intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ Đọc - hiểu văn bản môn Ngữ văn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

40
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm THCS "Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ Đọc - hiểu văn bản môn Ngữ văn" nhằm giúp giúp cho học sinh được rèn luyện các thao tác, kĩ năng cho thuần thục, mà lại được tự do sáng tạo, được bày tỏ những gì mà mình nghĩ. Được yêu – ghét hồn nhiên mà ít bị lệ thuộc vào sự gò bó nghiêm ngặt. Ở những tiết học ấy, kiến thức về các bài học vẫn được củng cố mà không khí không còn căng thẳng, học sinh hào hứng với tâm thế chủ động, tích cực, say mê sáng tạo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ Đọc - hiểu văn bản môn Ngữ văn

  1. UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH MàSKKN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ   Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ văn” Lĩnh vực: Ngữ văn Cấp học: Trung học cơ sở Tên tác giả: Đặng Thị Vân Đơn vị công tác: Trường THCS Lương Thế Vinh                                Chức vụ: Giáo viên \
  2. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn”                                       NĂM HỌC: 2016­2017 2/25
  3. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” MUC LUC ̣ ̣ A. ĐĂT VÂN ĐÊ ̣ ́ ̀                                                          I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI II. PHAM VI, THỜI GIAN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI        III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. CƠ SỞ LÍ LUẬN                                              ̣ II. TINH TRANG TH ̀ ỰC TÊ KHI CH ́ ƯA THỰC HIÊN ̣ ̀ ̀ ̣ 1. Vê phân hoc sinh. 2.Vê phân giao viên. ̀ ̀ ́ ́ ̣ III. SÔ LIÊU ĐIÊU TRA                                                      ̀ IV. NHƯNG BIÊN PHAP TH ̃ ̣ ́ ỰC HIÊN  ̣ ̉ V. KÊT QUA TH ́ ỰC HIÊN CO ĐÔI CH ̣ ́ ́ ỨNG  C. KÊT LUÂN CHUNG VA KIÊN NGHI. ́ ̣ ̀ ́ ̣                                  3/25
  4. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” A. ĐĂT VÂN ĐÊ ̣ ́ ̀    I. LI DO CHON ĐÊ TAI : ́ ̣ ̀ ̀             Trên văn bia Văn Miêu – Quôc T ́ ́ ử Giam co viêt : “Hiên tai quôc gia chi ́ ́ ́ ̀ ̀ ́   nguyên khi, nguyên khi thinh tăc quôc thê c ́ ́ ̣ ́ ́ ́ ường di long , nguyên khi nôi tăc ̃ ́ ̃ ́  quôc thê nh ́ ́ ược di ô”. Nghia la: Hiên  tai la nguyên khi quôc gia, nguyên khi ̃ ̃ ̀ ̀ ̀ ̀ ́ ́ ́  ̣ thinh thi n ̀ ươc manh, nguyên khi yêu thi n ́ ̣ ́ ́ ̀ ươc suy. Nh ́ ư  vây, ro rang nhân tô ̣ ̃ ̀ ́  con ngươi trong moi th ̀ ̣ ơi đai la vô cung quan trong. ̀ ̣ ̀ ̀ ̣               Ngay nay, đât n ̀ ́ ươc ta đang b ́ ước vao xu thê hôi nhâp. Đang va Nha ̀ ́ ̣ ̣ ̉ ̀ ̀  nươc  vân kiên đinh con đ ́ ̃ ̣ ường đi lên chu nghia xa hôi v ̉ ̃ ̃ ̣ ới nhiêm vu tr ̣ ̣ ước măt́  vô cung b ̀ ưc thiêt la th ́ ́ ̀ ực hiên thanh công s ̣ ̀ ự nghiêp công nghiêp hoa, hiên đai ̣ ̣ ́ ̣ ̣  hoa đât ń ́ ươc. Va giao duc la quôc sach hang đâu nhăm giao duc nâng cao dân ́ ̀ ́ ̣ ̀ ́ ́ ̀ ̀ ̀ ́ ̣   ́ ̀ ̣ tri, đao tao nhân l ực, bôi d̀ ương nhân tai đê đap  ̃ ̀ ̉ ́ ứng nhu câu cua th ̀ ̉ ời đai. Coṇ   ngươi lao đông m ̀ ̣ ới phai la con ng ̉ ̀ ười phat triên toan diên. ́ ̉ ̀ ̣ ̣            Vây ma, co môt th ̀ ́ ̣ ực trang đang tôn tai trong nha tr ̣ ̀ ̣ ̀ ương phô thông hiên ̀ ̉ ̣   ̀ ̣ nay la hoc sinh không thich hoc môn Ng ́ ̣ ữ văn. Vi sao lai co th ̀ ̣ ́ ực trang đo ? Co ̣ ́ ́  ̣ rât nhiêu nguyên nhân. Môt phân do xu thê chon nghê cua xa hôi; môt phân do ́ ̀ ̀ ́ ̣ ̀ ̉ ̃ ̣ ̣ ̀   ̣ đinh h ương cua cac bâc phu huynh h ́ ̉ ́ ̣ ̣ ương con em ho  ́ ̣ ưu tiên cac môn hoc t ́ ̣ ự  nhiên;   môṭ   phân  ̀ cung  ̃ do  ban̉  thân  môn  Ngữ  văn  là môn  hoc̣  không  dễ và  nguyên nhân nưa không thê không kê đên la do kiên th ̃ ̉ ̉ ́ ̀ ́ ưc, ph ́ ương phap truyên ́ ̀  ̣ ́ ̀ ̣ thu co phân han chê, cách thi ́ ết kế  nội dung, các bước tổ  chức cho học sinh   tiếp cận tri thức thiêu sinh đông  cua chinh giao viên. ́ ̣ ̉ ́ ́           Hiện nay, việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang   được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về  việc   thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực   tế, chúng ta có thể  khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp  giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới ,lạ, cập nhật   với cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và   đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy   sáng tạo, biết phát hiện và giải quyết vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm  nhận của riêng mình. Có nghĩa là học sinh được rèn nhiều kĩ năng, được phát  triển nhiều năng lực tiềm  ẩn bên trong các em như  : năng lực giao tiếp tiếng   Việt; năng lực hợp tác làm việc nhóm; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực  cảm thụ thẩm mĩ…Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em,  4/25
  5. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” như đại văn hào Nga M.Gor­ ki  đã từng nói: “Giáo dục nhằm phát triển tài năng  chứ không tạo ra tài năng”! ̉ ̣           Đê hoc sinh yêu thich môn Ng ́ ữ Văn thi ng̀ ươi thây đong môt vai tro c ̀ ̀ ́ ̣ ̀ ực   ki quan trong. Nh ̀ ̣ ư  Han Du – môt hoc gia Trung Hoa nôi tiêng, đa t ̀ ̃ ̣ ̣ ̉ ̉ ́ ̃ ừng noi :́   “Thây la ng ̀ ̀ ươi truyên đao, trao nghiêp, c ̀ ̀ ̣ ̣ ởi giai mê hoăc”. Đung vây, môt gi ̉ ̣ ́ ̣ ̣ ơ ̀ hoc Ng̣ ữ văn thanh công la s ̀ ̀ ự nô l ̃ ực song song giưa thây va tro. Thây đong vai ̃ ̀ ̀ ̀ ̀ ́   ̉ ̣ tro dân dăt, chi đao, tro gi ̀ ̃ ́ ̀ ữ vai tro chu đông, tich c ̀ ̉ ̣ ́ ực kham pha, tich luy tri ́ ́ ́ ̃   thưc. Điêu nay cang thê hiên ro  ́ ̀ ̀ ̀ ̉ ̣ ̃ ở  nhưng ph ̃ ần luyện tập giup cho hoc sinh ́ ̣   được rèn luyện các thao tác, kĩ năng cho thuần thục, mà lại được tự  do sang ́   ̣ tao, đ ược bay to nh ̀ ̉ ưng gi ma minh nghi. Đ ̃ ̀ ̀ ̀ ̃ ược yêu – ghet hôn nhiên ma ít b ́ ̀ ̀ ị lệ   thuôc vao ṣ ̀ ự  gò bó nghiêm ngặt.  Ở những tiết học  ấy, kiến thức về các bài  học vẫn được củng cố  mà không khí không còn căng thẳng, học sinh hào  hứng với tâm thế chủ động, tích cực, say mê sáng tạo.           Qua những năm thực hiện chương trình thay sách và đổi mới phương   pháp dạy học nói chung và môn Ngữ văn nói riêng, với cương vị là Tổ trưởng  chuyên môn, tôi đã được dự  khá nhiều giờ  của đồng nghiệp trong trường  cũng như  trường bạn, song điều tôi còn băn khoăn là một số  thầy cô vẫn   thuyết trình nhiều, việc cung cấp kiến thức đôi khi còn mang tính áp đặt, đặc  biệt là khâu Đọc­Hiểu văn bản; các thầy ít giao bài tập cho nhóm, cá nhân  chuẩn bị  từ  lúc  ở  nhà; trên lớp, không tạo điều kiện cho các em được thể  hiện…Tôi thiết nghĩ có nhiều cách để phát huy tính tích cực, chủ động , sáng   tạo   và   năng   lực   của   học   trò   như   giáo   sư   Nguyễn   Khắc   Phi   khẳng   định:  “Trong quá trình dạy học, không cho phép dạy học theo kiểu máy móc rập   khuôn, nhồi sọ  mà luôn luôn đòi hỏi sự  năng động, vận dụng linh hoạt sáng  tạo của người thầy”. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến   “Dạy học theo định   hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ  Đọc ­ Hiểu văn bản   môn Ngữ văn” II. PHAM VI, TH ̣ ƠI GIAN TH ̀ ỰC HIÊN ĐÊ TAI :  ̣ ̀ ̀ ́ ́ ữ văn  dạy phần văn bản                          ­ Cac tiêt Ng                ­ Học kì I ­ Năm hoc : 2016­2017 ̣ III. ĐÔI T ́ ƯỢNG NGHIÊN CƯU: ́                   lớp: 9C IV. PHƯƠNG PHAP NGHIÊN C ́ ƯU: ́ 5/25
  6. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” ̀ ̉                Điêu tra, khao sat, quan sat, đôi chiêu, phân tich, th ́ ́ ́ ́ ́ ực nghiêm ̣ B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI      I.CƠ SỞ LÍ LUẬN:            Phải nói rằng, lứa tuổi học sinh THCS với đặc điểm tâm sinh lí hết sức   điển hình. Đây là thời kì quá độ  chuyển từ  giai đoạn trẻ  em sang người lớn.   Trong giai đoạn này, hứng thú của các em đã phát triển  ở mức độ  cao; hứng  thú về học tập đã phát triển và ngày càng đậm nét. Đây là một đặc điểm hết   sức thuận lợi đối với việc giảng dạy bộ môn Ngữ  văn. Việc tò mò thích thú  môn Văn không phải là khoảng cách xa đối với các em. Bên cạnh đó, ý thức  tự lập và khả năng đào sâu khám phá những nét đẹp trong cuộc sống và khám  phá những năng lực tiềm ẩn trong bản thân khá cao­ đó là một ưu điểm điển  hình của học sinh bậc THCS.Song song những  ưu điểm trên là những nhược   điểm   mà nhiều em mắc phải, đó là còn rụt rè e ngại; còn tự  ti trong việc  nhận thức, đánh giá về  bản thân; còn ngại khó, chưa chủ  động trong học  tập… nên chưa đánh thức, phát huy hết khả năng tiềm ẩn của bản thân mình.  Vậy làm thế nào để giải quyết những khó khăn đó? Làm thế nào để giờ dạy   và học môn Ngữ văn có hiệu quả? Làm thế nào để đánh thức , khơi dậy khả  năng của học trò? II.CƠ SỞ THỰC TIỄN:           Như chúng ta đã biết “Văn học là nhân học”; “Văn học là nghệ  thuật  của ngôn từ”. Chính vì vậy, việc học Văn không phải đơn giản.Hơn nữa,  trong thời đại hiện nay, môn Ngữ  văn không còn là “điểm đến” hấp dẫn với  các em học sinh như  các môn: Toán, Lí, Hóa, Anh văn…mặc dù đó là một  trong hai môn chính chiếm số  lượng tiết không nhỏ. Có nhiều học sinh rất  ngại học môn Văn bởi lí do là văn viết dài, khó học, khó thuộc. Có những tác   phẩm tự sự  dài học sinh lười không đọc hết dẫn tới tình trạng mơ  màng về  6/25
  7. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” nội dung, cốt truyện, nhân vật. Có những bài thơ  khi học xong, học sinh   không nắm được nghệ thuật tiêu biểu, nội dung ý nghĩa của bài thơ. Các em  không chủ động tìm tòi, nghiên cứu tác phẩm ở nhà, cộng với trên lớp thầy cô  “làm hộ” các em nên học sinh không được rèn kĩ năng …vì thế  các năng lực   tiềm ẩn của học sinh không được đánh thức, khơi dậy dẫn đến kiểu học nhồi   sọ, rập khuôn máy móc không hiệu quả. Những lí do trên khiến tâm lí học  sinh ngại và chán học môn Văn. Vậy làm thế nào để khắc phục khó khăn đó?   Làm thế nào để tiết dạy học môn Ngữ văn thật sự có hiệu quả để thu hút học   sinh say mê học tập?           Để trả lời cho câu hỏi đó, mỗi người thầy giáo phải rèn cho mình trái   tim nhiệt huyết, tri thức phong phú sâu sắc và bản lĩnh vững vàng khi đứng  trên bục giảng.  Như  chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ  đời sống, chính vì thế  văn  học rất gần gũi với mọi người. Những bài thơ  hay, những văn bản hấp dẫn   đã giúp cho giờ Văn không chỉ là giờ  học mà còn là những giờ  giải trí, khám  phá biết bao điều kì diệu của cuộc sống con người. Cũng trong các giờ  học   đó mà học sinh được rèn nhiều kĩ năng, được tự khám phá khả năng của bản   thân như năng lực giao tiếp tiếng Việt; năng lực làm việc nhóm; năng lực giải   quyết vấn đề; đặc biệt là năng lực cảm thụ  thẩm mĩ…Để  có giờ  Văn như  thế thì học sinh được rèn bằng cách giao bài tập nhóm, cá nhân chuẩn bị  bài  ngay từ   ở  nhà từ  khâu Đọc­Tìm hiểu chung đến khâu Đọc ­ Hiểu văn bản  và cả  phần  Luyện tập, vận dụng  của bài học. Đồng thời nó cũng đòi hỏi  người thầy phải chuẩn bị  kĩ càng, công phu và chủ  động, sáng tạo và linh  hoạt khi thiết kế bài giảng. III. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI:         Dạy học môn Ngữ  văn theo định hướng phát triển năng lực của học   sinh cấp THCS.             IV. TINH TRANG TH ̀ ̣ ỰC TÊ KHI CH ́ ƯA THỰC HIÊN.̣ 1 .Vê phân hoc sinh : ̀ ̀ ̣            ­ Ngại học do kiến thức dàn trải và có phần nhồi nhét.            ­ Kiến thức hổng nhiều. Các kĩ năng còn non yếu chưa được rèn luyện  cho nên khá lúng túng trong các khâu như  cảm hiểu và phân tích tác phẩm;  chưa nhuần nhuyễn khi áp dụng kiến thức đã học vào làm bài tập, nhất là quá  trình tạo lập văn bản... 7/25
  8. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn”            ­Thiếu sự chủ động, sáng tạo, còn thụ  động trong quá trình tiếp thu,   lĩnh hội tri thức; chưa biết làm việc theo nhóm cho có hiệu quả. ̣            ­ Hoc sinh th ờ  ơ, it rung đông v ́ ̣ ơi ve đep cua tac phâm văn hoc; ch ́ ̉ ̣ ̉ ́ ̉ ̣ ưa   được làm quen nhiều về các kiến thức lí luận văn học . ́ ừ ngữ it oi, cho nên dung t             ­ Vôn t ́ ̉ ̀ ừ con sai va thâm chi dung ma không ̀ ̀ ̣ ́ ̀ ̀   ̉ ̃ ̉ ư.̀ hiêu nghia cua t            ­ Diên đat lung cung, không thoat y; nhút nhát ng ̃ ̣ ̉ ̉ ́ ́ ại trình bày trước tập  thể.            ­  Giơ hoc trâm, buôn te, không tích h ̀ ̣ ̀ ̀ ̉ ợp được liên môn, không biết vận   dụng kiến thức bài học giải quyết các vấn đề   tương tự  hay liên quan ngoài   cuộc sống; kết quả thấp. 2. Vê phân giao viên: ̀ ̀ ́ ­ Chưa thât s ̣ ự chu trong trong nh ́ ̣ ưng gi ̃ ơ hoc nay. ̀ ̣ ̀ ̉ ­ Chuân bi s ̣ ơ  sai, thi ̀ ếu định hướng rõ ràng. Không xác định rõ trọng   tâm kiến thức, kĩ năng cần rèn cho học sinh. ­ Không giao bài tập về nhà và kiểm tra sát sao sự chuẩn bị của các em. ́ ̣ ̣ ­ Pho măc cho hoc sinh t ự lam. ̀ ­ Không đầu tư nghiên cứu hệ thống câu hỏi dẫn dắt cho khoa học nhất   là hệ  thống câu hỏi mở và cách thức tổ  chức các hoạt động trên lớp để  phát huy năng lực cuả học sinh . ́ ̉ ́ ́ ́ ̃ ́ ờ day va hoc văn ch             Tât ca cac yêu tô trên dân đên gi ̣ ̀ ̣ ưa thanh công. Cac ̀ ́  em không co h ́ ưng thu hoc Ng ́ ́ ̣ ữ văn; vôn t ́ ừ it đ ́ ược trau dôi cho phong phu; to ̀ ́ ̉  ̣ ̣ ̃ ̣ ̉ ̉ ra vung vê trong viêc diên đat suy nghi, tinh cam, cam xuc cua ban thân. T ̀ ̃ ̀ ́ ̉ ̉ ừ đo,́  ̣ ̉ ̉ viêc cam hiêu cac tac phâm trên l ́ ́ ̉ ơp cung bi han chê do cam quan không đ ́ ̃ ̣ ̣ ́ ̉ ược  đanh th ́ ưc va ren luyên. Nhi ́ ̀ ̀ ̣ ều kĩ năng yếu kém không được rèn giũa. Chất   lượng giáo dục chưa được cải thiện. V. SÔ LIÊU ĐIÊU TRA ́ ̣ ̀ : LỚP/SĨ SỐ NĂNG LỰC HỌC VĂN GIỎI KHÁ T.BÌNH YẾU KÉM 9C/40 2 (5%) 5 (12,5%) 17 (42,5%) 6 (15%) 4 (10%) 8/25
  9. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” VI. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:1. Giáo viên trau dồi để  có vốn kiến  thức phong phú về môn học:             ­ Giáo viên phải nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản về văn học,  bao gồm : kiến thức về  lịch sử văn học; kiến thức về  lí luận văn học; kiến   thức về tác phẩm  văn học cụ thể.              * Kiến thức về văn học sử :              Là có sự hiểu biết về quy luật hình thành và phát triển của các hiện   tượng và quá trình văn học diễn ra trong những điều kiện xã hội­ lịch sử nhất  định. Nắm chắc kiến thức văn học sử  có nghĩa là giáo viên trong quá trình  luyện tập ,sẽ giúp học sinh có cách nhìn hệ thống về tiến trình phát triển nền   văn học, từ đó nắm rõ hơn về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Các em hiểu  được văn học Việt Nam có mấy bộ  phận? Có thể  chia văn học Việt Nam ra   mấy giai đoạn lớn? Mỗi giai đoạn có tác giả và tác phẩm tiêu biểu nào? Những  chủ  để  lớn xuyên suốt nền văn học dân tộc là gì? Tác phẩm đang học ra đời  trong hoàn cảnh nào? Vị trí của nhà văn ấy trong nền văn học dân tộc?...Nắm   vững văn học sử, các em sẽ  tiếp nhận văn học một cách có hệ  thống, không  phiến diện, không lẫn lộn…để từ đó có cách nhìn nhận và đánh giá đúng đắn  về tác giả và tác phẩm.                Rõ ràng khi phân tích một tác phẩm nào đó, chúng ta phải xem xét   không chỉ những yếu tố trong văn bản mà còn phải căn cứ thêm nhiều yếu tố  khác ngoài văn bản, như: hoàn cảnh sáng tác , cuộc đời nhà văn, bối cảnh lịch  sử  xã hội, gia đình, bạn bè…đã góp phần hình thành tác phẩm đó như  thế  nào?...Những kiến thức ấy chính là do văn học sử cung cấp. Khi phân tích bài   thơ “Ngắm trăng”( Hồ Chí Minh­SGK Ngữ văn 8­ Tập 2) chẳng hạn:                                “Trong tù không rượu cũng không hoa                                 Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.                                 Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ                                 Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”                                                  (Trích “Nhật kí trong tù”).             Ở đây, ngoài việc phân tích cái hay, cái đẹp của văn bản, từ văn bản,   trong từng câu chữ, ý tứ của bài thơ như nhiều người đã chỉ  ra, nếu chúng ta   lại đặt bài thơ trong hoàn cảnh sáng tác của toàn tập thơ, soi rọi nội dung và  nghệ  thuật bài thơ  từ  ánh sáng chung, phong cách chung của toàn bộ  tập   “Nhật kí trong tù”; rồi lại liên hệ với những sáng tác của các nhà thơ  khác ở  9/25
  10. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” cùng một giai đoạn, cùng viết về trăng nhưng ở hoàn cảnh khác nhau…chúng   ta sẽ thấy bài thơ đẹp hơn nhiều lần, sâu sắc hơn và thấm thía hơn.                 *Kiến thức tác phẩm văn học:                    Đây là một bộ phận quan trọng nhất của hệ thống kiến thức cơ  bản về văn.Vì một lẽ đơn giản là nếu không nắm được tác phẩm thì coi như  mọi kiến thức về văn đều trống rỗng. Trước hết cần nắm vững nội dung tư  tưởng và nghệ  thuật của các tác phẩm đã được đưa vào chương trình sách  giáo khoa, sau đó tham khảo mở rộng khác ngoài chương trình.Ví dụ, khi dạy   bài thơ  “Ngắm trăng” (Hồ  Chí Minh­SGK Ngữ  văn 8­tập 2), giáo viên phải   biết liên hệ, so sánh với nhiều bài thơ cùng viết về trăng trong và ngoài nước.  Có thể  dẫn ra  trăng  trong thơ  Lí Bạch, Đỗ  Phủ, trăng trong ca dao dân ca,  trăng trong thơ Nguyễn Trãi, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du…                Có thể dẫn ra những vầng trăng trong một số thi phẩm cùng thời với   bài  “Ngắm trăng” của Bác: trăng trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…               Có thể so sánh vầng trăng của Bác ở những bài thơ Người viết trong   những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau. Trăng lúc Bác ở  trong tù, trăng khi   Người ở chiến khu Việt Bắc…               …Làm thế nào để khi bàn một vấn đề hay viết về một ý nào đó, bình   giảng   hay phân tích một câu thơ, đoạn thơ  nào đó, giáo viên không những  hiểu nó một cách chính xác, sâu sắc  mà còn mới mẻ và  diễn đạt, trình bày nó  một cách hấp dẫn , có thể đưa ra nhiều dẫn chứng văn thơ của nhiều tác giả  khác nhau tuy cùng viết về  một đề  tài, một ý, nhưng cách thể  hiện   phong   phú, đa dạng…  Trước một tình huống hấp dẫn, hình  ảnh đẹp, từ  ngữ  chứa  đựng nhiều thông tin…trong tác phẩm, giáo viên biết gợi dẫn cho học sinh  tìm tòi, giải mã theo suy nghĩ của các em nhưng có định hướng của người   thầy trên lập trường , quan điểm đúng đắn…về tác giả, tác phẩm.            Như ta đã biết, mỗi tác phẩm văn học,về   nội dung,  là một bức tranh  sinh động về  cuộc sống và con người. Và qua bức tranh đó, người viết luôn  gửi gắm những tình cảm, tư  tưởng và thể  hiện thái độ  của mình trước cuộc  sống. Nhưng những tác phẩm văn học muốn tồn tại được không cho phép  dập khuôn lặp lại giữa các tác giả, thậm chí cùng một tác giả. Vì vậy, khi  giúp học sinh khám phá tác phẩm văn học, giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng  phân tích , tổng hợp, biết so sánh, đối chiếu để  tìm ra những điểm tương  đồng và những nét đặc sắc riêng để từ đó mà có kiến thức sâu sắc về  mỗi tác  10/25
  11. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” phẩm. Chẳng hạn khi dạy “Chiếc lược ngà”   (Nguyễn Quang Sáng­ SGK  Ngữ văn 9), để  phân tích khía cạnh nội dung “ tình cảm thiêng liêng cao đẹp  của những người đồng chí được nối dài trong kháng chiến” thể hiện qua các   nhân vật   ông Sáu, ông Ba, cô giao liên Thu , giáo viên có thể  so sánh, đối   chiếu với những tác giả khác cùng đề tài:                              “Xưa tiễn chồng đi rười rượi tóc xanh                               Nay lại tiễn con đi rung rinh đầu bạc”                                                        ( Lưu Trọng Lư). Còn Tố Hữu thì:                               “Lớp cha trước, lớp con sau                        Đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Hoàng Trung Thông lại viết:                            “Ta lại viết bài thơ trên báng súng                                Con lớn lên viết tiếp thay cha                              Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống                              Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.” Và vẫn ý ấy, Trinh Đường không muốn lặp lại:                            “Cha còn đeo quân hàm                               Con đã ra nhập ngũ.                               Một hòn đá Trường Sơn                               Cha con cùng gối ngủ”.                     Còn về phương diện  nghệ thuật, giáo viên rèn cho học sinh kĩ  năng nhận diện và phân tích giá trị ,ý nghĩa để làm nổi bật nội dung, tư tưởng  của tác phẩm.          *Dấu câu và cách ngắt nhịp:             Nhà văn Tô Hoài coi dấu câu là một loại từ, là hình thức của chữ trong   tác phẩm. Và cả  cách ngắt nhịp cũng vậy. Nó góp phần tạo nên ý tại, ngôn   ngoại, nó có khả năng “gợi ra những điều mà từ không nói hết”, nhất là trong   thơ. Thật khó mà dùng ngôn từ để diễn tả sự im lặng và xúc động thiêng liêng  đến tận cùng , giây phút Bác Hồ  trở  về  Tổ  quốc sau 30 mươi năm xa cách   bằng mấy dấu câu trong đoạn thơ sau:                                   “Ôi! Sáng xuân nay, xuân 41                                    Trắng rừng biên giới nở hoa mơ                                    Bác về…Im lặng. Con chim hót                                    Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ…” 11/25
  12. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn”                                  (Tố Hữu­ Theo chân Bác) Hay ta cùng đọc đoạn văn sau đây:                  “Hằng năm cứ  vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên   không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỉ niệm mơn   man của buổi tựu trường.                   Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong   lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.”                                                 (Thanh Tịnh­ Tôi đi học. SGK Ngữ văn 8­ Tập 1) 2 Đoạn văn của Thanh Tịnh mỗi đoạn chỉ 1 câu với 62 chữ, 2 dấu chấm và 2  dấu phảy. Nhịp điệu câu văn nhẩn nha, không gấp gáp vội vàng. Ngữ  điệu  câu văn không có gì căng thẳng. Cả hai đoạn văn là những tiếng nói thì thầm,  nhỏ  nhẹ  như  lá rụng cuối thu, lãng đãng như  mây bạc lưng trời…Tất cả  nhằm diễn  đạt một tâm trạng, một hồi  ức, một tấm lòng đang “náo nức  những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường”.                 *Vần điệu, âm hưởng và nhạc tính:                Tiếng Việt rất giàu nhạc tính. Hệ thống vần điệu và thanh điệu là   những yếu tố cơ bản tạo nên tính nhạc của tiếng Việt nói chung và ngôn từ  văn học nói riêng, nhất là thơ.                 Một trong những tác dụng quan trọng của Vần là tạo nên âm hưởng   vang ngân trong thơ, chẳng hạn bài thơ  “Tức cảnh Pac Bó” (Hồ  Chí Minh­  SGK Ngữ văn 8­Tập 2). Bài thơ độc đáo ở chỗ cả bài gieo  một vần “ang” và  đều nằm  ở  cuối đủ  4 câu thơ  (hang; sàng; Đảng; sang) của 1 bài thơ  tứ  tuyệt! Người đọc hiểu rằng ,vào thời điểm đó, dẫu Chủ  tịch Hồ  Chí Minh  còn phải hoạt động cách mạng trong vòng bí mật (trong “hang”), dẫu phải lấy  “cháo bẹ”,”rau măng”, “bàn đá chông chênh” để sống, sinh hoạt và làm việc… ấy vậy mà cái “hang”  ấy lại rời rợi ánh sáng huy hoàng;  cuộc sống và công   việc hoạt động cách mạng  ấy lại rất  sang, bởi nó lấp lánh lòng lạc quan  ,niềm tin tưởng vào tương lai chói ngời của sự thành công và  thắng lợi…Có   lẽ tất cả đều do âm hưởng của vần “ang” rộng mở, ngân nga mang lại…                 *Từ ngữ , hình ảnh, các biện pháp tu từ:                 Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu   ngôn từ. Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học không thể  có cách nào khác là nhờ  vào hệ  thống từ  ngữ  này. Các phương tiện như  dấu  câu, nhịp điệu, ngữ âm ở trên cũng chỉ có ý nghĩa khi nằm trong một văn bản  mà từ ngữ làm nền tảng. Nhà văn muốn mô tả, tái hiện hiện thực phải thông  12/25
  13. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” qua từ ngữ. Muốn nói đến nỗi lòng của mình, tình cảm và tư tưởng của mình  cũng phải thông qua từ  ngữ…”Văn học là nghệ  thuật ngôn từ” chính là như  vậy. Quả  thật ngôn từ  trong các tác phẩm văn học vừa có tác dụng biểu ý,   vừa có tác dụng biểu cảm,  gợi hình ảnh, hương vị, âm thanh… Chẳng hạn như câu thơ của Nguyễn Du trong “ Truyện Kiều”:                               “Cỏ non xanh tận chân trời                        Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.                                 “Dưới trăng quyên đã gọi hè                        Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”. Hay đoạn văn của Nam Cao khắc họa hình ảnh về lão Hạc:                “Mặt lão đột nhiên  co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép  cho nước mắt chảy ra. Cái đầu của lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm   mém của lão mếu như  con nít. Lão hu hu khóc.” (Lão Hạc­ SGK Ngữ  văn 8­  Tập 1).                   ­ Ngôn từ văn học là loại ngôn từ đã được chắt lọc từ ngôn ngữ  đời thường, được nâng cấp, sửa sang, làm cho nó càng óng  ả, giàu đẹp hơn.  Các biện pháp tu từ  chính là những phương tiện quan trọng để  thực hiện   nhiệm vụ trang điểm ngôn từ văn học, đó là các biện pháp tu từ : so sánh, ẩn   dụ, nhân hóa, hoán dụ, điệp ngữ…Giáo viên rèn kĩ năng phân tích các biện   pháp tu từ tức là rèn cho học sinh biết chỉ ra hiệu quả của cách viết, cách nói   ấy, vai trò và tác dụng của chúng trong việc miêu tả, biểu đạt chứ không phải   đơn thuần là chỉ gọi được tên, liệt kê các biện pháp mà nhà văn đã dùng.                   Chẳng hạn , trong bài thơ “Ông đồ” (Vũ Đình Liên­ SGK Ngữ văn   8­ Tập 2) đã sử dụng phép tu từ nhân hóa rất thành công:                          “ Nhưng mỗi năm mỗi vắng                            Người thuê viết nay đâu                            Giấy đỏ buồn không thắm                            Mực đọng trong nghiên sầu”. “giấy” và “mực” ,hai vật vốn vô tri vô giác vậy mà giờ đây cũng biết buồn bã,  thảm sầu. Phải chăng chúng cũng biết đồng cảm, sẻ  chia cùng chủ  nhân là  ông đồ­ một thời vang bóng­ giờ  đây thất thế, đang rơi vào tột cùng của cô  đơn, sầu tủi   giữa sự  thờ   ơ  ghẻ  lạnh của thế  thái nhân tình? Vũ Đình Liên  thật tài tình , sử dụng phép nhân hóa, một mũi tên mà trúng hai đích: vừa phả  hồn vào vật để đồng cảm, sẻ chia, nuối tiếc, hoài cổ về một nét đẹp văn hóa  13/25
  14. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” Việt đang bị  mai một; đồng thời lại   thạch hóa những tâm hồn vô cảm, vô  tri!?...                   *Câu trong văn bản và thể loại văn bản:                Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học được phân tích, bên cạnh việc chú   ý khai thác các yếu tố hình thức nghệ thuật nói trên, cũng cần để ý đến kiểu  câu và thể loại văn bản. ­ Hiểu biết về  các kiểu câu cũng góp phần lí giải tốt tác phẩm. Ví dụ  như  trong “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn­ SGK Ngữ văn 8 tập 2) đã sử  dụng   chủ  yếu câu văn biền ngẫu( câu văn có nhiều vế  ,cân chỉnh, đăng đối như  những con ngựa đi   sóng đôi với nhau) khiến cho câu văn có kết cấu trùng  điệp, lời văn cuồn cuộn như triều dâng, mạch văn liên tục, tâm tư và tình cảm  của người viết sục sôi nơi đầu ngọn bút …góp phần không nhỏ  để  làm nên   áng thiên cổ hùng văn bất hủ .            *Thể loại văn bản:            Bên cạnh việc chú ý đến đặc điểm cú pháp, khi phân tích tác phẩm văn   học, còn phải xem xét một cấp độ cao hơn, đó là văn bản và thể loại của văn   bản.             Tác phẩm được phân tích có thể  là một tác phẩm trọn vẹn , nhưng   cũng                có thể chỉ là một đoạn trích. Điều này cũng chi phối cách thức   và phương hướng phân tích, tìm hiểu.             Tiếp theo là thể loại của văn bản( khá  quan trọng). Nếu là tác phẩm   thơ thì làm theo thể gì: lục bát, Đường luật hay tự do?...Nếu là văn xuôi thì là  truyện ngắn hay tiểu thuyết, kí hay kịch bản? …Thậm chí còn phải chú ý đến   tiểu loại nếu thấy cần thiết. Ví dụ: trong kí còn có: bút kí, tùy bút, nhật kí,  phóng sự…Trong tiểu thuyết thì có: tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết hiện   đại…Trong kịch lại có : bi kịch, hài kịch, kịch cổ  điển, kịch hiện đại…Mỗi  một thể  loại lại có những đặc điểm về  nội dung và nghệ  thuật riêng biệt.  Chính vì thế, nắm chắc đặc điểm thể loại của tác phẩm văn học, sẽ phân tích  đúng hướng.            Ví dụ: Một trong những đặc điểm nổi bật của tác phẩm kí là sự phong   phú, sống động và chính xác về  số  liệu (người và việc), tạo nên tính chân  thực và sức thuyết phục. Trong khi đó, cái hay của truyện ngắn lại là ở  chỗ  nhà văn biết lựa chọn được một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, qua tình   huống ấy mà con người và sự  việc được bộc lộ. Chính vì thế, khi đọc “Bản  án chế  độ  thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc, ta thấy Người luôn dẫn ra   14/25
  15. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” rất nhiều số liệu về con người, và sự  việc: số lượng, nơi chốn, ngày, tháng,  nguồn tin với những chi tiết cụ thể, sống động như  đang chứng kiến. Đây là  cuộc hành hình kiểu Luynch: “…Chúng trói người da đen bị  hành hình vào  một gốc cây to trong rừng, tưới dầu lửa vào người. Trước khi châm lửa,  chúng bẻ  dần từng chiếc răng của nạn nhân, rồi móc mắt, giật từng mớ  tóc   xoăn, lột theo những mảng da đẫm máu…Người da đen không kêu được nữa:   lưỡi đã sưng phồng lên vì một thanh sắt nung đỏ  gí vào. Toàn thân người ấy   quằn quại như một con rắn bị đánh dập nửa mình, dở sống, dở chết”.              Còn đây là “thuế máu” của người bản xứ: “Bảy mươi vạn người bản   xứ  đã bước chân lên đất Pháp và trong số   ấy tám vạn người đã không còn   trông thấy mặt trời trên quê hương họ nữa”.           Ở truyện ngắn thì lại khác. Khi phân tích truyện ngắn, nên chú ý đến  tình huống truyện, cách kể  chuyện và hình tượng nhân vật. Chẳng hạn, cái  hay của truyện ngắn “Bức tranh của em gái tôi” của Tạ Duy Anh (SGK Ngữ  văn 6­tập 2) chính là chỗ  tác giả  xây dựng được tình huống bất ngờ   ở  cuối   truyện, cách chọn ngôi kể là nhân vật người anh xưng “tôi” cùng với bút pháp  miêu tả nội tâm tinh tế làm cho câu chuyện hấp dẫn, cảm động, mà lại chứa  đựng một triết lí sâu sắc về cuộc sống.                   *Nhân vật trong tác phẩm văn học:                   Nhân vật trong tác phẩm văn học có thể là người hoặc có thể là   vật (nhưng chứa đựng suy nghĩ, tình cảm của con người) .                   Nhân vật trong thơ trữ tình là nhân vật trữ tình thường xưng tôi, ta,  anh, em, mình… hoặc không thấy xưng ai cả, ví dụ:            ­“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới               Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.               Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng               Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”.                                            (Quê hương­ Tế Hanh, SGK­Ngữ văn 8)               ­ “Bỗng nhận ra hương ổi                  Phả vào trong gió se                  Sương chùng chình qua ngõ                  Hình như thu đã về”.                                          ( Sang thu­ Hữu Thỉnh ,SGK Ngữ văn 9 )                      Nhân vật trong tác phẩm văn xuôi ( tự sự) là những con người cụ  thể được tác giả miêu tả, có thể có tên hoặc không tên xưng “tôi”. Nhiều khi   15/25
  16. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” học sinh nhầm lẫn đồng nhất nhân vật xưng “tôi” với tác giả  như   ở  truyện  ngắn “Tôi đi học” của Thanh Tịnh chẳng hạn. Vì vậy phải giúp học sinh lưu   ý trong những trường hợp này.                 *Chú ý phong cách nghệ thuật của tác giả:                 Nói về phong cách thì không phải nhà văn nào cũng đều xây dựng   cho mình một phong cách nghệ  thuật rõ nét. Phong cách nhìn  ở  một phương  diện nào đó, và nói một cách đơn giản nhất, có thể gọi là chỗ hay nhất, mạnh   nhất của một nhà văn về tư  tưởng và nghệ  thuật, thường trở  đi trở  lại trong  sáng tác của người đó. Phong cách  ở  mỗi nhà văn là sự  sáng tạo ra một thế  giới nghệ  thuật riêng, có sức hấp dẫn riêng của nhà văn đó. Ví dụ  nhà văn   Nguyên Hồng, với những trang văn xuôi sôi nổi trữ  tình, thể  hiện một chủ  nghĩa nhân đạo thống thiết. Ông thường viết về những kiếp người đau khổ,  bất hạnh (đặc biệt là những người đàn bà) bị  những tai họa dồn dập vùi   xuống bùn đen, nhưng vẫn quyết vùng vẫy để  vươn lên ánh sáng. Còn Nam  Cao luôn đau đớn trước tình trạng người trí thức phải sống mòn, người nông  dân phải vứt bỏ nhân tính vì miếng cơm manh áo, các nhân vật trong tác phẩm  thường đấu tranh, giằng xé nội tâm gay gắt…               Nắm chắc những đặc điểm nổi bật về phong cách nghệ thuật của   mỗi nhà văn, trong quá trình cảm thụ  , phân tích tác phẩm sẽ  góp phần làm   sáng tỏ hơn những hiểu biết và cảm nhận của mình.            *Kiến thức lí luận văn học:             Ở cấp THCS, học sinh chưa được học lí luận văn học thành những bài  riêng và cũng không được nhiều thầy cô chú ý đúng mức. Tuy nhiên vẫn cần   cung cấp cho học sinh các khái niệm, thuật ngữ  về  lí luận văn học như: đề  tài, chủ  đề, hình  ảnh, hình tượng, tự  sự, trữ  tình, hư  cấu,  ước lệ, tượng   trưng, hiện thực, lãng mạn, phong cách, các thủ  pháp nghệ  thuật…vì nó có  mặt hầu như ở bất kì bài giảng văn nào trên lớp của thầy, hay các bài làm văn  của trò. Trong những giờ học Ngữ văn trên lớp, giáo viên giúp các em lí giải :   Thế  nào là đề tài? Thế nào là nhân vật trong tác phẩm văn học? Đề  tài khác   chủ đề ở chỗ nào? Nhân vật trong truyện cổ dân gian có những đặc điểm gì?   Loại nhân vật  ấy có gì khác so với các nhân vật trong các tác phẩm văn học   hiện đại? Tại sao loại nhân vật này thì được miêu tả  theo bút pháp này còn   loại nhân vật kia lại miêu tả theo bút pháp khác?            Để hình thành và củng cố kiến thức lí luận cho các em được một cách   vững chắc, giáo viên phải gắn các kiến thức ấy vào tác phẩm văn học cụ thể,   16/25
  17. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” liên hệ, đối chiếu để  làm sáng tỏ  qua các hình tượng văn học cụ  thể, sinh  động,   tránh   lí   luận   chung   chung,   khô   khan,   trừu   tượng   và   làm   một   cách   thường xuyên .           Tiết Đọc­hiểu văn bản cũng là những dịp thuận lợi có thể đưa vào để  khắc sâu kiến thức lí luận văn học cho học sinh. Ví dụ: Khi phân tích đến câu   cuối “Một mảnh tình riêng ta với ta” (“Qua Đèo Ngang”­ Bà Huyện Thanh   Quan ­ SGK Ngữ văn 7), một em HS (7D) viết: “Mảnh tình riêng đó, chỉ riêng   bà và cảnh biết thôi, bà và cảnh tuy hai mà một, bởi vì có chung tâm trạng.   Trước cảnh, bà đã bộc lộ tâm sự của mình, một tâm sự hoài cổ. Chính nét đặc  sắc đó về nội dung cũng như nghệ thuật” tức cảnh sinh tình”khiến cho thơ bà  mang một  phong cách  riêng, một phong cách thơ  rất đặc biệt.” hay em HS   khác khi bàn về “Thuế máu”( Trích “Bản án chế độ thực dân Pháp” SGK Ngữ  văn 8­tập 2) như  sau: “…sự  thực  ấy đã được Nguyễn Ái Quốc vạch trần   bằng những tư liệu phong phú, xác thực với giọng văn trào phúng sắc sảo”.                    Tất cả những kiến thức trên, giáo viên có thể đưa vào phần luyện  tập để bổ trợ kiến thức cho học sinh, đặc biệt là học sinh giỏi thì rất tốt. 2. Giáo viên cần nắm chắc chương trình dạy phần văn bản trong sách  giáo khoa:            ­ Có thể liệt kê các văn bản trong  chương trình SGK Ngữ văn 8 như  sau: THỂ LOẠI VĂN BẢN TÊN VĂN BẢN ­Tôi đi học (Thanh Tịnh). ­Trong lòng mẹ  (Trích Những ngày thơ   ấu­Nguyên  Truyện hiện đại  Hồng). Việt Nam ­Lão Hạc (Nam Cao). ­Tức nước vỡ bờ (Trích Tắt đèn­ Ngô Tất Tố). ­Cô bé bán diêm (An đéc xen). ­Đánh nhau với cối xay gió (Trích Đôn ki hô tê­ Xec  Truyện hiện đại van téc).  nước ngoài ­Hai cây phong ( Ai ma tốp). ­Chiếc lá cuối cùng (O.Hen ri). Thơ hiện đại Việt Nam ­Vào   nhà   ngục   Quảng   Đông   cảm   tác   (Phan   Bội  Châu). ­Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu Trinh). ­Muốn làm thằng Cuội (Tản Đà). 17/25
  18. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” ­Hai chữ nước nhà (Á Nam Trần Tuấn Khải). ­Nhớ rừng (Thế Lữ). ­Quê hương (Tế Hanh). ­Khi con tu hú (Tố Hữu). ­Tức cảnh Pac Bó; Ngăm trăng (Hồ Chí Minh). ­Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn). ­Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn). ­Nước   Đại   Việt   ta   (Trích  Bình   Ngô   đại   cáo  – Nguyễn Trãi). Nghị luận ­Bàn luận về phép học (Nguyễn Thiếp). ­Thuế  máu (Trích  Bản án chế  độ  thực dân Pháp­  Nguyễn Ái Quốc). ­Đi bộ ngao du (Trích Ê min hay về giáo dục). ­Ông Giuốc đanh mặc lễ  phục (trích  Trưởng giả  Kịch học làm sang– Mô li e). ­Thông tin về Ngày Trái đất năm 2000. Văn bản nhật dụng ­Ôn dịch, thuốc lá. ­Bài toán dân số. 3. Nội dung của giải pháp:                Sau khi đã nắm chắc chương trình SGK , Phân phối chương trình  và  các tiết yêu cầu giảm tải, giáo viên tìm ra  điểm yếu  mà học sinh hay  mắc về  kiến thức, về kĩ năng thực hành để  bồi dưỡng. Trong  kinh nghiệm   của bản thân thực tế giảng dạy 16 năm nay, tôi nhận thấy:                 ­Về mảng văn, các em thực sự lúng túng ở khâu cảm hiểu văn bản,  chưa biết khai thác những tín hiệu nghệ  thuật sáng giá để  làm nổi bật nội   dung tư  tưởng tác phẩm; mảng kiến thức về  văn học sử  còn yếu;  năng lực  tổng hợp, khái quát chưa tốt; chưa thực sự  hứng thú với những bài tập giao  về nhà; chưa phát huy được sở trường của bản thân như:  + Năng lực tự học. + Vẽ tranh minh họa nội dung bài học… + Tìm tòi nghiên cứu tài liệu. + Phỏng vấn ý kiến những người xung quanh, nhất là những người   hiểu biết, có uy tín. + Thuyết trình trước đám đông. 18/25
  19. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” + Viết kịch bản; khả năng nhập vai diễn xuất. + Đọc diễn cảm; đọc sáng tạo. + Cảm thụ những giá trị thẩm mĩ về nội dung và nghệ thuật.               ­ Đối với môn Ngữ văn, ngoài việc phát triển cho HS năng lực chung   còn phát triển cho các em năng lực chuyên biệt: năng lực giao tiếp tiếng Việt ,   năng lực cảm thụ thẩm mĩ…               ­ Để phát triển năng lực HS, nhất là trong môn học Ngữ văn thì GV  phải rèn cho các em kĩ năng Tự học. Tự học là một năng lực chung mà mọi  HS cần được hình thành và phát triển. Tự  học tức là tự  mình tìm hiểu, suy   nghĩ và rút ra kết luận về một vấn đề  hay một hiện tượng nào đó. Muốn có   năng lực tự học, đương nhiên phải có tri thức về lĩnh vực mà mình muốn tự  học. Muốn có tri thức về  lĩnh vực đó theo tinh thần tự  học thì phải tự  đọc,  đọc qua tài liệu, sách vở, các phương tiện thông tin khác nhau; cũng có thể tìm  hiểu, học hỏi qua kinh nghiệm của người khác, nhưng chủ  yếu tự  học là tự  đọc, tự  suy nghĩ và vận dụng. Tự  học phụ  thuộc rất nhiều vào sự  tự  giác,  niềm đam mê và tính tò mò , nói cách khác là ham hiểu biết. Không có yếu tố  này thì không thể có năng lực tự học.             Đối với môn Ngữ văn, năng lực tự học thể hiện trên hai bình diện: + Tự  đọc hiểu văn bản, tự  mình đọc và tìm tòi nội dung , ý nghĩa văn  bản, thể  hiện sự  ham thích đọc các loại văn bản. Sau đó biết suy nghĩ về  những điều đã đọc, liên hệ với cuộc sống xung quanh mình. Cụ thể như: ­ Hoạt động 1: Đọc văn bản và xác định thể loại (văn bản văn học hay  văn bản thông tin, đặc điểm nào của thể  loại văn bản cần chú ý trong việc  đọc hiểu) ­ Hoạt động 2: Tổ  chức tìm hiểu nội dung chính của vă bản: Tóm tắt  văn bản; nêu ý chính của văn bản. ­  Hoạt động 3: Tổ  chức tìm hiểu vai trò, tác dụng của hình thức văn  bản. Yêu cầu học sinh tìm, nêu lên các biểu hiện về  hình thức của văn bản:   Tên văn bản, bố  cục, cấu trúc văn bản; các từ  ngữ, câu chữ, hình  ảnh, nhịp  điệu, chi tiết…chỉ  ra một số  yếu tố  hình thức nổi bật nhất và phân tích vai  trò, tác dụng của các yếu tố đó. ­ Hoạt động 4: Tìm hiểu mục đích của văn bản: Mục đích của văn bản   là gì? Mục đích  ấy thể  hiện  ở  chỗ  nào, qua câu chữ  nào?...Với văn bản văn  học, mục đích phức tạp hơn, có khi không nằm ở câu chữ cụ thể. 19/25
  20. “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc ­ Hiểu văn bản môn Ngữ   văn” ­ Hoạt động 5: Tìm hiểu ý nghĩa của văn bản. Văn bản chỉ có một, bất  biến nhưng ý nghĩa thì nhiều , nhất là văn bản văn học. Sau khi học sinh đã  xác định được nội dung chính (Hoạt động 2), giáo viên yêu cầu tìm hiểu ý   nghĩa của câu hỏi : Văn bản nói về  nội dung này, nhưng có phải chỉ  nói về  nội dung cụ thể ấy không? Chẳng hạn 4 câu thơ đầu trong bài thơ  Đập đá ở  Côn Lôn  của Phan Châu Trinh có phải chỉ  đơn thuần   phác họa hình  ảnh   người tù khổ sai đập đá ở Côn Lôn hay không? Hoạt động này sẽ  mất nhiều  thời gian để  học sinh tìm ra tầng nghĩa thứ  hai là tác giả  còn khác họa bức   tượng đài uy nghi, lẫm liệt về  một đấng anh hùng cách mạng…Người giáo  viên phải có trình độ để làm trọng tài, gợi ra những hướng tiếp nhận và cảnh  báo những tiếp nhận suy diễn máy móc, khiên cưỡng. ­  Hoạt động 6: Yêu cầu học sinh đánh giá những giá trị của văn bản và  rút ra cách đọc văn bản này: Cần chú ý gì khi đọc văn bản này? Ví dụ khi học  xong truyện ngắn Cô bé bán diêm (An­đec­xen) , em cần chú ý cách đọc tác  phẩm của nhà văn An­đec­xen như thế nào? ( Chú ý về thủ pháp đối lâp, đan  xen; chú ý màu sắc cổ tích trong truyện ngắn An­đec­xen, Cách kết vừa hiện  thực vừa lãng mạn, vừa hiện thực vừa nhân đạo là nét nổi bật trong truyện   ngắn An­đec­xen). +Tự  tạo lập văn bản. Biết cách thẻ  hiện những điều mình nghĩ bằng hình   thức nói hoặc viết một cách trong sáng, dễ hiểu từ đúng đến hay.            Dạy học tích hợp là một trong những con đường để  phát triển năng  lực HS­ năng lực vận dụng tổng hợp . Vì việc tổ chức nội dung và yêu cầu   dạy hoc, học theo hướng tích hợp đòi hỏi người dạy và người học phải vận  dụng kiến thức, kĩ năng tổng hợp để giải quyết vấn đề, qua đó mà hình thành   và phát triển năng lực này. Dạy tốt một giờ Ngữ văn là đã thực hiện yêu cầu  tích hợp. Vì theo yêu cầu dạy Văn phải thông qua các hình thức thể hiện, nhất  là ngôn từ; phải hiểu ngôn từ, hiểu câu, hiểu đoạn, mới có thể hiểu nội dung,   ý nghĩa văn bản. Như thế phải nắm rất vững về tiếng Việt, cả lí thuyết lẫn  cách sử  dụng. Từ  đó có năng lực phân tích , lí giải vẻ  đẹp của văn bản văn  học qua chất liệu ngôn từ. Đối với các văn bản văn học (tác phẩm hình  tượng) , nội dung hình tượng lại là một bức tranh tổng hợp sinh động về cuộc  sống muôn màu muôn vẻ; vì thế GV Ngữ văn cần phải trang bị cho mình rất  nhiều những hiểu biết về xã hội và tự nhiên để hiểu văn bản văn học, từ đó  mới hướng dẫn học sinh về cách đọc hiểu văn bản được. Tìm hiểu những ý  20/25
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2