intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi

Chia sẻ: Võ Hường | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

502
lượt xem
93
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với mục đích phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ,trình bày của trẻ lô gíc, có trình tự, có hình ảnh nội dung phong phú. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung sáng kiến kinh nghiệm "Một số phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi" dưới đây để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi

  1. “MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO Trẻ 24­36 THÁNG TUổi ” I. PHẦN MỞ ĐẦU Như  Thủ  tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề  dạy học là nghề  cao   quý nhất trong các nghề  cao quý. Nghề  dạy học là nghề  sáng tạo nhất trong  các nghề sáng tạo”. Tôi rất tự hào mình là một  nhà  giáo nhất lại là một giáo   viên trong bậc học mầm non. Một bậc học đầu tiên trong hệ  thống giáo dục  và là người đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách, nhận thức của trẻ sau   này. Chính vì vậy, tôi nhận thức rằng nhiệm vụ của người giáo viên cho trẻ ở  tuổi mầm non là rất quan trọng. 1. Lý do chon đề tài : Thể loại thơ trong bộ môn văn học là phương tiện hữu hiệu đẻ trẻ phát triển   ngôn ngữ, cung cấp ngôn ngữ, cách diễn đạt lưu loát, biểu cảm, như dân gian  thường nói : “ Trẻ lên 3 cả nhà tập nói ” ở độ tuổi nhà trẻ 24 ­ 36 tháng tuổi   việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  là rất quan trọng. Vì  ở  độ  tuổi này trẻ  rất   thích giao tiếp với mọi người xung quanh nhưng khả  năng diễn đạt chưa  được tốt, mạch lạc, vốn biểu tượng về cuộc sống chưa được nhiều. Nguyên   nhân của việc này là do trẻ chưa được tiếp xúc nhiều nên việc giáo viên phải  là người gần gũi giúp trẻ  tiếp xúc với tự nhiên, với người lớn qua việc giao   tiếp, ngôn ngữ  làm quen với đồ  vật, giúp trẻ  phát triển trí tuệ  và thỏa mãn  nhu cầu giao tiếp. Để  đáp  ứng được nhu cầu này trẻ  phải tích cực học tập  không những thế vai trò phát triển ngôn ngữ còn hết sức quan trọng trong việc  hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở  độ  tuổi này giúp cho con người thoải mái, vui tươi, qua việc trao đổi tâm sự  tình cảm của mình, bộc lộ  những cảm xúc của mình với người lớn với thế  giới tự nhiện làm phong phú thêm tâm hồn và xác lập được mối quan hệ giữa   con người với con người và con người với tự  nhiên. Vì vậy việc phát triển  1
  2. ngôn ngữ  cho trẻ   ở  độ  tuổi 24 đến 36 tháng tuổi có chức năng nhận thức   trong giao tiếp thực tế. Qua phát triển ngôn ngữ giúp cho trẻ trao đổi gợi mở  xung quanh các yếu tố nghệ thuật của con người qua những hành vi giao tiếp,   ứng xử  giúp cho trẻ  biết kính trên nhường dưới, biết cư  xử  với mọi người  xung quanh. ­Qua việc dạy trẻ  phát triển ngôn ngữ  giúp trẻ  giáo dục và phát triển  những phẩm chất đạo đức tốt đẹp và phát triển tư duy trí tuệ  một cách hoàn  thiện để  trẻ  có thể  bày tỏ  được những cảm xúc của mình với người xung   quanh mình với những từ ngữ hay, trong sáng. Những từ ngữ đó là tiền đề cho   sự  hình thành nhân cách cho trẻ  sau này, đồng thời qua đó trẻ  mở  rộng được  hiểu biết của mình và phát triển trí tuệ chính xác hóa diễn đạt chính. Vai trò phát triển ngôn ngữ  cho trẻ   ở  trường mầm non nói chung và trẻ  24  đến 36 tháng tuổi nói riêng. Thông qua việc phát triển ngôn ngữ  là một vấn  đề  hết sức quan trọng và cần thiết để  phát triển tư  duy và trí tuệ  một cách   hoàn thiện hơn, trẻ thể hiện ra được những vẻ đẹp trong cuộc sống sinh hoạt   hàng ngày, trong giao tiếp là nền móng vững chắc cho sự phát triển trí tuệ, óc   sáng tạo sau này. 2. Mục đích nghiên cứu : ­Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn   ngữ,trình bày của trẻ lô gíc, có trình tự, có hình ảnh nội dung phong phú 3.Thơi gian địa điểm : ­ Thời gian nghiên cứu : Năm học 2013­ 2014 ­Xây dựng đề cương tháng 9/2013 ­Hoàn thành đề tài 18 /03/2014 ­ Địa điểm nghiên cứu lớp nhà trẻ Phúc Đa, Trường mầm non Tân Việt 4. Đóng góp về mặt thực tiễn: Trường mầm non Tân Việt là trường thuộc địa bàn miền núi của huyện Đông  Triều, trình độ nhận thức và phát triển của trẻ còn hạn chế, do phần lớn cha   2
  3. mẹ các cháu làm nông nghiệp ít có thời gian trò chuyện chăm sóc các cháu. Vì  thế trình độ phát triển nhận thức của trẻ chưa đạt được so với chương trình   chăm sóc giáo dục trẻ từ 24 ­ 36 tháng tuổi đề ra. Cho nên để  đạt được những kết quả  như  mong mốn người giáo viên  dạy  ở  độ  tuổi này phải hết sức kiên trì khéo léo. Cộng với sự  dịu dàng của  mỗi người mẹ, kỹ năng sư phạm của mỗi người giáo viên có thể giúp trẻ lĩnh  hội được những kiến thức do chương trình đề  ra, giúp trẻ  sống hòa bình với   môi trường tập thể . Ở  lứa tuổi này, mọi nhận thức, hành động của trẻ  đều được qua trực  quan hành động. Vì vậy cần phải cho trẻ  quan sát tiếp xúc với những nhân  vật, mô hình, tranh ảnh...Song ở địa phương tôi dạy hoàn cảnh xã hội của địa  phương thuộc địa bàn miền núi nên còn gặp nhiều khó khăn, đồ  dùng còn sơ  sài. Do đó, để  chuẩn bị  cho tiết học đạt kết quả  tốt tôi luôn tìm tòi nghiên  cứu, tận dụng những nguyên liệu sẵn có của địa phương để  làm đồ  dùng  tranh ảnh minh họa, đồ chơi đẹp có thẩm mỹ, có tính giáo dục cao để cho các  cháu được tiếp xúc. Qua đó gây hứng thú cho trẻ khi học môn này 3
  4.                                          II: PHẦN NỘI DUNG : 1.Chương 1 : Tổng quan 1.1. Cơ sở lý luận:  ­Ngôn ngữ đóng vai trò hết sức quan trọng, ngôn ngữ là phương tiện để giao   tiếp của con người. Chính vì vậy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 đến 36 tháng  tuổi nói chung và rèn luyện khả năng diễn đạt mạch lạc, biểu cảm qua việc  dạy trẻ  là rất cần thiết và quan trọng. Ngôn ngữ  phát triển thì trẻ  mới thấy  hết được vẻ đẹp đa dạng của cuộc sống và thế giới xung quanh, hơn thế nữa   nó góp phần hoàn thiện ngôn ngữ  cho trẻ  tạo nền tảng vững chắc cho hoạt   động nhận thức sau này. 1.2 Cơ sở thực tiễn: ­  Ở trường mầm non Tân Việt rất quan tâm đến vấn đề  phát trển ngôn ngữ  để trẻ phát triển trí tuệ cho trẻ  ở độ  tuổi 24 đến 36 tháng tuổi là vấn đề  hết  sức cấp bách qua việc giao tiếp, cư  xử  hành động của những người xung  quanh trẻ, giúp trẻ nhận biết một cách dễ  dàng hơn. Bởi vì khi trẻ  được thể  hiện, tiếp xúc với người lớn qua đối thoại giúp trẻ  mở  rộng hiểu biết về  ngôn ngữ giúp trẻ có khả năng diễn đạt rõ ràng, mạch lạc hơn. Trẻ đi sâu vào   bản chất, tính cách của người lớn xung quanh, giúp trẻ  nhận ra được mối   quan hệ làm giàu thêm vốn hiểu biết cho trẻ, từ đó giúp trẻ cảm thụ được sự  giàu có phong phú về thế giới xung quanh, lĩnh hội được tri thức văn học. Tất  cả những điều đó đã tạo tiền đề cho sự phát triển trí tuệ để trẻ trở thành con   người, giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt.    ­ Qua việc sử dụng phương pháp phát triển ngôn ngữ giúp trẻ phát triển từ  ngữ nhanh chóng, trẻ đạt hiệu quả cao trong quá trình chăm sóc và giáo dục.      ­ Qua quá trình được học tập trong trường và quá trình công tác tôi nhận   thấy trẻ ở độ tuổi 24 đến 36 tháng tuổi qua một số phương pháp dạy trẻ phát  triển ngôn ngữ  còn nhiều hạn chế, một số  cháu chưa mạnh dạn trước chỗ  đông người, một số cháu còn nói ngọng nhiều. Vì thế trẻ chưa thể hiện được  4
  5. khả  năng của mình chưa được trôi chảy. Trên cơ  sở  đó là người giáo viên   mầm non tôi nhận thấy rằng, việc cho trẻ làm quen với văn học qua việc phát  triển ngôn ngữ  cho trẻ   ở  độ  tuổi 24 đến 36 tháng tuổi là việc hết sức cần  thiết. 2. Chương 2 : Nội dung vấn đề nghiên cứu: 2.1.Thực trạng : ­ Khảo sát ( Thống kê) Lớp được phân chia theo đúng độ tuổi quy định ­ Trẻ đi học chuyên cần  ­ Đồ  dùng phục vụ  cho việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  phong phú về  hình  ảnh, mầu sắc hấp dẫn ( tranh ảnh, vật thật ,..) ­ Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường. ­ Giáo viên nắm vững phương pháp dạy của bộ môn, được bồi dưỡng thường  xuyên và tham gia học tập tại các lớp chuyên đề do sở, huyện tổ chức. ­ Giáo viên nhiệt tình, sáng tạo làm đồ  dùng phục vụ  cho việc cung cấp và   phát triển ngôn ngữ cho trẻ. ­ Trình độ của giáo viên đều trên chuẩn. ­ Trường mầm non Tân Việt là một trường có nhiều điểm lẻ  nằm rải rác,  không tập trung, lớp học do tôi chủ  nhiệm có 3 độ  tuổi 24­ 36 tháng tuổi   không đồng đều. Chủ  yếu trẻ  là con em nông thôn, trẻ  đi học và bán trú tại   trường là 100%, sự quan tâm của bố mẹ tới trẻ còn ít mà đặc biệt là phó mặc  cho giáo viên chăm sóc trẻ. Các cháu ít được sự  phối hợp chăm sóc giữa gia   đình và nhà trường dẫn đến việc phát triển kỹ năng diễn đạt cho trẻ  cũng bị  hạn chế.  ­ Qua khảo sát tôi có thể  nắm rõ những mặt  ưu điểm và hạn chế  của trẻ.   Bên cạnh đó khảo sát trẻ trên lớp khiến tôi và học sinh của mình có thể hiểu   nhau hơn. Khảo sát đầu năm : 5
  6. Nội dung          Số trẻ           Đạt Chưa đạt Ngôn ngữ  của  10 cháu 5 cháu 5 cháu trẻ ­Đánh giá( phân tích) : giáo viên phải nắm vững đặc điểm phát triển ngôn  ngữ của trẻ nhà trẻ . ­Muốn phát triển ngôn ngữ  cho trẻ, theo tôi điều đầu tiên chúng ta phải  hiểu được phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  là gì ? Phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  là  giúp trẻ  nắm vững được nhiều từ, hiểu ý nghĩa của từ  và biết sử  dụng từ  trong các tình huống giao tiếp. Để làm được như vây tôi phải dựa trên các cơ  sở lý luận sau :      ­  Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ nhà trẻ :           Ngôn ngữ của trẻ tăng nhanh . Số lượng từ  chủ động của trẻ từ 500 ­   600 từ. Trong ngôn ngữ của trẻ có tất cả các loại từ đơn, từ ghép . ở trẻ có cả  từ ghép có 3 ­ 4 tiếng bên cạnh đó trẻ có nhu cầu giao tiếp với mọi người, trẻ  thích tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống xung quanh, những từ các  cháu được sử  dụng hầu hết là những từ  chỉ  tên gọi, những gì gần gũi xung  quanh mà hàng ngày trẻ  tiếp xúc. Ngoài ra, trẻ  cũng nói được một số  từ  chỉ  hành động, chỉ  những công việc của bản thân và mọi người xung quanh, chỉ  hành động của những con vật mà trẻ biết .         Ví dụ :                      Máy bay   ­     Máy bay bay.                         Tầu hoả    ­     Tầu hoả chạy                         Con cá       ­     Con cá bơi                        Bố cháu     ­     Bố cháu đi làm.           Tôi nhận thấy ngôn ngữ của trẻ tuy phát triển nhưng còn hạn chế, bộ  máy phát âm của trẻ  đang hoàn thiện dần nên khi trẻ  nói, trẻ  hay nói chậm,   hay kéo dài giọng, đôi khi còn ậm , ừ, ê , a , không mạch lạc. Để giúp trẻ phát   6
  7. triển ngôn ngữ , tôi thấy người giáo viên cần phải nắm vững đặc điểm ngôn  ngữ của trẻ . Mặt khác cô giáo phải nói , rõ ràng, rành mạch .  * Cơ sở tâm lý :           Tư duy của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là tư duy trực quan. Thời kỳ này, khả  năng tri giác về các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện . Trẻ hay bắt   chước những cử chỉ, và lời nói của người khác, do vậy ngôn ngữ của cô giáo  phải trong sáng và chính xác để trẻ nói theo. *  Cơ sở giáo dục :           Ngôn ngữ của trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua giao tiếp với   con người và sự vật hiện tượng xung quanh            Để thực hiện điều đó phải thông qua nhiều phương tiện khác nhau như  qua các giờ học, các trò chơi, dạo chơi ngoài trời và sinh hoạt hàng ngày, rèn  luyện và phát triển ngôn ngữ  cho trẻ, tập cho trẻ biết nghe, hiểu và phát âm   chính xác các âm của tiếng mẹ đẻ, hướng dẫn trẻ biết cách diễn đạt ý muốn  của mình cho người khác hiểu. Vì vậy khi cho trẻ  tiếp xúc với các sự  vật  hiện tượng thì phải cho trẻ  biết gọi tên, đặc điểm của đối tượng, không  những thế, giáo viên dạy trẻ  biết nói câu đầy đủ, rõ nghĩa, dạy trẻ  phát âm   đúng các âm chuẩn của Tiếng việt, đảm bảo các nguyên tắc của giáo dục học   tính khoa học, tính hệ thống, tính vừa sức, tính tiếp thu.           ­ Dựa vào những cơ sở lý luận trên, đối chiếu với tình hình thực tế, tôi  nhận thấy sự chênh lệch về ngôn ngữ của trẻ ở cùng một độ tuổi trong lớp là   khá lớn.Qua quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy ngôn ngữ  của trẻ  không phụ  thuộc vào điều kiện vật chất, kinh tế của gia đình mà trước hết liên quan rất  nhiều đến thời gian trò chuyện với trẻ  hay không ? Cô và cha mẹ  có lắng   nghe bé kể  chuyện về  sinh hoạt và bạn bè hay không ? Cô có thường xuyên   kể chuyện cho bé nghe và hướng dẫn bé kể lại không ? Ngày nghỉ, bố mẹ có   đưa con đi chơi công viên hay  đi thăm họ  hàng hay không ?.... Tất cả những  7
  8. điều đó không chỉ làm tăng số lượng ngôn ngữ của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của  từ, cách dùng từ của trẻ mà còn làm phong phú hiểu biết và xúc cảm của trẻ. ­Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên tôi đã mạnh dạn áp dụng   một số  biện pháp phát triển ngôn ngữ  cho trẻ   ở  lớp thông qua một số  hoạt   động sau : c. Qua giờ học :           Phát triển ngôn ngữ  cho trẻ ở trường Mầm non là công tác giáo dục có  kế  hoạch, có mục đích, có tổ  chức và phải mang tính hệ  thống nhằm phát   triển ngôn ngữ  cho trẻ  như  một phương  tiện giao tiếp quan trọng vì thế  chúng ta phải dạy cho trẻ   ở  mọi lúc mọi nơi, trên những tiết học cụ  thể,   trong đó phát triển ngôn ngữ, ngôn ngữ phải được đặt lên vị trí hàng đầu. *  Thông qua giờ nhận biết tập nói :         Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung   cấp từ vựng cho trẻ .        Trẻ lứa tuổi 24 ­36 tháng tuổi đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa  hoàn chỉnh, vì vậy trẻ  thường nói một từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong  tiết học cô phải chuẩn bị  đồ  dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để  gây hứng thú   cho trẻ  Bên cạnh đó cô cũng phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng,  ngắn ngọn, trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không   nói câu cụt lủn hoặc cộc lốc.          Ví dụ :   Trong bài Nhận biết quả dứa, quả cam, quả đu đủ”, cô  muốn cung cấp từ “ mắt dứa ” cho trẻ.    Cô phải chuẩn bị  đầy đủ  các loại quả  thật, để  trẻ  sử  dụng các giác   quan : sờ, nhìn, nếm, ngửi, nhằm phát huy được tính tích cực của tư duy, rèn  khả năng ghi nhớ có chủ đích, 8
  9.          Để  giúp trẻ  hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát, cô cần đưa ra   một hệ thống câu hỏi :     ­  Đây là quả gì ? ( Đây là quả dứa ạ ! )     ­  Qủa dứa có mầu gì ( Mầu vàng  )     ­  Đây là cái gì của quả dứa ? ( Vỏ dứa )     ­ Vỏ dứa như thế nào ? ( Vỏ dứa có mắt ạ ! )      ­ Như  vậy nhờ  có sự  giao tiếp giữa cô và trẻ   đã giúp trẻ  phát huy được   tính tích cực của tư  duy, rèn khả  năng ghi nhớ, phát triển năng lực quan sát,  phát triển các giác quan, kích thích lòng ham hiểu biết tìm tòi khám phá về  những điều bí ẩn của các sự  vật xung quanh. Qua đó củng cố, mở  rộng vốn   hiểu biết, làm giầu ngôn ngữ cho trẻ. * Qua giờ thơ, truỵên.         Trên tiết học khi cho trẻ  làm quen với tác phẩm văn học là phát triển  ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc  mà muốn làm được như  vậy trẻ  phải có ngôn ngữ  phong phú hay nói cách  khác là trẻ cũng học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện .         Khi tiếp xúc với bài thơ, câu chuyện là trẻ đã được tri giác các bức tranh   có hình ảnh và từ ngữ mới tương ứng với nội dung bức tranh.        Ví dụ  1 : Trẻ nghe câu truyện “ Bác gấu đen và hai chú thỏ  ” Cô muốn   cung cấp cho trẻ từ “ ướt lướt thướt” Cô có thể cho trẻ xem tranh, mô hình, và giải thích từ “ ướt lướt thướt”  Bên cạnh đó cô cũng chuẩn bị  một số  hệ  thống câu hỏi giúp trẻ  nhớ  được nội dung truyện và từ vừa học : Bác gấu đen trong câu truyện cô vừa kể đi đâu ? ( Đi chơi rừng)  Khi gặp trời mưa, bác gấu đã bị làm sao ? ( Ướt lướt thướt )   Cô kể  lần 1 ­2 giúp trẻ  hiểu tác phẩm và đặt tiếp   hệ  thống câu hỏi  hướng vào việc hiểu biết các hành động của nhân vật để  trẻ  hiểu việc nào  nên làm, việc nào không lên làm . 9
  10.    Qua câu truyện, con yêu quý ai ?  ( Bác gấu đen, bạn thỏ trắng )  ( Vì bạn thỏ trắng, và bác gấu đen là những người tốt bụng )       Ví dụ 2 : Qua bài thơ “ Cây bắp cải ” cô muốn cung cấp cho trẻ từ “ Sắp  vòng quanh ”  `Cô có thể cho trẻ quan sát vật thật. cho trẻ được xem , được sờ, ... các   lá bắp cải sắp vòng quanh như  thế  nào ? Cô vừa giải thích vừa chỉ  cho trẻ  xem và cho trẻ cùng làm động tác mô phỏng các lá cải được xếp vòng quanh  với nhau tạo thành cây bắp cải xanh. Bên cạnh đó cô cũng chuẩn bị  một hệ  thống câu hỏi   Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì ? ( Cây bắp cải ) Cây bắp cải trong bài thơ  được tác giả  miêu tả  đẹp như  thế  nào ?  ( Xanh man mát, ..)    Lá bắp cải trong bài thơ  đựơc tác giả  miêu tả  như  thế  nào ? ( Sắp   vòng quanh)    Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của  trẻ mà còn dạy trẻ thể hiện và mô phỏng những động tác tương ứng với nhân   vật trong bài thơ, câu truyện. Khi trẻ đã biết kể  lại truyện cùng với cô điều  đó chứng tỏ  trẻ  đã biết ghi nhớ  cốt truyện và biết sử  dụng ngôn ngữ  nói là  phương tiện, lĩnh hội kinh nghiệm tiếp thu kiến thức, biết sử dụng nhiều từ  mới thể hiện sự tương ứng với nội dung câu truyện đó. *  Qua  giờ chơi          Đây có thể coi là một trong những hình thức quan trọng nhất. Bởi giờ  chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển ngôn ngữ, đặc biệt là tích cực   hoá ngôn ngữ  cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ  chiếm nhiều nhất trong th ời   gian trẻ   ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong quá trình  chơi trẻ được sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các  từ có nội dung rất khác nhau .        Ví dụ : Trò chơi bế em                     Búp bê của bạn ăn chưa ? ( Rồi ạ ! ) 10
  11.                    Bạn đã cho búp bê ăn lúc nào vậy ? ( Vừa ăn xong) Điều đó cho thấy giờ chơi không chỉ dạy trẻ kỹ năng chơi mà còn dạy   trẻ nghe, hiểu, giao tiếp cùng nhau Trong quá trình chơi, trẻ  được thực hiện nhiều hành động khác nhau  với đồ chơi như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và phát triển lời  nói cho trẻ.       Ví dụ : Tài ơi! Con đang xếp gì đấy ? ( Con xếp đoàn tầu )  Con xếp đoàn tầu bằng những hình gì ? (Hình vuông, hình chữ  nhật.   hình tròn ạ ! )  Như vậy trò chơi sáng tạo cũng góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ.  Trong quá trình chơi trẻ  bắt buộc phải giao tiếp với nhau do vậy ngôn ngữ  của trẻ được phát triển ngày một phong phú.  Ví dụ : Trò chơi bế em, cô nhập vai làm mẹ cho búp bê bú, cho búp bê   ăn, búp bê ngủ trẻ sẽ bắt trước những lời cô nói như :      “ Con của mẹ ngoan quá ! ” Biết hát ru “ à ơi” cho em bé ngủ Ngoài trò chơi, phản ánh sinh hoạt, trong giờ  chơi, cô tổ  chức cho trẻ  chơi   những trò chơi học tập nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.  Trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật :                         Cô nói                                   Trẻ kêu                         Con mèo                                   Meo meo                         Con vịt                                      Cạp cạp                          Con chó                                     Gâu gâu Trò chơi đoán đặc điểm của các con vật :                             Cô nói                                          Trẻ nói                             Con gà mái                                Có hai chân                         Con chó                                       Có bốn chân 11
  12. Trong quá trình chơi trẻ  được thực hiện nhiều lần, nhiều hành động  khác nhau, như  vậy trẻ  phải sử  dụng ngôn ngữ  để  tìm tòi, khám phá cách  chơi, luật chơi. Cô giáo có vai trò quan trọng thúc đẩy, kích thích trẻ sử dụng ngôn ngữ  và phát triển lời nói mạch lạc, đúng ngữ pháp của trẻ.        *  Qua giờ âm nhạc . Các   tiết   học   âm   nhạc   trẻ   được   tiếp   xúc   nhiều   với   nhiều   đồ   vật  ( Trống, lắc, phách tre, và nhiều chất liệu ) trẻ được học những giai điệu vui  tươi kết hợp với các loại hoạt động ( vận động ) theo bài hát một cách nhịp  nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức, ngôn ngữ, kỹ  năng nhất là sự  giao tiếp bằng ngôn ngữ  của trẻ  được tích luỹ  và lĩnh hội,  phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc . Qua những giờ  âm nhạc học hát, vận động theo nhạc, trẻ  đã biết sử  dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu  tả những hình ảnh đẹp của bài hát.        Ví dụ : Hát và vận động bài “ Con voi”    Trẻ biết sử dụng động tác minh hoạ đơn giản như :    Trông đằng xa kia có cái con chi to nghê : Trẻ  dùng một ngón tay vẫy  vẫy    Sao trông giống như xe hơi : Hai tay tạo hình chữ nhật ở trước ngực.    Lăn lăn bánh xe đi chơi : Hai tay quay vong tròn          à  thì ra con voi : Dùng tay chỉ kết hợp với vẫy nhẹ   Vậy mà  đuôi trên đầu: Dùng tay phải đặt giữa đỉnh đầu vẫy nhẹ.   d . Qua giờ đón­ trả trẻ .     Cô phải tích cực trò chuyện cùng trẻ và yêu cầu trẻ trả lời các câu hỏi  của cô rõ ràng. Trò chuyện với trẻ  là hình thức đơn giản nhất để  cung cấp   ngôn ngữ  và phát triển ngôn ngữ  cho trẻ, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ  12
  13. mạch lạc. Bởi qua trò chuyện với trẻ, cô cung cấp, mở rộng “ ngôn ngữ” cho   trẻ.           Ví dụ : Bố con tên gì ? Bố con tên là Tuấn ạ !    Sáng nay ai đưa con đi học ?  Mẹ con ạ !   Mẹ con đi bằng gì ?  ( Xe đạp )  Xe đạp kêu như  thế nào ? ( Kính koong ). Nhà con có những ai ? ( Ông , bà, bố, mẹ….)  Như vậy khi trẻ mạnh dạn trò chuyện cùng với cô nghĩa là trẻ đã tự tin  vào “ngôn ngữ vựng” của mình, ngôn ngữ  của trẻ  nhờ đó mà được mở  rộng  và phát triển hơn  Bên cạnh đó cô cũng thường xuyên đọc thơ, kể  chuyện cho trẻ nghe,  khuyến khích trẻ phát âm và yêu cầu trẻ trả lời một số câu hỏi đơn giản .         Ví dụ :   Khi cô đọc cho trẻ nghe câu chuyện “ Thỏ con không vâng lời” Cô có thể hỏi :              Cô vừa đọc cho các con nghe câu chuyện gì ? ( Thỏ con không vâng  lời)             Trong câu chuỵên cô vừa đọc có những ai ?...( thỏ con, thỏ mẹ, ...)                          Khi không nhớ  được đường về  nhà thỏ  con đã làm gì ?( Khóc   hu...hu...hu...) e . Thông qua các hoạt động khác :                  Cung cấp ngôn ngữ  cho trẻ  thông qua chế  độ  sinh hoạt hàng ngày . Trong giờ ăn :        Trẻ tiếp nhận được số lượng những từ ngữ mới góp phần làm giầu ngôn  ngữ cho trẻ .      Ví dụ : Cô giới thiệu món ăn, hỏi trẻ những chất dinh dưỡng có trong thức  ăn. Cô mời cả lớp ăn cơm. Trẻ mời lại. “ Hôm nay lớp mình ăn cơm gà rang  nấm, canh khoai tây nấu thịt. Tráng miệng bằng nước cam. Cô mời cả lớp ăn   cơm!” 13
  14. Trong giờ ngủ :        Cô hát những ca khúc thân thương để  giúp trẻ  những quy tắc trong giờ  ngủ.        Ví dụ :  Cô hát bài “ Giờ đi ngủ” Khi lắng nghe cô hát thì trẻ nằm đúng tư  thế , không nói chuỵên, không nằm sấp.  Khi cho trẻ dạo chơi, thăm quan: Dạo chơi thăm quan là loại tiết học đặc biệt nhằm phát triển ngôn ngữ  cho trẻ.   Trong giờ dạo chơi, thăm quan, trẻ  được trực tiếp quan sát các sự  vật   hiện tượng phong phú của cuộc sống. Mục đích của dạo chơi, thăm quan là  mở  rộng tầm hiểu biết cho trẻ, trên cơ  sở  đó cung cấp, củng cố  một số  lượng lớn ngôn ngữ cho trẻ. Để dạo chơi, thăm quan có hiệu quả, cô giáo cần phải chuẩn bị tốt nội   dung cho trẻ  quan sát, những từ, câu,...cần dạy trẻ. Những câu hỏi yêu cầu  trẻ trả lời, những phương pháp, biện pháp cần tích cực hoá ngôn ngữ của trẻ.          Ví dụ : Cho trẻ quan sát  con gà trống  Cô phải chọn được vị trí  để con gà trống cho mọi trẻ đều quan sát được. Bên  cạnh đó cô cũng cần chuẩn bị một số hệ thống câu hỏi như:  Đây là con gì ?  Các con nhìn thấy con gà trống đang làm gì đây ?   Con gà trống đang ăn gì đấy?   Con gà trống có dáng đi như thế nào đây ? Thường sau một thời gian đi tham quan về, cô tổ  chức đàm thoại về  nội dung thăm quan nhằm củng cố  kiến thức thu được trong buổi thăm qua,  củng cố và tích cực hoá ngôn ngữ cho trẻ.  Bên cạnh đó cô luôn sửa sai câu nói của trẻ ở mọi lúc, mọi nơi để giúp   trẻ có một nguồn “ ngôn ngữ ” phong phú, đa dạng  g . Kết hợp với phụ huynh : 14
  15.    Để  ngôn ngữ  của trẻ  phát triển tốt điều không thể  thiếu được đó là   nhờ sự đóng góp của gia đình.  Cô giáo thường xuyên gặp gỡ nói chuyện về  tình hình hoạt động của  trẻ trong lớp qua đó phụ huynh nắm bắt được nội dung chương trình giáo dục   hiện hành đồng thời hàng ngày cô cũng trao đổi cùng phu huynh về  ý nghĩa  của việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ. Để  phối hợp cùng giáo viên trong việc   phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  thì phụ  huynh hàng ngày dành thời gian thường   xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ  được tiếp xúc nhiều hơn với các sự  vật   hịên tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.  Đối với những cháu mới học nói thì vai trò của phụ  huynh trong việc   phối hợp với cô giáo trong việc trò chuyện nhiều với trẻ là càng cần thiết bởi   nó giúp trẻ  được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ,   trẻ được giao tiếp, được sửa phát âm, sửa ngọng.  Có như vậy tiếng nói của trẻ mới tích cực trong sáng. 2.2. Các giải pháp: * Bồi dưỡng nâng cao nhận thức:   Đề  tài này là tìm ra hình thức, phương pháp, kỹ  năng và đúc rút những  kinh nghiệm để khi giảng dạy thể loại thơ ca, truyện được tốt hơn. Giúp trẻ  tiếp thu được tối đa những mục đích yêu cầu của bài học. Đó là mỗi bài thơ  giúp trẻ  hiểu nội dung được nhịp điệu, vần điệu của mỗi bài thơ. Qua mỗi   bài thơ  giáo dục tình yêu thương, biết vâng lời, yêu thiên nhiên, bảo vệ  môi   trường bằng những việc làm cụ thể.  Việc bồi dưỡng nâng cao nhận thức của đề tài này, là tìm ra hình thức,   phương pháp, kỹ  năng và đúc rút những kinh nghiệm để  khi giảng dạy thể  loại thơ được tốt hơn. Giáo viên cần phải nâng cao trình độ  công nghệ thông   tin để  áp dụng vào bài dạy thêm phong phú, giúp trẻ  tiếp thu được tối đa  những mục đích yêu cầu của bài học. Đó là mỗi bài thơ  giúp trẻ  hiểu nội  15
  16. dung được nhịp điệu, vần điệu của mỗi bài thơ. Qua mỗi bài thơ  giáo dục  tình yêu quê hương đất nước cho trẻ. *Luyện kỹ năng thực hành:    Để ngôn ngữ của trẻ mạch lạc cô cần nghi rõ tên bài, chon đề  tài cho  phù hợp với nhận thức của trẻ và kinh nghiệm của cụ, yêu cầu trẻ kể rõ ràng   về ngôn ngữ, cô co thể cho trẻ kể theo giống dối , bằng tranh  ảnh, hình thức  kể theo đoạn, cô gợi ý cho trẻ kể tiếp, tổ chức nhiều hình thức khác nhau để  luyện cho trẻ . * Tăng cường cơ sở vật chất:   Cô tham mưu cùng ban giám hiệu và hội cha mẹ học sinh để vận động  xã hội hóa khuyên góp về cơ sở vật chất ,để phuc vụ cho công tác giảng dạy. * Kiểm tra đánh giá:   về  khả  năng diễn đạt của trẻ  24­ 36 tháng tuổi qua việc đọc thơ  và kể  chuyện:  Đọc kể  diễn cảm là sự  tái tạo lại tác phẩm một cách sáng tạo   của người đọc hoặc người kể  bằng giọng đọc, giọng kể  diễn cảm và các  yếu tố biểu cảm đã làm sống lại lời nói, hành động, tính cách của nhân vật.  Vai trò của đọc kể dưới việc phát triển ngôn ngữ của trẻ:  Đọc kể diễn cảm là cách sử  dụng lời nói và giọng kể có kèm theo cử  chỉ, điệu bộ, nét mặt để  truyền ý nghĩa tình cảm, tâm trạng mà tác giả  gửi  gắm trong tác phẩm và thái độ, tâm trạng của người đọc đến người nghe  Giúp trẻ có hứng thu, rung cảm, có ấn tượng sâu sắc với thơ và truyện.  Giúp trẻ  làm quen với  thơ, truyện để  phát triển ngôn ngữ   một cách   thoải mái. * Phê phán, rút kinh nghiệm: Từ  những kết quả  trên tôi rút ra kinh nghiệm khi dạy trẻ  phát triển  ngôn ngữ thông qua những bài thơ câu chuyện. 16
  17.  Giáo viên cần nâng cao trình độ ngôn ngữ của chính bản thân mình, coi  ngôn ngữ là phương tiện giáo dục chủ đạo.  Giáo viên phải thật sự kiên trì nhẫn lại yêu trẻ như con của mình.  Giáo viên phải sưu tầm tranh  ảnh,  đồ  dùng đồ  chơi đẹp hớp dẫn đối  với trẻ Phối hơp với hội cha mẹ học sinh để động viên giáo duc trẻ thưc hiện  tốt yêu cầu cần đạt của giáo viên.  * Biểu dương, tuyên truyền:  ­ Biểu dương những tập thể  ,cá nhân, đã  ủng hộ  cho lớp về  cơ  sở  vật chất  qua các buổi hop giao lưu với thôn đội. ­Tuyên truyền dưới hình thức, bảng tuyên truyền đẹp,  thay đổi nội dung và  hình thức phù hợp với chủ đề. ví dụ :Chủ đề : Thế giới thực vật , tết và mùa   xuân , bảng tuyên truyền có những hình ảnh về tết và mùa xuân, câu thơ, câu   truyện, bài hát, đồng dao, ca dao …. có tổ  chức giao lưu giữa lớp với phụ  huynh.  ­ Tuyên truyền bằng truyền thanh, loa đài  có nội dung theo chủ  đề, những   câu truyện hấp dẫn vào giờ  đón , trả  trẻ  để  các cháu và phụ  huynh được  nghe.   ­ Tuyên truyền góc chơi đặc biệt góc học tập, thường thay đổi tranh ảnh để  lôi cuốn trẻ., giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón và trả  trẻ  trao đổi về  trẻ  trong khi kể  chuyện đọc truyện trò truyện giúp cho trẻ  phát  triển ngôn ngữ một cách mạch lac. * Khuyến khích bằng cơ sở vật chất: ­ Khi vôn ngôn từ của trẻ đã phát triển dựa trên những kêt quả của cô đã thưc   hiện, cô khuyến khích trẻ dưới mọi hình thức bạn nào nói đúng theo yêu cầu  của cô , cô sẽ thưởng cho đồ chơi , cô thưởng theo tổ,cá nhân , cô khích lệ trẻ  đẻ trẻ cảm thấy tự tin khi học bộ môn văn hoc.  17
  18. 2.3. Kết quả ( tiến hành vào cuối kỳ, cuối năm học) * Tiêu chí đánh giá:  Dựa vào bốn tiêu chí tôi đã đánh giá trẻ, về thể chất trẻ đã trẻ đã phát   triển tương đối đồng đều, về nhận thức trẻ đã có nề nếp chơi đoàn kết cùng  các bạn trong lớp, trong nhóm chơi, về  ngôn ngữ trẻ phát triển mạch lạc nói  được nhũng câu có cụm tư dài, về phát triển tình cảm xã hội trẻ trẻ nhận biêt  những màu sắc cơ bản, yêu cái đep, yêu quý bạn bè, và ngươi thân trong gia  đình . * Kết quả sau khi đánh giá:    Trải qua quá trình thực hiện bền bỉ, liên tục, trẻ  lớp tôi đã có những   chuyển biến rõ rệt , phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số ngôn ngữ  rất khá,   các cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng, biết cách diễn đạt ý muốn của mình,   mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, ngôn ngữ của trẻ đã phong phú hơn rất  nhiều so với kết quả đầu năm tôi đã khảo sát. Cụ thể như sau : Nội dung      Sô cháu          Đạt Chưa đạt Ngôn ngữ  của  10 cháu 9 cháu 2 cháu trẻ  Bên cạnh đó ở lớp tôi có một số cháu đã sử dụng ngôn ngữ các cô cung  cấp cũng rất hay và ngộ nghĩnh trong sinh hoạt hàng ngày.    Trong giờ hoạt động ngoài trời, cho cho trẻ  quan sát vườn hoa, nhiều  cháu đã phát hiện ra bông hoa hồng nhung có cánh hoa “ sắp vòng quanh” .   Cách hiểu của các cháu tuy còn nhiều hạn chế nhưng cháu đã biết sử dụng từ  “ Sắp vòng quanh” trong giờ văn học để ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày.    Như  vậy các cháu  ở  lớp tôi đã có những chuyển biến rõ rệt về  phát   triển ngôn ngữ. Điều rất mừng là sau một năm “ ngôn ngữ  ” của các cháu   càng ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng mà các cháu còn biết   18
  19. vận dụng những từ được học ở trên lớp vào trong sinh hoạt hàng ngày, và sử  dụng chúng rất hiệu quả.    Phụ huynh đa số hiểu về ý nghĩa của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ * So với cùng kỳ năm trước:  Đối với trẻ :  Năm học 2012­2013 học sinh của lớp tôi nhận thức chậm, vì các cháu  chưa được tiếp xúc nhiều với môi trường tâp thể, vốn từ  của trẻ  còn hạn  chế, vì đa phần các bâc phụ  huynh co ý nghĩ không cho con mình đi hoc nhà   trẻ, mẫu giáo sớm mà để  con  ở  nhà , hay gửi con em mình vào nhóm trẻ  gia   đình ,để tiêt kiệm thời gian vì đa số học sinh lớp tôi là con em nông thôn.  Năm học 2013­2014 được sự  vận động của cô giáo chủ  nhiệm và các   ban ngành trong thôn đội tuyên truyền đến các bậc cha mẹ  học sinh dưới  nhiều hình thức, vì vậy phụ huynh đã nhận thức việc đưa con đến trường từ  bé là việc làm đúng đắn , ngay từ đầu năm học phụ  huynh đã nhiệt tình đưa  con đến lớp, các cháu được tiêp xúc với cô giáo bạn bè trong lớp được học  những bài hát ca dao,đồng dao những bài thơ  câu truyên trong chương trình  nên trẻ  đã phát triển về  ngôn ngữ  môt cách rõ ràng , vốn ngôn từ  của trẻ  phong phú hơn , trẻ có cảm giác thoái mái tự tin khi đến trườn cùng cô giáo và  các bạn. 2.4: Rút ra bài học kinh nghiệm: * Bài học chung: Vậy muốn có được kết quả  trong việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  qua quá  trình thực hiện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau :     Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ  với việc hình  thành và phát triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập để  nâng cao trình độ  chuyên môn, nghiệp vụ, tự  rèn luyện ngôn ngữ  của mình để  phát âm chuẩn   tiếng việt. 19
  20. Để phát triển ngôn ngữ của trẻ một cách toàn diện thì cô giáo cần phải  thực hiện ba nhiệm vụ :     Làm giầu ngôn ngữ  của trẻ  qua việc hướng dẫn trẻ  quan sát, đàm  thoại, hướng dẫn trẻ vui chơi, kể chuyện và đọc chuyện cho trẻ nghe.  Củng cố ngôn ngữ cho trẻ   Tích cực hóa ngôn ngữ cho trẻ. * Bài học riêng : Giáo viên phải biết phối hợp chặt chẽ  ba nội dung trên để  góp phần   tạo điều kiện cho trẻ lĩnh hội những điều mới lạ về thế giới xung quanh Giáo viên luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, động viên trẻ  đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ  nhút nhát, giành thời gian  gần gũi, trò chuyện với trẻ  để  trẻ  mạnh dạn, tự  tin tham gia các hoạt động  tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn.    Cần có sự  kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để  giáo viên   nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để từ đó có kế hoạch phát triển ngôn  ngữ cho trẻ   Tổ chức nhiều trò chơi sử dụng ngôn ngữ .    Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ ,   luôn tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách chủ động.     Tích cực cho trẻ  tiếp cận và làm quen với thiên nhiên để  phát triển  khả  năng quan sát của trẻ, giúp trẻ  củng cố  và tư  duy hoá các biểu tượng   bằng ngôn từ. * Bài học thành công:     Vận động 100% phụ huynh đóng góp tiền mua đồ dùng đồ chơi, khâu   giống rối mua tranh  ảnh , các loại hoa, cây cảnh, vật nuôi để  xây dựng góc  thiên nhiên phong phú, góc xây dựng, góc sách truyên, góc phân vai, góc tuyên  truyền, thông quan các tiết học, cô kết hợp với nội dung phát triển ngôn ngữ  cho trẻ phù hợp với thực tế của lớp, cũng như của địa phương. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2