intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Dạy học tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao (Ngữ văn 8 – Tập 1) theo hướng rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

40
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là dạy văn trong nhà trường phổ thông chủ yếu là dạy tác phẩm văn thơ. Dạy tác phẩm văn chương như một phương tiện, một cách thức để đạt đến một mục đích lớn hơn là phát triển năng lực thẩm mĩ của học sinh, hình thành ở các em cách cảm, cách nghĩ mang đậm tính sáng tạo, tính cá nhân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Dạy học tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao (Ngữ văn 8 – Tập 1) theo hướng rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: DẠY HỌC TÁC PHẨM “LÃO HẠC” CỦA NAM CAO THEO HƯỚNG RÈN LUYỆN NĂNG LỰC ĐỌC – HIỂU CHO HỌC SINH                                     Quảng Bình, tháng 5  năm 2020.
  2. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: DẠY HỌC TÁC PHẨM “LÃO HẠC” CỦA NAM CAO THEO HƯỚNG RÈN LUYỆN NĂNG LỰC ĐỌC – HIỂU CHO HỌC SINH                                    Họ và tên: Nguyễn Thị Hà ( B)                 Chức vụ: Giáo viên                                                        Đơn vị công tác: Trường THCS Liên Thủy
  3. DẠY HỌC TÁC PHẨM “LÃO HẠC” CỦA NAM CAO 1. PHẦN MỞ ĐẦU     1.1 Lý do chọn đề tài
  4. Văn chương là nghệ  thuật của cái đẹp, dùng ngôn từ  làm chất liệu để  xây  dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống. Dạy học văn phải hướng học   sinh đến khả  năng giải mã những tín hiệu thẩm mĩ, phát hiện thông điệp mà tác   giả gửi gắm qua tác phẩm bằng chính năng lực của bản thân, chứ không phải dựa   vào những kiến giải, thẩm bình của sách tham khảo hay giáo viên. Vì vậy, trong   những năm gần đây, vấn đề đổi mới dạy học văn đặt ra, trở thành một vấn đề thời   sự được quan tâm. Làm thế nào để dạy học văn thực sự tác động đến cảm xúc của   học sinh, khơi dậy trong các em niềm đam mê, hứng thú học tập; làm thế  nào để  phát huy tối đa tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của các em trong những giờ  học   Văn; làm thế  nào để  bồi dưỡng cho các em năng lực tự  học, tự  nghiên cứu, biết   phát hiện giá trị  văn chương để  hướng tới Chân, Thiện, Mĩ, làm phong phú thêm   đời sống tư  tưởng, tình cảm của bản thân và có kĩ năng vận dụng kiến thức vào  thực tiễn…đó luôn là những nỗi trăn trở lớn.  Dạy văn trong nhà trường phổ thông chủ yếu là dạy tác phẩm  văn thơ. Dạy  tác phẩm văn chương  như một phương tiện, một cách thức để  đạt đến một mục   đích lớn hơn là phát triển năng lực thẩm mĩ của học sinh, hình thành ở các em cách  cảm, cách nghĩ mang đậm tính sáng tạo, tính cá nhân. Dạy học Văn nói chung và  dạy học văn bản nói riêng hướng đến ba mục tiêu chính: 1. Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực:  năng lực giao tiếp ngôn  ngữ   ở  tất cả  các hình thức: đọc, viết, nói và nghe, trong đó bao gồm cả  năng lực   tìm kiếm và xử  lí thông tin; năng lực tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ;  năng  lực tư  duy, đặc biệt là tư  duy suy luận, phản biện, biết đánh giá tính hợp lí và ý   nghĩa của những thông tin và ý tưởng được tiếp nhận; năng lực tưởng tượng và  sáng tạo, sự tự tin, năng lực tự lập, năng lực hợp tác và tinh thần cộng đồng… 2.  Hình thành và phát triển phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự  học để  có thể  tự  học suốt đời và biết ứng dụng những kiến thức và kĩ năng học   được vào cuộc sống. Nhờ được trang bị kiến thức, kĩ năng và có kinh nghiệm đọc 
  5. nhiều kiểu văn bản (VB) khác nhau trong nhà trường, khi trưởng thành, HS có thể  tự  đọc sách để  không ngừng nâng cao vốn tri thức và văn hóa cần thiết cho cuộc   sống và công việc. 3.  Bồi dưỡng tâm hồn và phát triển nhân cách HS. Thông qua việc giảng  dạy tác phẩm, giáo viên có thể khơi dậy ở học sinh tình yêu đối với cái đẹp, lòng  nhân ái, khát khao lí tưởng cũng như  những hiểu biết về  thế  giới, về  xã hội và   nhất là về  con người, sự  đồng cảm, sẻ  chia, biết vươn đến những giá trị  Chân,   Thiện, Mĩ của đời sống. 4. Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống   về  ngôn ngữ và văn học phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu của   đất nước. Rèn luyện kĩ năng, năng lực là mục tiêu quan trọng và đặc thù của môn  Ngữ văn và đó là mục tiêu “mở đường” cho các mục tiêu khác. Học sinh phải  có kĩ năng và hứng thú đọc thì qua hoạt động đọc đó, văn học mới thật sự  có tác  động đối với người học. Và ngược lại, văn học thông qua những áng văn đặc sắc  về  tư  tưởng, tình cảm và nghệ  thuật ngôn từ  sẽ  tác động tích cực đến hứng thú   đọc sách của học sinh, sau đọc là viết và thảo luận, trao đổi với nhau, nhờ đó các kĩ  năng giao tiếp được rèn luyện và cũng nhờ đó mà các mục tiêu khác của môn Ngữ  văn mới đạt được.  Thực tế, trong những năm qua, nhiều phương pháp đổi mới dạy học đã được   áp dụng và có những tín hiệu khả quan. Vai trò tích cực, chủ động của học sinh đã  phần nào được phát huy. Thế nhưng, giờ học văn vẫn nặng về trang bị cho các em   những kiến thức theo “Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng”, hướng vào  các yêu cầu cần đạt về nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản. Dạy học văn nặng  về về  trang bị  kiến thức hơn là yêu cầu rèn kĩ năng, năng lực nhất là tư  duy sáng  tạo, tự học, tự nghiên cứu, năng lực thực hành và giải quyết vấn đề cuộc sống. 
  6. Khái niệm đọc ­ hiểu đã trở nên quen thuộc đối với giáo viên dạy Ngữ Văn ở  nhà trường những năm gần đây. Hiện nay, hầu như mọi người đều thay từ “giảng  văn”, “phân tích” bằng từ  “đọc ­ hiểu”. Tuy vậy, hiểu một cách thấu đáo về  khái  niệm “đọc ­ hiểu”, nhất là khi sử dụng khái niệm này trong lĩnh vực dạy học chưa  phải ai cũng hiểu đầy đủ. Trong thực tế, sử dụng phương pháp đọc – hiểu và việc hướng tới rèn luyện  năng lực đọc hiểu trong giờ học văn bản mới chỉ dừng lại  ở nhận thức là chính.  ­  PGS.TS Đỗ  Ngọc Thống nhận xét: “Tư  tưởng và phương pháp đọc – hiểu nhìn  chung mới dừng lại ở nhận thức là chính. Trong thực tế dạy học tư tưởng đó chưa   được hiện thực hóa một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả”. Mong muốn những  kinh nghiệm của bản thân trong thiết kế  quy trình dạy học tác phẩm “Lão Hạc”   của Nam Cao theo hướng rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho học sinh sẽ góp phần xây   dựng và nâng cao chất lượng của việc đổi mới dạy học tác phẩm nói riêng và dạy  học Văn nói chung, tôi đã chọn đề  tài : Dạy học tác phẩm “Lão Hạc” của Nam   Cao (Ngữ văn 8 – Tập 1) theo hướng rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh.  1.2.Điểm mới của đề tài Vấn đề đổi mới dạy học văn đã được đặt ra nhiều năm nay. Đặc biệt, trong   thời gian gần đây, dạy học theo hướng đọc hiểu lại được quan tâm. Xây dựng một  chương trình giảng dạy hợp lí và ứng dụng phương pháp đọc hiểu trong dạy học  tác phẩm văn chương đang được đặt ra. Có nhiều bài viết có sự  đầu tư  trong  nghiên cứu vấn đề sử dụng phương pháp đọc – hiểu trong dạy học tác phẩm như:  “Câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản” của Nguyễn Thị Hồng Nam, Đọc   hiểu văn bản là thế nào? Và Đọc hiểu văn bản ­ một khâu đột phá trong nội dung   và phương pháp dạy văn hiện nay của Trần Đình Sử, Đây là những bài viết có sự  phân tích khá sâu về  vấn đề  sử  dụng phương  pháp đọc – hiểu trong dạy học tác phẩm. Tuy nhiên, những bài viết đó chưa làm  nổi bật cách thức tổ  chức triển khai, xây dựng quy trình, thiết kế  bài dạy cụ  thể 
  7. theo phương pháp rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh trong dạy học tác  phẩm ở chương trình THCS. Trên cơ sở tiếp thu những  ưu điểm của các tài liệu nói trên và kinh nghiệm   của bản thân qua quá trình áp dụng thực tiễn giảng dạy, đề  tài này sẽ  đi sâu vào  cách thiết kế quy trình dạy học tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao theo hướng rèn  luyện kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh. 1.3. Phạm vi áp dụng đề tài Đề  tài có thể  áp dụng cho tất cả  các giáo viên dạy môn Ngữ  văn ở  trường   THCS.        Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu này, chúng tôi trao đổi kinh nghiệm d ạy   học tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao (Ngữ văn 8 – Tập 1) theo hướng rèn luyện   kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh.
  8. 2. NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của đề tài nghiên cứu Thực tế, trong những năm qua, nhiều phương pháp đổi mới dạy học đã được   áp dụng và có những tín hiệu khả quan. Vai trò tích cực, chủ động của học sinh đã  phần nào được phát huy. Thế nhưng, giờ học văn vẫn nặng về trang bị cho các em   những kiến thức theo “Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng”, hướng vào  các yêu cầu cần đạt về nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản. Dạy học văn nặng  về về  trang bị  kiến thức hơn là yêu cầu rèn kĩ năng, năng lực nhất là tư  duy sáng  tạo, tự học, tự nghiên cứu, năng lực thực hành và giải quyết vấn đề cuộc sống.  Khái niệm đọc ­ hiểu đã trở nên quen thuộc đối với giáo viên dạy Ngữ Văn ở  nhà trường những năm gần đây. Hiện nay, hầu như mọi người đều thay từ “giảng  văn”, “phân tích” bằng từ  “đọc ­ hiểu”. Tuy vậy, hiểu một cách thấu đáo về  khái 
  9. niệm “đọc ­ hiểu”, nhất là khi sử dụng khái niệm này trong lĩnh vực dạy học chưa  phải ai cũng hiểu đầy đủ. Đối với kiểu dạy học văn bản, việc dạy học còn đối mặt với một số vấn đề  sau: Về phía giáo viên: GV đã cố gắng theo hướng đổi mới nhưng việc thực hiện   chưa hoàn toàn, chưa triệt để. Quá trình phân tích tác phẩm gắn liền với quá trình  giáo viên và học sinh cùng đọc tác phẩm. Trong thực tế, do hạn chế thời gian nên  một số giáo viên chỉ chú trọng phân tích tác phẩm không đầu tư thời gian đúng mức  cho việc đọc, làm giảm hiệu quả  thẩm mĩ cũng như  hiệu quả  giáo dục của việc  dạy học văn. Học sinh cũng chưa được chú trọng đến năng lực đọc – hiểu, giờ học   còn hướng nhiều đến mục tiêu kiến thức hơn là rèn luyện kĩ năng tự  đọc, tự  nghiên cứu cho học sinh. Việc đọc văn để hiểu văn còn mang tính hình thức, chưa  tác động được vào cảm xúc và tư duy chủ động của người học. Dạy học văn bản  chưa tạo được môi trường tương tác tích cực giữa thầy và trò (do điều kiện dạy   học, do thái độ học sinh, do hạn chế thời gian,…) Về phía học sinh: Một bộ phận lớn học sinh chưa có đam mê, hứng thú với   học Văn. Thực trạng đó không chỉ do chương trình, sách giáo khoa hay giáo viên mà  còn do chính bản thân học sinh đã thay đổi rất nhiều về  tâm sinh lý và quan niệm   sống. Hiện nay, trên sách báo, internet, bên cạnh những tác phẩm tinh hoa, xuất   hiện đầy rẫy văn học thứ cấp. Đồng thời, thời đại công nghệ thông tin làm văn hóa  đọc mất dần vị  trí của nó so với văn hóa nghe nhìn. Học sinh chưa chủ động, tích  cực trong học tập như  mong đợi, chỉ  một số  là thể  hiện được tính chủ  động. Mặt  khác, bản thân học sinh không coi trọng môn văn, các em chủ yếu soạn bài theo câu   hỏi phần đọc hiểu một cách qua loa. Theo tìm hiểu  ở lớp, một số em soạn bài mà  không đọc văn bản, chỉ tham khảo câu trả lời ở những quyển sách học tốt, một số  em đọc lướt qua văn bản. Các em không xem trọng việc hiểu văn bản mà chỉ  chú 
  10. trọng học thuộc những giá trị văn bản sau khi học xong ở lớp để phục vụ cho việc   kiểm tra, thi cử Thực trạng dạy học phân môn ngữ văn lớp 8  ở đơn vị mà tôi giảng dạy thể  hiện qua khảo sát của học sinh trước khi áp dụng đề tài như sau: Với đề bài kiểm  tra 15 phút: Đọc truyện ngắn “ Lão Hạc”, em thấy Lão Hạc có phẩm chất, tính   cách và số phận như thế nào?  Kết quả như sau: Khối  Tổng   số  KẾT QUẢ XẾP LOẠI Giỏi Khá Tb Yếu Kém lớ p học sinh SL % SL % SL % SL % SL % 8A 44 4 9,1 6 13,6 19 43,2 15 34,1 0 0 8B 44 3 6,8 8 18,2 14 31,8 18 40,9 1 2,3 8C 45 4 8,9 6 13,3 18 40 17 37,8 0 0 Tổng 133 11 8,3 20 15 51 38,4 50 37,6 1 0,7         Qua kết quả  khảo sát trên cho thấy tỉ  lệ  học sinh khá giỏi thấp (23,3%),  trong khi đó tỉ lệ yếu kém cao (38,3%). Xuất phát từ thực tế trên, nhận thức được   vai trò, trách nhiệm cũng như tầm quan trọng của việc  đọc hiểu văn bản, bản thân   tôi đã mạnh dạn áp dụng đề  tài “Dạy học tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao  theo hướng rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu cho học sinh.  Kĩ năng đọc – hiểu chưa được chú trọng đúng mức trong việc dạy học văn ở  nhà trường nhằm tích cực hóa hoạt động học sinh, khơi dậy hứng thú học văn và  rèn luyện cho các em năng lực tự học, tự nghiên cứu. Các em chưa có kĩ năng đọc  văn, tự mình hiểu văn và chủ động phát hiện, nắm bắt những thông tin, tầng nghĩa,  giá trị tư tưởng mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Trong khi đó, văn học vốn là  một bộ môn nghệ thuật có những đặc trưng riêng, muốn hiểu văn phải bắt đầu từ  việc đọc văn để  cảm văn, nắm bắt được những giá trị  của tác phẩm, bồi dưỡng  phong phú thêm đời sống tư  tưởng, tình cảm và phát triển nhân cách cho chủ  thể 
  11. người học. Dạy học văn chính là dạy đọc văn, dạy năng lực hiểu văn của chủ thể  học sinh. 2.2. Giải pháp Dạy đọc hiểu tác phẩm trong nhà trường là trang bị  cho học sinh cách thức   tiếp cận tác phẩm văn chương, hình thành cho học sinh phương pháp đọc, kĩ năng   đọc, năng lực đọc để học sinh có thể đọc và cảm nhận bất cứ văn bản nào, có thể  tự học, học suốt đời. Hoạt động đọc hiểu đòi hỏi người học phải rèn luyện kĩ năng và hình thành   cho mình năng lực đọc hiểu: đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm và hiểu cặn kẽ  những thông điệp gửi gắm trong tác phẩm và biến nó thành những giá trị vận dụng   trong đời sống. Trong dạy học tác phẩm văn chương, đọc hiểu không dừng lại  ở  phương pháp dạy học mà nó còn là hoạt động mang tính nội dung. Dạy Văn không   chỉ là dạy kiến thức, khả năng cảm thụ văn chương mà còn dạy năng lực sáng tạo,  tự học, tự nghiên cứu và vận dụng. Các bước chuẩn bị cho dạy đọc hiểu: ­ Xác định thể loại và đặc trưng thể loại ­ Xác định bố cục ­ Định hướng, xác định cảm hứng chung cho việc phân tích    Trong giờ dạy học đọc hiểu, học sinh là trung tâm của hoạt động học. Giáo  viên có thể  phối hợp các biện pháp dạy học tích cực, hiện đại và biện pháp khơi  gợi để hướng dẫn học sinh đọc – hiểu theo các cấp độ:  BẢNG PHÂN LOẠI HOẠT ĐỘNG VÀ NĂNG LỰC ĐỌC – HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC Hoạt động Hướng dẫn đọc – hiểu Mục đích của giáo viên
  12. của học sinh ­ Ghi nhớ và tái hiện lại kiến  ­ Cho HS đọc phần chú thích  thức   có   sẵn   trong   sách   giáo  * sau mỗi văn bản trong sách  khoa hoặc kiến thức đã học,  giáo khoa. 1. Đọc và tái   đã biết. ­ Yêu cầu học sinh: hiện ­ Tóm tắt được nội dung văn  Nêu...? bản Trình bày...? ­ Thường được sử dụng trong  phần đọc – hiểu chú thích để  Tóm tắt...? nắm những nét chính về cuộc  Chỉ ra...? đời   tác   giả,   xuất   xứ,   hoàn  cảnh ra đời của tác phẩm ­ Học sinh đọc văn bản và tự  ­   Gọi   HS   đọc   văn   bản   (đọc  bộc   lộ   trực   cảm,   cảm   xúc  diễn cảm, đọc theo từng phần  chung,   ấn   tượng   chung   về  hoặc đọc phân vai…) và gợi  2.   Đọc   và   toàn  bộ   thế   giới  hình   tượng  mở qua các câu hỏi: trình   bày   ấn   của tác phẩm như  một chính  Cảm   nhận   ban   đầu  tượng   thẩm   thể. (chung) về...? mĩ ­   Nhận   thức   bằng   trực   cảm  Ấn tượng của em về...? nhưng   đóng   vai   trò   chỉ   đạo,  định hướng cho những bước  Đọc tác phẩm này, em có  đọc – hiểu tiếp theo. cảm giác như thế nào? ­ Đọc bám sát văn bản, chỉ  ra  ­  Cho học sinh   đọc văn  bản  bố  cục của văn bản, ý chính  (đọc   thầm,   đọc   nhanh...)   và  của mỗi đoạn hướng dẫn học sinh phát hiện  ­   Đọc   và   phát   hiên   được  qua các dạng câu hỏi gợi mở: những tín hiệu thẩm mĩ trong  Tìm   những   chi   tiết,   hình  3. Đọc và tìm   văn bản, phát hiện cái hay, cái  ảnh...? đẹp của văn bản tòi, phát hiện   Phát hiện biện pháp nghệ  ở ngôn ngữ, kết cấu, ngôi kể,  thuật...? không   gian,   thời   gian,   hình  tượng nghệ  thuật, biện pháp  Nhận xét về...? tu từ... ­ Giúp học sinh khám phá vẻ  ­   Tổ   chức   cho   HS   tự   đọc  đẹp nội  dung và nghệ  thuật  nhanh,   đọc   thầm   và   hoạt 
  13. của tác phẩm thông qua thao  động nhóm để phân tích tác phân tích những chi tiết có  ­ Giáo viên sử  dụng các dạng  vai   trò   đầu   mối   của   chỉnh  câu hỏi: 4.   Đọc   và   thể. phân   tích     ­ Đặt ra tình huống mới có  Phân tích...? vấn đề vấn   đề,   kích   thích   sự   sáng  ....như thế nào? tạo, tư  duy của học sinh  để  Tại sao...? giải quyêt vấn đề  bằng một  phương thức, có lời giải mới. ­   Ôn  lại   kiến  thức   cũ,  khắc  ­ Tổ chức cho HS tự đọc lướt  sâu kiến thức mới. theo nhân vật, chủ đề hay kết  ­ Cảm nhận cái đặc sắc, riêng  cấu… và hoạt động nhóm: biệt  ở  từng văn bản, từng tác  So sánh (đối chiếu) A với B? 5.  Đọc và so   giả   làm   cho   việc   tiếp   thu  A, B: các yếu tố nội dung,  sánh,   liên   kiến thức vừa sâu sắc, vừa có  nghệ thuật trong cùng một  tưởng hệ thống. tác   phẩm   hoặc   trong   các  ­   Tạo   trường   liên   tưởng  tác phẩm khác nhau. phong phú để trí tưởng tượng  ...gợi   em   liên   tưởng   đến  các   em   phát   huy,   nhập   hồn  hình   ảnh,   chi   tiết,   nhân  vào tác phẩm. vật, câu thơ... nào đã học? ­  Học sinh  tự  bộc  lộ   những  ­ Tổ  chức cho HS tự quan sát  cảm   nhận,   những   kiến   giải  văn bản và tổng kết được: của   bản   thân,   tự   khái   quát,  Đặc   sắc   nghệ   thuật,   ý  6.   Đọc   và   tổng hợp những kết quả  phát  nghĩa   tư   tưởng   của   tác  khái   quát,   hiện, phân tích phẩm? tổng hợp ­   Thể   hiện   sự   chuyển   hóa  Nhận   định,   đánh   giá   khái  của văn bản vào sự tiếp nhận  quát ? tinh thần của người đọc. ­   Thường   được   sử   dụng   ở  Nhận xét chung...? phần tổng kết ­ Phát  huy khả  năng liên hệ  ­ Từ vấn đề....trong tác phẩm  qua lại với những gì đọc hiểu  em có suy nghĩ gì? được với bản thân học sinh. ­ Liên hệ  cuộc sống bản thân  7.   Đọc   và   ­ Phát triển trường hiểu biết  em? liên   hệ,   ứng   và   vận   dụng   sáng   tạo   trong  dụng ­ Rút ra bài học, ý nghĩa...? thực tiễn.
  14. 2.2.1. Xác định mục tiêu bài dạy theo định hướng đề tài Về kiến thức, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc để tìm tòi, hiểu được: ­ Tình cảnh khốn cùng, nhân cách cao quý, tâm hồn  đáng trân trọng của   người nông dân qua hình tượng nhân vật lão Hạc ­ Lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nam Cao trước số  phận đáng thương   của người nông dân cùng khổ. ­ Thấy được nghệ thuật viết truyện bậc thầy, tài năng nghệ  thuật xuất sắc   của nhà văn Nam Cao trong việc xây dựng tình huống truyện, miêu tả, kể truyện,  khắc hoạ hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Lão Hạc. Về kỹ năng, học sinh có các kĩ năng: ­   Đọc   diễn   cảm,   hiểu,   tóm   tắt   được   tác   phẩm   truyện   viết   theo   khuynh   hướng hiện thực. ­ Vận dụng kiến thức về  sự  kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn   bản tự sự để phân tích tác phẩm tự sự viết theo khuynh hướng hiện thực. ­ Hình thành phương pháp đọc để  có thể  đọc hiểu các tác phẩm cùng thể  loại Về thái độ: ­ Biết cảm thông, chia sẻ với nỗi khổ đau, số phận của con người ­ Biết trân trọng những giá trị cuộc sống, giá trị con người 2.2.2.. Tổ chức dạy học trên lớp *. Dự kiến thời gian lên lớp: ­ Tiết 1:  + Hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần tiểu dẫn sách giáo khoa, giáo viên lưu ý  về  cuộc đời, sự  nghiệp và phong cách nghệ  thuật (đặc điểm truyện ngắn) của  Nam Cao.
  15. + Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm văn bản, yêu cầu HS chia bố cục, tìm hiểu   nguồn cảm hứng sáng tác trong tác phẩm và trình bày cảm nhận chung. + Hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản tìm hiểu tình cảnh của lão Hạc trong   đoạn trích. ­ Tiết 2: + Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu văn bản, tìm hiểu tâm trạng của lão Hạc khi  bán chó Vàng để  làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật lão Hạc và tấm lòng của nhân   vật ông giáo + Hướng dẫn học sinh tổng kết nghệ thuật và nội dung, rút ra  ý nghĩa văn bản. * Tổ chức các hoạt động dạy học văn bản Lão Hạc theo hướng đọc – hiểu      Hoạt động 1: Giới thiệu bài Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu chung văn bản Hướng dẫn học sinh đọc chú thích và hiểu một số  nét về  tác giả  Nam Cao   và tác phẩm của ông ­ Giáo viên gọi học sinh đọc phần chú thích về tác giả, tác phẩm. Sau đó cho các  em tóm tắt những hiểu biết của mình về tác giả Nam Cao. ­ Hỏi các em về một số tác phẩm của Nam Cao mà các em biết và đề tài thể hiện   chủ yếu trong các tác phẩm là gì. ­ Trình chiếu giới thiệu một số hình ảnh về tác giả, tác phẩm của Nam Cao. Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm văn bản Truyện ngắn Lão Hạc cho thấy nghệ thuật viết truyện bậc thầy của Nam Cao   và nguồn cảm hứng của ông khi viết về số phận của người nông dân trong xã hội  cũ. Vì vậy, trong quá trình, giáo viên nhấn mạnh các đặc điểm: Nam Cao là cây bút  hiện thực xuất sắc khi viết về người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ với tấm  lòng nhân đạo cao cả.Văn phong tự  sự của Nam Cao vừa triết lí vừa trữ  tình, kể 
  16. chuyện tự nhiên, hấp dẫn. Giáo viên định hướng học sinh đọc bám sát văn bản để  làm rõ những đặc điểm đó.  Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu theo đặc trưng của một truyện ngắn hiện đại   mang đậm phong cách Nam Cao. Hướng dẫn học sinh đọc và thể hiện được giọng   điệu biến hóa đa dạng của tác phẩm: lúc thì lạnh lùng, lúc thì trữ tình xót thương,   lúc thì triết lí sâu sắc. Tâm trạng, tình cảm của nhân vật thể hiện qua ngôn ngữ đối  thoại và độc thoại. Lời lão Hạc lúc thì chua chát, xót xa, lúc thì ngậm ngùi, kể lể;  lời vợ ông giáo lạnh lùng, dứt khoát; lời của ông giáo từ tốn, lúc thì trữ tình ấm áp,   lúc đầy xót thương, cảm thông. Đồng thời, trong khi đọc, học sinh cần thể  hiện   được nhịp điệu lời văn: đoạn đầu thì chậm rãi, vừa phải, đoạn cuối nói về cái chết   lão Hạc thì gấp gáp. Đọc đúng, đọc diễn cảm, đọc sâu sẽ  giúp học sinh thực sự  thâm nhập tác phẩm. Giáo viên có thể đọc mẫu diễn cảm một vài đoạn và tổ chức cho học sinh đọc  diễn cảm, lớp chú ý lắng nghe và có nhận xét, góp ý.  Hướng dẫn học sinh hiểu chung về văn bản ­ Giáo viên cho học sinh tóm tắt văn bản ­ Giáo viên đàm thoại với học sinh qua các câu hỏi như  Cảm nhận ban đầu của   em về  truyện ngắn này là gì? Đọc truyện xong, em có cảm xúc gì? Em có  ấn   tượng với nhân vật nào trong truyện? và cho học sinh tự do nêu cảm nhận của   mình ­ GV cần hướng dẫn  học sinh đọc nhanh, đọc lướt, đọc thầm và xác định được   bố  cục, nhân vật chính và ngôi kể  của truyện. Giáo viên phát vấn câu hỏi để  kiểm tra mức độ hiểu của học sinh. Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản qua các tín hiệu thẩm  mĩ Trong quá trình tìm hiểu văn bản, giáo viên tổ chức cho học sinh đọc một số  đoạn quan trọng theo các hình thức đọc. Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kĩ từng  
  17. cảnh theo bố cục, nhân vật hay chủ đề, cố gắng phát hiện, gạch chân chân các cứ  liệu mà các em cho là tiêu biểu, quan trọng.  Học sinh đọc và hiểu ý chính  của văn bản rõ ràng, lô gic. Từ  đó, tạo điều  kiện cho học sinh đi sâu khám phá, chiếm lĩnh nội dung và nghệ  thuật của tác  phẩm. Hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu nhân vật lão Hạc ­ GV cho HS đọc thầm nhanh đoạn chữ nhỏ và tóm tắt lại tình cảnh của lão Hạc ­ Giáo viên phát vấn câu hỏi đàm thoại với học sinh: ­ ? Cảnh ngộ của Lão Hạc được giới thiệu như thế nào? ? Qua đọc đoạn trích, em hiểu được con chó Vàng có vị trí như thế nào đối với  lão Hạc? ? Vậy vì sao lão Hạc lại quyết định bán đi cậu chó Vàng? ­ Cho HS đọc thầm và lướt nhanh đoạn kể về tâm trạng của lão Hạc khi sang nhà  ông giáo kể về chuyện bán con chó vàng ­ Gv nêu câu hỏi gợi mở, gợi tìm hướng dẫn học sinh phát hiện chi tiết, nêu nhận  xét, hình dung và tưởng tượng của bản thân để từ đó, nắm được nội dung: ? Em hãy đọc và tìm những chi tiết miêu tả  thái độ, tâm trạng của nhân vật lão   Hạc khi nói về chuyện bán cậu Vàng với ông giáo. ? Em thử hình dung diễn biến nội tâm của lão khi quyết định bán chó? ? Em có cảm nhận gì về  lời lẽ, giọng điệu của lão Hạc khi nói chuyện với ông   giáo? Cùng với câu hỏi gợi tìm kiến thức, giáo viên phát vấn câu hỏi để  học sinh   thấy cái hay của nghệ thuật trong việc thể hiện tâm trạng nhân vật vừa trực tiếp,  vừa gián tiếp, thể hiện qua ngôn ngữ, giọng điệu. GV cho HS giải thích một số từ  láy như ầng ậng, móm mém, hu hu…, tích hợp kiến thức từ láy để thấy được nghệ  thuật tả ngoại hình để thể hiện nội tâm của nhân vật
  18. ­ Giáo viên nêu vấn đề, cho học sinh thảo luận nhóm để  giải quyết những vấn   đề đặt ra như:  Tại sao lão Hạc lại cảm thấy vừa đau đớn vừa ­ ân hận khi bán con chó Vàng?  Theo  em,  lão  Hạc  nếu  muốn  sống  có  thể  chọn  cách   nào  để   tiếp  tục   sống   không? Vậy tại sao lão lại chọn cái chết và là một cái chết đầy đau đớn như vậy? ­ HS thảo luận, nêu ý kiến và các nhóm khác bổ sung. Từ đó, giáo viên  ­ hướng dẫn để  học sinh đi đến kết luận:  Em có cảm nhận gì về  số  phận và   nhân cách của lão Hạc? ­ Sau khi học sinh nêu kết luận về nhân vật lão Hạc, giáo viên cho học sinh chia  sẻ cảm xúc của bản thân về nhân vật. Hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu tấm lòng nhân đạo của nhà văn qua   nhân vật ông giáo. ­ Hướng dẫn học sinh đọc thầm, đánh dấu chi tiết, chú ý giọng điệu của nhân  vật ông giáo. ­ Giáo viên gợi tìm: Đọc thầm và tìm những chi tiết, câu văn nói lên thái độ, tình   cảm của ông giáo đối với lão Hạc? Em thấy thái độ, tình cảm của nhân vật   “tôi” đối với lão Hạc như thế nào? ­ Giáo viên cho học sinh nêu suy nghĩ, cảm nhận về câu nói của ông giáo ?“ Chao   ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ(…) không   bao giờ ta thương” rồi từ đó cho học sinh nêu cảm nhận về nhân vật ông giáo  và thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn đối với những người nghèo khổ. Hoạt động 4: Hướng dẫn học sinh tổng kết, khái quát giá trị nội dung, nghệ  thuật của văn bản ­ Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc sâu và phát hiện đặc sắc trong nghệ  thuật   viết truyện của Nam Cao. Sử  dụng so sánh với văn bản Tức nước vỡ  bờ  của   Ngô Tất Tố để thấy được nét riêng trong phong cách của Nam Cao. ­ Giáo viên nêu vấn đề, cho học sinh thảo luận để chứng minh ý kiến: 
  19. Chất trữ tình kết hợp với kể, tả, sự biến hóa giọng điệu lúc trữ tình, lúc triết lí   là đặc sắc của truyện Nam Cao. Hãy tìm vài đoạn tiêu biểu để  chứng minh điều   đó. Có nhận định cho rằng: Truyện Lão Hạc là bức tranh hiện thực về số phận con   người và chứa chan tinh thần nhân đạo. Em hãy trình bày ý kiến của mình về nhận   định đó. Học sinh dựa vào những kiến thức vừa tìm tòi, phát hiện để  lý giải, chứng   minh. Giáo viên định hướng học sinh tổng kết ­ Giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày ý nghĩa của tác phẩm đối với bản thân Hoạt động 5: Củng cố và dặn dò học sinh 2.3.. Kết quả của đề tài Kết quả  khảo sát là căn cứ  quan trọng để  đánh giá khả  năng ứng dụng của  bài dạy theo hướng đọc – hiểu vào giờ  dạy học tác phẩm. Giáo viên đã trực tiếp   kiểm tra học sinh bằng bài kiểm tra và khảo sát mức độ hứng thú, tích cực của học  sinh trong giờ học. Kết quả đạt được như sau:          ­ Về kiến thức: Học sinh nắm được các kiến thức cơ bản về văn bản và có   khả  năng vận dụng vào phân tích nhân vật, nội dung, nghệ  thuật hay một đoạn   trích trong văn bản.  Thống kê kết quả thực nghiệm ở ba lớp 8 và của trường: Khối  Tổng số  KẾT QUẢ XẾP LOẠI Giỏi Khá Tb Yếu Kém lớp học sinh SL % SL % SL % SL % SL % 8A 44 6 13,6 7 15,9 19 43,2 12 27,2 0 0 8B 44 5 11,4 11 25 16 36,4 12 27,2 0 0 8C 45 5 11,1 10 22,2 19 42,2 11 24,5 0 0 Tổng 133 16 12 28 21,1 54 40,6 35 26,3 0 0
  20. ­ Về phương pháp: Học sinh hình thành được phương pháp đọc – hiểu để tự  mình có thể tự đọc một văn bản cùng thể loại. Học sinh biết phối hợp, vận dụng   các kiến thức liên quan vào phân tích tác phẩm. Tiết dạy học kích thích được hứng   thú, tính tích cực chủ  động của học sinh trong quá trình tìm hiểu, khám phá văn  bản. ­ Về thái độ: Học sinh biết chia sẻ, cảm thông với nỗi khổ của nhân vật, trân  trọng giá trị nhân cách đẹp. Từ đó, biết tu dưỡng tình cảm, sống yêu thương, biết   chia sẻ với mọi người. 3. Phần kết luận: 3.1. Ý nghĩa đề tài: Kết quả  khảo sát cho thấy giờ  dạy văn bản theo hướng đọc hiểu cho kết  quả  cao hơn, phát huy được tính chủ  động, tích cực, sáng tạo của học sinh, nâng  cao hiệu quả của giờ dạy học văn trong nhà trường. Sự  tương tác giữa giáo viên và học sinh, tương tác giữa học sinh với tác  phẩm đã tạo cho học sinh hứng thú, tích cực hơn trong giờ  học. Các em tham gia  thảo luận sôi nổi, tích cực nêu suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về tác phẩm và dễ  dàng ghi nhớ bài học, phát triển được kĩ năng, năng lực cho bản thân. Đề tài có khả năng áp dụng trong giờ dạy học văn bản, phù hợp với yêu cầu  đổi mới phương pháp dạy học Văn trong nhà trường. Đọc – hiểu là phương pháp, cũng là kĩ năng cần hướng tới, là hoạt động  mang tính nội dung của giờ học. Đọc còn là hoạt động mang tính sáng tạo, không   chỉ có mục đích gói gọn  trong nhà trường mà còn có ý nghĩa rèn luyện cho học sinh  năng lực tự học, học suốt đời. Qua thiết kế bài dạy, tôi nhận thấy:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2