Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết trong trường mầm non
lượt xem 0
download
Nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng tuổi thông qua hoạt động nhận biết trong trường mầm non” nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tích cực có hiệu quả nhất, nhằm đạt được những yêu cầu trong độ tuổi đề ra.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết trong trường mầm non
- MỤC LỤC STT NỘI DUNG TRANG I ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1 Lí do chọn đề tài 1 2 Mục đích nghiên cứu 2 3 Đối tượng nghiên cứu 2 4 Đối tượng khảo sát thực nghiệm 2 5 Các phương pháp nghiên cứu 2 6 Phạm vi và thời gian thực hiện đề tài 2 II BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN 2 ĐỀ 1 Cơ sở lý luận để giải quyết vấn đề 2 2 Cơ sở thực tiễn 3 3 Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài 4 4 Các biện pháp thực hiện 5 5 Các biện pháp chính 5 5.1 Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận 5 biết. 5.2 Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết 7 trong ở mọi lúc mọi nơi. 5.3 Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết 10 với đồ dùng đồ chơi tự tạo. 5.4 Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết 10 với ứng dụng công nghệ thông tin. 5.5 Biện pháp phối hợp với phụ huynh 11 6 Kết quả sau khi thực hiện đề tài 13 III KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 14 1 Kết luận 14 2 Khuyến nghị 15 IV TÀI LIỆU THAM KHẢO V MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
- 2
- 3/15 ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết trong trường mầm non” I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài: Bác đã dạy “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”. Lời dạy của Bác năm xưa đến nay vẫn có giá trị, ý nghĩa sâu sắc, khẳng định vai trò quan trọng của tiếng nói, là một tài sản quý báu của dân tộc mà con người cần bảo vệ, giữ gìn, và phát huy. Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục Mầm non. Vì ngôn ngữ sẽ giúp trẻ bày tỏ, trao đổi và giao tiếp với nhau trong học tập cũng như vui chơi. Thông qua hoạt động dạy phát triển ngôn ngữ sẽ giúp trẻ phát triển lời nói mạch lạc, rõ ràng hơn. Chính vì thế ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá cho trẻ. Ngôn ngữ góp phần đào tạo các em trở thành con người hoàn thiện. Đặc biệt trẻ 24- 36 tháng tuổi là mốc rất quan trọng cho sự phát triển ngôn ngữ, bởi đây là thời gian trẻ học tập ngôn ngữ rất nhanh, ở độ tuổi này vốn từ của trẻ còn ít, khả năng diễn đạt chưa được tốt, chưa mạch lạc, vốn biểu tượng về cuộc sống chưa được nhiều… Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở độ tuổi này giúp cho trẻ thoải mái, vui tươi qua việc trao đổi tình cảm, bộc lộ những cảm xúc của mình với người lớn bạn bè với thế giới thiên nhiên làm phong phú thêm tâm hồn và xác lập được mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự nhiên. Để đáp ứng được nhu cầu này trẻ phải được học tập một cách tích cực và thường xuyên. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết ở lứa tuổi 24-36 tháng giúp trẻ nhận thức tốt hơn về thế giới xung quanh, từ đó hình thành hệ thống hóa kiến thức một cách chính xác, khoa học. Năm học 2020- 2021 tôi được phân công vào lớp 24- 36 tháng với sĩ số là 16 trẻ. Ở lứa tuổi này, trẻ còn nhỏ một số cháu còn chưa nói rõ, trẻ mới ra lớp còn nhiều bỡ ngỡ quấy khóc, trẻ ít sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, khả năng giao tiếp còn nhiều hạn chế, nên khi tham gia vào các hoạt động trẻ chưa được hứng thú dẫn đến giờ học chưa đạt hiệu quả cao.
- 4/15 Bên cạnh đó đặc điểm trường tôi là vùng núi, đa số con em dân tộc thiểu số, lớp sĩ số 16 cháu thì có 6 cháu thuộc dân tộc thiểu số, phụ huynh còn hay sử dụng tiếng dân tộc để giao tiếp và ngại giao tiếp với mọi người, trẻ không được giao tiếp với mọi người nhiều nên vốn từ của trẻ rất nghèo nàn, đa số trẻ nói rất ngọng và có trẻ còn chưa nói được. Với lý do trên đã thôi thúc tôi tìm tòi, nghiên cứu “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng tuổi thông qua hoạt động nhận biết trong trường mầm non” nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tích cực có hiệu quả nhất, nhằm đạt được những yêu cầu trong độ tuổi đề ra. 2. Mục đích nghiên cứu: Cần phải đề ra những giải pháp, biện pháp cụ thể nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng lúc, phù hợp đặc điểm vùng miền, với lứa tuổi, với từng đối tượng trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ không phải việc làm trong một sớm một chiều mà tôi còn xác định đây là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài đòi hỏi người giáo viên cần tìm tòi, sáng tạo, đồng thời phải kết hợp với đồng nghiệp, phụ huynh để đạt được hiệu quả cao. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Trẻ nhà trẻ 24-36 tháng lớp D1 4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng tuổi thông qua hoạt động nhận biết trong trường mầm non” 5. Các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp quan sát - Phương pháp gần gũi trò chuyện. - Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp - Phương pháp trải nghiệm thực hành - Phương pháp phối hợp với phụ huynh 6. Phạm vi nghiên cứu và thời gian thực hiện đề tài: - Từ tháng 9 năm học 2020 đến tháng 5 năm 2021. PHẦN II: NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1.Cơ sở lí luận để giải quyết vấn đề: Căn cứ điều lệ trường mầm non ban hành theo văn bản hợp nhất 04/VBHN - BGDĐT năm 2015 của phòng giáo dục và đào tạo. Căn cứ chương trình giáo dục mầm non ban hành theo thông tư số 17/2009/TT – BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo và thông tư số 28/2016/TT – BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2016
- 5/15 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Chương trình giáo dục mầm non ban hành kèm theo thông tư số 17/2009/TT- BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Căn cứ hướng dẫn số 3065/SGD&ĐT- GDMN ngày 21/9/2020 của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội về việc hướng dẫn và thực hiện nhiệm vụ giáo dục mầm non năm học 2020- 2021. Căn cứ kế hoạch số 631/KH-GD&ĐT- MN kế hoạch tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học 2020-2021 cấp học mầm non huyện Ba Vì. Căn cứ vào hướng dẫn thực hiện quy chế chuyên môn cấp học mầm non năm học 2020 – 2021 Căn cứ đặc điểm tâm sinh lý trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng về phát triển ngôn ngữ. Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học 2020-2021 của trường , của lớp tôi đăng ký đầu năm là Phát triển ngôn ngữ đạt 93,7% Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý trẻ : trẻ tò mò thích tìm hiểu thế giới bên ngoài tìm hiểu khám phá các sự vật hiện tượng, thích chơi các trò chơi theo trí tưởng tượng, đặc biệt là thích thú cái mới thay đổi tăng dần lên. 2. Cơ sở thực tiễn: * Thuận lợi : - Năm học 2020- 2021 tôi được phân công dạy lớp24 - 36 tháng tuổi. Là một giáo viên ba năm liên tục được phân công dạy lớp 24- 36 tháng, cùng với một giáo viên khác có tuổi đời còn trẻ năng động, có trình độ chuyên môn tốt và thành thạo về công nghệ thông tin, thường xuyên được Ban Giám Hiệu cho đi tập huấn chuyên đề và tổ chức các lớp chuyên đề tại nhóm lớp. - Được sự quan tâm của phòng giáo dục đào tạo Huyện Ba Vì đã tổ chức các chuyên đề về giáo dục ngôn ngữ để học hỏi, nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ. - Được sự quan tâm của Ban Giám Hiệu nhà trường về cơ sở vật chất chuẩn, đáp ứng yêu cầu về phát triển ngôn ngữ của trẻ : Diện tích lớp rộng 110m2, sạch sẽ thoáng mát, đảm bảo ấm áp về mùa đông và thoáng mát về mùa hè, ngoài ra nhà trường còn trang bị các phương tiện dạy học : Ti vi, đầu đĩa, máy chiếu,.. Bản thân tôi cũng có laptop và được kết nối mạng. - Trẻ đi học đều, đúng giờ. *Khó khăn : - Trường thuộc khu vực xã miền núi từ các thôn xóm đến lớp học đường đi còn xa nhiều đường làng ngõ xóm còn dốc núi khó đi nên trình độ dân trí nói chung là còn thấp, điều kiện kinh tế còn khó khăn, 100% các phụ huynh làm sản
- 6/15 xuất nông nghiệp có điều kiện thu nhập thấp, phụ huynh còn chưa quan tâm tới con em, ngại giao tiếp trao đổi về tình hình của con với giáo viên. - Lớp có tổng số 16 cháu, trong đó : 11 nam và 5 nữ, có 6 cháu thuộc dân tộc thiểu số. Trong số đó có 9 cháu đã được qua lớp nhà trẻ 18- 24 tháng của năm học 2019- 2020, số còn lại là chưa được đi học hoặc đi không đều nên công tác ổn định phải mất một thời gian dài trẻ mới tiếp cận được các nề nếp của lớp. Vì các cháu bắt đầu đi học nên còn khóc nhiều chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt của lớp nên còn bỡ ngỡ. Mỗi cháu lại có những sở thích và cá tính khác nhau. Là một giáo viên chủ nhiệm lớp ngay từ đầu năm học tôi luôn quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý cũng như ngôn ngữ giao tiếp của từng trẻ nhằm khám phá, tìm hiểu khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ để kịp thời có những biện pháp giáo dục và nâng cao dần ngôn ngữ cho trẻ. Khi tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy rằng ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế về câu từ, về cách phát âm. Khi trẻ nói hầu hết toàn bớt âm trong các từ, giao tiếp không đủ câu cho nên nhiều khi giáo viên không hiểu trẻ đang nói về cái gì? Cũng có một số trẻ còn hạn chế khi nói , trẻ chỉ biết chỉ tay vào những thứ mình cần khi cô hỏi. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc ngôn ngữ của trẻ còn nghèo nàn. 3. Số liệu điều tra trược khi thực hiện đề tài: Bảng khảo sát đầu năm (Tổng số trẻ: 16 trẻ) Đầu năm Nội dung khảo sát Số trẻ Tỉ lệ Số trẻ chưa Tỉ lệ đạt % đạt % Nghe hiểu lời nói, nhắc lại các 6 37,5 10 62,5 âm, các tiếng và các câu Thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hiểu 7 43,7 9 56,2 biết của bản thân bằng lời nói Nói được tên bản thân và những người gần gũi, nói được các bộ 6 37,5 10 62,5 phận của cơ thể. Nhận biết và nói được tên, một vài đặc điểm nổi bật của các đồ 6 37,5 10 62,5 vật, hoa quả, con vật quen thuộc.
- 7/15 - Căn cứ vào khảo sát ban đầu cho thấy tỉ lệ các cháu phát triển ngôn ngữ đạt rất thấp chỉ từ 37,5 đến 43,7%. Chính vì vậy đã thôi thúc tôi phải làm sao tìm ra những biện pháp giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng thật hiệu quả và đạt kết quả cao nhất nhằm hoàn thành tốt mục tiêu, kế hoạch nhiệm vụ của nhà trường và lớp đề ra. 4. Các biện pháp thực hiện : 4.1. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết. 4.2. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết ở mọi lúc mọi nơi. 4.3. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết với đồ dùng đồ chơi tự tạo. 4.4. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết với ứng dụng công nghệ thông tin. 4.5.Biện pháp phối hợp với phụ huynh. 5. Các biện pháp chính : Biện pháp 1: Biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Vì ngôn ngữ sẽ giúp trẻ bày tỏ, trao đổi và giao tiếp với nhau trong học tập cũng như vui chơi. Thông qua hoạt động dạy phát triển ngôn ngữ sẽ giúp trẻ phát triển lời nói mạch lạc, rõ ràng hơn. Chính vì thế ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm phát triển về đạo dức, tư duy, nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa cho trẻ. Ngôn ngữ góp phần đào tạo các em trở thành con người toàn diện. Ngôn ngữ chính là công cụ để trẻ nhận thức và giao tiếp góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách cho trẻ. Vì vậy việc hướng dẫn và dạy cho trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng phát triển ngôn ngữ qua hoạt động nhận biết là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cần thiết vì ở lứa tuổi này, trẻ còn non nớt, vụng về, cần được chăm sóc kĩ lưỡng về mọi mặt. Nhất là trẻ đang trong giai đoạn bi bô tập nói, trong đó giáo viên là người chịu trách nhiệm hướng dẫn, bảo ban, chỉ đạo cho trẻ mọi điều và việc quan trọng hơn cả là cô giáo phải chú ý và quan tâm đến trẻ hơn, xem trẻ có nói đúng ngữ pháp không. Vì vậy trẻ được làm quen với một số hoạt động ở lứa tuổi nhà trẻ trong đó có hoạt động nhận biết là điển hình. Hoạt động nhận biết là hoạt động vô cùng quan trọng trong việc cung cấp từ mới về sự vật hiện tượng xung quanh trẻ, phát triển nhận thức của trẻ từ đó trẻ mới có những kinh nghiệm, trải nghiệm tốt cho bản thân. Tuy nhiên trẻ ở lứa tuổi 24- 36 tháng, bộ máy phát âm còn chưa chuẩn nên trẻ rất hay nói ngọng, nói
- 8/15 lắp, nói thiếu từ, nói không đủ câu. Chính vì vậy ở hoạt động nhận biết đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị thật tốt về đồ dùng trực quan, hình ảnh minh họa phải to, rõ nét, dễ nhìn và thu hút chú ý của trẻ. Trong khi dạy trẻ không nhất thiết phải sử dụng tranh hoặc vật thật hoặc dạo chơi thăm quan mà tùy thuộc vào từng nội dung của đề tài để chọn đồ dùng trực quan cho phù hợp . Song song với đồ dùng là hệ thống câu hỏi phải xây dựng ngắn gọn, rõ ràng dễ hiểu và thật gần gũi với trẻ, khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng, nói đủ câu. Ví dụ : Trong hoạt động nhận biết về các bộ phận của cơ thể : Cô có thể gọi trẻ lên chỉ vào từng bộ phận cơ thể trẻ đó, giới thiệu về các bộ phận của cơ thể, để trẻ đó biết và các bạn ở dưới cũng được quan sát và nhận biết. Sau đó cô nói các bộ phận cơ thể cho trẻ chỉ vào và hỏi trẻ : + Đố con biết, tai của con đâu ? Tai để làm gì ? + Tay của con đâu ? Tay để làm gì ? + Mũi của con đâu ? …… Nếu trẻ nói sai cô nhẹ nhàng sửa sai cho trẻ. Hình ảnh 1 : Nhận biết các bộ phận trên cơ thể : Ví dụ: Trong hoạt động nhận biết hoa đồng tiền tôi suy nghĩ nêu câu hỏi và sử dụng dụng cụ trực quan nào để cháu học có kết quả tốt hơn. Nếu sử dụng tranh minh họa thì trẻ sẽ không có cơ hội để sử dụng các giác quan của mình, giờ học sẽ không sinh động, trẻ dễ chán chóng quên. Vì vậy tôi đã quyết định dạy trẻ bằng vật thật “chậu hoa đồng tiền” bởi vì khi được học bằng hoa thật trẻ sẽ được sử dụng các giác quan của mình : Xúc giác, vị giác, thính giác,… giờ học sẽ sinh động gây hứng thú đối với trẻ, trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và vững chắc hơn. Hình ảnh 2 : Trẻ quan sát chậu hoa đồng tiền : Thực tế qua quá trình tiếp xúc dạy trẻ tôi nhận thấy trong một lớp không phải cháu nào cũng nhận thức được như nhau, nếu tôi đặt những câu hỏi quá đơn giản thì với những cháu nhận thức nhanh sẽ không phát triển được trí thông minh, còn nếu đặt câu hỏi khó hơn thì với những cháu nhận thức chậm hơn sẽ không tiếp thu được. Vì vậy ngay từ đầu tôi đã đi sâu vào tìm hiểu tâm lý và nhận thức của từng trẻ cụ thể như sau : Lớp tôi có tổng số trẻ là 16 cháu Cháu có khả năng nhận thức nhanh 7 cháu Cháu nhận thức được yêu cầu của cô 7 cháu Cháu nói ngọng nhận thức chậm 2 cháu Ví dụ : Khi dạy trẻ nhận biết hoa đồng tiền tôi sử dụng câu hỏi như sau :
- 9/15 Với những cháu có khả năng nhận thức bài dễ dàng tôi dùng câu hỏi ? Hoa gì đây ? Cái gì đây ? (Đồng thời chỉ vào cánh hoa, nhụy hoa, lá hoa) Với những cháu có khả năng nhận thức nhanh, ngoài những câu hỏi đã dùng cho các cháu trên tôi đã sử dụng thêm các câu hỏi cho trẻ phân biệt được màu sắc, mùi thơm : Hoa có màu gì ? Hoa có mùi gì ? (Cho trẻ ngửi), Cánh hoa như thế nào ? (Nhỏ và dài) Với các cháu nhận thức nhanh sẽ trả lời được ngay, nhưng cũng có cháu tiếp thu chậm và nói còn ngọng hoặc phát âm chưa rõ, chưa đúng tôi luôn kiên trì cho cháu đó tập nói nhiều lần, không cáu gắt làm trẻ mất hứng thú mà tôi sẽ nói mẫu cho trẻ nhắc lại nhiều lần, chú ý tới các cháu và tập nói cho các cháu nhiều hơn. Trong quá trình dạy trẻ tập nói tôi nhận thấy sự hiểu biết của trẻ còn rất hạn chế vì thế khi giáo viên đặt câu hỏi mang tính tổng quát, nhiều khi trẻ không trả lời được câu hỏi của cô. Vì vậy ngay sau khi đặt câu hỏi tổng quát cho trẻ suy nghĩ, tôi tiếp tục gợi ý cho trẻ bằng những câu hỏi phụ để trẻ có thể trả lời dễ dàng câu hỏi của cô. Ví dụ : Khi dạy trẻ hoạt động nhận biết phân biệt hình vuông, hình tròn khi cho trẻ so sánh 2 hình này nếu tôi hỏi : Hai hình này có gì giống và khác nhau ? Thì trẻ sẽ khó trả lời nên tôi sẽ dùng câu hỏi phụ để hỏi trẻ: Hình vuông có các cạnh như thế nào ? Hình tròn cạnh như thế nào ? Hình vuông lăn được không ? Hình tròn lăn được không ? Khi dùng các câu hỏi này trẻ sẽ so sánh và trả lời dễ dàng hơn. Hình ảnh 3 : Trẻ nhận biết hình vuông, hình tròn. Biện pháp 2: Biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết ở mọi lúc mọi nơi : Sự phát triển ngôn ngữ đối với trẻ giai đoạn 24- 36 tháng: Đến giai đoạn này, trẻ đã nhận biết và sử dụng được tên gọi của người quen, đồ vật quen thuộc trong nhà, các bộ phận cơ thể. Trẻ biết lắng nghe những câu chuyện ngắn, tập trung quan sát cuộc nói chuyện của người lớn, dễ dàng lặp lại những từ nghe lỏm được, và biết nghe theo các chỉ dẫn, hiệu lệnh đơn giản mà không cần có cử chỉ hay hành động đi kèm. Trẻ 24- 36 tháng tuổi vốn từ còn hạn chế, nói còn ngọng chưa được tròn vành, rõ chữ vì ở lứa tuổi này trẻ còn đang trong quá trình phát triển về âm. Trẻ học nói dựa vào người lớn vì vậy trò chuyện với trẻ mọi lúc mọi nơi là phương pháp tốt nhất để trẻ học nói : cô cần nói chuyện với trẻ với giọng điệu nhẹ nhàng, âu yếm tạo được sự thân thiện với trẻ để kích thích nhu cầu học nói của trẻ. Trẻ học nói thông qua các hoạt động nhận biết ở trên lớp, qua cuộc trò chuyện và trong sinh hoạt hằng ngày của trẻ vì vậy cần trò chuyện với trẻ càng
- 10/15 nhiều càng tốt, trong mọi lúc mọi nơi. Trò chuyện để trẻ phát triển thêm vốn từ, cách nói, cách phát âm rõ hơn giúp trẻ giao tiếp cởi mở, tự tin hơn. * Thông qua giờ đón trẻ : Khi trẻ đến lớp cô nhắc trẻ chào cô, chào ông bà, bố mẹ, nhắc trẻ nói đủ câu và cô trò chuyện với trẻ tạo sự gần gũi. + Con chào cô đi ( con chào cô ạ) + Con chào ông bà, bố mẹ (Con chào …. ạ) Hình ảnh 4 : Cô đón trẻ, nhắc trẻ chào cô giáo, chào mẹ. + Gia đình con có những ai ? + Ai nấu cơm cho con ăn ? + Hôm nay ai đưa con đi học ? + Con đi học bằng phương tiện gì ? + Con mặc áo màu gì ? Hình ảnh 5 : Cô trò chuyện cùng trẻ. * Phát triển ngôn ngữ thông qua nhận biết ở hoạt động ngoài trời : Hoạt động ngoài trời có vai trò rất quan trọng trong phát triển về thể chất, tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, chơi ngoài trời là khoảng thời gian, không gian tuyệt vời cho hoạt động phát triển về cả thể chất lẫn tinh thần cho trẻ. Với trẻ, mọi vật đang diễn ra xung quanh trẻ mỗi ngày đều mới mẻ, sống động, cuốn hút và luôn kích thích trí tò mò. Trẻ đùa nghịch, vui chơi ngoài thiên nhiên, lựa chọn các nhóm chơi theo ý thích của mình một cách thoải mái. Tham gia các hoạt động ngoài trời, trẻ được quan sát quang cảnh, bầu trời để nhận biết thời tiết, quan sát sự vật, cây cối cung cấp cho trẻ vốn hiểu biết về thế giới xung quanh trẻ. Thông qua đó là điều kiện để trẻ học thêm những từ mới, học cách nói đủ câu, giúp trẻ ngày càng tự tin khi giao tiếp. Trong hoạt động ngoài trời tôi luôn quan tâm đến trẻ và đặt ra những câu hỏi về sự vật hiện tượng ngay trước mắt trẻ để trẻ được nhận biết, nói nhiều. Ví dụ: - Khi cho trẻ tham quan vườn hoa của trường, tôi đặt câu hỏi ngắn gọn rõ ràng, dễ hiểu kích thích trẻ nói: + Cô và các con đang đi đâu nhỉ? (Tham quan vườn hoa) + Trong vườn có những loại hoa gì? (Cô giới thiệu cho trẻ các loại hoa trong vườn) + Đây là bông hoa gì? + Bông hoa có màu gì? + Con hãy ngửi xem hoa có mùi gì? (Trẻ nói cho cô, cô chú ý sửa sai, sửa ngọng cho trẻ)
- 11/15 Hình ảnh 6: Cô cho trẻ quan sát hoa vườn trường: - Cho trẻ đi tham quan nhận biết đồ chơi quanh sân trường (cầu trượt, nhà bóng, bập bênh,…) Cô đặt câu hỏi: + Đây là đồ chơi gì? + Đồ chơi này có màu gì? + Đồ chơi này chơi như thế nào? + Con thích chơi đồ chơi nào? ( Sau đó cô cho trẻ chơi đồ chơi trẻ thích và chú ý quan sát trẻ) Hình ảnh 7 :Cô cho trẻ đi tham quan đồ chơi quanh sân trường. *Phát triển ngôn ngữ thông qua nhận biết ở hoạt động góc : - Hoạt động góc là một hoạt động không chỉ nhằm tạo ra sản phẩm mà còn để thỏa mãn nhu cầu được chơi của trẻ. Thông qua hoạt động góc trẻ sẽ được phát triển toàn diện mọi mặt : Nhận thức, tình cảm, ngôn ngữ,… Ví dụ : Góc bé với hình và màu : Mục đích: Trẻ nhận biết và tập nói các màu xanh, đỏ. Chuẩn bị: Các hạt màu xanh, đỏ, vàng,… Tiến hành: Cô cho sâu hạt thành vòng có màu xanh hoặc màu đỏ. Cô hướng dẫn trẻ sâu hạt và hỏi. + Con đang chơi gì? (sâu hạt) + Con sâu hạt vòng có màu gì? + Con sâu như thế nào? + Con sẽ tặng chiếc vòng này cho ai? Hình ảnh 8: Cô giáo hướng dẫn trẻ chơi sâu hạt: - Khi chơi xong, ngoài việc rèn cho trẻ thói quen cất đồ chơi gọn gàng, đúng nơi quy định. Tôi còn cho trẻ đọc bài thơ để trẻ có thể phát âm chuẩn, phát triển ngôn ngữ cho trẻ như : Bạn ơi hết giờ rồi Nhanh tay cất đồ chơi Nhẹ tay thôi bạn nhé Cất đồ chơi đi nào Hình ảnh 9 : Trẻ cất đồ dùng đồ chơi. * Thông qua giờ ăn- ngủ : Trước khi ăn tôi có thể cho trẻ nhận biết cái bát, cái thìa, hỏi trẻ bát để làm gì ? Thìa để là gì ? Khi ăn thì tay nào giữ bát ? Tay nào cầm thìa ? Và giáo dục các cháu hành vi văn minh trong ăn uống : Không nói chuyện trong giờ ăn, không làm rơi vãi cơm, che miệng khi ho, không đùa nghịch trong giờ ăn và động viên trẻ ăn hết xuất.
- 12/15 Hình ảnh 10 : Cô cho trẻ nhận biết bát. Trước giờ trả trẻ cô cho trẻ ôn lại các hình, các màu, các con vật,…, trò chuyện về các hoạt động đã học: + Hôm nay cô dạy các con nhận biết con gì? + Nó có màu gì? + Con vật đó kêu như thế nào? + Nhà con có nuôi con vật đó không? + Hãy cũng bắt trước tiếng kêu của nó. Biện pháp 3: Biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết với đồ dùng đồ chơi tự tạo: - Trẻ ở giai đoạn này có đặc điểm là hành động bột phát do ảnh hưởng của tình cảm và ý muốn nảy sinh từ hoàn cảnh trực tiếp trong một thời điểm nào đó. Trẻ có thể dễ dàng thích thú một vật gì đó, nhưng cũng dễ dàng và nhanh chóng chán nó. Do vậy đồ dùng đồ chơi đẹp, lạ hấp dẫn sẽ kích thích lôi cuốn sự chú ý, tính tò mò của trẻ. Những đồ dùng, đồ chơi tự làm luôn mang lại tính thẩm mỹ giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng ,kích thích sự sáng tạo của trẻ làm tiền đề cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Do vậy việc làm đồ dùng , đồ chơi tự tạo rất cần thiết trong các hoạt động nói chung và hoạt động nhận biết nói riêng. Nó có ý nghĩa và tác dụng rất tốt góp phần to lớn trong giáo dục, phát triển toàn diện, qua quá trình thực nghiệm trên lớp, khi trẻ chơi với đồ chơi sáng tạo giúp trẻ phát triển ngôn ngữ: Trẻ nói được nhiều và phát triển hơn so với yêu cầu thực tế, thông qua quá trình chơi trẻ thể hiện thái độ, tình cảm của mình với môi trường xung quanh, phát triển hành vi, ngôn ngữ giao tiếp trong nhóm trẻ,.. cung cấp vốn từ, kích thích trẻ nói. Hình ảnh 11: Một số đồ dùng đồ chơi tự tạo phục vụ cho hoạt động. Biện pháp 4. Biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết với ứng dụng công nghệ thông tin: Những năm gần đây, ngành GD&ĐT không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng giáo dục tại tất cả các cấp học. Trong đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học được coi là then chốt. Sự phát triển và bùng nổ của công nghệ thông tin đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Và việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng là yêu cầu cần thiết. Đây cũng là định hướng giáo dục trong thời kỳ công nghệ 4.0. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục mầm non tạo ra một môi trường dạy và học có sự tương tác cao, sống động, tạo sự hứng thú và hiệu quả
- 13/15 cao của quá trình dạy học đa giác quan cho trẻ. Những nội dung, tư liệu bài giảng giới thiệu cho trẻ mang tính chân thực, phong phú, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của trẻ. Công nghệ thông tin giúp giáo viên thiết kế ra những bài giảng điện tử trực quan, sinh động, tạo nên môi trường học tập thân thiện, học sinh tích cực. Trẻ không những được nghe, nhìn, mà còn được thực hành nội dung hoạt động một cách bài bản thông qua các đoạn video sinh động, hấp dẫn. Từ đó, giúp trẻ phát triển toàn diện về cả giác quan lẫn nhân cách, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tâm lý trẻ mầm non đặc biệt là trẻ 24- 36 tháng trẻ rất ấn tượng với các hình ảnh đẹp, có màu sắc vui nhộn, trẻ dễ nhớ, dễ quên, khả năng tập trung chú ý của trẻ không bền do vậy để trẻ mầm non đặc biệt là trẻ 24-36 tháng được tiếp xúc sớm với công nghệ thông tin sẽ giúp trẻ tư duy chính xác và nhanh nhẹn hơn. Ví dụ: Khi tôi cho trẻ nhận biết con gà trống, đầu tiên tôi sẽ cho trẻ nghe tiếng gáy của gà để trẻ đoán xem đó là con gì? Kích thích trí tò mò và phán đoán của trẻ. Sau đó tôi đưa ra video con gà trống gáy và cho trẻ bắt trước theo tiếng gà trống gáy. Hình ảnh 12: Nhận biết con gà trống: Một số hình ảnh ứng dụng công nghệ thông tin: Hình ảnh 13: Nhận biết một số loại rau, củ, quả. Hình ảnh 14: Cô dạy trẻ nhận biết về người thân trong gia đình trẻ. Qua hoạt động ứng dụng với công nghệ thông tin, tôi nhận thấy trẻ rất hào hứng tham gia vào hoạt động, trẻ sôi nổi hơn, nói nhiều hơn, trẻ được nói những gì mình nhìn và mình tưởng tưởng, tạo không khí học rất vui tươi, làm cho giờ học đạt kết quả cao. Biện pháp 5: Biện pháp phối hợp với phụ huynh: Chăm sóc giáo dục trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục nói chung bậc học Mầm non nói riêng. Có rất nhiều hình thức và phương pháp chăm sóc trẻ khác nhau như phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng đổi mới, hay theo hướng giáo dục mầm non mới…dù có thực hiện phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng nào nếu như chỉ có nhà trường và giáo viên nỗ lực cố gắng mà không có sự phối kết hợp với gia đình và các bậc phụ huynh về cách chăm sóc giáo dục trẻ thì hiệu quả giáo dục sẽ không cao. Công tác phối hợp với phụ huynh đóng vai trò rất quan trọng trong công tác ,chăm sóc giáo dục trẻ tại trường bởi trẻ còn quá nhỏ.Vì vậy tôi luôn làm tốt công tác tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh qua các hình thức. - Để thực hiện tốt công tác phối kết hợp với các bậc cha mẹ, ngay từ đầu thông qua buổi họp phụ huynh đầu năm học: Tôi trực tiếp trao đổi, phổ biến để
- 14/15 phụ huynh hiểu rõ tầm quan trọng của việc thực hiện chăm sóc giáo dục mầm non mới và triển khai kế hoạch thực hiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua hoạt động nhận biết. Tôi tìm hiểu tâm sinh lý, khả năng giao tiếp của từng trẻ khi ở nhà thông qua phụ huynh: vốn từ, mức độ phát âm chuẩn xác hay không, trẻ hay mắc lõi phát âm gì, hay nói ngọng từ nào, trẻ có mạnh dạn hay nhút nhát, ít nói. - Thông qua bảng tuyên truyền tôi đưa các nội dung phát triển ngôn ngữ qua hoạt động nhận biết như tên đề tài hôm nay học ở lớp và cách hướng dẫn trẻ học để phụ huynh cùng rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà. Vào giờ đón trả trẻ, tôi trao đổi với phụ huynh về tình hình của con trong ngày, trao đổi chi tiết những điểm được và chưa được của trẻ để cùng phụ huynh tìm ra phương pháp giáo dục tốt nhất cho con ở trường cũng như ở nhà. Qua những sự trao đổi thường xuyên, phụ huynh đã nắm bắt được tâm sinh lý của con mình và luôn có sự phối kết hợp với cô giáo để cùng tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ được học và tham gia vào các hoạt động. Thực tế cho thấy nếu như gia đình và nhà trường có sự kết hợp chặt chẽ thì sẽ tạo được một mối quan hệ gần gũi cởi mở giữa hai bên và cả hai bên sẽ nhận được những đóng góp chân thực và những kinh nghiệm rất thiết thực trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ. Khi kết hợp chăm sóc giáo dục cùng phụ huynh tôi thấy các con ngoan hơn khi đến lớp, có thói quen chào hỏi, nề nếp trong ăn ngủ vệ sinh, biết và ghi nhớ được nhiều hơn những gì cô dạy ở lớp. Phụ huynh quan tâm hơn đến phong trào của lớp, mua sắm đầy đủ đồ dung, học liệu phục vụ cho con. Giữa cô giáo và phụ huynh luôn có sự gần gũi, cởi mở khi trao đổi về các hoạt động của con trên lớp. 5. Kết quả sau khi thực hiện đề tài: - Khi mới làm quen với hoạt động phát triển ngôn ngữ qua hoạt động nhận biết, tôi thấy các cháu ít nói, nói còn ngọng, phát âm chưa chuẩn và ngại giao tiếp. Nhưng qua một thời gian thực hiện và áp dụng các biện pháp phát triển ngôn ngữ qua hoạt động nhận biết trên, tôi thấy các cháu ở lớp tôi vốn từ nhiều, nói nhiều hơn, phát âm chuẩn hơn, hứng thú hơn và tích cực tham gia vào các hoạt động say mê, và sôi nổi hơn, hoạt động phát triển ngôn ngữ đạt kết quả cao hơn. Các cháu không rụt rè và nhút nhát như lúc đầu và tỉ lệ nghe hiểu lời nói, nghe nhắc lại các âm, các tiếng và các câu, sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp đã tốt hơn, trẻ đã nhận biết và nói được tên, một vài đặc điểm nổi bật của các đồ vật, hoa quả, con vật quen thuộc, nói được tên bản thân và những người gần gũi, nói được các bộ phận của cơ thể, điều đó làm cho tôi có thêm động lực phấn đấu đưa trẻ lớp tôi phát triển toàn diện về nhân cách con người. - Qua bảng so sánh trước và sau khi thực hiện đề tài nội dung trẻ đạt được thay đổi rõ rệt.
- 15/15 Bảng so sánh đối chứng (Tổng số trẻ: 16 trẻ) Đầu Cuối năm năm Nội Số Số Số Số trẻ dung Tỉ lệ trẻ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ trẻ trẻ chưa % chưa % % % đạt đạt đạt đạt Nghe hiểu lời nói, nhắc lại 6 37,5 10 62,5 15 93,7 1 6,3 các âm, các tiếng và các câu Thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của 7 43,7 9 56,2 15 93,7 1 6,3 bản thân bằng lời nói Nói được tên bản thân và những người gần gũi, nói 6 37,5 10 62,5 14 87,5 2 12,5 được các bộ phận của cơ thể. Nhận biết và nói được tên, một vài đặc điểm nổi bật 6 37,5 10 62,5 15 93,7 1 6,3 của các đồ vật, hoa quả, con vật quen thuộc. - 15/16 trẻ nghe hiểu lời nói, nhắc lại các âm, các tiếng và các câu 93,7% tăng 56,2 % so với đầu năm. - 15/16 trẻ biết thể hiện nhu cầu, cảm xúc, hiểu biết của bản thân bằng lời nói đạt 93,7% tăng 50% so với đầu năm. - 14/16 trẻ nói được tên bản thân và những người gần gũi, nói được các bộ phận của cơ thể đạt 87,5% tăng 50% so với đầu năm. - 15/16 trẻ nhận biết và nói được tên, một vài đặc điểm nổi bật của các đồ vật, hoa quả, con vật quen thuộc đạt 93,7% tăng 50 % so với đầu năm. III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ :
- 16/15 1. Kết luận: *Kết luận : - Hoạt động phát triển ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ giúp trẻ bày tỏ, trao đổi và giao tiếp với nhau trong học tập và trong vui chơi. Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết sẽ giúp trẻ phát triển lời nói mạch lạc, rõ ràng hơn. Chính vì thế ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa cho trẻ. Ngôn ngữ góp phần đào tạo các em trở thành con người hoàn thiện hơn. - Việc sử dụng biện pháp đưa hoạt động nhận biết vào quá trình giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một công việc vô cùng thiết thực. Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non thông qua hoạt động nhận biết nói chung và trẻ nhà trẻ 24 đến 36 tháng nói riêng là nhiệm vụ hết sức quan trọng góp phần phát triển về mặt tinh thần cho trẻ, từ đó trẻ có nhiều khả năng thực hiện nhiệm vụ giáo dục về mặt ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm quan hệ xã hội từ đó dần hình thành nhân cách con nguời cho trẻ. - Như vậy hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ trong trường mầm non qua hoạt động nhận biết đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển về : Đức-Trí-Thể -Mỹ cho trẻ. Nó giúp trẻ trở thành con người toàn diện. - Giáo viên thực sự yêu nghề, mến trẻ, có năng lực sư phạm, nắm chắc chuyên môn. Có sự sáng tạo trong mỗi hoạt động, luôn có sự thay đổi mới trong phương pháp dạy trẻ. Thường xuyên rèn luyện bản thân, học hỏi kinh nghiệm để trau dồi kiến thức. - Tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo hấp dẫn với trẻ. Luôn tạo môi trường thân thiện với trẻ để trẻ thấy được mình như đang được học mà chơi, chơi mà học. Cô giáo phải luôn tìm hiểu tâm lý của trẻ, lấy trẻ làm trung tâm để trẻ tích cực tham gia các hoạt động. - Cô giáo phải xử lý tốt các tình huống sư phạm. Luôn tìm cách tạo tình huống cho trẻ để trẻ có bộc lộ năng khiếu, tạo cơ hội để trẻ thực hiện được sở thích của mình. - Luôn làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh để thống nhất phương pháp giáo dục tốt nhất cho trẻ. - Là một giáo viên trực tiếp làm công tác chăm sóc giáo dục trẻ tôi thấy mình cần cố gắng học hỏi rèn luyện phấn đấu khắc phục những mặt còn hạn chế, trau rồi thêm kiến thức để đưa vào áp dụng dạy trẻ đạt kết quả ngày càng cao. 2. Khuyến nghị :
- 17/15 * Qua đây tôi xin có một số đề xuất - Đề xuất với Ban Giám Hiệu tổ chức nhiều hơn nữa các buổi thảo luận về chuyên môn, các hình thức hoạt động để chị em học hỏi kinh nghiệm. - Nhà trường đồng bộ về trang thiết bị cơ sở vật chất trong lớp và ngoài trời cho hoạt động phát triển ngôn ngữ. - Trang bị thêm trang thiết bị đồ dùng kịp thời để áp dụng nhu cầu dạy và học. Tuyên truyền, vận động phụ huynh đóng góp nguyên vật liệu, luôn phối hợp với giáo viên để chăm sóc giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ tốt từ đó giúp cho sự phát triển sau này của trẻ. Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi trong việc tổ chức các hoạt động giúp trẻ phát triển ngôn ngữ qua hoạt động nhận biết. Sáng kiến của tôi còn nhiều thiếu sót rất mong được sự góp ý của hội đồng khoa học, của các cấp lãnh đạo và các chị em đồng nghiệp để giúp tôi có thêm kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ và tổ chức các hoạt động nhiều hơn nữa cho trẻ đạt kết quả cao hơn. Tôi xin cam đoan đề tài này là do tôi tự viết không hề sao chép. Kính mong hội động khoa học góp ý để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 18/15 1, Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam ngày 8-9- 1962 2, Chương trình giáo dục mầm non (Ban hành theo thông tư số 17/2009 /TT- BGDĐT ngày 25/07/2009). 3, Tham khảo tổ chức hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục Mầm non nhà trẻ (24- 36 tháng tuổi). 4, Sưu tầm và đọc tạp trí giáo dục mầm non, xem và tham khảo trên mạng, ti vi, internet.
- 19/15 MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA Hình ảnh 1: Nhận biết các bộ phận trên cơ thể (Biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết): Hình ảnh 2 : Nhận biết hoa đồng tiền(Biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết)
- 20/15 Hình ảnh 3: Cô dạy trẻ nhận biết hình vuông, hình tròn(Biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết) Hình ảnh 4: Hoạt động đón trẻ, co nhặc trẻ chào cô, chào mẹ (Biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết ở mọi lúc mọi nơi )
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với toán
17 p | 1794 | 338
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp quản lý hồ sơ công tác chăm sóc bán trú trong trường mầm non Tuổi Hoa
16 p | 24 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mầm non
11 p | 25 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ trong trường mầm non
19 p | 44 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa - Long Biên - Hà Nội
10 p | 28 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 50 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục luật lệ an toàn giao thông đường bộ cho trẻ Mẫu giáo 4 - 5 tuổi tại trường mầm non Tuổi Hoa
11 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp dạy trẻ 5-6 tuổi làm một số đồ dùng đồ chơi sáng tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
19 p | 14 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp giáo viên tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non
16 p | 13 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Ứng dụng hướng tiếp cận Reggio Emilia trong trang trí môi trường lớp học tại trường mầm non
15 p | 25 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi
12 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi trong trường mầm non
18 p | 16 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp phòng, tránh ngộ độc thực phẩm trong trường mầm non
12 p | 21 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 3-4 tuổi hoạt động làm quen với toán ở trường mầm non
12 p | 18 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi trong trường mầm non Tuổi Hoa
20 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục trẻ 3-4 tuổi cách phòng tránh tai nạn thương tích trong trường Mầm non Tuổi Hoa
14 p | 23 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở trường mầm non
16 p | 8 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn trong trường mầm non
16 p | 14 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn