Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh tại trường Tiểu học
lượt xem 5
download
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non "Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh tại trường Tiểu học" được hoàn thành với một số biện pháp như sau: Chỉ đạo và hướng dẫn giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp và tạo mối quan hệ thân thiện với học sinh; Lồng ghép việc hình thành và bồi dưỡng năng lực, phẩm chất cho học sinh thông qua các môn học;...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh tại trường Tiểu học
- PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài Chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, có tri thức, có sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bất kỳ xã hội nào, nền văn hóa nào thì ngoài cung cấp kiến thức còn cần phải giúp người học hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm chất để không chỉ phục vụ đời sống bản thân mà còn đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực, tiềm năng cho cả xã hội. Phẩm chất cùng với năng lực tạo nên nhân cách con người. Một con người cần hội tụ cả phẩm chất và năng lực, đó là con người có tình thương yêu với người khác và với mọi vật trong cuộc sống được thể hiện bằng sự quan tâm chăm sóc giúp đỡ, sẻ chia khi người khác bị gặp phải chuyện bất trắc. Đây chính là một phẩm chất quan trọng trong nhân cách con người, là nền tảng để xây dựng thế giới tâm hồn của mỗi con người chúng ta. Vì vậy, ở bất cứ quốc gia nào, ở thời đại nào cũng vậy bồi dưỡng phẩm chất và năng lực cho thế hệ đang lớn cũng là vấn đề được toàn xã hội quan tâm chú ý. Thực tế, với lứa tuổi học sinh tiểu học hiện nay, các em đang sống trong môi trường toàn cầu hóa, sự giao tiếp của con người ngày càng rộng nên phẩm chất và năng lực của các em càng cần được mở rộng hơn, đó chính là động lực để giúp các em biết hợp tác cùng nhau nâng cao hiểu biết, tích cực cải thiện cuộc sống con người. Bởi lẽ, chỉ có phẩm chất, năng lực phù hợp mới xoá đi những ngăn cách giàu nghèo, xóa đi những bất đồng nghi kỵ và tạo ra thế giới hòa bình, hạnh phúc, văn minh và giàu mạnh. Để có được điều này thì ngay từ lúc trẻ còn nhỏ, chúng ta đã cần phải tạo và bồi dưỡng bằng được những phẩm chất, năng lực cần thiết cho trẻ, đặc biệt là đối với trẻ tiểu học thì điều này rất quan trọng. Bởi ở lứa tuổi này tâm sinh lý trẻ có nhiều sự thay đổi so với trẻ mầm non. Trẻ ưa tìm hiểu, ham tìm tòi cái mới, cái lạ, mọi nề nếp thói quen tốt nếu được rèn ngay từ cấp tiểu học sẽ theo trẻ suốt cả cuộc đời. Đặc biệt đối với học sinh đầu cấp. Các em chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Việc thực hiện hoạt động học tập là bước ngoặc quan trọng trong đời sống của trẻ ở lứa tuổi này. Ở cấp tiểu học, trẻ phát triển mạnh về nhận thức, tình cảm, ý chí với tư duy nhớ máy móc chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Từng ngày các em hình thành cho mình những năng lực ở trình độ sơ đẳng nhưng cơ bản như: năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, năng lực tính toán, năng lực làm việc…Các em đang trở thành chính mình bằng hoạt động của mình dưới sự tổ chức hướng dẫn của thầy cô và người lớn. Chính vì vậy, việc bồi dưỡng phẩm chất và năng 1/20
- lực cho các em cần phải được thực hiện càng sớm càng tốt và cần phải được thực hiện ngay từ lúc các em còn nhỏ, ngay từ bậc Tiểu học và đặc biệt quan trọng là ngay từ lớp 1, lớp 2. Trước những thực tế trên, chúng ta với trách nhiệm là những người làm nghề dạy học phải làm gì để có những học sinh có năng lực và phẩm chất phù hợp trong giai đoạn toàn cầu hóa kinh tế hiện nay? Điều này luôn thôi thúc tôi tìm tòi, nghiên cứu sách báo tài liệu để tìm ra câu trả lời. Bằng kinh nghiệm công tác, với mong muốn các em đạt phẩm chất, năng lực như mong muốn, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu, tìm hiểu và viết : “Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh tại trường Tiểu học”. 2. Đối tượng, phạm vi, kế hoạch nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu - Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh. 2.2. Phạm vi nghiên cứu: - Các môn học theo quy định trong phân phối chương trình của Bộ GD &ĐT: Đạo đức; Tiếng Việt; Toán; các môn học nghệ thuật; Hoạt động tập thể (tiết giáo dục An toàn giao thông); Giáo dục nếp sống Thanh lịch văn minh; các nội dung hoạt động ngoài giờ lên lớp... - Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. -Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT ngày 4 tháng 9 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2.3. Phương pháp nghiên cứu - Tham khảo kiến thức ở trên mạng Internet; - Trao đổi cùng đồng nghiệp có kinh nghiệm hơn; - Các phương pháp dạy học chủ yếu: Quan sát; Hỏi đáp; Phỏng vấn- điều tra; Nêu gương. 2.4. Các tài liệu nghiên cứu - Các biện pháp giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học; - Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. -Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT ngày 4 tháng 9 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (gọi tắt là Chương trình tổng thể) 2/20
- PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận chung 1. 1. Một số khái niệm liên quan Phẩm chất là cái làm nên giá trị của người hay vật. Hoặc phẩm chất là những yếu tố đạo đức, hành vi ứng xử, niềm tin, tình cảm, giá trị cuộc sống; ý thức pháp luật của con người được hình thành sau một quá trình giáo dục. Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Hoặc năng lực là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành công một loại công việc trong một bối cảnh nhất định. Năng lực gồm có năng lực chung và năng lực đặc thù. Năng lực chung là năng lực cơ bản cần thiết mà bất cứ người nào cũng cần phải có để sống và học tập, làm việc. Năng lực đặc thù thể hiện trên từng lĩnh vực khác nhau như năng lực đặc thù môn học là năng lực được hình thành và phát triển do đặc điểm của môn học đó tạo nên. Biện pháp là cách thức, là con đường để tác động đến đối tượng. Trong giáo dục người ta thường quan niệm biện pháp là yếu tố hợp thành của phương pháp, phụ thuộc vào phương pháp. Trong tình huống sư phạm cụ thể, phương pháp và biện pháp giáo dục có thể chuyển hoá lẫn nhau. Biện pháp chính là những cách thức cụ thể để thực hiện phương pháp quản lý. Vì đối tượng quản lý phức tạp đòi hỏi những biện pháp quản lý rất đa dạng và linh hoạt. Các biện pháp quản lý có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống các biện pháp, các biện pháp này sẽ giúp cho các nhà quản lý thực hiện tốt hơn các phương pháp quản lý của mình mang lại hiệu quả tối ưu 1.2. Những cơ sở lý luận của việc giúp học sinh bồi dưỡng phẩm chất, năng lực trong nhà trường Phẩm chất và năng lực là hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách nói chung và là yếu tố nền tảng tạo nên nhân cách của một con người. Do vậy, trong mọi thời đại, các chương trình giáo dục được áp dụng, tuy có khác nhau về cấu trúc, phương pháp và nội dung giáo dục… nhưng đều hướng tới mục tiêu nhân cách. Trong đó việc hình thành phẩm chất và năng lực con người (đức, tài) được quan tâm nhấn mạnh. Qua các thời kỳ với các giai đoạn lịch sử khác nhau, yêu cầu về nhân cách nói chung và phẩm chất, năng lực nói riêng của con người với tư cách là thành viên trong xã hội cũng có những thay đổi phù hợp với đòi hỏi của thời đại. Theo xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nền giáo dục nước ta cũng đang trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nếu như trước đây giáo dục chú trọng mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh và giúp người học hình thành hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái độ thì ngày nay, điều đó vẫn còn đúng, còn cần nhưng chưa đủ. Thật vậy, trong 3/20
- điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những tác động tích cực của nền kinh tế tri thức và tiến bộ của thông tin, truyền thông, giáo dục cần phải giúp người học hình thành một hệ thống phẩm chất, năng lực đáp ứng được với yêu cầu mới. Hệ thống phẩm chất, năng lực đó được cụ thể hóa phù hợp với sự phát triển tâm lý, sinh lý của người học, phù hợp với đặc điểm môn học và cấp học, lớp học. Theo đó, những phát triển của phẩm chất, năng lực người học trong quá trình giáo dục cũng sẽ là quá trình hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách con người. 2. Thực trạng của việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh trong nhà trường 2.1. Một số đặc điểm chung của nhà trường 2.1.1.Đặc điểm chung của nhà trường Đây là một trường có số học sinh khá đông, nằm ở phía nam của thành phố Hà Nội, trường được thành lập từ năm 1959 và chung cấp với cấp II, Từ năm 1996 được tách riêng trường và mang tên gọi trường tiểu học Ngũ Hiệp, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của Thủ đô, xã Ngũ Hiệp đang trên đà phát triển đô thị hoá nhanh nhà trường cũng luôn không ngừng phát triển và duy trì được thành tích trong dạy học, giáo dục Đội ngũ cán bộ, giáo viên của nhà trường đại đa số đáp ứng được công tác giảng dạy, giáo dục hiện nay. Trường có nề nếp, có kỷ cương, tập thể giáo viên đoàn kết nhất trí, có đội ngũ giáo viên đặc biệt là giáo viên chuyên biệt có chuyên môn giàu kinh nghiệm, yêu nghề có ý thức trách nhiệm trong công tác, là bộ phận chân rết đắc lực cho cán bộ quản lý. Học sinh nhìn chung chăm chỉ học tập, ham học, ngoan ngoãn biết vâng lời thầy cô giáo, có ý thức kỷ luật tốt, tích cực tham gia các hoạt động. Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm động viên của địa phương trong các hoạt động dạy và học. Ngoài ra, còn có sự phối kết hợp chặt chẽ của phụ huynh học sinh trong việc giáo dục học trò nhất là việc giáo dục phẩm chất và năng lực. 2.1.2. Đặc điểm chung của học sinh nhà trường; Năm học 2021 -2022, nhà trường có 1397 học sinh ở tại 4 thôn Tự Khoát, Tương Chúc, Đông Trạch, Việt Yên và có bố mẹ chủ yếu làm nông nghiệp và làm tự do trên địa bàn gần trường. Học sinh, hầu hết các em đều chăm ngoan, có ý thức tổ chức kỷ luật, biết thực hiện đúng nội qui và qui định của nhà trường, của lớp và đã có ý thức học tập và rèn luyện theo sự hướng dẫn của cô giáo. Các em biết tự giác thực hiện nội quy của trường, lớp: xếp hàng chào cờ đầu tuần, xếp hàng ra vào lớp đầu mỗi buổi học sáng. Ở lứa tuổi tiểu học, các em mang đặc điểm tâm sinh lí đặc biệt: ngây thơ, hồn nhiên, ít chú ý, hay tò mò nhưng lại dễ bị phân tán, nhiều em còn mải chơi 4/20
- chưa chú ý đến học tập và rèn luyện; một số em lại có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ thường xuyên không có nhà nên chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em hàng ngày được. 2. 2. Thực trạng việc giúp học sinh bồi dưỡng phẩm chất, năng lực trong trường Tiểu học Ngũ Hiệp Thực trạng việc hình thành và bồi dưỡng năng lực, phẩm chất cho học sinh ở trường tôi có nhiều chuyển biến tích cực nhưng hiệu quả chưa cao. Học sinh đã đạt được các năng lực phẩm chất theo yêu cầu nhưng số em đạt ở mức tốt chưa nhiều. Vẫn còn số ít học sinh hạn chế về năng lực, phẩm chất. Thực tế qua thăm dò khảo sát phụ huynh và giáo viên tôi thấy về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con; thường chỉ chú trọng đến việc học của con mình nhưng lại quá chiều chuộng con cái, cha mẹ luôn làm hộ con cái cho nhanh để các cháu kịp giờ học, cha mẹ kịp giờ làm, buổi tối về thậm chí không có thời gian trông nom việc học hành giáo dục rèn luyện con cái. Chính từ những việc làm đó đã khiến trẻ có sự dựa dẫm, luôn trông chờ vào sự làm hộ của bố mẹ không có năng lực tự phục vụ. Một số giáo viên khi vận dụng những kế hoạch định hướng chung cho việc hình thành và bồi dưỡng năng lực, phẩm chất vào từng lớp, cho từng học sinh chưa được cụ thể. Trong giảng dạy, một số giáo viên ít tạo cơ hội cho học sinh được học tập chủ động, sáng tạo thực sự. Bên cạnh đó, việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh tại nhà trường mới chỉ dừng lại ở các tiết học về kiến thức có gắn giáo dục năng lực, phẩm chất cho các em. Các buổi sinh hoạt ngoại khoá, các buổi trải nghiệm còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu hình thành năng lực, phẩm chất cho các em. Cách truyền đạt kiến thức cũng như chương trình nội dung còn quá nặng về lý thuyết mà ít gắn với thực tế. Việc chú trọng giáo dục phẩm chất, hình thành năng lực cho học sinh đã được giáo viên chú trọng song chưa thường xuyên và còn nhiều hạn chế. Trong khi đó nhiệm vụ hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lại là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác chủ nhiệm. Nhiều em có kết quả học tập các môn học tốt nhưng khả năng tự quản và khả năng giao tiếp kém, chưa linh hoạt trong khi xử lí các tình huống của cuộc sống. Nguyên nhân là do các em còn hạn chế về năng lực và phẩm chất nên dẫn đến thiếu kĩ năng sống. Đặc biệt là học sinh lớp 1 còn rụt rè, nhút nhát, chưa chủ động trong mọi hoạt động; nhiều em còn quá lúng túng vụng về khi sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp với cô giáo và với các bạn thậm chí dùng còn sai; các em chưa tôn trọng bạn, chưa mạnh dạn tự tin trong giao tiếp,chưa mạnh dạn phát biểu xây dựng bài, khi nhận xét góp ý cho bạn, chưa hăng hái tham gia các hoạt động giáo dục; Chưa tự biết phục vụ bản thân: bố mẹ phải giúp chuẩn bị đồ dùng sách 5/20
- vở khi đến trường; Xác định yêu cầu học tập còn cần sự hướng dẫn của giáo viên- Chưa có khả năng vận dụng kiến thức bài học vào thực tế cuộc sống. Cụ thể: Kết quả vào cuối tháng 10 (giữa kỳ 1) *Về năng lực: ( khối 3;4;5) Khối SS Tự phục vụ, tự quản Hợp tác Tự học và giải quyết vấn đề Tốt Đạt CCG T Đ CCG T Đ CCG 3 247 70,4 29,6 0 65,4 34,6 0 68.5 31.5 0 4 317 94.0 6.0 0 80.0 20.0 0 86.8 13,3 0 5 221 94.2 5.8 0 91.0 9.0 0 89.7 10.3 0 Tổng 785 86.2 14.8 0 78.8 29.2 0 81.7 19.3 0 * Về năng lực ( khối 1;2): Tự chủ và tự Giao tiếp và GQVĐ và Khố Ngôn ngữ Tính toán SS học hợp tác sáng tạo i T Đ CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG 1 331 65,7 33,8 0.5 66.2 33.3 0.5 69.8 30.2 0 77.0 23.0 0 81.0 21.0 0 2 281 61.7 38.3 0 76.2 23.8 0 75.7 24.3 0 83.5 16.5 0 83.5 16.5 0 Tổng 612 63.7 36.0 0.3 71.2 28.5 0.3 72.7 27.3 0 80.3 19.7 0 82.2 17.8 0 Khố Khoa học Thẩm mỹ Thể chất SS T Đ CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG i 1 331 64.5 35.5 0 69.2 30.8 0 63.4 36.6 0 2 281 68.3 31.7 0 71.3 28.7 0 75.2 24.8 0 Tổng 612 66.4 33.6 0 70.2 29.8 0 69.3 30.7 0 * Về phẩm chất: Kh SS Chăm học, chăm Tự tin,trách Trung thưc, kỷ Đoàn kết, yêu Yêu nước K1;2 ối làm nhiệm luật thương ( chăm chỉ k1;2) ( trách nhiệm ( trung thực k1;2) ( Nhân ái k1;2) k1;2) T Đ CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG 1 331 65,7 33,8 0.5 66.2 33.3 0.5 69.8 30.2 0 77 23 0 81.0 21.0 0 2 281 61.7 38.3 0 76.2 23.8 0 75.7 24.3 0 83.5 16.5 0 83.5 16.5 0 3 247 74.6 25.5 0 69.6 30.4 0 73.5 26.5 0 84,5 15.5 0 84,5 15.5 0 4 317 87.9 12.1 0 81.3 18.7 0 96.7 3.3 0 100 0 0 100 0 0 5 221 94.9 5.1 0 96.2 3.8 0 97.4 2.6 0 99.4 0.6 0 100 0 0 T 1397 75.6 24.3 0.1 76.9 23 0.1 81.5 18.5 0 88 12 0 88 12 0 Từ thực trạng của học sinh tại thời điểm giữa kỳ I, với mong muốn nâng cao năng lực, phẩm chất cho học sinh, tôi đã suy nghĩ tìm những biện pháp chỉ đạo hướng dẫn giáo viên bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh. Với những biện pháp đưa ra trong đề tài tôi hy vọng sẽ góp phần giúp cho giáo viên có những định hướng đúng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh nhà trường. 3. Các biện pháp chỉ đạo bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh 6/20
- 3.1. Biện pháp thứ nhất: Chỉ đạo và hướng dẫn giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp và tạo mối quan hệ thân thiện với học sinh. Nói về công tác dạy học và giáo dục, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói: “Giáo viên phải chú ý rèn cả tài và đức, tài là văn hoá chuyên môn, đức là đạo đức chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức…”. Tôi thiết nghĩ, trong dạy học và giáo dục người giáo viên cần phải kiên trì, nhẫn nại, tận tình, tận tâm. Đồng thời, người giáo viên phải luôn biết tự điều chỉnh mình để điều chỉnh học sinh: vì trong cuộc sống không có ai không có sai sót, hạn chế, cho nên người giáo viên cần thường xuyên tự điều chỉnh những sai sót của chính mình thì mới có thể giúp học sinh từng bước hoàn thiện phẩm chất và năng lực. Đặc biệt, tại cấp tiểu học, vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp vô cùng quan trọng. Học sinh có ngoan, có ý thức, có nề nếp học tập hay không phần lớn nhờ vào công tác chủ nhiệm lớp. Giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp có làm tốt công tác chủ nhiệm, nắm chắc hoàn cảnh gia đình học sinh, nắm vững tính cách của học sinh trong lớp thì sẽ có các biện pháp giáo dục, rèn giũa học sinh. Học sinh có yêu lớp, yêu trường, có ham học không đều phụ thuộc rất lớn vào sự nhiệt tình, tâm huyết của thầy cô giáo và đặc biệt là của cô giáo chủ nhiệm lớp. Trong dạy học, giáo viên chủ nhiệm lớp cần dùng tình thương và trách nhiệm để cảm hoá học sinh hay chính là để làm gương cho các em. Thầy cô muốn hoàn thành nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm trước hết phải có tâm, có tấm lòng và luôn vì tình yêu thương con người, có sự độ lượng, bao dung, đồng thời phải giỏi về tâm lý lứa tuổi, có nhiều biện pháp giáo dục tinh tế. Cùng đó, giáo viên chủ nhiệm còn cần am hiểu và biết cách tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Đối với những học sinh có biểu hiện lệch lạc về nhân cách, giáo viên chủ nhiệm chính là người thay mặt nhà trường cùng với gia đình có những biện pháp “kéo” các em trở về với “cái thiện”, hay giúp các em học tập những gương sáng xung quanh mình. Giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, cán bộ Đội, xây dựng điều hành một tập thể tự quản. Giáo viên chủ nhiệm cần ứng xử giải quyết đúng các mối quan hệ giữa các em học sinh với nhau, giữa học sinh với giáo viên, giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm; giữa giáo viên chủ nhiệm với cha mẹ học sinh. Và giáo viên chủ nhiệm còn cần biết động viên, biết vận động thuyết phục. Thầy cô giáo chủ nhiệm là cầu nối quan trọng để kết nối ba môi trường giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội. Nếu như trước đây, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm chủ yếu là định hướng, hướng dẫn hành vi đạo đức cho học sinh, thì ngày nay, ngoài công tác chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm còn phải hướng học sinh của mình cách học tập, rồi cách thực hiện tốt nề nếp nội quy nhà trường nội quy của lớp, rồi phải quan sát học sinh trong giờ học, giờ 7/20
- chơi để kịp thời nắm bắt tâm tư tình cảm của học sinh và có cách giải quyết ngay những những tình huống phát sinh của học sinh trong lớp. Vì thế, ngoài việc đầu tư vào môn dạy của mình sao cho vừa đảm bảo nội dung lên lớp vừa tạo sự hấp dẫn, sáng tạo, mới mẻ thì cần có phương pháp giáo dục hợp lý, linh hoạt, hiểu biết tâm lý học sinh. Thầy cô gần gũi, yêu thương học trò , trò đều cảm nhận được rõ ràng và cách thể hiên của từng em đối với tình yêu thương của cô giáo khác nhau nhưng tựu trung học trò thấy vui khi đến lớp thì sẽ cố gắng học tập và rền luyện. Chính vì vậy công tác chủ nhiệm lớp phải là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải là tấm gương sáng về đạo đức, mẫu mực từ lời ăn tiếng nói, tác phong làm việc cho đến trình độ chuyên môn; quan hệ với học trò như là một người bạn lớn, vừa gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì trong giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm thấm lâu; giáo dục phẩm chất và kỹ năng sống cho học sinh phải trở thành thói quen của giáo viên chủ nhiệm. Có như vậy thì mới hình thành được tốt năng lực, phẩm chất cho học sinh. Ví dụ: Trong giờ ra chơi, giáo viên cùng học sinh có sự tương tác trong các hoạt động, cùng trao đổi ý kiến, trò chuyệnv.v sẽ làm cho cô trò gần gũi, chia sẻ cảm thông nhau hơn. Sự gần gũi cô trò sẽ giúp các em tự tin dám nói, dám tâm sự, dám chia sẻ những điều các em muốn nói, có vậy thì giáo viên mới hiểu được tâm tư tình cảm của các em để giúp đỡ, để hướng các em vào các hoạt động đúng đắn. Hoặc khi mới bước vào năm học, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, mỗi giáo viên nên sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của các em. Hoạt động này giúp cô trò hiểu nhau hơn, đồng thời muốn tạo một môi trường học tập thân thiện - Nơi "Trường học thật sự là nhà, thầy cô là cha mẹ thứ hai” của các em. Nơi mà mỗi ngày các em đến sẽ ngập tràn niềm vui, đây cũng là một điều kiện theo tôi là rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Vào năm học mới, ngay tuần đầu tiên các em tới lớp, tôi hướng giáo viên tạo các hoạt động để cô trò làm quen nhau bằng nhiều hoạt động như cùng dọn lớp, cùng sắp xếp đồ dùng, trang trí tại lớp, cùng trò chuyện v.v đồng thời tôi cũng hướng giáo viên chủ nhiệm cho học sinh của lớp trong buổi đầu đến lớp được tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình, qua đó giáo viên quan sát các hoạt động và vị trí ngồi của các em, từ đây giáo viên phần nào nắm được đặc điểm tính các của các em : mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động ...Và tiếp tục qua những tuần học sau, sau khi quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp. 8/20
- Giáo viên chủ nhiệm còn là cầu nối trung gian giữa nhà trường và gia đình học sinh. Giáo viên phải hiểu được học sinh để có thể nắm bắt kịp thời vấn đề tâm sinh lý cũng như những biểu hiện bất thường của các em học sinh kịp thời. Tiếp đến, tôi yêu cầu giáo viên làm tốt việc điều tra điều kiện, hoàn cảnh gia đình học sinh. Bởi càng hiểu được hoàn cảnh gia đình của các em bao nhiêu thì càng có biện pháp gần gũi, giúp đỡ và cảm hóa được các em bấy nhiêu. Ngoài ra, mỗi giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng tập thể lớp mình thật tốt, xây dựng các hoạt động tạo không gian học tập, tạo môi trường lớp học đẹp để tạo cho học sinh yêu thích lớp học, muốn được học và giao lưu với bạn bè. Bởi một tập thể lớp tốt là môi trường lí tưởng để học sinh học tập và rèn luyện phẩm chất, năng lực. Muốn vậy, tôi luôn định hướng cho giáo viên các lớp cần đưa ra tiêu chí thi đua phù hợp đối với lớp của mình dựa trên tiêu chí thi đua của nhà trường, của Đội thiếu niên. Như vậy, muốn bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh thì mỗi người giáo viên cần chú ý làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, phải luôn gần gũi, gắn bó với học sinh, phải tạo cho các em có sự tin cậy nơi thầy cô. 3.2. Biện pháp thứ hai: Lồng ghép việc hình thành và bồi dưỡng năng lực, phẩm chất cho học sinh thông qua các môn học. Các năng lực và phẩm chất học sinh được hình thành trong quá trình học tập và rèn luyện. Hiện nay nội dung giáo dục năng lực, phẩm chất đã được lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học.Ví dụ : Khi dạy các môn học một trong các phương pháp mới sẽ là cho học sinh học theo nhóm. Thông qua hoạt động nhóm các em được rèn luyện năng lực hợp tác, giao tiếp, phẩm chất tự tin trình bày ý kiến của mình. Khi nhóm bạn trình bày thì các em biết chú ý lắng nghe . Vậy đã hình thành được kỹ năng lắng nghe và đánh giá. Qua đó học sinh sẽ được rèn kỹ năng lắng nghe, kĩ năng tư duy, phê phán, kĩ năng ra quyết định... Để hình thành và bồi dưỡng năng lực, phẩm chất cho các em có hiệu quả, trong các buổi họp chuyên môn tôi hướng dẫn giáo viên dạy lồng ghép bồi dưỡng năng lực, phẩm chất học sinh qua các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Toán, Tiếng Việt, Đạo đức; Tự nhiên và xã hội; khoa học, tiết sinh hoạt tập thể...Tôi thấy rằng tất cả các môn học đều có thể hình thành cho các em năng lực tự học và giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy tích cực và tư duy sáng tạo và các phẩm chất tốt như tự tin, chăm chỉ. Vậy trong các giờ học giáo viên luôn phải tìm tòi cách dạy hiệu quả nhất nghĩa là tiết học đó phải giúp các em biết cách học, cách tư duy. Mặt khác, phương pháp dạy học và tổ chức tiết học của giáo viên là vô cùng quan trọng, Phương pháp phù hợp sẽ giúp học sinh bộc lộ hết khả năng của mình trong các hoạt động và giáo viên dễ dàng quan sát để có những nhận xét, đánh giá đúng năng lực, phẩm chất của học sinh. 9/20
- Ví dụ như khi hình thành và phát triển năng lực hợp tác giáo viên cần rèn luyện trong tất cả các môn học, trong mọi lúc có thể, nhất là trong năm học này việc học tập và giảng dạy của thầy trò hoàn toàn là trực tuyến thì việc rèn cho các em có năng lực hợp tác rất quan trọng, sự hợp tác của các em không đơn thuần là hợp tác với thầy cô trong việc hoàn thành các bài học , mà còn là sự hợp tác với các bạn qua hoạt động nhóm như nhóm đôi, nhóm ba v.v , hoạt động nhóm khi học trực tiếp thì sẽ dễ dàng thực hiện nhưng học trực tuyến thì khó khăn khăn bởi giáo viên khó có thể quan sát hết được vì vậy khi phát triển được năng lực hợp tác rèn cho các em có thói quen biết phối hợp, chia sẻ, giúp đỡ nhau khi học tập, rồi chủ động tự giác tham gia hoạt động thì sẽ giúp giáo viên có những nhận xét khá chính xác mức độ đạt của học sinh. Thông qua các giờ học trên lớp, việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh thật sự có hiệu quả. Chúng ta có thể thực hiện bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em thông qua việc thực hiện tốt mục tiêu của các môn học. Hơn nữa, ở mỗi tiết học, khi gọi các em lên bảng, giáo viên cũng vận dụng để bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em bằng việc chỉnh đốn tác phong, quần áo, nhắc nhở các em cách đưa vở cho giáo viên bằng hai tay, cách trả lời, cách trình bày bài, tư thế đứng trước lớp, cách thưa gửi với giáo viên… Việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh được thực hiện thông qua chính nội dung của các tiết học. Tiết học An toàn giao thông và tiết Giáo dục nếp sống Thanh lịch - Văn minh đóng góp quan trọng trong việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho trẻ. Khi thực hiện dạy học các môn học này, tôi đã chỉ đạo giáo viên nghiên cứu kỹ nội dung, yêu cầu cần thực hiện của học sinh sau mỗi bài học để từ đó tìm ra phương pháp dạy kết hợp với bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em. Ở các tiết học An toàn giao thông, giáo viên giúp học sinh của mình hiểu và có ý thức tuân theo những quy định cơ bản trong Luật giao thông. Cụ thể, giáo viên giúp các em có một số kĩ năng cơ bản, cần thiết khi tham gia giao thông dần hình thành thói quen chấp hành theo Luật Giao thông. Qua môn học giáo viên cung cấp cho các em những hiểu biết cần thiết, có tính phổ biến về Luật Giao thông đường bộ như: Đi bộ qua đường an toàn, An toàn khi đi ô tô xe máy, Hiệu lệnh và chỉ dẫn của báo hiệu đường bộ…. Trong các bài học đạo đức cũng có tác dụng rất nhiều, rất cụ thể để bồi dưỡng năng lực và phẩm chất cho trẻ. Bởi nội dung các bài học gồm những chuẩn mực hành vi xuất phát từ cuộc sống rất gần gũi với các em. Điều này rất phù hợp vì nó giúp các em dễ nhớ, dễ làm theo nội dung bài học muốn giáo dục các em. Trong các tiết dạy tôi khuyến khích giáo viên để các em tự tư duy đưa ra các cách để xử lý các tình huống và biết giải thích rõ vì sao các em chọn cách xử lý như vậy nhằm giúp các em có biết cách ứng xử và giải quyết các tình huống 10/20
- trong cuộc sống. Bằng việc xử lý các tình huống đạo đức sẽ giúp bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em. Dạy môn Tiếng Việt cũng có cơ hội để bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em. Bởi môn học Tiếng Việt ở cấp Tiểu học nói chung các em có thể sử dụng tiếng Việt thành thạo để giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống hàng ngày và học tập tốt các môn học khác; có thể đọc, viết, nói và nghe các dạng văn bản phổ biến và thiết yếu; đồng thời qua môn học, học sinh được bồi dưỡng và phát triển về tâm hồn và nhân cách. Dạy môn học Toán cũng cần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em. Bởi lĩnh vực giáo dục toán học có ưu thế hình thành và phát triển cho học sinh năng lực tính toán, năng lực tư duy toán học, năng lực giải quyết các vấn đề toán học, năng lực mô hình hoá toán học, năng lực giao tiếp toán học (nói, viết và biểu diễn toán học). Hơn nữa, tôi yêu cầu giáo viên dạy các em để các em có thói quen vận dụng các quy tắc toán học vào thực tế cuộc sống. Ví dụ với bài học “ Chu vi hình chữ nhật, diện tích hình chữ nhật, diện tích hình vuông…” , các em được rèn luyện năng lực tính toán, tự giải quyết vấn đề liên quan đến chu vi một hình và diện tích. Từ đó, các em có thể vận dụng vào trong cuộc sống thực tế của chính các em. Các em có thể vận dụng để tìm được diện tích của sàn nhà, diện tích sân, chu vi khung cửa sổ…. Các em sẽ rất hào hứng khi làm được áp dụng trong thực tiễn. Việc thực hiện giảng dạy bộ tài liệu chuyên đề Giáo dục nếp sống Thanh lịch - Văn minh cho học sinh Hà Nội của Sở Giáo dục - Đào tạo là điều kiện thuận lợi để việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh thật sự có hiệu quả. Thật vậy, bộ tài liệu chuyên đề Giáo dục nếp sống Thanh lịch - Văn minh cho học sinh Hà Nội bao gồm các nội dung cơ bản liên quan đến môi trường hoạt động và điều kiện giao tiếp hàng ngày của các em học sinh như: Ý kiến của em, Tôn trọng người nghe, Bữa ăn cùng khách, tham gia giao thông, đi mua đồ dùng…Với mỗi bài học này, khi dạy các em giáo viên chú ý định hướng và chỉ dẫn cho các em biết những chuẩn mực thái độ hành vi và cách thực hiện những chuẩn mực hành vi thanh lịch văn minh cần có trong sinh hoạt và trong giao tiếp ứng xử để trở thành người học sinh thanh lịch văn minh, xứng đáng là học sinh của Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến. Chẳng hạn: Khi dạy bài 8 “Đi mua đồ dùng” – Lớp 5 - Bộ tài liệu chuyên đề Giáo dục nếp sống Thanh lịch - Văn minh cho học sinh Hà Nội của Sở Giáo dục - Đào tạo. Sau bài học các em biết các lựa chọn đồ dùng hợp lý, phù hợp và tiện sử dụng, biết cách sử dụng đồ dùng và có ý thức bảo quản và giữ gìn đồ dùng. Môn học Nghệ thuật có ưu thế trong việc hình thành và phát triển cho học sinh các phẩm chất: nhân ái, khoan dung, tự tin; các năng lực: thẩm mỹ, giao 11/20
- tiếp, hợp tác, cảm thụ, hiểu biết và thực hành nghệ thuật; định hướng thẩm mỹ, bồi dưỡng hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với các hoạt động nghệ thuật; giáo dục tình cảm yêu quý, thái độ tôn trọng, ý thức bảo tồn những giá trị văn hoá, nghệ thuật truyền thống. Thực tế cho thấy lứa tuổi học sinh tiểu học thường rất thích tò mò tìm hiểu thế giới xung quanh thông qua quan sát. Với môn học Nghệ thuật đặc biệt là môn Mỹ Thuật sẽ giúp các em phát triển nhận thức và tư duy sáng tạo, phát triển trí tưởng tưởng, sự tự tin biểu cảm của chính các em về mọi thứ xung quanh được thể hiện qua chính những bài vẽ của các em. Chính vì vậy, tôi rất quan tâm đến các tiết dạy của giáo viên năng khiếu. Ngay từ đầu năm tôi đã lên kế hoạch dự giờ giáo viên năng khiếu. Khi góp ý và thống nhất giờ dạy, tôi yêu cầu giáo viên năng khiếu trình bày xem đã bồi dưỡng được phẩm chất, năng lực gì và qua môn học sẽ bồi dưỡng năng lực phẩm chất gì cho các em. Từ đó tôi chỉ đạo giáo viên các tiết dạy âm nhạc, mỹ thuật, thể dục… góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực thật hiệu quả. Các môn học Tự nhiên xã hội, Địa lý, Lịch sử, Khoa học có ưu thế hình thành và phát triển cho học sinh các phẩm chất như tự tin, trung thực; các năng lực tìm hiểu và khám phá thế giới tự nhiên qua quan sát và thực nghiệm; năng lực vận dụng tổng hợp kiến thức khoa học để giải quyết vấn đề trong cuộc sống, ứng xử với sự vật xung quanh. Thông qua môn học đó học sinh có những kiến thức về: Con người và sức khỏe, Xã hội và Tự nhiên…… Các em được bồi dưỡng năng lực nhận biết thế giới tự nhiên, biết được ích lợi của thiên nhiên đồng thời có tình thương yêu cây cối và con vật. Từ đó, các em sẽ có những hành động đẹp góp phần bảo vệ cây cối, con vật và bảo vệ môi trường . Có thể nói: Trong tất cả các hoạt động trong giờ lên lớp, thông qua các môn học, các bài học, người giáo viên chỉ cần khéo léo một chút thôi là có thể xen lồng các hoạt động giúp bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho trẻ. Việc làm này thực sự mang lại hiệu quả đáng kể. Việc tích hợp bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh trong các giờ lên lớp sẽ giúp cho các em dần có được những hành vi, ứng xử đúng đắn như mong muốn của các bậc làm cha làm mẹ và của những người làm công tác giáo dục. Và như vậy là mục tiêu bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh đã được thực hiện và có kết quả. 3.3. Biện pháp thứ ba: Giáo viên phối hợp với phụ huynh cùng bồi dưỡng năng lực, phẩm chất cho học sinh ngay từ gia đình. Trong buổi họp phụ huynh tôi tranh thủ gặp gỡ phụ huynh các khối lớp để trao đổi, phỏng vấn phụ huynh về việc dạy dỗ, quản lý các em ở nhà như thế nào, qua trò chuyện tôi đã hiểu được cách cha mẹ dạy con; tìm hiểu và thống kê được điểm yếu của học sinh, tìm được các năng lực nào các em còn yếu, chưa có được để từ đó có hướng chỉ đạo tới giáo viên chủ nhiệm để có các biện pháp cùng phụ huynh phối hợp cách dạy kỹ năng sống trong gia đình, nhà trường và 12/20
- xã hội. Tôi khuyến khích giáo viên đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống của học sinh cho các bậc phụ huynh vào những lần họp phụ huynh lớp; cung cấp cho các bậc phụ huynh những kiến thức và phương pháp chăm sóc, giáo dục con em phù hợp với đặc điểm từng độ tuổi. Cần cho phụ huynh hiểu rằng trong gia đình, việc cha mẹ dạy các em những nghi thức văn hóa là rất cần thiết. Để các em có được những kỹ năng, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi các em phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của các em, đó là cung cấp cho các em những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh các em. Để có được điều đó thì cha mẹ cũng cần phải kiểm soát mình trước con cái. Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em. Tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi ở nhà, ở lớp, ở trường. Trong gia đình, cần thống nhất giờ học cho các em. Vào giờ đó các thành viên trong gia đình đều phải tạo điều kiện cho con học bài. Cha mẹ cần tập cho con làm các việc nhỏ trong gia đình phù hợp khả năng của các em theo lứa tuổi. Không được nuông chiều thái quá, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chì trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành năng lực tự quản, phẩm chất tự tin, yêu thương gia đình, tin tưởng người thân cho các em. Ví dụ: Trẻ lớp 1 có thể được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống), bằng cách trong khi nấu ăn cha mẹ sai trẻ lấy giúp các đồ dùng cho mình nấu nướng việc đơn giản đó cũng là đã rèn cho trẻ nhận biết, cách sử dụng các vật dụng thông thường rèn tính cẩn thận khi cầm, nắm các vật dụng đó. Với học sinh lớp 4,5 có thể hướng dẫn các em nấu cơm, luộc rau và cọ rửa chén bát, sắp xếp đồ dùng trong nhà... Chính các việc đó tạo cho các em năng lực tự phục vụ rất tốt. Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có thói quen tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là trẻ có được kỹ năng sống tự lập sau này. Giúp cha mẹ học sinh thay đổi thói quen mỗi khi trẻ đi học về hỏi: “Hôm nay con được điểm mấy?” hay “ Sao con lại chỉ được thế thôi à?” sang cách quan tâm khác như “ Hôm nay con đi học có vui không?” , hay khi đón con hoặc gặp con tại nhà có thể hỏi “ Hôm nay bố/mẹ thấy con vui ghê, có chuyện gì kể cho mẹ nghe nào!” hoặc “Hôm nay con tham gia học tập, hoạt động nào?”; “Con giúp đỡ bạn được những việc gì?”; “Ở trường con tự làm được những nhiệm vụ gì?” những câu hỏi tưởng không liên quan đến việc học 13/20
- và rèn luyện của con nhưng qua các câu chuyện của con kể cha mẹ sẽ thấy đưcpj con mình đến lớp đã học và tham gia các hoạt động của lớp thế nào. Từ đó cha mẹ sẽ có sự động viên khuyến khích con như “ Ồ đúng là vui thật, con và các bạn đã làm được việc tốt rồi đấy!” hay “ Con thấy nếu mình chăm chú nghe giảng, mình cẩn thận là mình làm đúng bài phải không con?” còn nếu học sinh có vướng mắc như chưa làm được bài, chưa tham gia các hoạt động của lớp cha mẹ không nên trách mắng mà nên tìm hiểu nguyên nhân và động viên để lần sau con làm tốt hơn. Việc phối hợp với cha mẹ học sinh không chỉ giúp giáo viên có thêm nguồn thông tin bổ ích khi đánh giá các năng lực, phẩm chất mà còn gắn kết trách nhiệm giữa nhà trường và gia đình. 3.4. Biện pháp thứ tư : Bồi dưỡng giáo viên, giúp giáo viên chuyển từ dạy học thành quá trình tự học của học sinh Để làm được điều này đòi hỏi mỗi giáo viên phải có hiểu biết cơ bản về nội dung chương trình của lớp học, cấp học. Mạnh dạn đổi mới cách thiết kế và tổ chức lớp học trong đó các hoạt động thực hành cần được thực hiện thường xuyên. Chuyển quá trình thuyết giảng một cách hình thức, áp đặt của người dạy thành quá trình tự học, tự tìm tòi, khám phá của người học. Để thực hiện điều đó, tôi tổ chức nhiều buổi tập huấn để hướng dẫn giáo viên dạy học trên lớp, giáo viên có thể thực hiện theo trình tự: + Giúp học sinh nắm được mục tiêu nhiệm vụ học tập; + Tự mình giải quyết nhiệm vụ học tập; + Khi gặp khó khăn mới trao đổi với bạn (khi đó nhóm học tập hình thành một cách tự nhiên theo nhu cầu của chính các em); + Các bạn trong nhóm trao đổi bài cho nhau, nói cho nhau kết quả, cách làm của mình; giúp nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ học tập. + Báo cáo kết quả học tập trước lớp cho các bạn và cô giáo; + Thực hiện nhiệm vụ học tập mới. Trong khi học sinh học, giáo viên chọn vị trí thích hợp quan sát thái độ, cử chỉ nét mặt để phát hiện em nào gặp khó khăn, kịp thời có biện pháp giúp đỡ. Nếu nhiệm vụ học tập là vấn đề khó với đa số học sinh, giáo viên mới hướng dẫn chung với cả lớp. Để học sinh thuận lợi trong trao đổi, tương tác, việc kê bàn ghế cần bố trí phù hợp, nên kê theo nhóm, học sinh ngồi đối diện với nhau. Với cách tổ chức dạy học như vậy, cách đánh giá học sinh cũng được chuyển trọng tâm từ đánh giá "kết thúc", đánh giá "tổng kết" sang đánh giá quá trình, đánh giá "tiến trình"; chuyển đánh giá "bằng điểm số" sang đánh giá "bằng nhận xét".Việc đánh giá quá trình phát triển, đánh giá sự tiến bộ mới là đánh giá thiết thực và hiệu quả nhất cho sự phát triển của mỗi học sinh. 14/20
- Điều này đòi hỏi giáo viên phải thường xuyên quan sát, theo dõi cá nhân học sinh, nhóm học sinh trong quá trình học tập để có nhận định, động viên hoặc gợi ý, hỗ trợ kịp thời đối với từng việc làm, từng nhiệm vụ của mỗi cá nhân hoặc của cả nhóm học sinh. Đồng thời giáo viên cần quan sát từng học sinh để kịp thời đưa ra những nhận định về một số biểu hiện của phẩm chất và năng lực của học sinh. Từ đó, động viên, khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn, phát huy ưu điểm và các tố chất riêng, sửa chữa khuyết điểm để ngày càng tiến bộ. Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi chủ động trong việc xây dựng thời khoá biểu để thực hiện chương trình dạy học. Căn cứ để xây dựng thời khoá biểu cần thực hiện bám sát: - Kế hoạch dạy học các môn được Bộ GD&ĐT quy định; - Số lượng, tỷ lệ giáo viên trên lớp của nhà trường; - Thông tư số 28/2009 ngày 21/10/2009 của Bộ GD&ĐT quy định định mức lao động của giáo viên phổ thông; - Các điều kiện để tổ chức dạy học 2 buổi/ngày của nhà trường; Nguyên tắc xây dựng thời khoá biểu: - Đảm bảo số tiết dạy học tối thiểu của từng môn học, từng khối lớp theo quy định của Bộ; - Tăng số tiết học của từng môn đáp ứng nhu cầu học của học sinh đồng thời đảm bảo giáo dục toàn diện. - Đảm bảo số tiết dạy tiêu chuẩn theo quy định về định mức lao động của giáo viên; - Đảm bảo tính khoa học trong việc sắp xếp các môn trong từng buổi học, tránh nặng nề cho cả giáo viên và học sinh; - Đảm bảo thời gian các hoạt động vui chơi, hoạt động ngoài giờ của học sinh. * Giao quyền tự chủ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy: Trong các giờ dạy, tôi luôn định hướng cho giáo viên tự chủ xây dựng kế hoạch dạy học, tự chủ trong việc xác định nội dung dạy học, căn cứ để xác định nội dung dạy học: - Sách giáo khoa. - Yêu cầu chuẩn kiến thức và kỹ năng của từng môn học với từng khối lớp, từng tiết dạy. - Nhu cầu và khả năng tiếp thu của học sinh. Theo quan điểm mới thì sách giáo khoa là phương tiện, là tài liệu giúp giáo viên và học sinh thực hiện chuẩn của chương trình. Để xác định nội dung bài dạy, giáo viên được quyền chủ động, linh hoạt và phải thực sự sáng tạo để lựa chọn nội dung cho thật phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình. Giáo viên cần xác định những nội dung dạy học chung cho cả lớp nhằm đạt được yêu cầu chuẩn kiến thức và kỹ năng, đồng thời xác định nội dung dạy học riêng cho từng nhóm đối tượng. Với những nội dung không 15/20
- phù hợp với học sinh, giáo viên có thể chủ động thay thế bằng những nội dung khác trên cơ sở đảm bảo yêu cầu về kiến thức và kỹ năng. Với các bài tập có trong sách giáo khoa nhưng nội dung không gần gũi với học sinh có thể được thay thế bằng bài tập khác có độ khó tương tự nhưng gần gũi dễ hiểu hơn với các em. *Tự chủ trong việc lựa chọn phương pháp dạy học: Việc lựa chọn phương pháp dạy học phụ thuộc vào năng lực, trình độ, sở trường của giáo viên và đối tượng học sinh. Trong quá trình dạy học, giáo viên được chủ động lựa chọn các hình thức dạy học, kết hợp các phương pháp dạy học sao cho học sinh tích cực tham gia bài học. Trong cùng một bài dạy hay một nội dung dạy học của cùng một tiết học, mỗi giáo viên lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học khác nhau phù hợp để bồi dưỡng phẩm chất, năng lực hiệu quả nhất. *Tự chủ về thời lượng dạy học: Thời lượng dạy học được quy định cho từng môn học, tiết học chỉ mang tính tương đối. Trong quá trình dạy học, giáo viên được quyền chủ động tăng hoặc giảm thời lượng một số bài học trên cơ sở không tăng hoặc giảm tổng thời gian dạy học trong ngày. 3.5. Biện pháp thứ năm: Khuyến khích giáo viên tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học sinh để tạo cơ hội cho các em được hình thànhvà phát triển năng lực, phẩm chất. Các năng lực và phẩm chất học sinh không chỉ được hình thành trong quá trình học tập và rèn luyện mà nó còn được được hình thành nhiều qua các hoạt động trải nghiệm trong và ngoài nhà trường. Hoạt động trải nghiệm có thể tổ chức theo quy mô lớn nhỏ tuỳ vào thời gian, điều kiện của trường, của từng lớp, từng đối tượng học sinh. Ngoài các hoạt động trải nghiệm theo quy mô lớn như tổ chức theo trường, theo khối tôi thấy các trải nghiệm qui mô nhỏ (theo từng lớp riêng) cũng rất cần thiết và mang lại hiệu quả cao. Bởi vì học sinh chủ yếu hoạt động trên lớp mà tổ chức trải nghiệm cho các em cần phải có các hoạt động, thực tế, đa dạng, cần được GV quan tâm tổ chức thường xuyên, liên tục thì mới hình thành được năng lực, phẩm chất, kĩ năng sống cho học sinh. Nên vai trò của giáo viên chủ nhiệm là rất quan trọng. Ngoài việc giúp các em hình thành phát triển năng lực, phẩm chất qua quá trình học tập ra thì việc giúp các em hình thành, phát triển năng lực phẩm chất qua quá trình rèn luyện và tổ chức các hoạt động trải nghiệm là rất cần thiết. Để các em thường xuyên được tham gia các hoạt động trải nghiệm, ngay từ đầu năm tôi hướng dẫn giáo viên lên kế hoạch cụ thể cho hàng tuần, hàng tháng, trong năm rõ ràng. Ví dụ ngay từ khi bắt đầu vào năm học có thể cho các em thực hiện một số trải nghiệm như: Lần lượt lên giới thiệu về bản thân, gia đình,về sở thích để hình thành năng lực giao tiếp, phẩm chất mạnh dạn, tự tin. Hoặc các em trải nghiệm bằng hoạt động thi xếp sách vở trong ngăn cặp, ngăn bàn cho gọn, cho nhanh, gấp quần áo đúng, hoạt động thực hành trải nghiệm chăm sóc cây cối quanh lớp, dưới sân trường; trải nghiệm cách xử lí khi đứt tay, chân, cách xử lí khi gặp bạn bị nạn…Từ các việc làm của các em, giáo viên 16/20
- quan sát, lắng nghe nắm bắt được tính cách của từng em để có các nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động phù hợp, Qua đó sẽ hình thành được năng lực tự quản, tự phục vụ cho các em, giúp các em biết xử lí các vấn đề liên quan gặp trong cuộc sống…. Với các hoạt động trải nghiệm qui mô nhỏ tôi chỉ đạo GV gắn ngay vào các giờ học trên lớp hàng ngày; hàng tuần dựa theo quan sát của giáo viên và dựa vào nhận xét quan sát đánh giá của ban HĐ tự quản, nếu thấy năng lực, kĩ năng nào các em còn chưa tốt thì giáo viên gợi ý các em xây dựng kế hoạch tổ chức thực hành trải nghiệm lại các hoạt động đó cho tốt hơn, thành thạo hơn. Hàng tháng dựa theo chủ điểm cụ thể của từng tháng giáo viên gợi ý học sinh xây dựng ý tưởng để lập chương trình hoạt động cho phù hợp với lớp. Để các em tự làm được điều đó thì ngay từ đầu năm học, ngoài việc hướng dẫn học sinh xây dựng nội quy của lớp, của trường giáo viên chú ý giúp các em có các kỹ năng cơ bản: tổ chức, làm việc nhóm, ghi chép... tôi còn giới thiệu, hướng dẫn cho giáo viên hiểu về mục đích, các hình thức, cách tổ chức HĐTN. Thông qua đó, giáo viên biết lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với nội dung; nắm được các bước cơ bản cần thực hiện, nắm được trách nhiệm của từng cá nhân khi tham gia HĐTN. Ngoài ra, tôi hướng cho giáo viên lựa chọn nội dung thực hiện trong cả năm học dựa trên chủ điểm từng tháng, dựa vào điều kiện, khả năng của học sinh, của tập thể lớp, của nhà trường, của địa phương có thể tổ chức được. Đối với học sinh lớp Một, lớp Hai, giáo viên có thể ghi chép giúp học sinh kế hoạch, còn đối với học sinh lớp Ba, Bốn và Năm, giáo viên nên để học sinh tự ghi chép. Tùy theo, các em có thể viết trong vở theo trình tự về nội dung, hình thức, công tác chuẩn bị, thời gian, địa điểm, đối tượng tham gia... hoặc các em xây dựng bằng sơ đồ, bảng biểu... Rồi giáo viên tư vấn hướng dẫn, định hướng thêm cho các em. Việc các em được tham gia đầy đủ vào từng bước sẽ giúp hình thành và rèn luyện các phẩm chất năng lực cần thiết: năng lực tổ chức, năng lực giao tiếp, tự giải quyết vấn đề... Do đó, giáo viên không nên coi nhẹ một bước nào. Đặc biệt, khi tổ chức hoạt động trải nghiệm, giáo viên cần lựa chọn những nội dung để học sinh cả lớp được tham gia; khuyến khích, động viên và tạo cơ hội để các em được tham gia bàn bạc từ khâu chuẩn bị đến khâu thực hiện và có viết thu hoạch cho bản thân sau mỗi hoạt động. Có làm như vậy, mới hình thành được ở các em năng lực phán đoán, óc tổ chức, năng lực tổng kết đánh giá cũng như các phẩm chất tự tin, tự chịu trách nhiệm, tinh thần hợp tác chia sẻ. 4. Kết quả: Với các biện pháp tôi đã chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho học sinh, tôi thấy thực sự rất hiệu quả, hầu hết học sinh trường tôi đã biến biểu hiện của những hành vi, những chuẩn mực đạo đức phù hợp với các em trong các mối quan hệ với mọi người và với xã hội thành thói quen của các em. Các em đã biết sống yêu thương, sống có trách nhiệm, sống tự chủ; các em đã biết các ứng xử và giải quyết những vấn đề liên quan đến chính các em với những mối liên hệ của các em với xung quanh. Tôi nhận ra rằng phẩm chất, năng lực của các em đang được bồi đắp theo con đường đúng đắn. Tôi 17/20
- thực sự cảm thấy vui khi cha mẹ các em đều công nhận sự tiến bộ, sự thay đổi trong chính hành ứng xử của các em. Theo số liệu điều tra cuối năm về kết quả của việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực trên đối tượng là học sinh các khối so với kết quả giữa kỳ tôi thấy các em thực sự tiến bộ rõ rệt về mọi mặt: Các em tiến bộ cả trong quá trình học tập lĩnh hội kiến thức; việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của các em cũng mang lại kết quả đáng mừng. Cụ thể: * Về phẩm chất: Khối SS Chăm học, chăm Tự tin,trách Trung thưc, kỷ Đoàn kết, yêu Yêu nước K1;2 làm ( chăm chỉ nhiệm ( trách luật ( trung thương ( Nhân k1;2) nhiệm k1;2) thực k1;2) ái k1;2) T Đ CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG 1 331 88.7 11.3 0 66.2 33.3 0.5 69.8 30.2 0 77 23 0 81.0 21.0 0 2 281 89.6 10.4 0 76.2 23.8 0 75.7 24.3 0 83.5 16.5 0 83.5 16.5 0 3 247 90.5 9.5 0 69.6 30.4 0 73.5 26.5 0 84,5 15.5 0 84,5 15.5 0 4 317 95.0 5.0 0 81.3 18.7 0 96.7 3.3 0 100 0 0 100 0 0 5 221 97.5 2.5 0 96.2 3.8 0 97.4 2.6 0 99.4 0.6 0 100 0 0 T 1397 92.2 7.8 0 76.9 23 0.1 81.5 18.5 0 88 12 0 88 12 0 *Về năng lực: ( khối 3;4;5) Khối SS Tự phục vụ, tự quản Hợp tác Tự học và giải quyết vấn đề Tốt Đạt CCG T Đ CCG T Đ CCG 3 247 94.5 5.5 0 87.6 12.4 0 88.9 11.1 0 4 317 96.0 4.0 0 88.0 12.0 0 90.0 10.0 0 5 221 97.5 2.5 0 95.4 4.6 0 94.8 5.2 0 Tổng 785 96.0 4.0 0 90.3 9.7 0 91.3 8.7 0 * Về năng lực ( khối 1;2): Tự chủ và tự Giao tiếp và GQVĐ và Khố Ngôn ngữ Tính toán SS học hợp tác sáng tạo i T Đ CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG 1 331 86.6 13.4 0 83.5 16.5 0 85.8 14.2 0 88.9 11.1 0 87.0 13.0 0 2 281 86.5 13.5 0 85.5 14.5 0 88.0 12.0 0 88.6 11.4 0 87.8 13.2 0 Tổng 612 86.5 13.5 0 84.5 15.5 0 86.9 13.1 0 88.7 11.3 0 87.4 12.6 0 Khố Khoa học Thẩm mỹ Thể chất SS T Đ CCG Tốt Đạt CCG Tốt Đạt CCG i 1 331 80.3 19.7 0 82.2 17.8 0 86.5 13.5 0 2 281 84.2 15.8 0 87.7 12.3 0 88.2 11.8 0 Tổng 612 82.2 17.8 0 84.9 15.1 0 87.3 12.7 0 Rõ ràng, tỉ lệ học sinh có những có biểu hiện hạn chế về phẩm chất, năng lực của học sinh trong trường tôi đã giảm một cách đáng kể. Điều này chứng tỏ các biện pháp tôi áp dụng có hiệu quả. 18/20
- PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Việc nghiên cứu đề tài khoa học giáo dục này đã giúp tôi nhận thấy trách nhiệm vinh quang của người giáo viên, đó là: “Đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới phát triển toàn diện có đủ đức và tài, nắm được những kiến thức cơ bản có đủ trình độ và tài năng để tiếp thu sự phát triển của nền văn hóa nước nhà” và giúp cho bản thân tôi cũng như các giáo viên nhà trường thấy rõ vị trí quan trọng của nhiệm vụ giáo dục làm sao để hình thành năng lực, phẩm chất hiệu quả nhất cho học sinh. Năng lực, phẩm chất mỗi con người là một trong những nội dung có khả năng giáo dục nhiều mặt: Khả năng để phát triển tư duy logic, bồi dưỡng và phát triển những thao tác trí tuệ, nó giúp học sinh biết xử lí, giải quyết các tình huống khác nhau trong cuộc sống... Với công việc khó khăn ấy, việc tìm tòi, nghiên cứu phát hiện ra những biện pháp tốt nhât để giáo dục các em là một việc làm vô cùng ý nghĩa với tôi. Song trong một thời gian ngắn tôi đã nghiên cứu thực tế, khảo sát học sinh trường mình phụ trách tìm ra được nguyên nhân học sinh chưa đạt kết quả cao về năng lực, phẩm chất và từ đó đã đề ra các biện pháp khắc phục như trên và phần lớn đã thu được kết quả đáng mừng. Với những kết quả đạt ấy, tôi thấy được ý nghĩa rất to lớn của việc áp dụng những sáng kiến mới vào giáo dục. Đây là sáng kiến mà bản thân tôi nghiên cứu và thực hiện bước đầu có hiệu quả cao. Khi nghiên cứu sáng kiến này tôi cũng chỉ có một suy nghĩ nho nhỏ là làm sao mình có thể giúp giáo viên trong trường có nhiều biện pháp hay trong việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh.Mặt khác, trong thời gian tới bản thân tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thêm một số giải pháp và mạnh dạn đưa sáng kiến này áp dụng cho tất cả đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên và học sinh tại trường Tiểu học Ngũ Hiệp trong những năm học này và các năm tiếp theo. 3.2. Kiến nghị, đề xuất Để việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh đạt được hiệu quả cao hơn tôi có một số đề xuất nho nhỏ như sau: a. Đối với Ban giám hiệu: - Tăng cường chỉ đạo giáo viên thường xuyên thực hiện và duy trì việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh. - Tuyên dương, khen thưởng kịp thời những giáo viên, công nhân viên thực hiện tốt, thực hiện thường xuyên để khuyến khích các hoạt động nhằm phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh, động viên họ duy trì và phát huy. b. Đối với giáo viên Thường xuyên tìm hiểu và bổ sung thêm những giải pháp của từng cá nhân để thực hiện tốt và có hiệu quả nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh. 19/20
- Theo dõi, kiểm tra, tư vấn và động viện khuyến khích học sinh chủ động, tích cực tham gia các hoạt động, thực hiện tốt nền nếp, ý thức kỷ luật nội quy của lớp, của nhà trường. Cần phải phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên với phụ huynh học sinh trong việc giáo dục phẩm chất, phát triển năng lực cho học sinh. c. Đối với tổ chức Đoàn – Đội: Cần xây dựng được các kế hoạch có những nội dung, hình thức và biện pháp thiết thực, cụ thể tránh chung chung trong các hoạt động nhằm hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh đạt hiệu quả cao nhất. Phối kết hợp với các tổ chức trong trường, với giáo viên chủ nhiệm xây dựng những sân chơi bổ ích, mô hình ngoại khóa, trò chơi dân gian…dưới nhiều hình thức để học sinh tham gia vui chơi, giải trí ngoài những tiết học căng thẳng. Trên đây là một vài biện pháp nhỏ của tôi rút ra từ thực tế của việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh. Do kinh nghiệm nghiên cứu và kĩ năng viết thành bài của bản thân còn hạn chế. Vì vậy khi đề cập tới sáng kiến kinh nghiệm mặc dù đã hết sức cố gắng song không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp, của các đồng chí lãnh đạo để tôi có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy và chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện sáng kiến bản thân tôi nhận được sự ủng hộ tích cực của các đồng chí giáo viên, các em học sinh trường Tiểu học Ngũ Hiệp. Tôi xin cảm ơn các thầy cô và các em học sinh đã giúp tôi hoàn thành quá trình nghiên cứu sáng kiến này. Xin trân trọng cảm ơn! Xác nhận của nhà trường Người thực hiện Nguyễn Thị Hồng Diệp 20/20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Sưu tầm và thiết kế một số trò chơi giúp trẻ 5 tuổi Làm quen chữ cái trong trường mầm non
22 p | 192 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non
12 p | 107 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Các bước xây dựng giáo án điện tử dạy trẻ lứa tuổi mầm non
20 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thông qua công tác chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng năm học 2020-2021
14 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp hình thành biểu tượng toán về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi C ở trường Mầm non 2/9
20 p | 162 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường mầm non
24 p | 39 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Kinh nghiệm chỉ đạo Giáo viên thực hiện Chương trình Giáo dục Mầm non
21 p | 122 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc tổ chức chuyên đề trong trường mầm non
20 p | 63 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên mầm non nâng cao nghiệp vụ sư phạm giáo dục mầm non
13 p | 59 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Xây dựng đội ngũ đoàn kết nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm non
16 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở trường mầm non Yên Mỹ
6 p | 150 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ bảo vệ môi trường trong trường mầm non
23 p | 104 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Làm thế nào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non
13 p | 114 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao
36 p | 100 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ II
24 p | 93 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non tại Trường MN Tân Mai
13 p | 132 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi ở trường mầm non
19 p | 102 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non
33 p | 66 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn