cá biệt khó khăn về ngôn ngữ tôi thường áp dụng các phương pháp giáo dục đặc biệt riêng biệt, tôi luôn có kinh nghiệm và nhanh chóng nhận biết được thời điểm nào cần phải kết thúc các tác động đến trẻ, khi nào cần giao tiếp ít hơn, khi đó thay vì bắt trẻ phải ghi nhớ một kiến thức nào đó, hãy cho trẻ chơi các trò chơi thú vị, đọc một cuốn sách hoặc nghe nhạc nhẹ nhàng để thư giãn. Chỉ dẫn và nói với trẻ một cách đơn giản về những điều trẻ đang làm. Để trẻ hiểu ngôn ngữ một cách nhanh chóng, tôi luôn luôn cho trẻ tập trung chú ý trước khi bắt đầu hướng dẫn, hiểu lời nói và hiểu các từ khái quát. Nói chậm, nói
  9. 7 đơn giản những lời nói trong khi hướng dẫn trẻ, sử dụng những cử chỉ, điệu bộ khi có thể, nhấn mạnh tới từng từ mang đặc điểm chính và yêu cầu trẻ nhắc lại rõ ràng lời chỉ dẫn đó. +Đọc truyện cho trẻ nghe trước khi giới thiệu những thông tin chính. +Giải thích nghĩa các từ khái quát cho trẻ, khi nói nhấn mạnh các từ đa nghĩa, minh họa rõ ràng bằng hình ảnh. +Cho trẻ nghe cách sử dụng một từ, đặt câu hỏi với từ đó, sử dụng những câu đơn giản trước và cho trẻ lặp đi lặp lại trước khi học những nguyên tắc cần thiết. 2.5.Tăng cường phối hợp với phụ huynh để giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ - Gia đình là nền tảng, là xã hội thu nhỏ của trẻ, xác định được điều này tôi luôn trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ ở trường bằng nhiều hình thức như: gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khỏe, việc học của trẻ, tuyên truyền tới các bậc phụ huynh về cách nuôi con theo khoa học, thống nhất về kế hoạch hoạt hoạt động cho từng tháng, từng tuần ngoài ra tôi còn phô tô thêm tài liệu như: thơ, chuyện, bài hát, để phụ huynh nắm bắt được chương trình, kết hợp dạy trẻ ở gia đình. Như vậy sẽ tận dụng được thời gian dạy trẻ, phát triển tư duy với môi trường xung quanh, ngôn ngữ của trẻ được phát triển tốt. -Tôi trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo trong việc phát triển ngôn ngữ. Hàng ngày phụ huynh phải dành nhiều thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, nhất là trò chuyện với trẻ bằng tiếng Việt, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, luôn đặt câu hỏi, khuyến khích trẻ trả lời, luôn lắng nghe tâm tư nguyện vọng, đáp ứng những mong muốn chính đáng của trẻ. +Ví dụ: Từ: “Cơm, cá”, nhưng một số cháu sẽ phát âm thành: “Chơm, chá”. Tôi gặp gỡ phụ huynh và cùng thống nhất tuần này cô cùng gia đình dạy cháu phát âm chuẩn từ cơm, cá. Tôi đưa tranh con cá, bé đang ăn cơm về nhà cho phụ huynh và nhờ phụ huynh dạy trẻ phát âm ở nhà. - Đối với những cháu nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô giáo để trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được nói nhiều, được sửa lỗi phát âm. - Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ rất hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô giáo trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm, sửa ngọng. - Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ, truyện có chữ, hình ảnh to, rõ nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho trẻ làm quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp. 3. Điểm mới cơ bản của giải pháp
  10. 8 - Trước khi viết giải pháp, người viết đã tiến hành khảo sát thực trạng rồi đưa ra những giải pháp cụ thể. Vì thế giải pháp mang tính khả thi cao phù hợp với thực tế, đúng độ tuổi của trẻ. Qua quá trình thực hiện, đã hình thành cho trẻ vốn ngôn ngữ nói: như thưa cô cho cháu vào lớp, con chào ba, mẹ con đi học…… - Sau khi tiến hành những giải pháp trên tôi thấy trẻ đã có vốn ngôn ngữ cần thiết phù hợp với độ tuổi. Trẻ tham gia vào các hoạt động một cách tự tin mạnh dạn giúp cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục của cô giáo đạt kết quả tốt. 4.Tính thực tiễn của sáng kiến Để kiểm tra hiệu quả của các biện pháp đưa ra, tôi đã tiến hành áp dụng cácgiải pháp trong suốt năm học và kết quả mang lại kết quả cao. Các giải pháp đã góp phần giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho bản thân, là tiền đề để hình thành ngôn ngữ tốt cho trẻ. 5. Hiệu quả áp dụng và phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến 5.1.Hiệu quả sáng kiến đưa lại - Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng đa số các cháu ngôn ngữ giao tiếp còn hạn chế, tôi đã tiến hành đánh giá đúng khả năng của từng trẻ qua lựa chọn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ đạt được kết quả cao, nên ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành đánh giá trẻ và kết quả đạt được như. * Bảng khảo sát tỉ lê ̣đánh giá đầu năm tháng 9/2023: Số Khi chưa áp dụng Nội dung lượng trẻ Tỉ lệ% Số trẻ đạt Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ 16 9 56,3 % Khả năng nói đúng ngữ pháp 16 8 50% Khả năng giao tiếp 16 8 50% Khả năng phát âm chuẩn 16 8 50% + Trong năm học 2023 - 2024, tôi đã áp dụng tất cả các giải pháp, các hình thức,phương pháp lồng ghép rèn phát triển vốn từ vào các hoạt động, Trẻ có ý thức hơn trong mọi việc. Trẻ nhanh nhẹn, tự tin và mạnh dạn tham gia các hoạt động ở lớp, sẵn sàng giúp đỡ cô và các bạn, trẻ hiểu, nói chuẩn, đúng ngữ pháp, biết giao tiếp với cô và các bạn ... tôi đã khảo sát và đạt được những kết quả như sau:
  11. 9 * Bảng khảo sát tỉ lê ̣đánh giá tháng 2/2024 Số Sau khi áp dụng biện pháp Nội dung lượng trẻ Số trẻ đạt Tỉ lệ% Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ 16 15 93,75 % Khả năng nói đúng ngữ pháp 16 15 93,75% Khả năng giao tiếp 16 14 87,5% Khả năng phát âm chuẩn 16 15 93,75% 5.2. Phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến Sau khi tiến hành những giải pháp trên tôi thấy trẻ đã có vốn ngôn ngữ cần thiết phù hợp với độ tuổi. Trẻ tham gia vào các hoạt động một cách tự tinmạnh dạn giúp cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục của cô giáo đạt kết quả tốt. III. KẾT LUẬN: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường Mầm Non là vấn đề rất quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng khả năng ngôn ngữ phát triển rất nhanh. Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của các con, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước. Trên đây là sáng kiến nhỏ đã giúp tôi đạt được kết quả cao trong việc thực hiện “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi A trường Mầm Non Hải Thiện” Tôi mong rằng, đề tài tôi đã áp dụng sẽ được phổ biến tiếp tục thực hiện trong năm học tiếp theo. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Vì vậy rất mong được sự góp ý bổ sung, những ý kiến sữa đổi của quý cấp trên để tôi có thể hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cám ơn! XÁC NHẬN CÁC CẤP TRÌNH SÁNG KIẾN NGƯỜI VIẾT SKKN Hiệu trưởng Lê Thị Như Ý Nguyễn Thị Đông
  12. 10
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2