intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng giá trị trung bình để giải bài tập hóa học

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

23
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn hóa học lớp 9, qua đó nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của huyện nhà nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng giá trị trung bình để giải bài tập hóa học

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Tham gia dạy bồi dưỡng HSG nhiều năm, để  đạt được kết quả  cao bản thân  tôi đã phải tích cực nghiên cứu, tìm tòi tự  tích lũy cho mình các kiến thức bộ  môn   phục vụ cho việc giảng dạy. Trong quá trình tìm tòi ấy, tôi phát hiện ra có một dạng  BT rất hay với cách giải rất độc đáo, thú vị  mà thấp thoáng đâu đó trong các đề  thi   HSG, sách tham khảo, nâng cao hóa học THCS ta thường bắt gặp. Đó là dạng BT giải  bằng phương pháp   sử  dụng giá trị  trung bình. Đây là một dạng BT hay, phát huy   được sự nhanh nhạy của HS, nó không chỉ dừng lại ở chương trình THCS mà còn là   một trong những phương pháp giải bài tập nhanh trong chương trình THPT. Tuy nhiên  khi tìm hiểu thực tế về việc giải các BT dạng này của các em HS thì đa số các em tỏ  ra rất lúng túng, không biết giải như thế nào, mặc dù dạng BT này không quá khó so   với một số các dạng BTHH khác mà các em đã được học.  Với những lí do trên, cùng với sự ham học hỏi, muốn có cơ hội tích lũy thêm  kiến thức, kinh nghiệm cho bản thân đã thôi thức tôi chọn đề tài với nội dung  “Sử  dụng giá trị trung bình để giải bài tập hóa học ” làm sáng kiến kinh nghiệm của  mình, với mong muốn góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng  HSG môn hóa học lớp 9, qua đó nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng HSG của  huyện nhà nói chung. 1.2. Điểm mới của đề tài: Qua tìm hiểu nhiều sách tham khảo môn hoá học, tôi thấy rằng có khá nhiều  sách tham khảo của một số tác giả  đề  cập đến dạng BT giải bằng phương pháp sử  dụng giá trị trung bình Tuy nhiên đa số  sách tham khảo ấy đều đề  cập đến dạng BT  trên còn quá sơ  sài, có sách thì đưa ra một vài BT về  khối lượng mol trung bình, có   sách chỉ đưa ra một vài BT về sử dụng số nguyên tử Cacbon trung bình, nội dung các   BT đơn lẻ, không tổng hợp cho người đọc một cách tổng quát về  phương pháp giải  BTHH bằng cách sử dụng giá trị trung bình.  Như  vậy chưa có một quyển sách tham khảo nào trên thị  trường hướng dẫn  cho GV, HS THCS phương pháp giải các BT sử  dụng giá trị  trung bình theo chương  trình THCS một cách chi tiết, đầy đủ, rõ ràng. Vì thế  khi HS gặp các BT giải bằng  cách sử  dụng giá trị  trung bình thì các em HS dù là HS khá, giỏi cũng khó mà tiếp   nhận phương pháp giải BTHH trên một cách được đầy đủ, chắc chắn. Đó là một vấn đề  mà bản thân tôi, người GV đang trực tiếp giảng dạy bồi  dưỡng HSG môn hoá học THCS phải trăn trở, suy nghĩ. Qua quá trình nghiên cứu, tìm  hiểu, phân tích khi tiếp xúc với các em HS trong đội tuyển HSG môn hóa học 9 , tôi  nhận thấy đa số các em tỏ ra rất lúng túng, không xác định được cách giải, không tự  tin khi giải các BT có sử dụng giá trị trung bình.  Vậy làm thế  nào để  giúp các em có kỹ  năng giải quyết tốt dạng bài tập trên,   tạo cho các em hứng thú và niềm yêu thích mãnh liệt vào môn học? Trả  lời cho băn  khoăn, trăn trở   ấy, tôi đã nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra phương pháp sử  dụng các   giá trị trung bình như khối lượng mol trung bình, số nguyên tử Cacbon trung bình, số  nguyên tử Hiđro trung bình áp dụng giải một số BTHH thuộc chương trình THCS với  -1-
  2. mong muốn đưa dạng BT trên phổ  biến trong dạy và học môn hóa học, góp phần  nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng HSG môn Hóa học cấp THCS.    ---  --- 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài 2.1.1. Số liệu thống kê Thực trạng trước khi thực hiện đề tài, qua trực tiếp giảng dạy bồi dưỡng HSG   và tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp tôi nhận thấy đa số  HS không biết cách  giải các bài tập có sử dụng giá trị trung bình. Qua khảo sát chất lượng học sinh lớp bồi dưỡng HSG hoá học 9  với các BT  giải bằng cách sử dụng giá trị trung bình, kết quả như sau: Điểm  Điểm Điểm  Điểm TB trở lên Tổng   9 – 10  7 ­  8 5 ­ 6  0 ­ 4 số HS SL % SL % SL % SL % SL % 25 0 0 1 4 5 20 19 76 6 24 2.1.2. Tình hình trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài.               Qua thực tế giảng dạy lớp bồi dưỡng HSG hoá 9, tôi thấy việc giải BT bằng   cách sử dụng giá trị trung bình của các em HS còn rất hạn chế: ­ Rất ít HS vận dụng và giải quyết tốt các BTHH giải bằng cách sử dụng giá trị trung   bình, dù với các BT đơn giản theo chương trình hóa học THCS. ­ Đa số  HS không nắm được các kiến thức cơ  bản về  các giá trị  trung bình: khối  lượng mol trung bình, số nguyên tử cacbon trung bình, các công thức tính...nên các em  không vận dụng được vào giải BT, kết quả  là không giải được BT, dẫn đến làm  giảm sút niềm yêu thích, sự hứng thú của HS khi học tập bộ môn hóa học.  2.1.3. Nguyên nhân dẫn đến tình hình trên: Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu cho thấy việc sử dụng giá trị trung bình vào   giải các BTHH còn có nhiều bất cập do các nguyên nhân sau: * Về giáo viên:  ­ Trong quá trình dạy học, GV chỉ  mới dừng lại  ở  kiến thức cơ bản sách giáo khoa  (SGK), chưa chú trọng mở rộng, nâng cao kiến thức cho các em. ­ GV chưa truyền thụ hoặc truyền thụ chưa kỹ phương pháp giải BTHH bằng các giá  trị trung bình. GV chưa đào sâu mở  rộng kiến thức cho HS, để các em HS nắm chắc   chắn, từ đó vận dụng linh hoạt vào việc giải quyết các BT tương tự. ­ Nhiều GV hầu như không hề tiếp xúc với dạng BT này. Vì thế trong quá trình giảng   dạy, GV không hề  đề  cập đến lý thuyết cũng như  bài tập về  dạng này cho HS. Đó   cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc đa số  HS không biết cách sử  dụng giá trị  trung bình vào việc giải một số BT hóa học. Mặc dù đây là một phương pháp giải BT   rất hay và rất đặc trưng mang màu sắc riêng của môn hóa học. * Về học sinh: -2-
  3. ­ Đa số HS học tập môn hoá học theo phương pháp áp đặt như các bộ môn học thuộc   lòng khác, do đó các em không có sự sáng tạo, không hiểu rõ bản chất của vấn đề nên  dễ quên, lúng túng khi vận dụng kiến thức vào việc giải BTHH. ­ Đa số  các em chỉ  mới dừng lại  ở  việc học tập theo sự  hướng dẫn của giáo viên   giảng dạy, chưa chịu khó tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu các dạng bài tập mới. ­ Các sách tham khảo đề  cập đến dạng bài tập giải bằng cách sử  dụng giá trị  trung   bình còn sơ  sài, chưa đủ  để  các em nắm được phương pháp giải các BT dạng này  một cách trọn vẹn, chắc chắn. 2.2. Các giải pháp Từ  tình hình thực tế  trên và thực trạng giảng dạy môn hoá học  ở  các trường  THCS, tôi có một số giải pháp sau để giúp HS nắm chắc kiến thức và vận dụng linh   hoạt, sáng tạo phương pháp sử  dụng giá trị  trung bình để  giải nhanh, chính xác một  số BTHH cấp THCS. 2.2.1. Các giải pháp 1.1. Giải pháp 1: GV trang bị cho HS những kiến thức cơ bản về lý thuyết   cho HS áp dụng để giải các bài tập sử dụng giá trị trung bình 1.1.1. Phương pháp khối lượng mol trung bình Nội dung phương pháp: a. Hỗn hợp A gồm 2 chất M1, M2: hh m a1M 1 + a2 M 2 Khối lượng mol trung bình: M tb  =  n =  a1 + a2 (1) hh Với:  a1, a2 lần lượt là số mol của các chất M1, M2  M1, M2 lần lượt là khối lượng mol của các chất M1, M2  Nếu: M1  
  4. a1n1 + a2 n2 nC ntb  =  =  a1 + a2 nhchc Với:  n1, n2 lần lượt là số nguyên tử Cacbon trong phân tử X, Y  a1, a2 lần lượt là số mol của X, Y  Nếu: n1  
  5. Ngoài ra, phương pháp này còn sử dụng cho hỗn hợp khí hoặc kết hợp thêm   một số phương pháp khác nữa để  giải toán hoặc nó được sử  dụng ở một giai đoạn  nhỏ trong quá trình giải toán. Bài tập 1:  hh X gồm 2 kim loại kiềm A, B nằm kế tiếp nhau. L ấy 3 g X hòa   tan hoàn toàn vào nước thu được 2,24 lít H2 (đktc).Biết MA
  6. Như vậy, có rất nhiều bài tập hóa học, nếu giải theo PT thông thường thì số  ẩn nhiều hơn số  PT toán học thiết lập được, chính vì vậy ta không thể  tìm được  nghiệm hoặc nếu biện luận theo các ẩn thì mất rất nhiều thời gian và phức tạp. Tuy  nhiên nếu ta áp dụng phương pháp Mtb thì việc giải quyết bài tập sẽ rất đơn giản và   ngắn gọn hơn nhiều. Bài tập 3:   hh khí X gồm H2 và một anken có khả  năng cộng HBr cho sản   phẩm hữu cơ duy nhất, tỉ khối của X so với H2 bằng 9,1. Đun nóng X có xúc tác Ni,   sau khi pư xãy ra hoàn toàn, thu được hh khí Y không làm mất màu dd Br 2, tỉ khối của   Y so với H2 bằng 13. Xác định CTPT, CTCT của an ken. Hướng dẫn giải:  ­ Công thức chung của anken: CnH2n ­ Dựa vào các giá trị  d X H 2 ,  d Y H 2  MX, MY ­ Viết PTHH, theo định luật bảo toàn khối lượng  mX= mY  nY ­ Theo PTHH, từ nX, nY nC H   M C H n CT anken n 2n n 2n Giải:   Ta có:  d X H 2 = 9,1  MX = 9,1.2 = 18,2 (g) dY H 2 = 13  MY = 13.2 = 26 (g) Gọi công thức của anken cần tìm là CnH2n ( n ≥ 2) PTHH: CnH2n+ H2  Ni , t  CnH2n+2 o Xét 1 mol X, mX = 18,2 g 18, 2 Theo định luật bảo toàn khối lượng: mY=mX= 18,2 nY =  = 0, 7 (mol) 26 Ta thấy:  M H = 2 < M Y = 26 < M C H < M C H ( M C H 2 n 2n n 2 n +2 n 2n 14n = 14.2 = 28 (g))  Trong Y có chứa H2,  vì phản  ứng xảy ra hoàn toàn, nên trong phản  ứng trên CnH2n  hết, H2 dư. Theo PT trên:  nHpư = nC H = 0, 7 (mol ) 2 n 2n  nH (ban đầu) = 1­ 0,3 = 0,7 (mol) 2 0, 7.2 + 0,3.14n 16,8 Ta có:  M X = = 18, 2 n= =4 1 4, 2 CTPT của anken là C4H8. Vì anken C4H8 có khả năng cộng HBr cho sản phẩm hữu cơ duy nhất, nên CTCT của   anken là: CH3 ­ CH = CH ­ CH3 PTHH: CH3 ­ CH = CH ­ CH3 + HBr CH3 ­ CH2 ­ CHBr ­ CH3  Bài   tập   4:    Để   đốt   cháy   hoàn   toàn   m   g   hh   X   gồm   A   và   B   là   các   axit   cacboxylic no, đơn chức cần 8,4 lít O2 đktc thu được 6,72 lít CO2 đktc và 5,4 g H2O. a. Tính khối lượng mol trung bình của hh X. b. Cho biết khối lượng mol phân tử của B lớn hơn khối lượng mol phân tử  của A là   28 g. Hãy xác định CTPT của A và B, viết các đồng phân của chúng. Hướng dẫn giải:  ­ Công thức chung của 2 axit cacboxylic no, đơn chức : CnH2nO2 ( n >1), số mol x -6-
  7. ­ Viết PTHH, dựa vào các giá trị , nCO ,  mX giải hệ PT tìm ẩn x, nx MX 2 ­ Từ x, xn  n  CTPT, CTCT A, B Giải:   8, 4 6, 72 5, 4 a. Ta có: nO = = 0,375(mol ) ,  nCO2 = = 0,3(mol ) ,  nH 2O = = 0,3(mol )   2 22, 4 22, 4 18 Công thức chung 2 axit cacboxylic no, đơn chức A, B là CnH2nO2(n >1) với số mol là  x. 3n − 2 PTHH: CnH2nO2 +  O2  t  n CO2 + n H2O o 2 3n − 2 Mol:          x            . x            nx            nx 2 Ta có:  nCO2 = nx = 0,3(mol ) (I) Theo định luật bảo toàn khối lượng: mX + mO = mCO + mH O   mX  = 0,3.44+ 5,4 ­ 0,375.32 = 6,6 (g) 2 2 2 (14n +32)x = 6,6 g 14nx +32x = 6,6 (II) Giải hệ PH I, II ta có: nx = 0,3, x = 0,075n = 4 6, 6 Vậy khối lượng mol trung bình của hỗn hợp X là:  MX =  = 88( g ) 0, 075 b. Theo bài ra: MB = MA + 28  B hơn A 2 nhóm CH2, ta có số nguyên tử C trong A, B  thõa mãn: nC(A)  
  8. a. Cô cạn dd A sẽ thu được bao nhiêu gam muối khan? b. Xác định tên kim loại kiềm biết số mol của 2 kim loại trong hỗn hợp  là như nhau? Đáp án:  a. m muối khan = 6,65 g b. 2 kim loại kiềm là Natri, Kali ( MNa 
  9. 4, 48 ­ Từ nhhX, mhhXMhhX 22, 4 = 0, 2 n  CT 2 anken 4, 48 Giải: a. nhhX =  = 0, 2 (mol) 22, 4 Gọi công thức chung của 2 anken cần tìm là CnH2(n ≥ 2, n là số  nguyên tử  C trung  bình ) Vì khối lượng bình đựng nước brom tăng 10,5 gmhhX = 10,5 g 10,5 MhhX =  0, 2 = 52,5  (g)=  14n n = 3,75. Vì 2 anken liên tiếp trong dãy đồng đẳngCTPT của 2 anken: C3H6, C4H8 52,5 b. Tỉ khối của hh X so với H2: d hhX H = = 26, 25 2 2 b. Hỗn hợp gồm các chất không cùng dãy đồng đẳng ­ Dùng hợp chất có số  nguyên tử  Cacbon trung bình thay thế  các chất khác   nhau có số  nguyên tử  Cacbon   khác nhau nhưng không thuộc cùng một dãy đồng   đẳng. ­ Ngoài ra, ta có thể sử dụng thêm đại lượng số nguyên tử Hiđro trung bình  với công thức tính đặt hoàn toàn tương tự như số nguyên tử Cacbon trung bình. a n +a n Số nguyên tử Hiđro trung bình:  ntb  =  1 a1 + a2 2 1 2 Với:  n1, n2 lần lượt là số nguyên tử Hiđro trong phân tử X, Y  a1, a2 lần lượt là số mol của X, Y  Nếu hỗn hợp các chất có cùng số  nguyên tử  Cacbon nhưng khác nhau số  nguyên tử Hiđro thì chúng ta gọi công thức chứa đại lượng số nguyên tử Hiđro trung  bình. Bài tập 6:  Đốt cháy hoàn toàn 4,48 lít hh khí Y gồm C3H8 và HC A mạch hở  ( có chứa liên kết kém bền) thu được 22 g CO2 và 10,8 g H2O. a. Tính thể tích không khí cần dùng để đốt cháy hết hh Y. ( biết các khí đều đo ở đktc,   oxi chiếm 20% thể tích không khí ). b. Xác định công thức phân tử, công thức cấu tạo của A. Hướng dẫn giải:  ­ Công thức chung của HC A : CxHy ( x ≥ 2), a, b lần lượt là số mol của C3H8, CxHy ­ Viết PTHH, theo  nhhY ,  nCO ,  nH O  nO  Vkk 2 2 2 ­ Xác định số nguyên tử Cacbon trung bình của hh Y theo CT:  nCO2 ntb = x 
  10. Ta có:  nhhY = a + b =  0,2     (I) 22 Theo PT 1,2 :   nCO = 3a + xb =  = 0,5 (II) 2 44                 nH O =  4a + y/2 b = 10,8/ 18 = 0,6  8a + yb = 1,2   (III) 2        nO = 5a + (x+y/4 )b = 5a + xb + yb/4 = 5a + 0,5 ­3a + ( 1,2 ­ 8a)/ 4 = 0,8 mol   2 Vậy thể tích không khí cần dùng: Vkk  = 5  VO = 5. 0,8. 22,4 = 89,6 (l) 2 b.  Số nguyên tử Cacbon trung bình của hh Y: nCO2 3a + xb 0,5 ntb = = = = 2,5 nhhY a+b 0, 2 Ta có: 2 ≤ x
  11. b. Tính khối lượng mol trung bình của hh X. c. Cho biết khối lượng mol phân tử của B lớn hơn khối lượng mol phân tử  của A là  28 g. Hãy xác định CTPT của A và B, viết các đồng phân của chúng. Đáp án:  a. A, B là các este no, đơn chức, mạch hở, CT CnH2nO2 A, B có gốc HC là gốc no, mạch hở A, B không làm mất màu dd Br2. b. n = 4 MhhX =  88 g c. n C(A)  
  12. Khi giải các BT sử  dụng giá trị  trung bình, ngoài việc nắm chắc phương pháp  giải, để  giải quyết tốt BT HS cần phải có sự  cẩn thận, nhanh nhạy, nắm chắc các  kiến thức hóa học có liên quan, viết đúng   các PTHH của các phản  ứng, vận dụng  khéo léo phương pháp thì mới có thể đi đến kết quả chính xác. 2.2.2. Kết quả đạt được: Sau khi triển khai áp dụng các nội dung và biện pháp đã nêu  ở  trên vào việc  dạy và học các BT hóa học giải bằng cách sử dụng giá trị trung bình với HSG hoá 9,  tôi nhận thấy rằng HS tỏ  ra rất hứng thú khi học tập, đa số  các em đã nắm được  phương pháp giải, vận dụng nhanh, chính xác vào giải các BTHH tương tự. Tiến  hành khảo sát kết quả học tập của các em HS đã được khảo sát ban đầu về mức độ  hiểu, nắm kiến thức, vận dụng linh hoạt, nâng cao, kết quả  thu được thật đáng   mừng, số lượng HS yếu kém giảm xuống, số lượng HS khá giỏi tăng cao. Điều đó  thể hiện rất rõ qua các bảng số liệu sau: Tổng  Điểm Điểm Điểm Điểm TB trở lên số HS 9 – 10 7 ­  8 5 ­ 6 0 ­ 4 SL % SL % SL % S % SL % L      7 28,0    9 36,0 7  28,0 1  4,0  24 96,0 25 Qua đây ta có thể nhận xét rằng: ­ Chất lượng học tập của HS qua kiểm tra có sự  tiến bộ hẳn. Số lượng HS khá giỏi  tăng lên từ 4% lên 64% , số lượng HS yếu, kém giảm xuống, từ 76% xuống còn 4%   so với ban đầu. Khi áp dụng các nội dung và phương pháp  ở  trên vào quá trình dạy   học, tôi nhận thấy rằng các em nắm chắc kiến thức và vận dụng tốt kiến thức đã có   vào việc giải quyết các BT tương tự. Nhiều em còn biết vận dụng kiến thức ấy để  giải quyết rất tốt các BT khó và phức tạp hơn. Đó chính là cơ  sở, là động lực mạnh  mẽ giúp các em tiếp cận và nắm bắt những kiến thức, những dạng bài tập hóa học   hay, bổ ích khác trong quá trình học tập. ---  --- 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Trong quá trình giảng dạy bồi dưỡng HSG môn hoá học cấp THCS, tôi phát  hiện ra rằng đa số  các em HS không giải được các BTHH có sử  dụng giá trị  trung   bình.Vì thế  sau một thời gian suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu, tôi đã tìm cách hệ  thống  lại dạng BT này về lý thuyết cũng như bài tập thành chuyên đề, từ đó tìm cách truyền  thụ lại cho các em HS, giúp các em có đủ kiến thức, kỹ năng giải quyết tốt các BT. Trong phạm vi đề  tài này, tôi đã đưa ra phương pháp giải một số  bài tập sử  dụng phương pháp giá trị  trung bình trong chương trình hoá học THCS. Sau khi GV   hướng dẫn cho HS thật kỹ phần kiến thức lý thuyết về  khối lượng mol trung bình,   số  nguyên tử  cacbon trung bình, công thức tính, đưa ra một số BT đơn giản áp dụng  giá trị  trung bình, phân tích, giải mẫu cho HS để  HS nắm kỹ  hơn phương pháp giải  - 12 -
  13. các BT dạng này. GV tiếp tục đưa ra cho HS các BT sử dụng giá trị trung bình từ dễ  đến khó để HS từ từ nghiên cứu và đưa ra hướng giải quyết, phát huy sự tích cực chủ  động của HS trong quá trình giải BT, GV chỉ là người theo dõi các em học tập và chốt   lại cách làm, kết quả đúng. Khi nhận thấy HS đã cơ bản nắm được và giải quyết khá   tốt một số BT sử dụng  giá trị trung bình đơn giản, GV tiếp tục đưa ra một số BT khó   hơn, đòi hỏi sự tư duy, sáng tạo của HS, kích thích sự  say mê, tìm tòi kiến thức học   tập của các em về dạng BT mà các em đã được học.   Việc giải BT hoá học bằng các giá trị  trung bình sẽ  giúp các em HS giải đơn   giản và nhanh hơn nhiều so với cách giải thông thường theo PTHH, phương pháp tỏ  rõ hiệu lực vô cùng với những bài tập xác định hỗn hợp kim loại, hỗn hợp hiđro  cacbon, hỗn hợp các chất hữu cơ cùng dãy hay không cùng dãy đồng đẳng... Đặc biệt  khi học xong chuyên đề sử dụng các giá trị trung bình để giải BTHH, các em HS tỏ rõ  sự  yêu thích, hứng thú cao với môn học. Không chỉ  dừng lại giải các BT hóa học   trong chương trình THCS, các em còn có thể áp dụng phương pháp trên để  giải một   số BT hóa học của chương trình THPT, đề thi đại học, cao đẳng. Tôi thiết nghĩ, người GV ngoài việc trang bị  cho các em HS về  kiến thức cơ  bản của bộ môn thì việc ôn luyện để nâng cao, mở rộng kiến thức là một vấn đề hết   sức quan trọng nhằm nâng cao chất lượng mũi nhọn HSG. Nội dung của đề tài sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng rất   có hiệu quả trong công tác dạy học. Những kết quả đạt được đã khẳng định tính khả  thi của vấn đề đưa ra. Rất mong nhận sự góp ý chân thành của đồng nghiệp để sáng  kiến ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần nhỏ  vào phong trào bồi dưỡng HSG, đào  tạo nhân tài của giáo dục huyện nhà trong giai đoạn hiện nay. Tôi   xin   chân   thành   cảm   ơn   Ban   giám   hiệu   nhà   trường   cùng   các   bạn   đồng  nghiệp đã quan tâm góp ý, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu và  thực hiện sáng kiến này./. - 13 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2