Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm trong dạy và học môn Giáo dục công dân lớp 6
lượt xem 4
download
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là giúp học sinh hiểu những biểu hiện của lịch sự, tế nhị trong cuộc sống hàng ngày. Hiểu được lịch sự, tế nhị là biểu hiện của văn hoá trong giao tiếp. Học sinh hiểu được ý nghĩa của lịch sự, tế nhị trong cuộc sống hàng ngày. Có ý thức rèn luyện cử chỉ, hành vi, sử dung ngôn ngữ sao cho lịch sự, tế nhị, mong muốn xây dựng tập thể lớp đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau.Biết tự kiểm tra hành vi của bản thân và biết nhận xét, góp ý cho bạn bè khi có những hành vi ứng xử lịch sự, tế nhị và thiếu lịch sự, tế nhị. Có kĩ năng đánh giá bản thân và mọi người xung quanh trong giao tiếp thể hiện biết sống chan hoà hoặc chưa biết sống chan hoà.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm trong dạy và học môn Giáo dục công dân lớp 6
- MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG MỤC LỤC ..............................................................................................................1 A. TÊN SÁNG KIẾN ...............................................................................................................2 B. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN. .......................................................................................2 C. NỘI DUNG SÁNG KIẾN.....................................................................................2 I. Đặt vấn đề. 1. Lí do chọn đề tài ...............................................................................................2 2. Cơ sở lý luận .....................................................................................................3 3. Cơ sở thực tiến...................................................................................................4 II. Giải quyết vấn đề. 1. Tính đặc trưng bộ môn. ....................................................................................4 2. Giải pháp cũ thường làm.. ............................................ ...................................5 3. Giải pháp mới cải tiến.......................................................................................7 3.1 Chuẩn bị...........................................................................................................8 3.2 Tiến hành thảo luận nhóm tại lớp ...................................................................9 3.3 Tổ chức báo cáo kết quả thảo luận nhóm......................................................13 4. Kết quả thực hiện.............................................................................................16 5. Bài học kinh nghiệm .......................................................................................17 6. Ý kiến đề xuất..................................................................................................18 III. Hiệu quả kinh tế- xã hội dự kiến đạt được. 1. Hiệu quả kinh tế ............................................................................................. 19 2. Hiệu quả xã hội ...............................................................................................19 IV. Điều kiện và khả năng áp dụng .................................................................19 V. Kết luận ........................................................................................................20 PHẦN PHỤ LỤC. Phụ lục 1: Minh chứng giáo án chi tiết bài 11: Lịch sự, tế nhị ...........................22 Phụ lục 2: Đề kiểm tra học kỳ I ..........................................................................33 Phụ lục 3: Một số đề khảo sát .............................................................................36 Tài liệu tham khảo ..............................................................................................38 1
- A. TÊN SÁNG KIẾN. SỬ DỤNG HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY VÀ HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 6 B. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN. - Họ và tên: Lê Thị Kim Cúc - Chức vụ: Giáo viên. - Đơn vị công tác: Trường THCS Đồng Hướng - Kim Sơn - Ninh Bình. - Địa chỉ hòm thư: cucdh80@gmail.com - Số điện thoại: 0947 269 907 C. NỘI DUNG SÁNG KIẾN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài. Đất nước ta đang trên đà phát triển về mọi mặt trong đó Giáo dục và Đào tạo cũng có những bước tiến mới, tạo nền tảng vững chắc để đất nước có những bước chuyển mình vượt bậc, có thể sánh vai với các nước trên thế giới như mong muốn của Bác lúc sinh thời. Thấy rõ được trách nhiệm to lớn ấy, các thế hệ giáo viên trong các nhà trường nói chung và trong trường THCS nói riêng luôn mong muốn tìm được hướng đi đúng đắn để truyền tải tri thức đến các em học sinh. Từ đó hướng cho các em cách rèn luyện để trở thành những con người năng động, sáng tạo, tự chủ, có đủ năng lực để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trở thành những người công dân có ích và đáp ứng được các yêu cầu của một xã hội mới. Là một giáo viên dạy Giáo dục công dân tôi nhận thấy đây cũng là một môn học có vai trò quan trọng, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, góp phần đào tạo học sinh thành những người lao động mới, vừa có tri thức khoa học, vừa có đạo đức, vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, vừa có phẩm chất chính trị- tư tưởng, biết sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật. Trên tinh thần của Chỉ thị số 30/1998 Bộ GD & ĐT chỉ rõ: “Môn Giáo dục công dân ở các trường Trung học Phổ thông, Trung học Cơ sở có vị trí 2
- hàng đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của học sinh”. Vấn đề nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân trong nhà trường THCS ngày càng trở nên quan trọng và cấp bách. Nghị quyết Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn nhấn mạnh: Cần phải đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về học tập của học sinh. Trong thời gian công tác tại trường THCS Đồng Hướng, tôi nhận thấy trong việc dạy học Giáo dục công dân nói chung và dạy Giáo dục công dân lớp 6 nói riêng, vấn đề đặt ra là cần đổi mới các phương pháp dạy học để tạo cho học sinh sự hứng thú, niềm say mê, phát huy khả năng tư duy sáng tạo của mình trong quá trình chiếm lĩnh tri thức mới, đồng thời biết vận dụng linh hoạt những kiến thức đó để xử lý các tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Qua các lớp bồi dưỡng về việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Giáo dục công dân được triển khai trên quy mô lớn, qua những đợt hội giảng, thi giáo viên giỏi các cấp, nhiều phương pháp dạy học tích cực được áp dụng, xuất phát từ tình hình thực tế khi áp dụng những phương pháp này vào giảng dạy, tôi được cọ sát, học hỏi rất nhiều về những phương pháp, kĩ thật dạy học môn Giáo dục công dân, nhưng trong đó tôi chú ý hơn cả là phương pháp thảo luận nhóm trong giờ học. Vì vậy, qua thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề: Sử dụng hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm trong dạy và học môn Giáo dục công dân lớp 6. 2. Cơ sở lí luận. Theo quan điểm của A.T.Francisco (1993): “Học tập nhóm là một phương pháp học tập mà theo phương pháp đó học viên trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và hợp tác với nhau trong học tập”. Về thực chất, phương pháp thảo luận nhóm là tổ chức cho học sinh bàn bạc, trao đổi trong từng nhóm nhỏ. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho học sinh tham gia một cách chủ động vào học tập, tạo cơ hội cho học sinh có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến nội dung bài học. Phương pháp thảo luận nhóm được hình thành từ lâu, được dùng trong các trường đại học nhưng do tính năng ưu việt nên từ khi thay sách giáo khoa 3
- phương pháp thảo luận nhóm được giới thiệu và bồi dưỡng cho các giáo viên THCS và được áp dụng liên tục cho đến nay. Sử dụng phương pháp dạy học này có nhiều ưu thế trong thực hiện mục tiêu giáo dục hiện nay, tránh được lối học thụ động trên lớp, giáo viên thường đưa ra nhiều biện pháp để kích thích khả năng tư duy, tìm tòi và sáng tạo của học sinh; rèn kĩ năng chủ động lĩnh hội kiến thức và kĩ năng nói trước tập thể, rèn sự tự tin cho học sinh mỗi khi trình bày kết quả thảo luận.. 3. Cơ sở thực tiễn Trong việc giảng dạy môn Giáo dục công dân ở trường THCS nói chung và môn Giáo dục công dân lớp 6 nói riêng, tôi thấy vấn đề nổi lên là: - Sách giáo khoa trình bày đơn giản, thường chỉ là nêu một số yêu cầu hoặc một số câu hỏi gợi ý có tính chất nhắc lại nội dung của các bài học. - Sách giáo viên cũng viết rất ngắn, đơn giản, các bài chỉ là những phương án mang tính chất gợi ý, khá giống nhau về hình thức dạy học, như: hoạt động cá nhân, thảo luận nhóm hoặc làm việc cả lớp nhằm thực hiện yêu cầu, mục tiêu để hoàn thành nội dung ở sách giáo khoa. - Sách thiết kế bài giảng trình bày các phương án lên lớp cụ thể hơn nhưng cũng chủ yếu là một số hình thức dạy học quen thuộc như: hướng dẫn hoạt động theo cặp đôi hoặc theo nhóm và những câu hỏi phát vấn. Nếu giáo viên không có sự tìm tòi, sáng tạo, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học thì tiết học sẽ dễ nhàm chán, khó khắc sâu kiến thức cho học sinh. Từ kinh nghiệm dạy học của mình tôi thấy phương pháp thảo luận nhóm rất phù hợp khi dạy học môn Giáo dục công dân. Khi áp dụng thường xuyên phương pháp này, không khí lớp học thay đổi hẳn: học sinh rất phấn khởi, hào hứng và tham gia nhiệt tình, sôi nổi. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Tính đặc trưng bộ môn. Đối tượng học sinh lớp 6 là lớp đối tượng vừa rời khỏi trường Tiểu học bước vào bậc THCS với rất nhiều bỡ ngỡ về thầy, về bạn, về các môn học có tên gọi mới và đặc biệt là cách truyền thụ và tiếp thu kiến thức rất mới mẻ ở tất cả 4
- các môn học. Hơn nữa các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu không được giao nhiệm vụ cụ thể. Đặc trưng của môn Giáo dục công dân ở THCS là cấu trúc chương trình gồm 2 phần rõ rệt: Phần đạo đức và phần pháp luật. Với những bài học về đạo đức thường có mô típ chung là nêu khái niệm, biểu hiện trong lời nói và hành vi, ý nghĩa của đức tính đó trong cuộc sống và sau cùng là đưa ra cách rèn luyện cho mỗi người. Còn những bài học về pháp luật là khô khan, công thức, mang tính giáo huấn nên đối với môn học này học sinh tỏ ra không có hứng thú trong việc học. Hơn nữa việc giảng dạy của giáo viên đôi khi không tránh khỏi phương pháp cũ, phương pháp truyền thống thiên về: vấn đáp, giảng giải, thuyết minh,… chứ chưa đi sâu vào việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm, chưa phát huy tính tích cực, chủ động của các em. Vì vậy sẽ gây áp lực tâm lý cho các em, làm cho các em thấy nhàm chán, sợ phát biểu ý kiến, suy nghĩ của mình. Từ thực tế đó, tôi thấy để khai thác tính năng động sáng tạo của học sinh, gây hứng thú trong giờ học môn Giáo dục công dân là điều cần thiết. 2. Giải pháp cũ thường làm. Trong những năm học trước, khi dạy môn Giáo dục công dân lớp 6 ở trường THCS Đồng Hướng- Kim Sơn, tôi đã áp dụng phương pháp thảo luận nhóm nhưng còn máy móc, tổ chức hoạt động thảo luận nhóm chưa hiệu quả và chưa áp dụng thường xuyên vào các bài giảng, nhiều bài dạy tôi vẫn còn thiên về các phương pháp truyền thống như: vấn đáp, giảng giải, thuyết minh … Cụ thể là ở khâu chuẩn bị còn chưa được chú ý nhiều, khi soạn giáo án tôi cũng đã xác định câu hỏi dự kiến sẽ cho học sinh thảo luận nhưng tôi chưa chuẩn bị phương tiện, thiết bị như bút dạ, giấy A4,... nên đôi khi việc tổ chức thảo luận đạt hiệu quả chưa cao. Tiếp đó là quá trình thực hiện: tôi thường chia lớp làm 4 nhóm theo đơn vị tổ, phân công nhóm trưởng và thư kí rồi đưa ra câu hỏi và thời gian thảo luận để các nhóm làm việc. Tôi chưa chú ý đến việc thay đổi thường xuyên thành viên trong nhóm và học sinh làm nhóm trưởng, thư kí nên có những học sinh trong 3 đến 4 lần thảo luận nhóm đều ở chung nhóm hoặc đều làm nhóm trưởng, 5
- thư kí. Tôi cũng chưa chú ý đến việc phải thay đổi thường xuyên cách chia nhóm (chia 4 nhóm, chia nhóm nhỏ theo bàn hoặc hoạt động nhỏ hơn là 2 học sinh/1 nhóm,...) cho phù hợp với tính chất của câu hỏi thảo luận. Bên cạnh đó, câu hỏi thảo luận còn đơn giản, có khi chỉ cần theo dõi sách giáo khoa học sinh cũng có thể tìm được đáp án dẫn đến tình trạng trong khi thảo luận nhóm có nhiều học sinh còn thụ động, lười suy nghĩ, tìm tòi, chờ bạn trình bày và cô giáo nhận xét rồi ghi bài hoặc có một số học sinh còn lợi dụng hình thức này để tranh thủ nói chuyện riêng. Cách làm này sẽ tạo thói quen xấu, ỷ lại, ngại phát biểu cho học sinh dẫn đến các em chán học. Do đó mà kết quả dạy và học chưa cao. Kết quả của phương pháp này là: số học sinh chưa hứng thú với bài học còn nhiều. Điều này thể hiện qua kết quả khảo sát 41 em học sinh lớp 6A và 36 em học sinh lớp 6B trường THCS Đồng Hướng năm 2011-2012. Bảng 1: Hứng thú học tập của học sinh lớp 6A, 6B đối với môn Giáo dục công dân: Mức độ Số học sinh được Lớp Chưa hứng khảo sát Hứng thú Bình thường thú 6A 41 6 20 15 6B 36 6 18 12 Bảng 2: Mức độ hiểu bài của học sinh trong một giờ Giáo dục công dân: Mức độ hiểu bài trong một giờ GDCD Số học sinh được Lớp Hiểu bài hoàn Hiểu một số ý Không hiểu khảo sát toàn chính bài 6A 41 15 23 3 6B 36 13 20 3 6
- Chính mức độ hiểu bài như vậy nên việc vận dụng tri thức môn Giáo dục công dân vào thực tiễn còn hạn chế, kết quả học tập của các em đối với bộ môn này chưa cao. Bảng 3: Kết quả học tập của học sinh sau học kỳ I năm học: Kết quả học tập của học sinh Lớp Sĩ số Trung Giỏi % Khá % % Yếu % bình 6A 41 6 14.6 7 17.1 24 58.5 4 9.8 6B 36 5 13.9 5 13.9 22 61.1 4 11.1 3. Giải pháp mới cải tiến. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để cũng là áp dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn Giáo dục công dân nhưng tiến hành sao cho hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tham gia vào hoạt động này, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh để các em chủ động lĩnh hội tri thức, trang bị được vốn sống cho mình. Vì vậy khi giảng dạy môn Giáo dục công dân, tôi đã áp dụng phương pháp này theo hướng tích cực hơn, phù hợp với tâm lí của học sinh và phù hợp với yêu cầu của bài học Giáo dục công dân lớp 6 ở trường THCS Đồng Hướng trong năm học 2013- 2014 ở lớp 6A với sĩ số 36 em và lớp 6B với sĩ số 38 em. Khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học ở một bài học cụ thể, tôi đã chú ý tới những điều sau: - Mục tiêu của hoạt động nhóm ở bài học này là gì? - Vấn đề thảo luận trong nhóm là những vấn đề gì? - Chuẩn bị câu hỏi thảo luận, yêu cầu về thời gian. - Chia nhóm học sinh phù hợp với tính chất của câu hỏi thảo luận. - Chuẩn bị về phương tiện, thiết bị cần thiết (giấy A4, bút viết…). - Phân công nhóm trưởng, thư ký. - Học sinh thảo luận, giáo viên quan sát, nhắc nhở, giải đáp những vấn đề nảy sinh, phải dự kiến tình huống xảy ra và cách giải quyết. - Tổ chức báo cáo kết quả, nhận xét, bổ sung. 7
- - Thống nhất đáp án chung. Sau đây tôi xin được trình bày cụ thể về việc áp dụng phương pháp thảo luận nhóm vào một số bài học: 3.1 Chuẩn bị. Mặc dù đây là phương pháp tích cực, đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy nhưng theo tôi học sinh lớp 6 còn đang làm quen dần với các phương pháp học tập nên không vì thế mà lạm dụng quá mức, không phải ở bài học nào tôi cũng áp dụng hình thức này mà tùy theo mục đích yêu cầu, tùy theo tính chất, phạm vi của bài học và đặc biệt là dựa vào hướng dẫn trong Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng của môn Giáo dục công dân, tôi xác định khi nào cần thì mới thảo luận, phần nào cần thì mới hoạt động nhóm, từ đó xây dựng câu hỏi thảo luận và đưa ra yêu cầu về thời gian thảo luận cũng như cách chia nhóm cho phù hợp và các phương tiện, thiết bị cần sử dụng. Thường thì câu hỏi thảo luận được tôi nghiên cứu và đưa ra theo hướng dẫn ở sách giáo khoa, từ hướng dẫn của sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng và đặc biệt là từ hướng dẫn của Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng môn Giáo dục công dân. Tùy từng mức độ nhận biết của học sinh để tôi đưa ra yêu cầu cần đạt được: - Về kiến thức: Gồm 6 mức độ: + Nhận biết. + Thông hiểu. + Vận dụng. + Phân tích. + Tổng hợp. + Đánh giá. - Về kĩ năng: Gồm 2 mức độ: + Làm được (biết làm). + Thông thạo (thành thạo). Thường thì trong 1 lần thực hiện thảo luận nhóm, tôi đưa ra câu hỏi thảo luận ở 2 mức độ: từ nhận biết, thông hiểu đến phân tích đánh giá để rèn luyện học sinh ở cả 2 kĩ năng: Làm thông thạo và làm được. 8
- Ví dụ 1: Khi chuẩn bị bài Tích cực, tự giác trong hoạt động tập thể và trong hoạt động xã hội, tôi đã dự kiến sau khi đọc câu chuyện “Điều ước của Trương Quế Chi” trong sách giáo khoa, tôi sẽ chia lớp thành 4 nhóm, yêu cầu các nhóm thảo luận trong 4 phút theo các câu hỏi sau: Nhóm 1+ 2: Những tình tiết nào chứng tỏ Trương Quế Chi tích cực, tự giác tham gia giúp đỡ cha mẹ, tham gia hoạt động tập thể và hoạt động xã hội? Nhóm 3+ 4: Động cơ nào giúp Trương Quế chi tích cực, tự giác như vậy? Em học tập được gì ở bạn ấy? Trong phần dự kiến trên tôi xác định rõ: Câu hỏi dành cho nhóm 1+ 2 ở mức độ nhận biết, thông hiểu, học sinh làm thành thạo. Còn câu hỏi dành cho nhóm 3+ 4 ở mức cao hơn là phân tích, đánh giá, học sinh làm được. Thiết bị cần dùng cho mỗi nhóm là 1 tờ giấy để ghi kết quả thảo luận, học sinh sử dụng bút của mình. Ví dụ 2: Khi chuẩn bị bài 14: Thực hiện trật tự an toàn giao thông, tôi lại có dự kiến khác: chỉ chia nhóm nhỏ theo bàn (mỗi bàn là 1 nhóm) thảo luận câu hỏi sau: Những nguyên nhân nào dẫn đến tai nạn giao thông? Trong các nguyên nhân đó thì nguyên nhân nào là phổ biến? Thời gian thảo luận là 2 phút, câu hỏi này ở mức nhận biết, thông hiểu chỉ cần sử dụng phương tiện là sách giáo khoa, không cần sử dụng giấy. Trên đây là những chuẩn bị của giáo viên, bên cạnh đó học sinh cũng cần phải chuẩn bị những công việc cụ thể sau: - Thuộc bài cũ, làm những bài tập của giờ học trước. - Đọc trước bài mới và trả lời những câu hỏi trong phần gợi ý (sgk). - Chuẩn bị những yêu cầu cần thiết mà giáo viên đã dặn dò. Khi giáo viên và học sinh đảm bảo tốt phần chuẩn bị thì việc tiếp thu kiến thức của bài học mới và việc tiến hành thảo luận nhóm mới diễn ra đúng kế hoạch và thu được hiệu quả cao. 3.2 Tiến hành thảo luận nhóm tại lớp. Sau quá trình chuẩn bị là việc tiến hành thảo luận nhóm tại lớp, việc tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm được diễn ra theo đúng kế hoạch đưa ra trong giáo 9
- án. Qua thực tế áp dụng tôi thấy hoạt động này có rất nhiều ưu điểm trong đó nổi lên là: Thảo luận nhóm sẽ giúp cho học sinh cố gắng tìm hiểu và phát biểu trong nhóm của mình để trình bày cho cả lớp, đồng thời tinh thần hợp tác trong nhóm sẽ được phát huy và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm. Khi hoạt động dưới sự điều khiển, giám sát của thầy cô giáo, những thói quen xấu như nói chuyện riêng, thiếu tập trung… ít nhiều sẽ bị hạn chế. Thông thường thì trong một nhóm trình độ học sinh không khi nào tuyệt đối bằng nhau, trong nhóm sẽ có những học sinh học khá hơn những học sinh còn lại. Đây cũng chính là cơ hội để cho học sinh học tập lẫn nhau như tục ngữ có câu: “Học thầy không tày học bạn”. Và khi được thầy cô tổng kết, giải đáp học sinh sẽ hiểu bài hơn, nhớ lâu hơn và vì vậy việc học tập mang lại kết quả tốt hơn. Như vậy, phương pháp thảo luận nhóm, một mặt vừa chú trọng phát huy tính tích cực cao, chủ động của học sinh, mặt khác lại chú trọng sự phối hợp, hợp tác cao giữa các học sinh trong quá trình học tập, kết hợp năng lực cạnh tranh và năng lực hợp tác ở học sinh. Để sử dụng có hiệu quả phương pháp này, giáo viên cần phải chú trọng xây dựng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhóm, xây dựng vị thế của mỗi học sinh trong nhóm và trong lớp, cụ thể là phải phân công đúng nhóm trưởng và thư kí, giới hạn thời gian làm việc cụ thể để các nhóm nắm bắt rồi cùng thực hiện. Trong hoạt động thảo luận nhóm cần phải nhắc đến vai trò quan trọng của nhóm trưởng. Vì thế khi chia nhóm và phân công nhiệm vụ, giáo viên phải đặc biệt chú ý đến việc này. Nhóm trưởng là người điều khiển hoạt động chung của nhóm, mời các thành viên phát biểu ý kiến, tổng hợp nhanh ý kiến cần ghi chép để thư kí ghi lại. Nhóm trưởng cũng là người bao quát các thành viên, phát hiện kịp thời những thành viên tách nhóm hoặc không tập trung vào công việc, nhắc nhở kịp thời và đưa thành viên đó trở lại hoạt động. Sau cùng, nhóm trưởng còn là người trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình, đưa ra ý kiến nhận xét sau khi nhóm khác trình bày. Tuy vậy, cũng nên thay đổi nhóm trưởng, thư ký và thời gian thảo luận để học sinh có thể thích ứng được với các sự thay đổi. Ví dụ: Ở bài 3: Tiết kiệm có thể chia lớp làm 4 nhóm, thời gian thảo luận là 10
- 3 phút và phân công nhóm trưởng, thư ký nhưng đến bài sau: Bài 4: Lễ độ giáo viên có thể thay đổi thời gian thảo luận là 4 phút và phân công các em học sinh khác làm nhóm trưởng và thư ký để tất cả các học sinh trong lớp đều được thay phiên nhau đảm nhiệm vai trò này. Có như vậy mới tạo được sự tự tin, hình thành kĩ năng làm việc của người lãnh đạo và thành viên bình thường trong nhóm cho học sinh, dần dần trở thành thói quen, học sinh sẽ tự chủ ở mọi vai trò trong việc lĩnh hội tri thức. Hoạt động nhóm là quá trình cá nhân tự kiến tạo kiến thức cho mình, đó là những kiến thức thông qua tương tác với các cá nhân khác, với xã hội và thực tiễn mà có. Hoạt động này nhằm tổ chức và hướng dẫn học sinh để học sinh tự khám phá và thực hiện nhiệm vụ học tập, tránh lối học thụ động trên lớp, giáo viên thường đưa ra những câu hỏi thảo luận để kích thích khả năng tư duy, tìm tòi và sáng tạo của học sinh, từ đó các em tích lũy được vốn sống, chủ động trước những hành động của mình. Ví dụ: Khi dạy bài: Bài 3. Tiết kiệm, tôi chia lớp thành 4 nhóm và đưa ra câu hỏi thảo luận nhóm như sau: Nhóm 1+ 2. Nêu những việc làm thể hiện tiết kiệm trong gia đình? Nhóm 3+ 4. Em làm gì để thể hiện tiết kiệm ở trường, lớp và ngoài xã hội? Sau khi thảo luận theo nhóm các em đưa ra ý kiến, giáo viên tập hợp lại như sau: Trong gia đình Ở trường, lớp Ở xã hội - Ăn mặc giản dị. - Thu gom giấy vụn. - Thu gom đồng nát, giấy - Tiêu dùng đúng mực - Giữ gìn bàn ghế, của công. vụn. - Không lãng phí điện, - Không ăn quà vặt trong - Giữ gìn tài nguyên nước, thời gian. giờ. thiên nhiên. - Không làm hư hỏng đồ - Tắt điện, quạt khi ra về. - Không làm thất thoát dùng gia đình. - Không viết bậy, vẽ bậy lên tài sản của xã hội - Tận dụng đồ cũ còn bàn ghế, không bôi bẩn ra - Không la cà, nghiện dùng được. tường. ngập. Đưa ra được những việc làm cụ thể đó cũng đồng nghĩa với việc học sinh tích lũy được vốn sống cho mình, biết thực hành tiết kiệm bằng những hành động cụ thể ở nhà, ở trường lớp và ở ngoài xã hội. 11
- Theo tôi trong giảng dạy Giáo dục công dân, thảo luận nhóm là phương pháp rất có hiệu quả, hơn nữa thành công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mỗi thành viên. Vì vậy phương pháp này còn được gọi là phương pháp cùng tham gia. Đây như một phương pháp trung gian giữa sự làm việc độc lập của từng học sinh với sự việc chung của lớp, để thu hút sự tham gia của học sinh, để tất cả các em đều được hoạt động, suy nghĩ, tìm tòi rồi sau đó trình bày kết quả, đối chiếu với nhóm khác, cùng nhau nhận xét, sau đó là đối chiếu với đáp án của thầy cô giáo. Từ đó thấy được năng lực làm việc nhóm của mình để rút kinh nghiện cho lần làm việc nhóm tiếp theo. Ví dụ: Khi dạy Bài 11: Mục đích học tập của học sinh, trong khi tìm hiểu nội dung bài học tôi đã dẫn dắt để đưa ra câu hỏi thảo luận trong phần a như sau: Vậy xác định mục đích học tập đúng đắn và học tập tốt sẽ mang lại lợi ích gì cho bản thân, gia đình và xã hội, cô mời các em cùng tham gia thảo luận (Tôi chia lớp thành 4 nhóm, cử ra nhóm trưởng, thư ký, phân công vị trí thảo luận, thời gian thảo luận là 3 phút). Nhóm 1+ 2: Nêu những lợi ích của việc học tập đối với bản thân và gia đình? Nhóm 3+4: Việc học tập đem lại những lợi ích gì đối với xã hội? Sau thời gian 3 phút, giáo viên cho học sinh ổn định trật tự, ngồi đúng vị trí. Nhóm trưởng của nhóm 1 trình bày kết quả thảo luận, các em ở nhóm 1 mới đưa ra được phần trả lời sau: Nhóm 1: Đối với bản thân học tập có lợi ích là sẽ: - Trở thành con ngoan, trò giỏi, không phụ công nuôi dưỡng của bố mẹ, đền đáp công lao dạy dỗ của thầy cô giáo - Có kiến thức, được mở rộng tầm hiểu biết - Biết lao động và rèn luyện sức khỏe. Ngay sau đó, nhóm 2 có ý kiến nhận xét: Nhóm 1 trả lời đúng nhưng còn thiếu và bổ sung: Đối với gia đình: Học tập tốt sẽ mang lại niềm vinh dự cho gia đình, ông bà, bố mẹ được nở mày, nở mặt. Giáo viên cùng học sinh ở các nhóm khác có ý kiến nhận xét rồi đối chiếu 12
- với đáp án. Lợi ích cho bản thân: - Trở thành con ngoan, trò giỏi không phụ công nuôi dưỡng, giáo dục của ông bà, cha mẹ, công ơn thầy cô giáo. - Được phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, sức khoẻ, mở rộng hiểu biết. - Lao động tự giác, tích cực. Lợi ích cho gia đình: - Mang lại vinh dự cho gia đình, niềm tự hào cho dòng họ. Sau khi giải quyết xong hết những ý kiến xoay quanh vấn đề của nhóm 1+2, giáo viên chuyển sang phần trình bày kết quả thảo luận của nhóm 3+4. Nhóm 4 trình bày: Lợi ích cho xã hội: - Học tập tốt sẽ thành người lao động chân chính, có khả năng tự lập nghiệp, - Góp phần xây dựng quê hương, đất nước, bảo vệ Tổ quốc. - Nếu đạt giải cao như Trương Bá Tú sẽ mang lại vinh quang cho đất nước Nhóm 3: Đồng ý với ý kiến của nhóm 4 Giáo viên hỏi ý kiến của một vài học sinh khác, nếu cũng đồng ý như vậy thì nhận xét và đưa ra đáp án. Nhóm 3+ 4. Lợi ích cho xã hội: - Thành người lao động chân chính, - Tự lập nghiệp, góp phần xây dựng quê hương, đất nước, bảo vệ Tổ quốc. - Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. - Mang lại vinh dự cho nhà trường, vinh quang cho đất nước … Như vậy nhờ có sự bổ sung cho nhau mà các nhóm đã tự nhận ra được lợi ích to lớn của việc học tập, từ đó xác định được cho mình mục đích học tập đúng đắn trong hiện tại và tương lai là: - Học sinh phải nỗ lực học tập để: 13
- + Trở thành: Con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, người công dân tốt. + Trở thành con người chân chính. + Tự lập nghiệp. + Xây dựng quê hương,đất nước. + Bảo vệ Tổ quốc. Ở phương pháp này, người giáo viên phải biết tổ chức cho học sinh hoạt động để kích thích được sự nỗ lực hoạt động, suy nghĩ, tìm tòi, tự khai thác thông tin, tự kiến tạo tri thức và các em tham gia nhiệt tình, hào hứng vào hoạt động. Tất cả các bài học học sinh tiếp thu được sẽ phản ánh khá rõ nét trong cuộc sống hàng ngày của các em. Từ đó sẽ đánh giá kết quả giảng dạy của người giáo viên đòi hỏi giáo viên phải tổ chức tốt lớp học và đưa ra những câu hỏi thảo luận phù hợp với lứa tuổi và khả năng của học sinh Tất cả các hoạt động của học sinh đều nằm trong sự quản lý của giáo viên: Khi học sinh tiến hành thảo luận, giáo viên chuyển từ vị trí người hướng dẫn sang vị trí người giám sát. Nhiệm vụ của giáo viên lúc này là nhận biết tiến trình hoạt động của các nhóm từ đó có thể can thiệp kịp thời, mang lại hiệu quả cao. Muốn vậy, khi giám sát hoạt động nhóm, giáo viên cần: + Đi vòng quanh các nhóm và lắng nghe ý kiến học sinh, giúp đỡ, gợi ý nếu cần thiết. + Giáo viên phải là người điều động các nhóm nhỏ làm việc. + Quan sát, theo dõi diễn biến bầu không khí, diễn biến hoạt động, công việc của từng nhóm. Cố gắng tìm hiểu được những suy tư, tình cảm, diễn đạt của học sinh khi tham gia thảo luận trong nhóm để tìm ra cách giải quyết hợp lí nhất. + Giáo viên quan sát xem có học sinh nào “đứng bên lề” hoạt động không? Nếu có, giáo viên tìm cách đưa các em vào không khí chung của nhóm. + Trong quá trình quan sát các nhóm làm việc, giáo viên phải phát hiện các sai lầm mà các nhóm mắc phải, những sai lầm mang tính điển hình để cuối phần thảo luận nhóm, giáo viên có những nhận xét, góp ý. + Với kết quả thảo luận của các nhóm thì giáo viên và học sinh phải cùng nhận xét, đánh giá, đưa ra ý kiến. 14
- + Giáo viên phải giải thích được những quan điểm không đồng nhất từ phía học sinh để từ đó thống nhất tìm ra đáp án chung nhất. Thấy được tầm quan trọng và lợi ích to lớn của phương pháp này, trong năm học 2013- 2014 ở lớp 6A, 6B trường THCS Đồng Hướng- Kim Sơn, tôi đã chủ động áp dụng thường xuyên phương pháp thảo luận nhóm trong các tiết dạy GDCD lớp 6 và đạt hiệu quả cao (có giáo án, phiếu khảo sát và đề kiểm tra ở phần phụ lục). 3.3 Tổ chức báo cáo kết quả thảo luận nhóm. Kết quả thảo luận có thể được trình bày dưới nhiều hình thức: bằng lời; đóng vai; dán kết quả thảo luận lên phần bảng phụ, viết hoặc vẽ lên giấy khổ A4 hoặc khổ to hơn,… Có thể do một em thay mặt nhóm trình bày, có thể nhiều học sinh trình bày mỗi học sinh một đoạn nối tiếp nhau. Ví dụ: Bài 18 Quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín. Để giúp học sinh nắm vững kiến thức phần nội dung bài học, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận những câu hỏi sau: Nhóm 1+ 2: Theo em những hành vi nào là vi phạm pháp luật về bí mật thư tín và an toàn thư tín, điện thoại, điện tín? Nhóm 3+ 4: Người vi phạm pháp luật về an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín sẽ bị pháp luật xử lí như thế nào? - Các nhóm thảo luận, ghi kết quả thảo luận ra giấy A4. - Đại diện nhóm 1 đứng dậy trình bày trước lớp. - Nhóm 2 có ý kiến nhận xét, nếu đồng nhất ý kiến thì thôi còn nếu có thêm ý kiến bổ sung thì trình bày. - Các nhóm còn lại nêu ý kiến. Cả lớp thảo luận đưa ra ý kiến chung. Giáo viên nhận xét, bổ sung, đưa ra đáp án và kết luận chung. - Học sinh ghi nội dung bài học vào vở. Ví dụ: Ở Bài 3. Tiết kiệm, câu hỏi thảo luận dành cho các nhóm là: Nhóm 1+ 2. Nêu những việc làm thể hiện tiết kiệm trong gia đình? Nhóm 3+ 4. Em làm gì để thể hiện tiết kiệm ở trường, lớp và ngoài xã 15
- hội? Sau khi 4 nhóm thảo luận ghi kết quả ra giấy khổ to bằng bút dạ, đại diện nhóm sẽ dán kết quả đó lên bảng để các nhóm và giáo viên cùng nhận xét. Sau khi thảo luận theo nhóm các em đưa ra ý kiến, giáo viên tập hợp lại như sau: 4. Kết quả thực hiện. Cụ thể đối với việc áp dụng thường xuyên phương pháp này tôi thấy nổi bật lên những ưu điểm sau đây: - Cung cấp cho học sinh những hiểu biết thực tế về những vấn đề đang diễn ra xung quanh cuộc sống của các em như vấn đề về đạo đức, pháp luật. Giúp các em nhận thức đúng được vai trò, xác định được phạm vi hành động, từ đó điều chỉnh được hành vi của mình. - Đồng thời qua quá trình thảo luận nhóm, tôi nhận thấy rõ một số tác dụng nổi bật của phương pháp này như: + Đã phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. + Giúp các em mạnh dạn hơn trong các hoạt động tập thể, trong giao tiếp. + Các em biết vận dụng kiến thức để tuyên truyền, động viên bạn bè, mọi người trong gia đình, cộng đồng và xã hội cùng thực hiện. Qua việc vận dụng thường xuyên phương pháp này vào dạy học môn Giáo dục công dân lớp 6, tôi thấy thực sự đã có hiệu quả, học sinh có chuyển biến rất rõ rệt. Các em đã hứng thú hơn, say mê hơn mỗi khi đến giờ học Giáo dục công dân, đã chủ động hơn trong cách nắm nội dung của bài học, và biết vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống, biết nhận ra những hiện tượng tích cực, tiêu cực trong xã hội. Đến hết năm học 2013- 2014, kết quả học tập ở các lớp 6A, 6B như sau: Bảng 1: Hứng thú học tập của học sinh lớp 6A, 6B đối với môn Giáo dục công dân khi áp dụng thường xuyên phương pháp thảo luận nhóm. Hứng thú học tập (%) 6A 6B Mức độ Số lượng %) Số lượng %) Hứng thú thoải mái 31 86 32 84 16
- Bình thường 5 14 6 16 Căng thẳng 0 0 0 0 Bảng 2: Mức độ hiểu bài của học sinh trong một giờ Giáo dục công dân: Mức độ hiểu bài của học sinh trong một giờ Giáo dục Công dân (%) 6A 6B Mức độ Số lượng %) Số lượng %) Hiểu bài hoàn toàn 31 86 32 84 Hiểu một số ý chính 5 14 6 16 Không hiểu bài 0 0 0 0 Chính mức độ hiểu bài như vậy nên học sinh đã linh hoạt hơn, thành thạo hơn trong việc vận dụng tri thức môn Giáo dục công dân vào thực tiễn. Bảng 3: Kết quả học tập của các em đối với bộ môn này sau học kì I như sau: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu 6A 36 40% 35 % 25 % 0% 6B 38 33 % 41 % 26 % 0% 5. Bài học kinh nghiệm. Để đạt được kết quả và đi đến kết luận như trên tôi đã đúc kết từ việc giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 6 trong những năm học trước và đặc biệt là trong năm học 2013- 2014 như sau: - Muốn nâng cao được chất lượng học sinh, gây được hứng thú học tập cho các em thì giáo viên phải có tâm huyết với nghề dạy học, phải suy nghĩ tìm ra những phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, chú ý nhiều đến đối tượng học sinh yếu, chưa mạnh dạn, phải nghiên cứu thiết kế hoạt động nhóm sao cho thật hiệu quả, đòi hỏi giáo viên phải có tính cẩn thận, công phu, hết lòng vì học sinh. - Muốn có một tiết học thành công, đặc biệt là với môn Giáo dục công dân theo tôi người giáo viên phải tạo được sự chú ý, tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình tiếp thu bài học. Để làm tốt việc này thì yêu cầu người giáo viên phải luôn luôn biết cách sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học vào giảng dạy 17
- cho phù hợp với nội dung bài học trong đó phương pháp thảo luận nhóm được xem như một phương pháp đặc thù, nếu không vận dụng phương pháp này chắc chắn giờ học sẽ trở nên khô khan, nhàm chán, khó đem lại hiệu quả cao trong quá trình dạy và học. 6. Ý kiến đề xuất. Từ những kinh nghiệm nhỏ bé trên của tôi, tôi xin mạnh dạn đưa ra một vài đề xuất sau : - Khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này về phía giáo viên phải thực sự kiên trì, mẫu mực trong cách dùng từ, kiên trì trong việc kiểm tra, đánh giá, chỉnh sửa các phần viết, luyện kỹ năng của các em. Mặt khác giáo viên cũng phải kiên trì sưu tầm, chọn lọc tư liệu có giá trị để cung cấp cho các em đồng thời tìm cách hướng các em cách vận dụng sáng tạo những kiến thức để biến thành vốn sống riêng của bản thân mỗi học sinh. - Về phía học sinh phải nhiệt tình, tích cực, tự giác tìm tòi, phát hiện, trau dồi, lĩnh hội tri thức, bằng nhiều cách; phải vận dụng những điều được học vào thực tế cuộc sống. - Để bồi dưỡng niềm say mê và hứng thú học môn Giáo dục công dân, làm giàu vốn sống, vốn hiểu biết xã hội cho các em học sinh lớp 6 nói riêng, chúng tôi còn có mong muốn: Trước hết giáo viên Giáo dục công dân trong cùng khối phải ra những bài tập nhằm vận dụng kiến thức vào thực tế, tập hợp thành những cuốn tư liệu gọi là Tình huống Giáo dục công dân ở các khối lớp để lưu giữ trong tủ sách nhà trường. Nhà trường cũng cung cấp thêm những tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học Giáo dục công dân cho học sinh THCS để làm giàu cho tủ sách. Học sinh cũng tự giác sưu tầm những tư liệu, hình ảnh, những câu chuyện về những tấm gương tiêu biểu có giá trị, phô tô 2 bản, giữ 1 bản để học, 1 bản nộp tủ sách nhà trường. Sau đó nhà trường thường xuyên tổ chức phong trào “thi đua đọc tư liệu từ tủ sách nhà trường”. Hoạt động này sẽ cho điểm xếp loại cho cá nhân và lớp. - Đề nghị các tổ chuyên môn trong nhà trường tích cực tổ chức các chuyên đề, cần lưu ý đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong đó đặc biệt 18
- chú trọng đến việc tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm trong giờ học sao cho có hiệu quả - Đề nghị Ban giám hiệu các trường THCS cần mua thêm sách, các trang thiết bị dạy học hiện đại để việc dạy học trên lớp đạt hiệu quả cao lại tiết kiệm được thời gian khi học sinh báo cáo kết quả thảo luận. Ban giám hiệu cũng cần kiểm tra thường xuyên việc giảng dạy trên lớp của giáo viên để các phương pháp mới được áp dụng thường xuyên và có hiệu quả cao nhất. IV. HIỆU QUẢ KINH TẾ- XÃ HỘI DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC. 1. Hiệu quả kinh tế. Sáng kiến kinh nghiệm này nhằm phục vụ cho việc dạy học môn Giáo dục công dân cho học sinh lớp 6. Vì vậy khi áp dụng sáng kiến này và đạt được thành công, tôi thấy hiệu quả của nó vô cùng to lớn: cả về giá trị vật chất và tinh thần. Tuy vậy, hiệu quả về mặt tinh thần có giá trị hơn cả. Bởi mỗi lần thấy niềm say mê, sự hứng thú của học sinh khi thảo luận nhóm trong giờ học Giáo dục công dân; mỗi lần thấy các học sinh thay phiên nhau làm nhóm trưởng, thư kí và đặc biệt khi các em dõng dạc, tự tin trình bày kết quả của nhóm mình tôi thấy đó là món quà quý giá mà tôi được tặng nhờ vào sự nỗ lực của cả cô và trò. 2. Hiệu quả xã hội. Kết quả sử dụng sáng kiến: Quá trình thực hiện kinh nghiệm của tôi qua năm học 2013- 2014 hoàn toàn được áp dụng các kỹ năng cơ bản như vừa nêu ở trên đã mang lại hiệu quả đáng kể, chí ít là đã phá bỏ được sự chán nản của học sinh với môn Giáo dục công dân- là môn vừa khô khan vừa áp đặt, giáo điều. Đã có nhiều em vận dụng thật sự linh hoạt kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. V. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Sáng kiến kinh nghiệm của tôi chỉ cần đầu tư về thời gian và niềm say mê cùng sự yêu nghề, mến trẻ chứ hầu như không đòi hỏi kinh phí về tiền bạc. Vì thế sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng với tất cả các đối tượng học sinh lớp 6 trong các môn học ở các nhà trường từ những học sinh yếu, ngại học đến những học sinh trung bình và học sinh khá, giỏi. Không những thế tôi nhận thấy sáng kiến kinh nghiệm này còn có thể áp dụng với đối tượng học sinh các khối 19
- lớp với năng lực nhận thức và vận dụng khác nhau, không chỉ với môn Giáo dục công dân mà ở các môn học khác nữa. VI. KẾT LUẬN Niềm vui của mỗi giáo viên dạy Giáo dục công dân đâu chỉ là chất lượng tính bằng con số của mỗi năm, mà chính là những ánh mắt long lanh vì đã hiểu bài, những nụ cười thiện cảm với môn Giáo dục công dân từ phía học sinh. Để đạt được những điều vô cùng quí giá đó mỗi giáo viên chúng tôi đâu chỉ có say mê nhiệt tình với công tác giảng dạy mà còn phải tìm tòi hướng đi hiệu quả nhất. Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi khi giảng dạy Giáo dục công dân lớp 6 trong trường THCS nhằm giúp tổ chức hoạt động nhóm được tiến hành một cách hiệu quả, đem lại hứng thú học tập cho học sinh. Sáng kiến kinh nghiệm của tôi chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các cấp, các ngành và các bạn đồng nghiệp để vấn đề tôi trình bày được đầy đủ hơn và ngày càng được áp dụng thường xuyên hơn khi giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn! Kim Sơn, ngày 15 tháng 4 năm 2015 Người viết Lê Thị Kim Cúc 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng mạng xã hội Zalo để liên lạc với phụ huynh học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu quả
10 p | 95 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học và sửa chữa đồ dùng dạy học bộ môn Vật lí ở trường THCS
16 p | 23 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở bậc học Trung học cơ sở
24 p | 75 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số thủ thuật dạy từ vựng môn tiếng Anh cấp THCS
12 p | 26 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng hiệu quả đồ dùng trực quan trong dạy học môn Công nghệ 8
15 p | 46 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Hóa học lớp 8, 9
24 p | 161 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học Sinh học 7
15 p | 11 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng thực hành Tiếng Anh cho học sinh THCS theo hướng phát triển năng lực và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo
26 p | 28 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng Webcam thay thế máy chiếu đa vật thể trong dạy học tích cực môn Sinh học ở trường Trung học cơ sở
32 p | 12 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng thí nghiệm trực quan trong giảng dạy môn Hóa học lớp 8 - 9
24 p | 23 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng Rubric đánh giá để tăng hiệu quả các tiết nói-nghe Ngữ văn 6 tại trường THCS Việt Nam – Angiêri
10 p | 27 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng thiết bị và đồ dùng dạy học Vật lý
13 p | 14 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để dạy - học môn Hóa học lớp 8 THCS
22 p | 24 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng giáo án điện tử để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí ở trường THCS
13 p | 14 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học môn Địa lý
32 p | 26 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy - học môn Địa lý lớp 6
32 p | 29 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng hằng đẳng thức & hệ thức Vi - ét đảo, rút gọn biểu thức chứa căn thức bậc hai
17 p | 48 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng sơ đồ hoá trong dạy học phần Sinh vật và môi trường
14 p | 17 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn