intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp gây hứng thú thu hút trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia vào hoạt động kể chuyện

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

22
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp gây hứng thú thu hút trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia vào hoạt động kể chuyện" nhằm giúp trẻ trải nghiệm để tích luỹ vốn kinh nghiệm, nó tác động trực tiếp đến việc trẻ lĩnh hội kiến thức, kỹ năng sống, giúp trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp, kết nối tốt, giúp các bé tự tin hơn; Giúp trẻ bộc lộ được cảm xúc của mình, những điều trẻ suy nghĩ, những ý tưởng mới một cách rõ ràng mạch lạc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp gây hứng thú thu hút trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia vào hoạt động kể chuyện

  1. MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng nghiên cứu 2 4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm 2 5. Phương pháp nghiên cứu 2 6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu 2 PHẦN THỨ HAI: NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI 3 QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Tên đề tài 3 2. Cơ sở lý luận 3 3. Khảo sát thực trạng 3 4. Những biện pháp thực hiện 4 5. Những biện pháp thực hiện cụ thể 4 5.1. Giải pháp 1:Tự học, tự bồi dưỡng về nghệ thuật đọc, kể. Chuẩn bị tốt mọi điều kiện để thu hút trẻ cho các hoạt động kể 4 chuyện 5.2. Giải pháp 2: Sáng tạo hình thức tổ chức gây hứng thú thu hút trẻ vào hoạt động kể chuyện qua các thủ pháp nghệ thuật. 5 5.3. Giải pháp 3: Gây hứng thú cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi 10 5.4: Giải pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động “Kể chuyện” 12 5.5. Giải pháp 5: Phối hợp với phụ huynh để nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với hoạt động kể chuyện. 12 PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 14 1. Kết quả thực hiện 14 2. Kết luận 14 3. Khuyến nghị
  2. PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ Tên đề tài: Một số giải pháp gây hứng thú thu hút trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia vào hoạt động kể chuyện 1. Lý do chọn đề tài Ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời, trẻ em như một trang giấy trắng, gia đình và xã hội bắt đầu vẽ lên những nét bút đầu tiên cho tương lai của trẻ. Để trẻ có một tương lai tươi sáng, một nhân cách toàn diện, trẻ cần được phát triển đầy đủ các lĩnh vực ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ, thể chất, tình cảm xã hội và các kĩ năng sống cần thiết cho trẻ. Ngày nay trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, chúng ta càng thấy rõ vai trò đó đối với việc giáo dục, phát triển toàn vẹn nhân cách trẻ. Như chúng ta đã biết quan điểm giáo dục hiện nay là “Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”. Nếu vận dụng một cách linh hoạt quan điểm này ta sẽ phát huy được tính tích cực và chủ động sáng tạo của trẻ. Trong tất cả các hoạt động của các lĩnh vực phát triển trong trường mầm non, tôi nhận thấy là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ nói chung và hoạt động văn học nói riêng là lĩnh vực mà trẻ có thể thể hiện trí tưởng tượng, tư duy sáng tạo và đặc biệt trẻ có thể bộc lộ cảm xúc một cách chân thật, tự nhiên nhất, khơi gợi và bồi dưỡng tâm hồn của trẻ nhiều nhất. Vì vậy nếu giáo viên chỉ nắm chắc về phương pháp và tác phong sư phạm nhẹ nhàng chưa hẳn đó có một tiết dạy hay và đạt kết quả cao và cũng trong một tiết kể chuyện cô cho trẻ ngồi vào và kể theo từng bước thì trẻ không hứng thú mà muốn có một tiết dạy hay thì cô gíáo phải biết nghiên cứu để xây dựng tiết dạy của mình sao cho liền mạch, có lôgic theo chủ đề chủ điểm trẻ mới hứng thú học. Chính vì vậy, với một tiết kể chuyện tôi rút ra kinh nghiệm rằng phải biết xây dựng phù hợp với từng bài dạy dưới nhiều hình thức khác nhau để gây hứng thú cho trẻ hoạt động và nâng cao chất lượng giảng dạy của giờ hoạt động kể chuyện. Nên trong suốt thời gian thực hiện chương trình chúng tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi để xây dựng cho mình một kế hoạch giảng dạy sao cho phù hợp với tình hình của lớp mình như vậy không khí của tiết học sẽ không bị trầm và trẻ hứng thú học hơn.Tôi hiểu, những hiệu quả giáo dục mà mình đã làm được thì không đáng kể, còn những tồn tại, hạn chế thì mình vướng phải khá nhiều. Điều đó đã thôi thúc tôi lựa chọn đề tài “Một số giải pháp gây hứng thú thu hút trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia vào hoạt động kể chuyện” làm đề tài nghiên cứu và thực nghiệm trong năm học 2020 – 2021. 2. Mục đích nghiên cứu Giúp trẻ trải nghiệm để tích luỹ vốn kinh nghiệm, nó tác động trực tiếp đến việc trẻ lĩnh hội kiến thức, kỹ năng sống, giúp trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp, kết nối tốt, giúp các bé tự tin hơn. Giúp trẻ bộc lộ được cảm xúc của mình, những điều trẻ suy nghĩ, những ý tưởng mới một cách rõ ràng mạch lạc.
  3. 2/15 Giúp trẻ có vốn từ phong phú và phát âm chuẩn, yêu thích đọc sách và kể được một câu chuyện, một bài thơ theo sự tưởng tượng và cảm nhận của trẻ. Có thể góp một phần vào việc giúp một số giáo viên hiện nay thay đổi phương pháp dạy các hoạt động phát triển ngôn ngữ còn nhiều áp đặt, cứng nhắc chưa chú trọng vào việc tích hợp, việc học qua chơi trong các hoạt động văn học mộtcách tinh tế và bộc lộ tự nhiên nhất. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, theo sự định hướng chỉ đạo của ngành. 3. Đối tượng nghiên cứu Một số giải pháp gây hứng thú thu hút trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia vào hoạt động kể chuyện 4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm Trẻ 24-36 tháng lớp nhà trẻ D3, trong trường mầm non nơi tôi đang công tác Số trẻ: 15 trẻ. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp quan sát - Phương pháp trò chuyện, trao đổi - Phương pháp thống kê - Phương pháp kích thích sự hứng thú 6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu Đề tài được thực hiện tại lớp nhà trẻ D3 trường mầm non nơi tôi đang công tác - Thời gian thực hiện đề tài: Năm học 2022 - 2023 (Từ tháng 9 năm 2022 đến tháng 3 năm 2023) PHẦN THỨ HAI: NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Tên đề tài Một số giải pháp gây hứng thú thu hút trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia vào hoạt động kể chuyện 2. Cơ sở lý luận Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá. Hoạt động cho trẻ làm quen với văn học là hình thành ở trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ, phát triển ở trẻ trí tưởng tượng như: Tình yêu thiên nhiên, lòng kính trọng, yêu thương gần gũi và giúp đỡ những người thân xung quanh trẻ như: Ông, bà, bố mẹ, cô giáo, các bạn, anh, chị, em...Thông qua hoạt động này, trẻ còn có thể tái hiện và sáng tạo thêm những tình tiết khác của tác phẩm một cách hồn nhiên phù hợp với nội dung của tác phẩm. Đồng thời giáo viên cần dạy trẻ đọc thuộc những bài thơ, câu chuyện
  4. 3/15 và tập cho trẻ kể lại các câu chuyện ngắn đơn giản cùng cô, từ đó làm giàu vốn từ và phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Đối với độ tuổi nhà trẻ các cháu mới được đến lớp lần đầu nên chưa có nề nếp, thói quen giống các anh chị mẫu giáo. Các bé rất hiếu động không chịu ngồi yên rất hay đùa nghịch, nói tự do không tập chung chú ý nghe cô kể chuyện. Nên chúng tôi nghĩ việc tổ chức gây hứng thú thu hút trẻ vào hoạt động kể chuyện ngay từ ban đầu là rất quan trọng và góp phần nâng cao chất lượng kể chuyện cho trẻ nghe. Là giáo viên trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi này chúng tôi nắm bắt được trẻ rất nhạy cảm với nghệ thuật, ngôn từ âm điệu, hình tượng của các hát ru đồng dao, ca dao, dân ca, sớm đi vào tâm hồn trẻ thơ Những câu chuyện cổ, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ bởi vì qua đó trẻ được chơi với các đồ dùng như: Rối tay, rối dẹt, rối bóng; xem tranh ảnh, băng đĩa hình; được kể chuyện cùng cô, thể hiện với các vai diễn ngộ nghĩnh vui tươi và hồn nhiên.. Chính vì những lý do trên mà chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp gây hứng thú thu hút trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia vào hoạt động kể chuyện” nhằm tập hợp những kinh nghiệm mà cá nhân chúng tôi tích lũy được trong quá trình thực hiện giảng dạy trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ. Chúng tôi cố gắng mọi lúc mọi nơi, gần gũi với trẻ, chuẩn bị tốt mọi điều kiện phục vụ cho tiết học phù hợp với thực tế và tình hình của trẻ từ 24-36 tháng tuổi học tốt hoạt động kể chuyện. 3. Khảo sát thực trạng Năm học 2022 - 2023 tôi được phân công dạy lớp nhà trẻ D3. Trong quá trình thực hiện giảng dạy đặc biệt đối với việc cho trẻ làm quen với văn học tôi cũng gặp phải một số thuận lợi và khó khăn sau: a. Thuận lợi: - Về cơ sở vật chất: + Nhà trường trang bị đầy đủ đồ dùng, đồ chơi nhất là các đồ dùng phục vụ lĩnh vực phát triển ngôn ngữ và hoạt động văn học: rất nhiều thơ, truyện, các nhân vật rối, băng đĩa truyện… + Ban giám hiệu nhà trường và các cấp lãnh đạo tạo mọi điều kiện để học tập, bồi dưỡng chuyên môn đặc biệt là kiến thức về hoạt động văn học cho trẻ thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề, các buổi dự giờ học hỏi lẫn nhau từ chị em đồng nghiệp. - Về giáo viên: + Bản thân tôi có năng khiếu đọc, kể chuyện diễn cảm. - Về phía trẻ: Trẻ nhanh nhẹn, yêu thích được đọc thơ, kể chuyện và tham gia vào các hoạt động văn học. - Về phía phụ huynh học sinh: Đa số phụ huynh đều quan tâm đến chương trình chăm sóc giáo dục trẻ và ủng hộ nhiệt tình các phong trào của lớp đặc biệt là các phong trào của lớp, của trường.
  5. 4/15 b. Khó khăn: - Về cơ sở vật chất: + Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các tiết dạy còn hạn chế. Môi trường giáo dục trong và ngoài lớp học đã trang trí theo hướng mở nhưng chưa sáng tạo phong phú, chưa đáp ứng được môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong thời đại mới hiện nay. - Về giáo viên: + Giờ kể chuyện chưa có nhiều biện pháp thiết thực trong quá trình dạy trẻ dẫn đến kết quả chưa được cao, chưa đầu tư sưu tầm các câu chuyện mang tính giáo dục ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy. -Về phía trẻ: + Sĩ số trẻ trong lớp không đông nhưng có nhiều trẻ hiếu động. + Một số trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc, khả năng diễn cảm, chưa tích cực tham gia hoạt động văn học. - Về phía phụ huynh: Do điều kiện phụ huynh thuộc nhiều ngành nghề khác nhau nên chưa quan tâm nhiều đến việc được cho trẻ tiếp xúc với sách, truyện cũng như chưa tạo không gian, dành thời gian để trẻ được trò chuyện, giao tiếp với mọi người xung quanh. - Cụ thể được thể hiện trong bảng khảo sát thực trạng đầu năm. (Minh chứng 1: Bảng khảo sát thực trạng đầu năm của trẻ) 4. Những giải pháp thực hiện Giải pháp 1:Tự học, tự bồi dưỡng về nghệ thuật đọc, kể. Chuẩn bị tốt mọi điều kiện để thu hút trẻ cho các hoạt động kể chuyện Giải pháp 2: Sáng tạo hình thức tổ chức gây hứng thú thu hút trẻ vào hoạt động kể chuyện qua các thủ pháp nghệ thuật. Giải pháp 3: Gây hứng thú cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi Giải pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động “Kể chuyện” Giải pháp 5: Phối hợp với phụ huynh để nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với hoạt động kể chuyện. 5. Những biện pháp thực hiện cụ thể 5.1. Giải pháp 1:Tự học, tự bồi dưỡng về nghệ thuật đọc, kể. Chuẩn bị tốt mọi điều kiện để thu hút trẻ cho các hoạt động kể chuyện - Ngôn ngữ nghệ thuật có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển tâm hồn, tình cảm, trí tuệ của trẻ.
  6. 5/15 - Với ngôn ngữ nghệ thuật bước đầu cô giáo sẽ giúp trẻ nhận ra sự khác nhau của các tình huống, hành động, lời nói của các nhân vật, giúp trẻ nhận ra sự khác nhau giữa ngôn ngữ truyện, ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ thơ giàu tính hình ảnh. - Bản thân chúng tôi không ngừng tìm tòi học hỏi, tự nghiên cứu, rèn luyện cách thể hiện ngôn ngữ nghệ thuật để thu hút trẻ vào câu chuyện kể của mình. - Vì vậy khi kể một câu chuyện chúng tôi luôn nhập vai, ngắt nghỉ giọng, sử dụng ngữ điệu, cường độ giọng điệu, cử chỉ tư thế nét mặt sao cho phù hợp. Giọng kể càng hay, càng hấp dẫn thể hiện được ngữ điệu sẽ gây hứng thú cho trẻ, giúp trẻ cảm thụ được nội dung tác phẩm, tập trung tri giác vào toàn bộ nội dung câu chuyện, làm tiền đề để cho trẻ bắt chước ngữ điệu, giọng điệu, lột tả tính cách nhân vật, là cơ sở phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Lời kể của cô giáo cũng chính là thước đo chuẩn mực ngôn ngữ cho trẻ noi theo về ngữ điệu, về cách phát âm. Ví dụ: Ở chủ điểm “Mẹ và những người thân yêu của bé”. Kể chuyện “Chú vịt xám”. - Giọng người dẫn chuyện: Trầm ấm, nhẹ nhàng - Giọng của Vịt mẹ: Nhẹ nhàng, dịu dàng - Giọng của Vịt con: Sợ hãi - Giọng Con Cáo: Gian ác. Ví dụ: Chủ điểm “Những con vật đáng yêu”. Kể chuyện “thỏ ngoan”, giọng người dẫn chuyện thì nhẹ nhàng, đều. Đoạn đầu của chuyện Bác Gấu xin được vào nhà Cáo để chú mưa giọng bác Gấu thì ấm áp, run run xin vào nhà Cáo nhưng Cáo không cho Bác Gấu vào chú mưa, giọng của Cáo thì cao và đanh đá. Bác Gấu lại đi trời vẫn mưa rất to và bác Gấu đến nhà Thỏ để xin trú mưa, giọng của Thỏ thì đáng yêu, hồn nhiên. Ví dụ: Chủ điểm “Cây và những bông hoa đẹp”, Kể chuyện “Qủa thị” - Giọng người dẫn chuyện: Trầm ấm, nhẹ nhàng - Giọng của bạn vịt khi gọi quả thị thì: Ồm ồm - Giọng của chú mèo: Cao, trong trẻo, thánh thót - Giọng của bà cụ: Trầm ấm, chậm rãi, nhẹ nhàng Việc thể hiện nét mặt cử chỉ điệu bộ của nhân vật cũng rất quan trọng bởi vì tư duy của trẻ là tư duy trực quan hành động, trẻ rất hay bắt chước mọi cử chỉ,
  7. 6/15 điệu bộ của người lớn cho nên việc thể hiện nét mặt cử chỉ khi cô kể là rất quan trọng. Như vậy với giọng kể diễn cảm, hấp dẫn kết hợp nét mặt cử chỉ điệu bộ nhân vật của cô đã góp phần khắc hoạ những hình ảnh tính cách của các nhân vật. Qua đó giúp trẻ có thể diễn tả lại nội tâm của các nhân vật trong từng câu chuyện, là dịp để luyện tập ngôn ngữ cho trẻ và giúp đỡ trẻ phát triển khả năng diễn đạt mạch lạc, phát triển tư duy và hình thành thái độ tình cảm của mình đối với nhân vật. Để có được giọng kể hay, hấp dẫn chúng tôi phải tự rèn luyện mình, tập kể nhiều lần cho đồng nghiệp nghe để tham gia góp ý cùng chỉnh sửa. - Chuẩn bị đồ dùng: Ngoài việc chuẩn bị giọng kể ra việc chuẩn bị đồ dùng trong các giờ hoạt động kể chuyện cũng không kém phần quan trọng. Đặc thù của trẻ nhà trẻ là hay bắt trước, hiếu động. Tư duy của trẻ là tư duy trực quan hình tượng vì thế ở mọi lứa tuổi đều rất thích được nhìn, hoạt động với đồ vật. Chính vì vậy trong quá trình cho trẻ làm quen với các câu chuyện các bài thơ, chúng tôi cũng phải nghĩ là đồ dùng trực quan gì? Trước đây chúng tôi chuẩn bị đồ dùng cho một tiết dạy kể chuyện thường rất đơn điệu và thiếu sáng tạo, có một số tranh minh hoạ thì chỉ là tranh tĩnh với những hình ảnh vẽ và tô màu đơn giản, do đó không kích thích được sự tò mò và hứng thú của trẻ. Do vậy chúng tôi luôn thực sự linh hoạt, sáng tạo nghĩ ra một số cách làm tạo ra những đồ dùng trực quan đẹp và hấp dẫn thì mục đích phát triển ngôn ngữ cho trẻ và thu hút sự tập trung chú ý của trẻ thông qua các câu chuyện kể sẽ dễ dàng thực hiện được bởi trẻ mầm non rất thích đồ dùng đẹp, mới lạ, hấp dẫn, đơn giản mà dễ sử dụng. Vì thế chúng tôi dựa vào nội dung câu chuyện để làm đồ dùng đồ chơi cho phù hợp. Thường những giờ hoạt động kể chuyện trước đây hình ảnh là tranh tĩnh, khi dạy cô phải dùng que chỉ vào từng nhân vật để minh họa cho lời kể nên không tạo được hứng thú lâu ở trẻ. Nay cũng là bức tranh truyện “Cây táo ” chúng tôi chỉ làm nền còn các nhân vật thì chúng tôi làm nổi và rời từng bộ phận của nhân vật trong tranh sau đó gắn dây hoặc buộc que để điều khiển các bộ phận như (đầu, tay, chân...) của nhân vật cho cử động được, như vậy hình ảnh trong tranh trở nên sinh động hơn rất nhiều hay câu chuyện “gà vịt giúp nhau” chúng tôi làm hình ảnh sa bàn ô. Với những bức tranh như vậy trẻ rất thích, trẻ hứng thú say xưa nghe truyện, trẻ hiểu câu chuyện dễ dàng hơn và tiếp thu đầy đủ những ngôn ngữ trong câu chuyện. (Minh chứng 2: Câu chuyện cây táo nhân vật rời và nổi) (Minh chứng 3: Sa bàn ô câu chuyện “gà vịt giúp nhau”)
  8. 7/15 Ngoài ra chúng tôi sử dụng các nguyên vật liệu mở như: Chai lọ nhựa, vỏ hộp bánh, hộp sữa, lõi giấy vệ sinh, quả cầu lông…để làm thành những con rối xinh xắn khi đưa vào tiết dạy. Trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo ý thích, vừa tiết kiệm chi phí lại thu hút sự chú ý của trẻ. Ví dụ 1: Câu chuyện “gà vịt giúp nhau” tôi làm các nhân vật gà, vịt con bằng những bộ quần áo cũ đã không sử dụng đến, sau đó cắt may lại thành bộ trang phục vịt con, gà con để cô mặc đóng vai nhân vật trong truyện. Trẻ thích thú khi nhìn thấy sự khác lạ của các nhân vật mà cô đóng vai. (Minh chứng 4: Cô đóng vai gà con bằng trang phục ) Như vậy sử dụng đồ dùng trực quan, tranh ảnh động trong tiết dạy kể chuyện có tác dụng rất lớn, trẻ nghe một cách say xưa với hình ảnh sống động, ngộ nghĩnh. Qua đó giúp trẻ nhớ tên truyện, tên nhân vật, nội dung truyện một cách nhanh nhất dễ dàng nhất. Sự thu hút và gây hứng thú từ đồ dùng mang lại cho trẻ sự say mê thích thú nghe kể chuyện tranh, rối. Từ đó ngôn ngữ của trẻ được phát triển. 5.2. Giải pháp 2: Sáng tạo hình thức tổ chức gây hứng thú thu hút trẻ vào hoạt động kể chuyện qua các thủ pháp nghệ thuật. Kể chuyện là một môn học trẻ ít được hoạt động. Ngoài biện pháp sử dụng đồ dùng đồ chơi vào tiết dạy thì việc thay đổi hình thức vào bài, thay đổi hình thức kể chuyện, và sử dụng thủ pháp nghệ thuật như cử chỉ điệu bộ để gây hứng thú thu hút trẻ làm quen với các nhân vật trong câu truyện là rất cần thiết. Vì trẻ đã quá nhàm chán với các hình thức vào bài cũ cho nên chúng tôi đã thay đổi hình thức vào bài để mở đầu tiết học cho sôi động. Ví dụ: Ở độ tuổi này trẻ rất thích vận động cho nên chúng tôi đã vào bài bằng hình thức cho trẻ vận động các bài hát sôi động theo đúng chủ đề và độ tuổi để giúp trẻ hào hứng bước vào hoạt động tiếp theo (Minh chứng 5: Trẻ vận động bài hát “ 5 con vịt” trong hoạt động kể chuyện “Đôi bạn tôt”) Thay đổi hình thức kể chuyện giúp trẻ tập trung và nhớ được nội dụng câu truyện. Chúng tôi đã sử dụng hình thức kể chuyện bằng rối bóng, rối nước, tranh nổi, và cho trẻ đóng vai các nhân vật trong truyện. Nắm được đặc điểm của các cháu ở lứa tuổi nhà trẻ rất thích âu yếm, gần gũi, ưa tình cảm. Cho nên chúng tôi không chỉ ngồi phía trên để kể chuyện mà chúng tôi có thể đến gần bên trẻ để kể. Ví dụ: Trong câu truyện “Thỏ ngoan”chúng tôi ngồi sát bên trẻ, giả giọng bác gấu âu yếm “Thỏ con ngoan quá, bác cảm ơn cháu!” giống như câu nói hằng
  9. 8/15 ngày mà mẹ hay nói khen với con. Tạo cho trẻ cảm giác gần gũi thân thiện, trẻ rất hứng thú, chú ý lắng nghe và ghi nhớ rất lâu. (Minh chứng 6: Cô gần gũi, âu yếm trẻ trong giờ kể truyện “ Thỏ con không vâng lời”) Hay chủ điểm “Bản thân” với câu chuyện “Chiếc ô của thỏ trắng” cho trẻ chơi trò chơi trời tối, trời sáng. Sau đó cô đóng vai thỏ trắng và tạo tình huống và hỏi trẻ: (Minh chứng 7: Giáo viên gây hứng thú trong câu chuyện “Chiếc ô của thỏ trắng”) Đối với trẻ mầm non là “học mà chơi chơi bằng học” nên tạo môi trường cho trẻ trong giờ học một việc làm rất quan trọng. Từ nội dung của các câu chuyện chúng tôi cho trẻ chơi những trò chơi vận động để nhằm thay đổi trạng thái giữa động và tĩnh cho trẻ. Ví dụ : Trong câu chuyện “Thỏ con không vâng lời” trong chủ điểm những con vật đáng yêu thì chúng tôi cho trẻ đội mũ thỏ vào chơi trò chơi “Trời nắng trời mưa” lúc thì chúng tôi cho chơi trò chơi “Con thỏ”, lúc thì chúng tôi cho trẻ bắt trước điệu đi của các nhân vật, vì trong quá trình kể chuyện, cô có thể đưa yêu tố chơi để tạo ra động cơ và hứng thú học tập của trẻ, giúp cho trẻ ghi nhớ chuyện một cách sâu sắc hơn. (Minh chứng 8: Bắt chước điệu bộ của các con vật) Sau khi thực hiện giải pháp trên, chúng tôi thấy trẻ rất hứng thú chăm chú, tập trung tham gia vào hoạt động, trẻ khắc sâu tên câu truyện, tên nhân vật, nội dung câu truyện. 5.3. Giải pháp 3: Gây hứng thú cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi: Ngoài hoạt động có chủ đích, chúng tôi còn tạo mọi cơ hội, mọi thời điểm thích hợp trong chế độ sinh hoạt ngày để kể chuyện cho trẻ nghe. a. Trong giờ đón, trả trẻ. Trẻ ở độ tuổi này rất hiếu động không chịu ngồi yên hay đùa nghịch chạy lung tung, hình thức thu hút trẻ sau khi đón trẻ từ tay cha mẹ. Chúng tôi đã kể cho trẻ nghe những câu chuyện sáng tạo từ đời thường ví dụ như chuyện hôm qua bạn Linh nhặt được dây buộc tóc đẹp mang đến đưa cho cô giáo để trả cho bạn bị mất... + Trong thời gian chuẩn bị trả trẻ. Chúng tôi kể cho trẻ nghe những câu truyện trong chủ đề, cho trẻ đọc bài thơ “ Sắp đến giờ về” để trẻ ngồi ngoan, chờ bố mẹ đến đón. b. Môi trường trong lớp
  10. 9/15 + Trang trí, sắp xếp phòng, lớp các góc chơi đảm bảo thẩm mĩ, thân thiện, an toàn, phù hợp với nội dung giáo dục bằng cách đưa hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số góc trong và ngoài lớp học thể hiện trên các mảng tường. Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong không gian to đã giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu chuyện đó. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện sáng tạo một cách dễ dàng. + Có các đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu đa dạng, phong phú, hấp dẫn trẻ, tạo môi trường ngôn ngữ để trẻ tương tác và phát triển các kỹ năng, đi sâu làm một số đồ dùng trực quan cho trẻ hoạt động. + Chúng tôi bố trí góc văn học gần nơi có nhiều ánh sáng, yên tĩnh, ít người qua lại. Ở đó có thảm, đệm, gấu bông sẽ làm cho góc này trở nên ấm cúng hơn và mời gọi hơn với trẻ. Trẻ có thể theo đuổi các hoạt động xem tranh, ảnh hoặc tự thực hiện các kỹ năng phát triển của trẻ. + Hình thành góc xem tranh hấp dẫn nơi mà có những cuốn sách yêu thích của trẻ luôn có sẵn. Cô chuẩn bị nhiều truyện tranh, sách báo, bày biện một cách khoa học vừa tầm với trẻ để trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ sử dụng. Luôn thay đổi phù hợp theo các chủ đề. Khuyến khích trẻ mang những cuốn sách hay từ nhà đến lớp để cùng chia sẻ, luôn làm cho lớp học tràn ngập sách. Qua cách nghĩ và làm như vậy chúng tôi đã tạo ra một góc văn học với đầy đủ chủng loại về đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, đã giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động (Minh chứng 9: Góc thư viện của bé.) + Trước khi vào giờ ngủ chúng tôi kể cho trẻ nghe một số câu chuyện ngắn để giúp trẻ dễ dàng vào giấc ngủ và trẻ cũng sẽ khắc sâu hơn tên truyện, các nhân vật và nội dung của một số câu truyện. (Minh chứng 10: Cô kể chuyện cho trẻ trước khi ngủ) Cứ như thế, sau nhiều câu chuyện xâu chuỗi lại chúng tôi có bức tranh toàn cảnh khá sinh động về gia đình của bé có ông, bà, bố, mẹ, con vật, đồ vật gần gũi như: Chó, mèo, chim, cây cối... Là nhân vật, đồ vật trong câu chuyện gợi cảm xúc tạo môi trường cho trẻ hoạt động, đồng thời giúp cho trẻ khắc sâu kiến thức, nội dung câu chuyện, giúp trẻ có nhiều hứng thú làm cho hoạt động kể chuyện được tốt hơn c. Môi trường ngoài lớp học Khi trẻ hoạt động quan sát ngoài trời những hình ảnh mà trẻ quan sát được là những hình ảnh thực, sống động trực quan chúng tôi tận dụng luôn và gợi mở hướng trẻ tới các câu chuyện có liên quan tới sự vật, hiện tượng mà trẻ quan sát được. Ví dụ:
  11. 10/15 - Khi quan sát thấy con gà chúng tôi giả giọng gà con hoảng sợ kêu “Chiếp...Chiếp, cứu tôi với! Cứu tôi với” và dẫn dắt trẻ tới câu truyện “ Đôi bạn nhỏ” - Khi dạo chơi ngoài trời trẻ nhìn thấy các “bạn chim” đang bay chúng tôi chỉ và giới thiệu luôn cho trẻ bạn chim trong câu truyện “Cá và chim” đang bay đến rủ các con giang cánh tay giống như đôi cánh giống bạn chim bay đấy. Cô mời các con cùng giang cánh tay bay giống bạn chim nào!” và chúng tôi cho trẻ chơi trò chơi “Chim bay, cò bay” rồi dẫn dắt thu hút trẻ vào câu truyện một cách nhẹ nhàng. (Minh chứng 11: Trẻ hoạt động ngoài trời.) Thông qua việc thay đổi các hình thức này đã thu hút lôi cuốn trẻ vào nội dung của câu chuyện, giúp trẻ tích cực hưởng ứng tham gia vào hoạt động kể chuyện một cách hiệu quả. 4.4 Giải pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động “Kể chuyện” Ngày nay, khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, các nhóm lớp được trang bị đầy đủ các thiết bị như máy tính, máy chiếu, ti vi, loa đài…Thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các tiết dạy là điều tất yếu và mang lại hiệu quả rõ rệt. Là giáo viên mầm non trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ chúng tôi nhận thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp cho giáo viên tự tin hơn trong việc sử dụng thiết bị hiện đại vào giảng dạy, hiểu biết hơn về công nghệ thông tin, phát huy những ý tưởng sáng tạo trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Về phía trẻ kích thích trẻ phát triển tư duy, kĩ năng sống, tạo cho trẻ hứng thú trong quá trình tham gia hoạt động, phát triển toàn diện các lĩnh vực ngôn ngữ; thể chất; nhận thức; tình cảm, kĩ năng xã hội và thẩm mĩ nhằm đạt được các kết quả mong đợi trong mục tiêu giáo dục đề ra. Ví dụ: Với câu chuyện “Vì sao thỏ cụt đuôi” ở lần kể 1 chúng tôi kể diễn cảm trên nền nhạc nhẹ không lời, ở phần kể chuyện kết hợp với hình ảnh minh họa tôi sử dụng phần mềm PowrPoint để thiết kế các nhân vật theo hướng mở có thể chuyển động việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết học như vậy sẽ tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, trẻ chú ý nghe cô kể chuyện. Qua các tiết dạy chúng tôi nhận thấy trẻ rất hứng thú, chăm chú lắng nghe cô kể chuyện và theo dõi từng cử chỉ, hành động của các nhân vật trong truyện. Đặc biệt là những hình ảnh nhân vật nghộ nghĩnh, sống động mỗi khi xuất hiện đã thu hút trẻ tích cực tham gia vào hoạt động có hiệu quả. Hầu hết trẻ nhớ được nội dung câu chuyện và dễ tiếp thu hơn so với phương pháp dạy học truyền thống là: giáo viên tự vẽ tranh
  12. 11/15 truyện để dạy trẻ, các nhân vật trong truyện tĩnh; tiết dạy cứ lặp đi, lặp lại như vậy khiến trẻ rất nhàm chán dẫn đến tiết học không đạt hiệu quả cao. Khi ứng dụng công nghệ thông tin thì việc tìm kiếm các hình ảnh trên mạng để ghép tranh là việc làm rất dễ thực hiện, giúp chúng tôi sưu tầm tranh ảnh được phong phú, không bị lệ thuộc và việc tìm kiếm cũng rất nhanh, tiết kiệm được thời gian chi phí...Và khi trẻ được cảm thụ tác phẩm trên nền nhạc không lời sẽ giúp cho trẻ thích thú, nội dung câu chuyện dễ dàng được truyền tải đến trẻ qua đó trẻ được bày tỏ được thái độ của mình đối với các nhân vật trong truyện thông qua lời nói. Từ đó, chúng tôi có thể định hướng giáo dục trẻ theo nội dung truyện, vì vậy, kết quả đem lại rất cao, mặt khác các trò chơi sử dụng hình ảnh đẹp có sự chuyển động, có âm thanh phát ra sẽ khơi gợi sự hứng thú, phát huy được tính tích cực chủ động của trẻ, từ đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, tư duy, trí tưởng tượng sáng tạo. (Minh chứng 12: Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kể chuyện) 5.5. Giải pháp 5: Phối hợp với phụ huynh để nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với hoạt động kể chuyện. - Như chúng ta đã biết, trẻ giai đoạn nhà trẻ nói riêng và trẻ mầm non nói chung đang trong thời kì phát triển nhân cách, có lẽ vậy mà sự tác động xung quanh trẻ sẽ là nhân tố không nhỏ tác động đến tâm tư của trẻ. Kết hợp với phụ huynh ngoài việc nắm bắt đặc điểm tâm sinh lí của trẻ còn có tác dụng hướng cho phụ huynh củng cố lại kiến thức cho trẻ. - Ngay từ đầu năm học, khi tổ chức họp phụ huynh, chúng tôi đã xây dựng kế hoạch, cùng bàn bạc, thảo luận với phụ huynh thống nhất với phụ huynh tạo nhóm Zalo của lớp để có biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ. Trong giờ đón, trả trẻ tôi thường gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của trẻ trên lớp để phụ huynh cùng có biện pháp rèn ngôn ngữ cho trẻ, phải thường xuyên đặt câu hỏi, kích thích trẻ trả lời đúng, đầy đủ câu. Và đặc biệt là trong các đợt Hội giảng, chuyên đề chúng tôi cũng đã mới phụ huynh cùng tham dự để nắm bắt được hình thức, cũng như là cách đặt câu hỏi cho các con một cách hợp lý. Câu hỏi của trẻ đặt ra không nên trả lời qua quýt cho xong, đặc biệt chú ý đến trẻ nói ngọng, nói lắp, nói ngược câu, nói câu thiếu thành phần. Chúng tôi đề nghị phụ huynh về nhà rèn, sửa, quan tâm đến các cháu nhiều hơn và giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là môi trường giáo dục tốt nhất, giúp trẻ tập nói đúng, nói rõ ràng, mạch lạc, đủ câu, đủ ý. Ví dụ: Cô kể cho trẻ nghe câu chuyện “Thỏ con không vâng lời” chúng tôi có thể cung cấp cho cha mẹ trẻ nội dung câu chuyện, sau đó nhờ cha mẹ về nhà kể lại câu chuyện cho trẻ nghe. Đồng thời trong giờ kể chuyện chúng tôi luôn chú ý đến cách trả lời có đủ câu, đủ từ để phối hợp với cha mẹ, trẻ tiếp tục
  13. 12/15 rèn và uốn nắn để trẻ nói đúng tiếng mẹ đẻ, nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất. (Minh chứng 13: Giáo viên và phụ huynh trao đổi trong giờ đón trả trẻ) - Ngoài ra chúng tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ, quyển truyện có hình ảnh rõ nét, những băng đĩa có nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho trẻ làm quen và xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp. Hơn nữa chúng tôi còn nhờ các bậc phụ huynh sưu tầm những hộp xốp, vải len sợi, đồ dùng chai lọ nhựa phế thải cọ sạch sẽ, mang đến lớp để chúng tôi làm đồ dùng dạy học và đồ chơi cho trẻ. Từ đó giúp phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của hoạt động kể chuyện là rất cần thiết đối với sự phát triển vốn từ cho trẻ. * Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp - Khi tổ chức hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe, chúng tôi đã linh hoạt lựa chọn những câu chuyện phù hợp với chủ đề, phù hợp với độ tuổi và khả năng nhận thức của trẻ. Chúng tôi đã biết điều chỉnh kế hoạch sau mỗi hoạt động kể chuyện kịp thời, lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức sáng tạo để thu hút trẻ tham gia vào hoạt động kể chuyện và giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu tự tin trong giao tiếp, hình thành những phẩm chất đạo đức, những thói quen, hành vi văn minh cho trẻ. Là tiền đề trong các giai đoạn tiếp theo. - Với đồ dùng đồ chơi trực quan: sân khấu, mô hình, những nhân vật do cô thiết kế và mặc trẻ đóng vai nhân vật và rối tay, rối dẹt, rối bóng, cây hoa, cây cảnh... có nhiều màu sắc khác nhau, phù hợp, sáng tạo, hiệu quả kinh tế, phù hợp với thực tiễn, an toàn và dễ sử dụng. Đã thu hút được trẻ tích cực tham gia vào giờ kể chuyện của cô. - Về sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin: Chúng tôi đã sử dụng phần mềm PowrPoint để thiết kế nội dung các câu chuyện bằng việc lựa chọn hình ảnh các nhân vật trong từng câu chuyện kết hợp âm thanh, tiếng động để tạo hứng thú cho trẻ tham gia vào các giờ kể chuyện. PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết quả thực hiện * Đối với bản thân: + Qua những năm đầu tư nghiên cứu, tích lũy kinh nghiệm bản thân chúng tôi đã nắm vững phương pháp, điều hành tiết học sinh động, hấp dẫn, luôn tạo ra cái mới trong tiết dạy. Với những kinh nghiệm trên chúng tôi đã nắm chắc được các phương pháp khi hướng dẫn cho trẻ làm quen với hoạt động kể
  14. 13/15 chuyện tùy với từng đề tài, từng chủ đề cũng như các nội dung và yêu cầu của môn học đề ra. + Sáng tạo trong việc làm đồ dùng, học liệu cho trẻ học môn kể chuyện. + Chúng tôi thấy mình đã nâng cao được phong cách nghệ thuật lên lớp, giọng kể được trau dồi diễn cảm, thu hút trẻ hứng thú tham gia vào tiết học. + Bản thân chúng tôi cũng đã linh hoạt khi tổ chức hoạt động kể chuyện, biết điều chỉnh kế hoạch sau mỗi hoạt động kể chuyện kịp thời, để rèn phát triển ngôn ngữ cho trẻ, làm phong phú đồ dùng đồ chơi cho lĩnh vực phát triển ngôn ngữ. + Đã phối kết hợp với phụ huynh để thu hút trẻ tham gia vào hoạt động kể chuyện. * Đối với trẻ: Trong thời gian thực hiện những giải pháp trên, chúng tôi thấy rằng trẻ rất hứng thú tham gia vào các hoạt động kể chuyện nên kết quả đạt được khá cao. Trẻ lĩnh hội được các kiến thức, kỹ năng giao tiếp, biết nói đủ câu khắc phục được đáng kể tình trạng nói ngọng, nói lắp ở trẻ, làm cho trẻ có khả năng diễn đạt mạch lạc và kể được một số câu chuyện đơn giản qua tranh.. Cũng qua kể chuyện mà nhân cách của trẻ được phát triển, trẻ biết yêu quý cái hay, cái đẹp, biết trân trọng đức tính tốt thông qua các nhân vật chính diện làm phát triển đời sống tình cảm cho trẻ, giúp trẻ ngoan ngoãn biết vâng lời hơn. Qua việc thực hiện những giải pháp trên được sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu nhà trường và các đồng nghiệp, qua thực tế chúng tôi giảng dạy trẻ trên lớp chúng tôi đã đạt được một số kết quả trong quá trình thực hiện “Một số giải pháp gây hứng thu thu hút trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia vào hoạt động kể chuyện’’cho trẻ như sau: (Minh chứng 14: Bảng khảo sát kết quả cuối năm của trẻ sau khi áp dụng sáng kiến) 2. Kết luận Xây dựng kế hoạch và tạo một môi trường cho trẻ hoạt động làm quen văn học phong phú và hấp dẫn. Chuẩn bị giáo án, đồ dùng đẹp, sinh động để thu hút trẻ. Lựa chọn những tiết học hay, những câu chuyện, bài thơ hấp dẫn, gần gũi, hình ảnh hấp dẫn, nội dung dễ hiểu cho trẻ để trẻ dễ dàng tiếp thu và hứng thú hơn. Biết sáng tạo đồ dùng trực quan sinh động, có tính giáo dục cao phối hợp với các tiết dạy khác nhau.
  15. 14/15 Lồng ghép tích hợp nội dung vào bài dạy sao cho phù hợp khi dạy luôn lấy trẻ làm trung tâm. Phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ. Dạy cho trẻ mọi lúc, mọi nơi và lưu ý đến từng cá nhân trẻ. Thường xuyên trau dồi học hỏi, nâng cao kiến thức, rèn luyện nâng cao kiến thức, rèn luyện kỹ năng cho trẻ khám phá khoa học. Lắng nghe ý kiến góp ý của đồng nghiệp để nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Rút kinh nghiệm sau mỗi đợt thi đua, tìm biện pháp khắc phục những tồn tại để dạy trẻ ngày một tốt hơn. 3. Khuyến nghị: Tôi rất mong phòng giáo dục, nhà trường nên thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên thăm quan học tập các trường bạn. Tổ chức các chuyên đề đổi mới hoạt động lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho giáo viên có điều kiện học tập trao đổi kiến thức. Trên đây là: “Một số giải pháp gây hứng thu thu hút trẻ 24-36 tháng tuổi tham gia vào hoạt động kể chuyện”. Tôi kính mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và giáo viên đồng nghiệp để tôi có thêm nhiều biện pháp tích cực, nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục trong năm tiếp theo. Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Xin chân thành cảm ơn! Ba vì, ngày 10 tháng 03 năm 2023 Người Viết Nguyễn Thị Hiền
  16. TÀI LIỆU THAM KHẢO STT TÊN TÀI LIỆU NHÀ XUẤT BẢN 1 Tuyển tập trò chơi, bài hát, thơ truyện, câu Nhà xuất bản Giáo Dục đố theo chủ đề (trẻ 24-36 tháng) 2 Chương trình giáo dục Mầm non mới Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam 3 Hướng dẫn xây dựng kế hoạch giáo dục Nhà xuất bản Giáo Dục trong các cơ sở giáo dục mầm non Việt Nam 4 Tâm lý học trẻ em lứa tuổi Mầm non Nhà xuất bản đại học sư phạm Hà Nội 5 Hướng dẫn tổ chức thực hiện các hoạt động Nhà xuất bản giáo dục giáo dục trong trường mầm non theo chủ đề Việt Nam ( trẻ 24-36 tháng) 6 Tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho Nhà xuất bản đại học sư trẻ mầm non theo hướng tích hợp phạm Hà Nội 7 Giáo án thực hiện chương trình giáo dục Nhà xuất bản Hà Nội mầm non trẻ 24-36 tháng
  17. MINH CHỨNG Kết quả khảo sát Tổng Đạt Không đạt TT Nội dung số trẻ Số Tỉ lệ Số trẻ Tỉ lệ trẻ % % Nghe hiểu nội dung truyện ngắn, đơn giản: trả lời các câu hỏi về tên 1 15 9 60% 6 40% truyện, tên và hành động của các nhân vật. Trẻ nghe hiểu nội dung truyện kể, 2 15 8 53,3 7 46,7 chuyện đọc phù hợp với độ tuổi. Trẻ kể lại chuyện ngắn đơn giản đã 3 được nghe với sự giúp đỡ của cô 15 6 40% 9 60% giáo. Trả lời các câu hỏi: “Ai?”; “Cái gì 4 15 9 60% 6 40% đây?”; “…làm gì?”; “…thế nào?” Minh chứng 1: Bảng khảo sát thực trạng đầu năm của trẻ Minh chứng 2: Câu chuyện cây táo nhân vật rời và nổi
  18. Minh chứng 3: Sa bàn ô câu chuyện “gà vịt giúp nhau” Minh chứng 4: Cô đóng vai gà con bằng trang phục
  19. Minh chứng 5: Trẻ vận động bài hát “ 5 con vịt” trong hoạt động kể chuyện “Đôi bạn tốt” Minh chứng 6: Cô gần gũi, âu yếm trẻ trong giờ kể truyện “ Thỏ con không vâng lời”.
  20. Minh chứng 7: Giáo viên gây hứng thú trong câu chuyện “Chiếc ô của thỏ trắng”
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0