intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh

Chia sẻ: Chubongungoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22

132
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh về bài đọc. Đặt ra mục tiêu cho hoạt động đọc. Giúp học sinh tự giám sát quá trình đọc hiểu của các em. Cho phép học sinh đánh giá quá trình đọc hiểu của các em. Tạo cơ hội cho học sinh diễn tả ý tưởng của các em vượt ra ngoài khuôn khổ bài đọc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh

  1. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” I.Phòng giáo dục và đào tạo Hoa Lư Trường THCS Ninh Xuân II.Tác giả sáng kiến: Trần Nhật Lan Chức danh: Giáo viên trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư – Ninh Bình Email: lantrn76@yahoo.com.vn Số điện thoại:01658027300 III.Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng Tên sáng kiến: Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Lĩnh vực áp dụng: Môn Ngữ văn THCS IV. Nội dung sáng kiến 1. Giải pháp cũ: Trước đây, theo phương pháp dạy học truyền thống, hoạt động “dạy” là trung tâm, giáo viên giữ vai trò là người truyền thụ kiến thức, học trò là người thụ động tiếp thu kiến thức theo sự giảng giải của giáo viên. Đối với việc dạy học các tác phẩm thơ hiện đại, phương pháp chủ yếu được vận dụng cũng chính là các phương pháp đặc thù chung của việc dạy học môn Ngữ văn. Đó là các phương pháp: Đọc sáng tạo, tái hiện, gợi tìm và nghiên cứu. 1.1. Đọc sáng tạo: Là phương pháp đặc biệt đối với môn Ngữ văn. Trong đó đọc diễn cảm là một phần của đọc sáng tạo. Đọc diễn cảm được tiến hành chủ yếu trong giờ học Văn ở trong lớp học. Nó được vận dụng trong suốt giờ học cho đến khi kết thúc bài học. Việc đọc sáng tạo kết hợp hài hòa với cá phương pháp khác. Ưu điểm của phương pháp đọc sáng tạo: Việc đọc sáng tạo trong giờ văn là phương pháp không thể thiếu trong dạy học Văn nhất là khi dạy các tác phẩm thơ. Không có giờ học Văn nào lại không vận dụng phương pháp này, không bài thơ nào được học lại không bắt đầu với việc đọc văn bản. Vì vậy phương pháp này quan trọng, cần thiết. Nhược điểm: Phương pháp đọc sáng tạo không có nhược điểm, chỉ có giáo viên có quan niệm chưa đúng và vận dụng chưa phù hợp. Có người cho rằng chỉ cần đọc đầu tiết học, lại cũng có người cho rằng lúc nào cũng phải đọc mới là đổi mới. Cả hai cách vận dụng trên đều chưa thật đúng đắn. Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  2. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” 1.2. Phương pháp tái hiện: Là phương pháp phổ biến trong giờ học Văn. Nếu nhà văn phải tái hiện cuộc sống trong tác phẩm thì ngược lại người đọc lại đi từ những chi tiết nghệ thuật của tác phẩm đến với cuộc sống. Tái hiện được hiểu rộng hơn. Nó không chỉ là sự hình dung, tưởng tượng mà còn bao gồm cả cách hình dung, tưởng tượng nữa. Chính vì thế mà việc tìm hiểu tiểu sử tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, tìm ra, nhắc lại những chi tiết nghệ thuật quan trọng chính là nhằm tái hiện lại cuộc sống để tìm ra quy luật tình cảm và phản ánh của tác giả. Ưu điểm của phương pháp tái hiện: Với những tư liệu phong phú sinh động, với các câu hỏi chính xác và có tính thẩm mỹ cao, giáo viên và học sinh có thể tái hiện gần như tất cả những gì tác động đến cảm xúc và suy nghĩ của nhà văn. Từ đó học sinh đã có thể hình dung bức tranh hiện thực trong tác phẩm Nhược điểm: nếu vận dụng phương pháp tái hiện trong suốt giờ học thì vô tình giờ dạy chỉ có tái hiện một cách đơn điệu. Mỗi một tác phẩm, người đọc còn cần phải hiểu thấu đáo những vấn đề tác giả gửi gắm trong tác phẩm, hiểu được cảm xúc, hiểu được phong cách của tác giả... 1.3. Phương pháp gợi tìm Bản chất của phương pháp này là sử dụng một hệ thống câu hỏi để gợi học sinh tìm tòi suy nghĩ nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Giáo viên không trực tiếp đưa ra kiến thức mà hướng dẫn học sinh tư duy từng bước để tự hoàn thành kiến thức. Học sinh có thể có những phát hiện riêng mang tính cá nhân và biết lý giải bảo vệ quan điểm cá nhân của mình. Đồng thời thầy chấp nhận các cách hiểu khác nhau của học sinh nếu thấy hợp lý. Nhưng không được phép cho học sinh phát biểu những điều đi ngược với các giá trị đạo đức truyền thống và pháp luật. Ưu điểm của phương pháp gợi tìm: Đây là một phương pháp quan trọng. Phương pháp này thể hiện rõ nhất trình độ học vấn và năng lực sư phạm của người giáo viên, giáo viên có cảm nhận đúng, có thể nêu câu hỏi, có thể tạo tình huống có vấn đề, nhưng điều cốt lõi là không làm thay sự tìm hiểu của học sinh. Các em phải được hướng dẫn đi qua từng chặng đường cho đến khi hoàn thành một khám phá, một phát hiện. Sự gợi tìm có kết quả tốt khi kết hợp với đọc, tái hiện và nghiên cứu. Nhược điểm của cách vận dụng phương pháp này: nếu chỉ coi trọng một phương pháp này cũng sẽ dẫn đến giờ học sẽ chỉ dừng lại ở vấn đáp gợi tìm, cũng dễ dẫn đén hiện tượng học sinh không nghe sự hướng dẫn, gợi tìm của giáo viên mà tìm cách hiểu khác đi về văn bản thì thế nào? Liệu giáo viên có hướng dẫn các em tìm hiểu theo cách phát hiện, cách khám phá riêng của các em hay không. Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  3. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” 1.4. Phương pháp nghiên cứu: là phương pháp tìm hiểu nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của một tác phẩm. Nhưng muốn nghiên cứu đối tượng phải tiếp cận đối tượng (nhờ đọc sáng tạo), hình dung được đối tượng rõ ràng (nhờ tái hiện), từng bước hiểu chính xác những bộ phận của đối tượng (nhờ gợi tìm). Dựa trên các phương pháp trên, phương pháp nghiên cứu sẽ dẫn đến những kết luận đúng về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tất cả những dữ liệu thu nhập được về hoàn cảnh xã hội, quan niệm thẩm mỹ, hoạt động sáng tạo của nhà văn cho phép đi đến kết luận khoa học, chính xác. Ưu điểm của phương pháp trên: Học sinh không chỉ hiểu tác phẩm mà còn hiểu được tư tưởng của tác phẩm, hiểu được giá trị của các biện pháp nghệ thuật để từ đó có những kết luận đúng đắn, khoa học và chính xác về tác phẩm. Từ việc đánh giá đúng tác phẩm sẽ dẫn tới việc cảm thụ tác phẩm một cách thấu đáo hơn, thực hành viết văn sẽ tốt hơn. Nhược điểm của phương pháp này: Không vận dụng phương pháp này từ đầu giờ học mà phải qua một quá trình tìm hiểu từ đọc sáng tạo, đến tái hiện, đến phát hiện, khám phá rồi mới nghiên cứu. Phương pháp này cũng không dễ với những học sinh trung bình, yếu. Như vậy, tất cả các phương pháp trên đều có ưu điểm nhưng chưa hướng tới năng lực của từng học sinh, tất cả các phương pháp đều đang dùng chung cho mọi đối tượng học sinh. Các em sẽ bị hạn chế khả năng sáng tạo, khả năng thực hành, vận dụng, khả năng hợp tác khi làm việc... 2. Giải pháp mới Trên cơ sở rút kinh nghiệm và kế thừa những giải pháp cũ, từ thực tế giảng dạy của bản thân, chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mới để nâng cao hiệu quả giờ học, tăng cường tính tích cực, nhằm hướng tới năng lực của người học. Nhưng sự đổi mới không phải là thay đổi các phương pháp đặc thù vốn có của môn Ngữ văn mà là cách vận dụng các phương pháp ấy sao cho hiệu quả. Trước hết cần hiểu năng lực là gì? Đó là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân nhằm đáp ứng hiệu quả của một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định Đối với môn Ngữ văn cấp trung học cơ sở thì năng lực cần hình thành và phát triển cho người học gồm có: năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Hay nói cách khác các năng lực cần hình thành cho các em chính là các năng lực: nghe, đọc, nói, viết. Năng lực nghe, đọc còn gọi là năng lực đọc hiểu; năng lực nói viết chính là năng lực tạo lập văn bản. Để hướng tới hình thành các năng lực trên, người thầy phải vận dụng các phương pháp bộ môn trong dạy đọc hiểu. Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  4. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” Dạy đọc hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn. Cách dạy đọc hiểu không nhằm truyền thụ một chiều cho học sinh những cảm nhận của giáo viên về văn bản được học mà hướng tới việc cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân. Hoạt động đọc hiểu của học sinh cũng cần được thực hiện theo một trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, trải qua các giai đoạn từ đọc đúng, đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Khi hình thành năng lực đọc hiểu cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Năng lực đọc hiểu của học sinh còn được hiểu là sự tích hợp những kiến thức và kĩ năng của các phân môn cũng như toàn bộ kĩ năng và kinh nghiệm sống của học sinh. Sau khi học sinh được tiếp xúc với văn bản, khám phá được các giá trị của văn bản, sẽ vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc vào việc đọc các loại văn bản khác nhau cùng thể loại, giải quyết những tình huống đặt ra trong thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt chúng tôi cũng chú trọng tính tích hợp phân môn và liên môn trong quá trình dạy học. Cụ thể chúng tôi đề xuất một số giải pháp mới trong dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 như sau: 2.1. Tìm hiểu tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 thông qua việc tổ chức các hoạt động phong phú, đa dạng. 2.1.1. Hoạt động1- Khởi động: Trước khi tiếp xúc với văn bản thơ, giáo viên cho học sinh tìm hiểu những thông tin, kiến thức ngoài văn bản nhưng có liên quan đến văn bản (có thể vận dụng kiến thức liên môn để tạo tâm lý hứng thú trước khi vào bài). - Câu hỏi tìm hiểu các yếu tố ngoài văn bản. + Dùng tranh ảnh hoặc bản đồ địa lý giới thiệu về địa danh là quê quán của tác giả (Liên môn với Lịch sử, Địa lý), hoặc liên môn với Âm nhạc về những bài hát có liên quan đến tác phẩm ... để hỏi về tác giả: (cuộc đời, sự nghiệp) hoặc về tác phẩm. + Cũng có thể cho học sinh khởi động bằng cách đưa ra những câu hỏi để tìm từ khóa là tên bài dạy hoặc kiến thức có liên quan đến văn bản thơ sẽ học trong giờ. Ví dụ khi học văn bản thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương – Ngữ văn 9 tập 2. Giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi nhanh như sau: ? Ai được coi là cha đẻ của cách mạng Việt Nam? ? Người đọc tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại đâu? Vào thời gian nào? Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  5. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” ? Tình cảm của Người đối với người dân Việt Nam và tình cảm của nhân dân đối với Người như thế nào? ? Đọc một bài thơ hoặc hát một bài hát về Người? - Việc vận dụng kiến thức liên môn có thể vận dụng trong từng phần của bài giảng sao cho hợp lý và đúng mức. 2.1.2. Hoạt động 2 - Tiếp xúc với văn bản 2.1.2.1. Đọc tác phẩm thơ: - Đây là phương pháp đặc thù của môn Ngữ văn, vì vậy đọc sáng tạo vốn rất được coi trọng trong khi dạy tác phẩm thơ, nhất là thơ trữ tình. Nhưng chúng tôi vận dụng đọc sáng tạo một cách phù hợp; không quá đề cao hay quá coi nhẹ. - Đọc sáng tạo có 3 mức độ: Đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. + Đọc đúng: là trả lại hoàn toàn đúng nội dung văn bản. Đọc đúng là giải quyết kỹ năng, năng lực ngôn ngữ cho học sinh, là không được sai văn bản. + Đọc hay: là bước tiếp theo của đọc đúng, phải trên cơ sở đọc đúng thì đọc hay mới thành công. Khi giảng thơ lại càng chú ý đọc hay: nghĩa là bắt chước giọng điệu văn học – đọc hướng vào giọng văn bản. + Đọc diễn cảm: là một phần của phương pháp đọc sáng tạo, bản chất của đọc sáng tạo là xác định mối quan hệ cảm xúc riêng tư của người đọc về giá trị nội dung và hình thức đọc của tác phẩm. Đọc diễn cảm đòi hỏi ở cả giáo viên và học sinh .Đối với giáo viên: việc đọc diễn cảm của thầy có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn học sinh thâm nhập vào tác phẩm. Thầy cũng phải tập đọc trước từ nhà vì nếu thầy đọc diễn cảm sẽ là chuẩn mực cho học sinh noi theo. Sau đó thầy hướng dẫn học sinh đọc thông qua đọc trước tác phẩm cho học sinh, hoặc vừa đọc vừa bình. . Đối với học sinh: cũng cần có nghệ thuật đọc, qua đọc học sinh đã có thể dễ dàng tìm hiểu được giá trị của tác phẩm. HS trung học cơ sở với tâm lý dễ cảm thụ, dễ xúc cảm, dễ tin và hồn nhiên. Tư duy của các em mang tính cụ thể, dễ hiểu nên việc đọc diễn cảm đồng thời giúp thầy dễ khơi gợi những cảm xúc của các em, kích thích hứng thú học tập. Tuy nhiên việc đọc diễn cảm của học sinh cũng phải chuẩn bị kỹ lưỡng từ nhà, đọc sao cho giản dị tự nhiên không thái quá. - Việc đọc văn bản thơ diễn ra thường xuyên trong giờ học: đọc cả bài, đọc từng phần, từng khổ, thậm chí đọc 1,2 câu thơ khi phân tích. Với phương pháp đọc sáng tạo cùng đã bước đầu có sự phân loại năng lực cho học sinh: các em năng lực trung bình chỉ cần đọc đúng, đọc hay đã là các em có cảm nhận bước đầu về tác phẩm và đọc diễn cảm tốt là các em đã có sự hiểu và cảm nhận phần nào giá trị của văn bản. Trên cơ sở đọc, giáo viên nắm bắt năng lực của các em và uốn nắn được cho từng đối tượng học sinh. Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  6. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” 2.1.2.2. Xác định thể loại: Một trong những nguyên lí của việc đọc – hiểu văn bản là đọc tác phẩm theo đặc trưng thể loại. Đọc – hiểu văn bản không chỉ nhằm tiếp nhận giá trị riêng của một văn bản cụ thể. Với vị trí tiêu biểu cho một thể loại nào đó, việc tiếp nhận mỗi văn bản đều bao hàm sự định hướng về cách thức tiếp cận kiến thức của thể loại hoặc kiểu bài. Như vậy, khi tìm hiểu một văn bản, giáo viên cần khắc sâu kiến thức về thể loại đã học, cách tiếp cận, khám phá văn bản để học sinh có thể vận dụng vào khám phá với văn bản khác cùng thể loại. * Tổ chức cho học sinh khám phá tác phẩm theo một thể loại nào đó là giúp học sinh trả lời được câu hỏi: cần dựa vào những yếu tố nào để tìm ra nội dung và ý nghĩa văn bản. + Với thơ, chủ yếu là văn bản trữ tình: Yếu tố quan trọng về nội dung là cảm xúc của nhân vật trữ tình. Cảm xúc ấy được thể hiện theo thể loại cụ thể nào, mỗi thể loại lại phù hợp với mạch cảm xúc riêng của nhân vật. 2.1.2.3. Xác định bố cục. Việc xác định bố cục cũng cũng chỉ là tương đối, nhưng trên cơ sở xác định được cảm xúc của nhân vật trữ tình, từ đó học sinh mới dễ dàng xác định bố cục. Khi xác định bố cục sẽ là những định hướng cho các em khám phá các giá trị của văn bản thơ tốt hơn, mạch lạc hơn. Ví dụ 1: Khi dạy văn bản “Ánh trăng” – Nguyễn Duy, trước khi giáo viên yêu cầu học sinh xác định bố cục, các em đã nắm được mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình là hồi tưởng về vầng trăng trong quá khứ, đến hiện tại và đến suy ngẫm. Từ mạch cảm xúc này, các em sẽ tìm được bố cục 3 phần: + Phần 1: Tương ứng với 2 khổ đầu: Hình ảnh vầng trăng trong quá khứ + Phần 2: Tương ứng với 2 khổ thơ tiếp: Hình ảnh vầng trăng trong hiện tại. + Phần 3: Tương ứng với 2 khổ thơ cuối: Suy ngẫm của nhà thơ. Tuy nhiên, không phải bài thơ nào cũng có thể dễ dàng phân chia theo bố cục. Chẳng hạn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, nếu cứ bắt học sinh tìm bố cục rất khó, vì bài thơ triển khai hai hình tượng: xe không kính và người lính lái xe. Mà hình tượng xe không kính xuất hiện ở cả khổ đầu, khổ cuối. Vì vậy việc phân chia bố cục văn bản cùng linh hoạt. 2.1.3. Hoạt động 3 - Khám phá các giá trị của văn bản thơ: Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  7. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” 2.1.3.1. Tìm kiếm thông tin từ văn bản như tìm ý chính, hoặc tìm các chi tiết cụ thể. Ví dụ: Khi dạy văn bản “Ánh trăng”, giáo viên cho học sinh tìm bố cục, nghĩa là đã bước đầu tìm các ý chính của văn bản được thể hiện ở từng phần. Với lần lượt các phần: chẳng hạn ở phần 1, các em sẽ lần lượt tìm ra phần này có những nội dung cụ thể nào, thông qua việc các em sẽ làm việc cá nhân, trả lời các câu hỏi: ? Hình ảnh vầng trăng trong quá khứ được nhắc đến ở những thời điểm nào? ?Trong từng thời điểm đó, người và trăng có mối quan hệ như thế nào?Tìm từ ngữ thể hiện? Với các câu hỏi trên, học sinh sẽ tìm ra ngay : vầng trăng trong quá khứ được nhắc đến ở 2 thời điểm: hồi nhỏ và hồi chiến tranh. Cả hai thời điểm đó mối quan hệ giữa người và trăng được thể hiện qua các từ “tri kỉ”, “nghĩa tình”. 2.1.3.2. Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối...thông tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản. Giáo viên có thể vận dụng dạy học tích hợp. Trước hết là tích hợp phân môn: giữa văn học với tiếng Việt và làm văn trong các bài học. Khi dạy các tác phẩm thơ bao giờ chúng ta cũng cho học sinh tìm hiểu các giá trị của nghệ thuật ngôn từ (biện pháp nghệ thuật được sử dụng, tác dụng của nó hay giá trị biểu đạt của từ ngữ, hình ảnh thơ...). Đó là tích hợp với phân môn tiếng Việt để từ đó hình thành cho học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt trong tiếp nhận văn bản. Kiến thức từ văn bản, tiếng Việt lại có tác dụng trở lại giúp học sinh tạo lập được các văn bản theo từng thể loại nhất định (tích hợp với phân môn làm văn)... Việc tích hợp còn được thể hiện với sự liên môn kiến thức Ngữ văn với các môn học thuộc ngành khoa học xã hội nhân văn và các ngành khoa học khác. Chẳng hạn có thể vận dụng tích hợp kiến thức với các môn có mối liên hệ gần gũi như Lịch sử, Địa lý, Âm nhạc, Mỹ thuật, Công dân nhằm giúp học sinh có được kiến thức, kỹ năng thực hành toàn diện, góp phần giáo dục đạo đức công dân, kỹ năng sống, hiểu biết xã hội. Việc giải nghĩa của từ ngữ, phân tích tác dụng của từ ngữ, hình ảnh, chi tiết, biện pháp tu từ...trong tác phẩm thơ và chỉ ra được mối liên hệ giữa các thông tin trong văn bản (chính là chúng ta đã thực hiện thao tác tích hợp với phân môn tiếng Việt). Phần này, học sinh có thể làm việc cá nhân. Ví dụ với văn bản “Ánh trăng”, sau khi học sinh chỉ ra các từ ngữ “tri kỉ”, “tình nghĩa” ở phần 1, học sinh sẽ giải thích nghĩa của các từ ngữ đó để hiểu nó biểu thị nội dung gì, qua câu hỏi: Em hiểu như thế nào là tri kỉ? Tình nghĩa? Hoặc các em sẽ tìm hình ảnh vầng trăng trong quá khứ được thể hiện bằng các biện pháp nghệ thuật nào? Tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó? Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  8. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” Các em sẽ tiếp tục chỉ ra mối quan hệ giữa các thông tin: biện pháp ẩn dụ, nhân hóa chính là việc thể hiện qua các từ ngữ miêu tả vầng trăng, để từ đó các em hiểu được nội dung: trăng trong quá khứ là bạn với người, thậm chí là bạn tri kỉ, tình nghĩa...Và khi rút ra được nội dung đó, học sinh sẽ rất dễ so sánh giữa tình cảm nguời và trăng trong quá khứ với người và trăng trong hiện tại để thấy được sự thay đổi đáng trách của con người. Học sinh có thể vận dụng đọc hiểu để tích hợp với những bài: nghị luận xã hội về thái độ sống, đạo đức sống (Tích hợp với phân môn tập làm văn). Các em có thể tự thấy được những biểu hiện của lối sống đó trong thực tế cuộc sống của các em; trong đó có rất nhiều người thực hiện tốt đạo lý “uống nước nhớ nguồn” như sự hiếu thảo của con cái, sự hiếu kính của học trò, thái độ biết ơn của dân tộc đối với những người có công, các vị anh hùng..., nhưng ngược lại cũng có nhiều biểu hiện chưa tốt: con cái vô ơn với cha mẹ, học trò còn vô lễ với thầy cô...Từ đó các em tự xác định cho bản thân mình lối sống, thái độ sống đúng đắn. Từ việc so sánh đó, giáo viên tích hợp với môn Giáo dục công dân ở các bài học đạo đức: cần phải có thái độ sống ân nghĩa, có lòng biết ơn, không nên như nhân vật trữ tình để rồi có lúc phải giật mình. 2.1.3.3. Phản hồi, đánh giá thông tin trong văn bản: Từ việc hiểu biết chung về văn bản, học sinh tiếp tục đánh giá các thông tin: là các từ ngữ, hình ảnh hay biện pháp nghệ thuật... dùng trong văn bản như thế nào? ở mức nào? (Thành công hay không thành công?). Đánh giá cảm xúc của người viết như thế nào và nhận ra khuynh hướng của người viết hoặc tư tưởng, quan điểm của người viết. Giáo viên có thể vận dụng phương pháp thảo luận nhóm. Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự tham gia tích cực của học sinh trong học tập. Trong thảo luận nhóm, học sinh được tham gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm. Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề khó khăn. Thảo luận nhóm được tiến hành theo các hình thức: Nhóm nhỏ (cặp đôi hoặc cặp ba), nhóm trung bình (4 đến 6 người) hoặc nhóm lớn (8 đến 10 người trở lên). Tùy vào từng mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì hay thay đổi từng phần của tiết học, được giao cùng nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Khi thực hiện nhiệm vụ trong thảo luận nhóm, nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một việc, các thành viên đều phải Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  9. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để tổ chức một hoạt động theo hình thức thảo luận nhóm, GV cần tiến hành các bước như sau: Bước 1: Bước chuẩn bị (giao nhiệm vụ): Chuẩn bị đề tài, mục tiêu bài hcoj thông qua thảo luận nhóm, câu hỏi, hình thức trình abyf, vật dụng, thời gian cho thảo luận. - Nội dung thảo luận nhóm: là những câu hỏi, bài tập gắn với những tình huống dạy học mang tính phức hợp và có vấn đề, cần huy động sự suy nghĩ, chia sẻ của nhiều học sinh để tìm các giải pháp và phương án giải quyết. Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: Chia nhóm theo yêu cầu nhiệm vụ, các nhóm tự phân công vị trí của các thành viên. - Trong quá trình thảo luận nhóm, giáo viên quan sát, điều chỉnh chỗ ngồi, nhắc nhở hay hỗ trợ khi nhóm nào cần. Bước 3: Trình bày kết quả: Đại diện các nhóm trình abyf kết quả, các thành viên của nhóm có thể bổ sung thêm, hoặc các nhóm khác nhận xét, bổ sung. - Giáo viên là người đúc kết, bổ sung ý kiến, nhấn mạnh nội dung quan trọng... Chú ý: Khi các nhóm thảo luận, giáo viên không dừng lâu ở nhóm nào. - Khi các nhóm trình bày, nếu là chủ đề giống nhau, không nhất thiết các nhóm đều trình bày, hoặc các nhóm chỉ trình bày các quan điểm mà khác với nhóm trước. Với các tác phẩm thơ hiện đại lớp 9, chúng tôi có áp dụng phương pháp thảo luận nhóm nhưng dưới dạng những bài tập, câu hỏi nhỏ: Ví dụ 1: Khi dạy văn bản “Ánh trăng”, phần đánh giá thông tin và nhận ra khuynh hướng tư tưởng của tác giả, học sinh làm việc theo 3 nhóm như sau: - Mỗi nhóm tương ứng với một câu hỏi - Thời gian làm việc của cá nhóm là 2 phút - Phương tiện là phiếu học tập. Câu 1 (Nhóm 1): Những đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công cho bài thơ? Câu 2 (Nhóm 2): Tại sao bài thơ chỉ có một dấu chấm duy nhất ở cuối bài? Câu 3 (Nhóm 3): Ý nghĩa nhan đề bài thơ? Các nhóm làm việc trong thời gian 2 phút, kết quả của các nhóm sẽ tập trung làm nổi bật quan điểm, tư tưởng của người viết hoặc cảm xúc của người viết: nhận ra sự sai lầm của mình, giật mình để sửa chữa, hoàn thiện mình. Bài thơ giống như câu Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  10. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” chuyện, một lời tâm sự, một lời nhắc nhở mọi người: cần sống nhân nghĩa, thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Đó cũng là đạo lý truyền thống của dân tộc.. Cũng từ đó, học sinh nhận ra phong cách riêng của nhà thơ Nguyễn Duy: với những vần thơ nhẹ nhàng, dung dị nhưng cũng đầy chất triết lý. Ví dụ 2: Khi dạy Đồng chí, sau khi học sinh đã khám phá các giá trị của văn bản, giáo viên có thể chia nhóm cho học sinh thảo luận theo nhóm theo các năng lực (TB, Khá, Giỏi) như sau: Câu 1: Em hiểu như thế nào về tình đồng chí, sau khi học xong văn bản? Câu 2: Tại sao tác giả lại đặt tên tác phẩm là “Đồng chí”? Câu 3: Tại sao nói 3 câu cuối cùng là bức tranh đẹp về tình đồng chí, có kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn? Từ kết quả làm việc nhóm các em tự nhận ra phong cách thơ của Chính Hữu: cô đọng, hàm súc, dư ba...và khuynh hướng tư tưởng mà tác phẩm đề cập đến: ca ngợi tình đồng chí của những người lính chống Pháp. Như vậy các nhiệm vụ giao cho các nhóm được phân chia theo mức độ năng lực, tạo điều kiện cho các em trong lớp đều được tham gia làm việc. 2.1.4. Hoat động 4: Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản. Học sinh vận dụng những hiểu biết về văn bản đã học để đọc các loại văn bản khác nhau, sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống yêu cầu dùng đến hoạt động đọc hiểu. Đó là việc vận dụng đọc văn bản khác ngoài chương trình, ngoài sách giáo khoa có cùng đề tài, chủ đề hoặc hình thức thể hiện để củng cố những hiểu biết và rèn luyện kỹ năng đọc hiểu. Ví dụ sau khi học xong tác phẩm thơ: “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải – Ngữ văn 9 tập 2, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh vận dụng hiểu biết về văn bản để đọc và hiểu, cảm thụ về những câu thơ sau trong bài “Tiếng ru” của Tố Hữu: “Một ngôi sao chẳng sáng đêm Một thân lúa chín chẳng nên mùa vàng Một người đâu phải nhân gian? Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi”? Học sinh phải cảm nhận được lý tưởng sống của 2 nhà thơ trên có nét tương đồng: đều đề cập tới lối sống vì mọi người, đặt lợi ích chung của đất nước của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, không tách mình khỏi cộng đồng, khỏi cuộc sống chung... Hoặc học sinh vận dụng kiến thức đọc hiểu từ văn bản thơ vừa đọc để bàn luận về những vấn đề trong cuộc sống có thể giải quyết bằng sự học hỏi từ nội dung của văn bản đã đọc hiểu. Ví dụ cũng là từ lý tưởng sống của nhà thơ trong “Mùa xuân nho nhỏ”, hãy bàn luận về lẽ sống của thanh niên trong thời đại ngày nay? Bài bàn Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  11. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” luận đó có thể là lối sống tích cực như nhà thơ (phân tích lối sống tích cực của nhà thơ, đối chiếu với lối sống tích cực của đại bộ phận thanh niên ngày nay), có thể thấy được mặt trái của lối sống tiêu cực của một phần nhỏ thanh niên: thiên về lối sống hưởng thụ là chính, lười học, lười lao động... Hoặc cũng có thể yêu cầu học sinh đưa ra những giải pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể từ việc vận dụng những hiểu biết về văn bản đã đọc hiểu. Cũng có thể cho học sinh tự rút ra bài học cuộc sống từ văn bản. Ví dụ 1: sau khi học xong văn bản thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, học sinh sẽ vận dụng những kiến thức đọc hiểu để giải quyết một vấn đề cụ thể: Mối quan hệ giữa bếp lửa trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt với bếp lửa đời thường. Trước vấn đề đặt ra của tình huống này, học sinh có thể vận dụng bài đọc hiểu để giải quyết theo nhiều cách khác nhau nhưng cần thấy được mối quan hệ giữa 2 hình ảnh trên: bếp lửa đời thường là hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam, gợi sức sống và tình cảm gia đình, sự bình yên, no ấm. Bếp lửa trong thơ Bằng Việt ngoài những ý nghĩa trên, đó còn là hình ảnh gắn với bà, nó cũng giống bếp lửa củi rơm trong đời thực nhưng nó giúp ta cảm nhận rõ hơn về tình bà cháu, tình quê nồng ấm. ..Từ bếp lửa đời đến bếp lửa trong thơ Bằng Việt là hành trình của tình yêu, nỗi nhớ, sự biết ơn và sức sống mãnh liệt... Ví dụ 2: Sau khi học xong văn bản “Bếp lửa”, giáo viên yêu cầu học sinh rút ra bài học cuộc sống: Trong cuộc sống, con người dù có trưởng thành đến đâu cũng không bao giờ được phép quên đi cội nguồn: ở đó có gia đình, có bà, có tuổi thơ, có quê hương... Đó chính là những hành trang không thể thiếu trên đường đời của mỗi con người, là chỗ dựa tinh thần, là nơi dù đi đâu ta cũng phải tìm về. Ví dụ 3: Từ hiểu biết về bài “Đồng chí”, hãy triển khai một đoạn văn theo luận đề: Những người đồng chí, từ cuộc đời thật đi vào thơ ca. Học sinh cũng vận dụng hiểu biết một cách linh hoạt, miễn là đảm bảo các ý: Từ đời thật: là những người línhcó thực trong đời sống. Họ xuất thân từ nông dân,từ những làng quê nghèo xơ xác. Nay họ tạm biệt gia đinh, quê hương vào chiến trường... Đi vào thơ ca: Chính hình ảnh giản dị, chân thực của họ đã làm nên chất thơ (nhà thơ không hề tô vẽ, mà viết về họ một cách chân thực)... 2.1.5. Hoạt động bổ sung: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm thêm những văn bản khác ngoài sách giáo khoa có cùng chủ đề với văn bản được học, để tự bổ sung thêm vốn hiểu biết cho bản thân, hoặc có thể vận dụng kiến thức của phần đọc hiểu của văn bản vừa học để đọc hiểu các văn bản ngoài sách giáo khoa đó. Ví dụ: Sau khi học xong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, học sinh tìm thêm những bài thơ khác cùng chủ đề người lính trong thời kì đó của tác giả khác hoặc của Phạm Tiến Duật. Bài tập này có thể giao về nhà cho học Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  12. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” sinh tìm hiểu. Giáo viên cũng có thể cung cấp thêm cho học sinh những tác phẩm tương tự ngoài sách giáo khoa, chẳng hạn “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”... Từ hoạt động bổ sung đó, giáo viên yêu cầu các em về nhà tự tìm hiểu thêm hoặc phải tự làm việc với các văn bản đó: như tìm hiểu chi tiết, hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật.. 2.2. Vận dụng dạy học theo bảng KWL: KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức dạy học hoạt động đọc hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K (biết) của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W (Thắc mắc) của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L (Học cái gì) *Mục đích sử dụng biểu đồ KWL Biểu đồ KWL phục vụ cho các mục đích sau: - Tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh về bài đọc - Đặt ra mục tiêu cho hoạt động đọc - Giúp học sinh tự giám sát quá trình đọc hiểu của các em - Cho phép học sinh đánh giá quá trình đọc hiểu của các em. - Tạo cơ hội cho học sinh diễn tả ý tưởng của các em vượt ra ngoài khuôn khổ bài đọc. * Sử dụng biểu đồ KWL : - Chọn bài đọc. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả với các bài đọc mang ý nghĩa gợi mở, tìm hiểu, giải thích - Tạo bảng KWL. Giáo viên vẽ một bảng lên bảng, ngoài ra, mỗi học sinh cũng có một mẫu bảng của các em. Có thể sử dụng mẫu sau. - Đề nghị học sinh động não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ đề. Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Tổ chức cho học sinh thảo luận về những gì các em đã ghi nhận. Chuẩn bị những câu hỏi để giúp học sinh động não. Đôi khi để khởi động, học sinh cần nhiều hơn là chỉ đơn giản nói với các em : “Hãy nói những gì các em đã biết về...”. Khuyến khích học sinh giải thích. Điều này rất quan trọng vì đôi khi những điều các em nêu ra có thể là mơ hồ hoặc không bình thường. Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  13. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” - Hỏi học sinh xem các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề. Cả giáo viên và học sinh ghi nhận câu hỏi vào cột W. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Nếu học sinh trả lời bằng một câu phát biểu bình thường, hãy biến nó thành câu hỏi trước khi ghi nhận vào cột W. - Hỏi những câu hỏi tiếp nối và gợi mở. Nếu chỉ hỏi các em : “Các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề này?” Đôi khi học sinh trả lời đơn giản “không biết”, vì các em chưa có ý tưởng. Hãy thử sử dụng một số câu hỏi sau : “Em nghĩ mình sẽ biết thêm được điều gì sau khi em đọc chủ đề này?” Chọn một ý tưởng từ cột K và hỏi, “Em có muốn tìm hiểu thêm điều gì có liên quan đến ý tưởng này không?” Chuẩn bị sẵn một số câu hỏi của riêng bạn để bổ sung vào cột W. Có thể bạn mong muốn học sinh tập trung vào những ý tưởng nào đó, trong khi các câu hỏi của học sinh lại không mấy liên quan đến ý tưởng chủ đạo của bài đọc. Chú ý là không được thêm quá nhiều câu hỏi của bạn. Thành phần chính trong cột W vẫn là những câu hỏi của học sinh. - Yêu cầu học sinh đọc và tự điền câu trả lời mà các em tìm được vào cột L. Trong quá trình đọc, học sinh cũng đồng thời tìm ra câu trả lời của các em và ghi nhận vào cột W. Học sinh có thể điền vào cột L trong khi đọc hoặc sau khi đã đọc xong. Ngoài việc bổ sung câu trả lời, khuyến khích học sinh ghi vào cột L những điều các em cảm thấy thích. Để phân biệt, có thể đề nghị các em đánh dấu những ý tưởng của các em. Ví dụ các em có thể đánh dấu tích vào những ý tưởng trả lời cho câu hỏi ở cột W, với các ý tưởng các em thích, có thể đánh dấu sao. Đề nghị học sinh tìm kiếm từ các tài liệu khác để trả lời cho những câu hỏi ở cột W mà bài đọc không cung cấp câu trả lời. (Không phải tất cả các câu hỏi ở cột W đều được bài đọc trả lời hoàn chỉnh) - Thảo luận những thông tin được học sinh ghi nhận ở cột L - Khuyến khích học sinh nghiên cứu thêm về những câu hỏi mà các em đã nêu ở cột W nhưng chưa tìm được câu trả lời từ bài đọc. Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  14. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” Ví dụ: Khi dạy “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật. Hoạt động 1: Khởi động: giáo viên cho học sinh hoạt động nhóm theo những câu hỏi sau để các em điền những thông tin các em đã biết về bài thơ, về tác giả của bài thơ. Phần này chúng ta có thể vận dụng trong tất cả các giờ dạy thơ hiện đại. Giáo viên sẽ vẽ bảng KWL lên bảng, học sinh vẽ vào vở. Cụ thể: Câu 1: Em có những hiểu biết gì về tác giả Phạm Tiến Duật( năm sinh, năm mất, quê quán, sự nghiệp thơ, phong cách thơ, đề tài thơ quen thuộc...) Câu 2: Em hiểu gì về tác phẩm? (Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, thể loại, bố cục, giọng điệu..) Câu 3: Bài thơ đề cập tới chủ đề nào, có phải là những chiếc xe không kính không? Các câu hỏi khởi động, học sinh nhanh chóng thảo luận và có câu trả lời, các em sẽ điền những thông tin ấy vào cột K. Hoạt động 2: Khám phá tác phẩm: Phần này học sinh nêu những thắc mắc của các em về bài thơ, có thể các em sẽ có rất nhiều thắc mắc, tuy nhiên các thắc mắc của học sinh, kết hợp với câu hỏi gợi mở của giáo viên để giáo viên hướng dẫn các em khám phá các giá trị văn bản. ? Tại sao bài thơ lấy hình ảnh những chiếc xe không kính, mà không phải là hình ảnh nào khác? Hình ảnh này có gì độc đáo? ? Từ chiếc xe không kính làm nổi bật hình tượng người lính lái xe trong thời chống Mỹ trên tuyến đường Trường Sơn? Tại sao xe không kính mà họ vẫn ra chiến trường được, thậm chí vẫn lạc quan? ? Giọng điệu bài thơ rất lạ, không giống những bài thơ khác? GV đặt câu hỏi thêm cho các em: ? Cảm nghĩ của em về hình ảnh thế hệ trẻ VN trong chống Mĩ, So sánh với người lính chống Pháp?... Sau khi đưa ra từng câu hỏi, các em ghi vào cột W, rồi tự đọc văn bản để tự tìm câu trả lời bằng cách thảo luận. Nếu đã có câu trả lời các em sẽ tự điền vào cột L. Tuy nhiên phần này, chúng ta chỉ vận dụng ít, còn phần lớn vẫn là cách giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi tìm, học sinh hoạt động cá nhân hoặc nhóm để giải quyết các câu hỏi. Hoạt động 3: Vận dụng: Học sinh làm thêm câu hỏi cuối cùng mà giáo viên đưa ra ở phần tìm hiểu tác phẩm theo suy nghĩ riêng của cá nhân các em. Mọi ý kiến của học sinh được tôn Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  15. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” trọng, miễn là lập luận hợp lý và thuyết phục. Phần này cũng vận dụng tốt trong giờ dạy thơ (có thể để cuối mỗi giờ học). MINH HỌA BẢNG KWL NHƯ SAU: K (Biết) W (Thắc mắc) L (Học cái gì) Tác giả: Phạm tiến Duật, quê huyện Thanh ? Tại sao bài thơ lấy hình ảnh những Ba, tỉnh Phú chiếc xe không kính, mà không phải là hình - Hình ảnh xe không Thọ; đề tài ảnh nào khác? Hình ảnh này có gì độc đáo? kính độc đáo vì quen thuộc là ? Từ chiếc xe không kính làm nổi bật thường người ta đưa thế hệ trẻ hình tượng người lính lái xe trong thời chống vào thơ những hình chống Mỹ; Mỹ trên tuyến đường Trường Sơn như thế ảnh đẹp, ở đây tác giả phong cách thơ nào? Tại sao xe không kính mà họ vẫn ra lại chọn hình ảnh bị sôi nổi, trẻ chiến trường được, thậm chí vẫn lạc quan? tàn phá của chiến trung, tinh ? Giọng điệu bài thơ rất lạ, không tranh-> chất thơ nghịch… giống những bài thơ khác? - Các phẩm chất cao - Tác phẩm: ra ?Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ? quý của người lính:... đời 1969, thơ GV đặt câu hỏi thêm cho các em: -Ngôn ngữ mang tính tự do, giọng ? Cảm nghĩ của em về hình ảnh thế hệ khẩu ngữ, giọng thơ điệu tự nhiên, trẻ VN trong chống Mĩ? So sánh với người như lời nói bình khỏe khoắn.. lính chống Pháp? Tự thường. - Từ chiếc xe không kính để nói về người lính Còn lại các câu hỏi khác các em làm việc cá nhân để phát huy khả năng sáng tạo. 2.3. Vận dụng dạy học nêu vấn đề: Dạy học nêu vấn đề hay còn gọi là dạy học giải quyết vấn đề. Dạy học nêu vấn đề có những đặc trưng sau: *Vấn đề và tình huống có vấn đề. Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  16. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” Vấn đề: là một sự việc, một hiện tượng, một khái niệm, một hiện trạng tồn tại khách quan mà ta gặp phải trong tư duy và hành động. Vấn đề này có thể ta chưa biết hoặc biết rất ít về nó. Tình huống có vấn đề: là một trạng thái tâm lý nảy sinh ở chủ thể trong khi gặp một khó khăn, một vấn đề cần giải quyết và để giải quyết vấn đề đó chủ thể cần đến tri thức mới, cách thức hành động mới (tương tự như tâm trạng người học khi gặp một bài toán mới, khó). Có 3 yếu tố cấu thành tình huống có vấn đề: - Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học. - Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết. Ví dụ: Khi dạy “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải, có thể học sinh đặt ra sự thắc mắc ngay đầu tiết học: Tại sao tên bài thơ lại độc đáo như thế? Mùa xuân là danh từ chỉ thời gian, vô hình, lại được đặt bên cạnh một tính từ nho nhỏ có hình khối, lại nhỏ chứ không phải là “lớn” hay “chín”. Điều này có ý nghĩa gì? Như vậy là các em đã có nhu cầu cần tìm hiểu vấn đề có tình huống và giờ học chính là giáo viên đưa các em vào tình huống có vấn đề để tự tìm ra câu trả lời, giải quyết tình huống đó. *Các hình thức tổ chức đa dạng trong dạy học nêu vấn đề: - Hình thức thứ nhất: Làm bài tập dạng đề án Thiết kế, làm đề án là một dạng hoạt động sử dụng các năng lực trí tuệ rất khác nhau của con người, đòi hỏi con người phải có năng lực tổng hợp, phân tích, khả năng lập luận có logic, sự sáng tạo, óc tưởng tượng và khả năng ghi nhớ. Việc sử dụng những bài tập thiết kế đề án trong dạy học cho phép kích thích các hoạt động tư duy đa dạng của HS, giúp HS thoát khỏi cách học thụ động: lặp lại y nguyên lời giảng của thầy. Trong thực tế ta thấy có thể có nhiều câu trả lời cho một câu hỏi, điều này càng đúng với môn văn: có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về một tác phẩm. Với trình độ học sinh THCS chúng tôi chỉ vận dụng hình thức này dưới dạng đề án nhỏ: Ví dụ, trước khi học về “Mùa xuân nhỏ nhở” - Thanh Hải, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà sưu tập những tư liệu về tác giả. Mỗi nhóm một phần việc. Nhóm 1: sưu tầm những tư liệu về cuộc đời nhà thơ, nhóm 2: Sưu tầm những tác phẩm của nhà thơ, nhóm 3: sưu tầm những hình ảnh, hoặc bài hát về quê hương nhà thơ. Như Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  17. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” vậy mỗi nhóm học sinh phải chịu trách nhiệm về một phần việc cụ thể để trình bày vào đầu tiết học. (Phần này chúng tôi kết hợp với vận dụng dạy học theo bảng KWL). Khi ra một bài tập dạng đề án cho HS, GV cần chú ý hướng dẫn HS: Thu thập tài liệu cần thiết cho bài tập đề án, ghi chép, photo lại tài liệu. - Xác định rõ các bước tiến hành, mục đích, yêu cầu cho đề án. - Liệt kê những câu hỏi và những vấn đề chưa được giải quyết. - Ðịnh rõ thời gian làm việc và hình thức trình bày kết quả (thuyết trình trước lớp, dán báo tường...) * Hình thức thứ 2: thảo luận (đã vận dụng kết hợp khi tổ chức các hoạt động khám phá tác phẩm) * Hình thức thứ 3: sắm vai (role play): có nhiều hình thức sắm vai như: + Cho HS sáng tạo lời nói, ý nghĩ nhân vật thay cho tác giả. + Nhập vai người kể chuyện để bình luận, đánh giá về nhân vật, sự kiện, tình huống theo quan điểm của mình. + Ðóng vai nhân vật để phát biểu suy nghĩ chủ quan về những con người, hoàn cảnh, sự kiện, tình huống trong tác phẩm. + Tham dự vào tác phẩm với tư cách là người trong cuộc: ví dụ đặt mình vào vị trí nhân vật và hình dung thái độ, phản ứng của mình trước các sự kiện. Ví dụ: Nếu em là người lính trong bài thơ “Ánh trăng” liệu em có thái độ và hành động như người lính khi gặp lại vầng trăng không? Với tình huống này học sinh có thể tự hình dung và có những câu tả lời khác nhau. - Hình thức thứ 4: thực hiện một đề tài nghiên cứu nhỏ. Giáo viên ra một đề tài nhỏ, yêu cầu HS thực hiện sau đó báo cáo và thuyết trình về một vấn đề nào đó của tác phẩm với nhiều hình thức như: cá nhân viết hoặc cả nhóm cùng viết, trình bày ở nhóm nhỏ, báo cáo của nhóm trước cả lớp hoặc dán báo tường.... Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  18. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” Ví dụ: Suy nghĩ của em về con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau khi học xong hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Học sinh tự suy nghĩ và cảm nhận về con người (Từ điểm giống và khác nhau qua hai tác phẩm đó).Việc làm này có thể yêu cầu học sinh về nhà làm và giáo viên kiểm tra vào hôm sau.Hoặc đưa ra ở giờ ôn tập thơ hiện đại Việt Nam. Như vậy việc sử dụng dạy học nêu vấn đề là một hình thức dạy học phát huy được tính sáng tạo, tích cực của học sinh nhưng cũng là một hình thức còn mới mẻ và tương đối khó với HS. Do vậy, khi áp dụng kiểu dạy học này GV cần có sự hướng dẫn cụ thể và cần chú ý đến trình độ HS. Hình thức nàyrất thích hợp với các lớp HS giỏi, khá, với các lớp trung bình hình thức này chỉ nên sử dụng trong mức độ nhất định. V. Hiệu quả kinh tế và xã hội 1. Hiệu quả đạt được: 1.1.Hiệu quả xã hội: Với các giải pháp mới mà chúng tôi đề xuất vào việc giảng dạy thơ hiện đại lớp 9, đã bước đầu góp phần vào việc phát triển năng lực cho học sinh, góp một phần vào mục tiêu của ngành giáo dục là đào tạo những con người phát triển toàn diện. Các em được hình thành năng lực như năng lực hợp tác, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Tất cả các năng lực đó trong cuộc sống đều rất cần. Không một lĩnh vực nào của xã hội mà không cần giao tiếp tiếng Việt, không lĩnh vực nào không cần đến năng lực hợp tác, sự sáng tạo...tất cả đều rất cần cho xã hội hiện đại. Các giải pháp trên không chỉ vận dụng vào dạy các tác phẩm thơ hiện đại lớp 9 mà còn vận dụng được ở các tác phẩm thơ hiện đại và thơ của trung đại ở các lớp dưới. Thậm chí có thể áp dụng trong dạy học môn Ngữ văn cấp THCS nói chung. Đó chính là tính mới mang lại hiệu quả xã hội thiết thực nhất. 1.2.Hiệu quả kinh tế: Với việc ứng dụng những giải pháp trên vào việc dạy và học môn Ngữ văn, không mất nhiều thời gian, tiền của, lại đem đến sự hứng thú học tập, khơi gợi trong học sinh niềm say mê, khám phá. Các em sẽ không mất thời gian vào những trò chơi vô bổ, lãng phí thời gian và có tâm lý học tập tốt không chỉ môn Ngữ văn mà ở tất cả các môn khác nữa. 2. Kết luận 2.1.Kết quả cụ thể khi áp dụng đề tài: Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  19. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” Khi áp dụng giảng dạy vào thực tế, hầu hết học sinh đều rất phấn khởi, có hứng thú với giờ học và tích cực học tập. Cụ thể: Khi kiểm tra tại lớp học: 20 em học sinh, chúng tôi đã thu được kết quả như sau: Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung bình Điểm yếu 4 (20%) 6 (30%) 10 (50%) 0 (0%) Đối chiếu với kết quả đầu năm Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung bình Điểm yếu 2 (10%) 3 (15%) 13 (65%) 2 (10%) Đối chiếu với kết quả: Lớp 9A của năm trước: Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung bình Điểm yếu 1/ 25 (4%) 5/25 (20%) 17/25 (68%) 2/25 (8%) Đối chiếu với lớp 9B không áp dụng dạy thực nghiệm: 9A (chưa thực Điểm giỏi: Điểm khá Điểm TB Điểm yếu nghiệm) 2/25=8% 4/25=16% 17/25=68% 2/25=8% Sĩ số: 25hs 9B (dạy thực nghiệm) 4/20=20% 6/20= (30%) 10/20= (50%) 0/20= 0% Sĩ số: 20hs Như vậy, rõ ràng áp dụng cách dạy này đã có hiệu quả rõ rệt. 2.2. Bài học kinh nghiệm: Để việc dạy thơ hiện đại lớp 9, cũng như dạy các tác phẩm thơ khác ở các lớp khác của môn Ngữ văn cấp THCS hướng tới phát triển năng lực người học, người giáo viên có thể vận dụng nhiều hình thức tổ chức dạy học phong phú, đa dạng. Trong khi tổ chức các hoạt động ấy phải vận dụng các phương pháp đặc thù vốn có của môn Ngữ văn một cách linh hoạt kết hợp với việc vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực như thảo luận nhóm, dạy học nêu vấn đề, dạy theo bảng thông minh... Đồng thời cần vận dụng dạy đọc hiểu với dạy học theo hướng tích hợp phân môn và liên môn. VI. Điều kiện và khả năng áp dụng của đề tài: Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
  20. Sáng kiến: “Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh” Điều kiện: Để đề tài được ứng dụng rộng rãi không chỉ ở giờ dạy và học Văn, mà còn ở các môn khác, đòi hỏi người giáo viên luôn phải suy nghĩ tìm tòi, vận dụng và rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả giờ dạy của mình. Người thầy phải thực sự say nghề, yêu nghề và nắm bắt nhanh nhạy tâm lý người học để tự điều chỉnh phương pháp, ứng phó kịp thời với các tình huống sẽ xảy ra trong giờ học. Về phía các nhà trường cũng cần quan tâm tới việc đổi mới phương pháp ở giáo viên, biểu dương kịp thời những giáo viên vận dụng sáng tạo phương pháp mới, khuyến khích nhân rộng việc đổi mới phương pháp tới từng giáo viên. Động viên giáo viên tham gia các cuộc thi chuyên môn như giáo viên giỏi, thi kiến thức liên môn để nâng cao tay nghề và có điều kiện học hỏi bạn bè đồng nghiệp các nơi. Khả năng áp dụng: Với đề tài trên, giáo viên Ngữ văn có thể vận dụng rộng rãi các giải pháp mới vào dạy nhiều kiểu bài khác nhau, nhiều thể loại văn học (Thơ, truyện...) và thậm chí áp dụng trong cả dạy tiếng Việt và làm văn. Việc vận dụng dạy tích hợp kiến thức liên môn, dạy học nêu vấn đề rất khoa học có thể vận dụng hết sức sáng tạo trong các môn học khác nữa. Các môn học khác như Lịch sử, Địa lý, Âm nhạc, Công dân, Sinh, Hóa...cũng có thể tích hợp với môn Ngữ văn. Xác nhận của cơ quan, đơn vị Tác giả sáng kiến Giáo viên: Trần Nhật Lan – Trường THCS Ninh Xuân – Hoa Lư
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0