Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Chương trình tiếng Pháp ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp
lượt xem 4
download
Bài viết này sẽ làm sáng tỏ các vấn đề trên đồng thời gợi ý những giải pháp tích cực để không chỉ lấy lại vị thế của tiếng Pháp mà còn là gợi ý cho các cấp quản lý về chiến lược phát triển tiếng Pháp nói riêng và các ngoại ngữ khác nói chung trên địa bàn thành phố.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Chương trình tiếng Pháp ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH NGHỆ AN TRƯỜNG THPT CHUYÊN PHAN BỘI CHÂU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: Chương trình tiếng Pháp ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp (La situation des classes bilingues de français à Nghe An et des perspectives) TÁC GIẢ: LÊ VĂN KIÊN TỔ: NGOẠI NGỮ Năm học 20202021 Page | 1
- A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Thế giới mở đang rất cần những con người có thể sử dụng thành thạo một đến hai ngoại ngữ. Ở Việt Nam, tiếng Anh đang chiếm một vị trí quan trọng trong giáo dục. Nhưng bên cạnh đó ngoại ngữ khác cũng đang được giảng dạy và góp phần quan trọng trong sự nghiệp đào tạo nhân tài, nhân lực có chuyên môn cao và sử dụng tốt ngoại ngữ, đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Rõ ràng chúng ta không thể phủ nhận vai trò và vị trí quan trọng của Tiếng Anh trên toàn thế giới. Tuy nhiên, với xu thế toàn cầu hóa, thế giới mở, những môn ngoại ngữ khác cũng cần được quan tâm đúng mức, có chiến lược phát triển lâu dài và bền vững. Chính sách đa ngôn ngữ đang được Bộ GD và ĐT triển khai và đưa vào chương trình giảng dạy như (tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn Quốc…) trong chương trình NN1 và NN2. Trước năm 1954 tiếng Pháp được sử dụng trong các trường Đại học, là ngôn ngữ giao tiếp, làm việc và nghiên cứu của các nhà khoa học và trí thức. Sau nhiều thăng trầm, từ sau 1975, ngôn ngữ của Voltaire được sử dụng rộng rãi cả hai miền NamBắc. Ở Nghệ An, nơi được coi là địa phương có số lượng học sinh học tiếng Pháp nhiều nhất cả nước. Đặc biệt từ năm 1994 chương trình song ngữ tiếng Pháp được chính thức đưa vào giảng dạy trong một số trường điểm trên địa bàn thành phố và từ đây, hàng năm, đóng góp rất nhiều học sinh Pháp ngữ vào trường chuyên Phan Bội Châu, rồi vào các trường Đại học lớn trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, các lớp song ngữ đang mất dần học sinh, từ 02 trường tiểu học, 02 trường cấp THCS dạy học ti ếng Pháp nay chỉ còn lại mỗi cấp học một trường. Sỹ số học sinh, chất lượng học tiếng Pháp ngày càng giảm. Vậy đâu là nguyên nhân của sụt giảm này? Thực trạng học tiếng Pháp song ngữ trên địa bàn như thế nào? Giải pháp cho những khó khăn mà các lớp song ngữ đang gặp phải là gì? Bài viết này sẽ làm sáng tỏ các vấn đề trên đồng thời gợi ý những giải pháp tích cực để không chỉ lấy lại vị thế của tiếng Pháp mà còn là gợi ý cho các cấp quản lý về chiến lược phát triển tiếng Pháp nói riêng và các ngoại ngữ khác nói chung trên địa bàn thành phố. B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU. 1. Thực trạng các lớp song ngữ tiếng Pháp. Theo số liệu của Bộ GDĐT (2019), cả nước hiện có 33/63 tỉnh/thành phố có giảng dạy tiếng Pháp. Tổng số học sinh theo học ngoại ngữ này khoảng hơn 40.000 trong đó số lượng học sinh học chương trình tiếng Pháp ngoại ngữ 2 chiếm đại đa số với khoảng 20.000 học sinh, tiếp đó là các học sinh chương trình song ngữ và tăng cường tiếng Pháp với khoảng 10.000 học sinh. Tổng số giáo viên tiếng Pháp khoảng hơn 500, giáo viên Toán tiếng Pháp khoảng 30. Nghệ An chính thức tham gia chương trình song ngữ từ 1994 với 02 trường tiểu Page | 2
- học Lê Lợi và Cửa Nam 1 (10 lớp), 02 trường THCS là Lê Lợi và Cửa Nam (8 lớp) với 2 lộ trình: lộ trình A (cursus A) dạy tiếng Pháp và bằng tiếng Pháp từ lớp 1 đến hết lớp 12 và lộ trình B (cursus B) triển khai dạy học tiếng Pháp từ lớp 6 đến hết lớp 12. Cả hai lộ trình dạy học các môn: tiếng Pháp, Toán học, Vật Lý bằng tiếng Pháp (các môn khoa học học từ lớp 9). Sau khi tốt nghiệp cấp THCS, học sinh song ngữ tiếng Pháp phải trải qua kỳ thi tốt nghiệp bằng tiếng Pháp (03 môn thi bắt buộc bằng tiếng Pháp) và nếu đậu, học sinh sẽ được đăng ký vào trường THPT chuyên Phan Bội Châu. Lớp tiếng Pháp hệ song ngữ đã từng là mong muốn của nhiều phụ huynh và học sinh khi hàng năm hồ sơ xin thi tuyển vào lớp 1 những năm đầu là khoảng 500 hồ sơ trong khi đó chỉ lấy 60 em với 02 lớp mỗi trường. Học sinh song ngữ được tuyển chọn trên toàn địa bàn thành phố và trải qua kỳ thi tuyển theo chuẩn của nền giáo dục Cộng hòa Pháp. Các lớp song ngữ tiếng Pháp đã từng là các lớp điểm, lớp mẫu của toàn thành phố khi lần đầu tiên áp dụng dạy ngoại ngữ từ lớp 1 với chương trình mang tầm quốc tế. Với số lượng ít và có tuyển chọn, đặc biệt các lớp song ngữ được phía cộng đồng Pháp ngữ tài trợ (trợ cấp lương cho giáo viên, phòng máy, thiết bị nghe nhìn, sách giáo khoa…) và sự xã hội hóa tích cực từ phụ huynh (chuyên bán trú…), nên các lớp này luôn là lựa chọn số một của những gia đình khá giả cũng như có dự định du học sau này. Tuy nhiên, sau khi chương trình song ngữ tiếng Pháp không được nhận sự hỗ trợ từ cộng đồng Pháp ngữ và sau khi chương trình chính thức được chuyển giao sang cho phía Việt Nam (2006) số trường tham gia chương trình trên cả nước không ngừng giảm. Nghệ An cũng không phải ngoại lệ khi trường Tiểu học Cửa Nam 1 giảm dần số lớp học và dẫn đến trường THCS Cửa Nam cũng mất đi lớp tiếng Pháp. Hiện nay chỉ có 01 trường Tiểu học Lê Lợi và 01 trường THCS Lê lợi tiếp tục chương trình với sỹ số học sinh ngày càng giảm, đặc biệt khi lên đến cấp THPT. Mỗi năm thi vào trường chuyên Phan Bội Châu, sỹ số thí sinh thậm chí dưới 30 em. Hơn thế nữa chất lượng học sinh song ngữ cũng đang đi xuống và đáng báo động. 2. Nguyên nhân. Để làm sáng tỏ những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chương trình tiếng Pháp song ngữ, quyết định thành công hay thất bại của chương trình trên qui mô toàn Tỉnh, bài viết này dựa trên những kiến thức khoa học và những nghiên cứu mang tính khoa học trực tiếp trên đối tượng học sinh, gia đình, nhà trường và khu dân cư nơi trường đặt dự án song ngữ. Ba khái niệm sẽ giúp chứng minh nguyên nhân sụt giảm sĩ số học sinh song ngữ, giảm chất lượng học tiếng Pháp trong các lớp song ngữ được lựa chọn gồm: “vốn văn hóa” (capital culturel), “hiệu ứng trường học” (effet d’établissement), “chiến lược” (stratégie). Page | 3
- Vốn văn hóa (capital culturel). Khái niệm “vốn văn hóa” (capital culturel), theo giáo sư Pierre Bourdieu (19302002), được dùng để chứng minh sự bất bình đẳng trong trường học dựa trên tầng lớp xã hội của từng cá nhân. Cũng theo Bourdieu, “vốn văn hóa” là tổng thể những nguồn lực văn hóa của một cá nhân. Nguồn lực đó có thể được chia ra thành ba dạng: nguồn lực nội sinh (incorporé) bao gồm những kiến thức, kỹ năng, năng lực …, nguồn lực ngoại sinh (objectivé) gồm những tư liệu văn hóa như sách vở, thiết bị nghe nhìn… và nguồn thể chế hóa (institutionnalisé) là những chứng chỉ bằng cấp, trình độ chuyên môn. Nguồn lực nội sinh là những khả năng, kiến thức tự hình thành trong mỗi bản thân trong một quá trình dài và thường mang tính di truyền, không phụ thuộc vào qúa trình học tập, rèn luyện của người đó. Quá trình đó thường diễn ra một cách âm thầm, vô hình và tự nhiên. Chính vì vậy, môi trường gia đình đóng một vai trò hết sức quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của một học sinh. Những ảnh hưởng đó được hình thành hàng ngày qua lời nói, cử chỉ, hành động, cách cư xử của bố mẹ, người thân đến sự hình thành nhân cách của học sinh. Bourdieu gọi đây là “ngôn ngữ chuẩn mực” (langage légitime) mà học sinh xuất thân từ giai cấp xã hội khác nhau sẽ được thừa hưởng một cách không công bằng khi giai cấp thấp hơn thường không có được ngôn ngữ chuẩn mực trong môi trường gia đình hàng ngày. Mà chính ngôn ngữ hàng ngày đó đã ảnh hưởng đến việc tiếp nhận ngôn ngữ học đường của mỗi học sinh. Gia đình là trường học đầu tiên của học sinh, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của học sinh. Nếu nguồn lực nội sinh là di truyền hay tích lũy từ môi trường gia đình thì nguồn lực ngoại sinh cũng đến từ gia đình qua việc đầu tư giáo dục như trang bị cho con cái tư liệu văn hóa cần thiết như sách vở, bút mực, tài liệu nghe nhìn, từ điển…bảo đảm điều kiện đầy đủ, thậm chí tốt nhất cho việc học tập của con cái. Bên cạnh đó việc dẫn con đi xem phim, kịch, xem ca nhạc, đến những địa chỉ văn hóa lịch sử góp phần quan trọng để con tích lũy kiến thức văn hóa cần thiết. Nguồn lực ngoại sinh này sẽ gắn bó chặt chẽ với vốn tài chính, tuy nhiên nếu chỉ vốn tài chính không là chưa đủ. Vì vậy trình độ văn hóa của cha mẹ (nguồn lực thể chế hóa) cho phép họ theo dõi, đồng hành và hỗ trợ con cái trong quá trình học tập. Bố mẹ được đào tạo sẽ biết cách sử dụng tài chính hợp lý nhất trong việc lựa chọn trang bị tư liệu văn hóa phù hợp, đồng thời có thể cùng con khai thác nguồn tư liệu văn hóa đó. Một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình có trình độ văn hóa cao sẽ thường xuyên tiếp xúc với sách vở trong khi một đứa trẻ khác sinh ra trong một gia đình nông dân thường quen hơn với cày, cuốc, ruộng vườn. Một đứa trẻ xuất thân từ gia đình khá giả sẽ được thụ hưởng những công nghệ hiện đại, một đứa trẻ khác lớn lên trong một gia đình công nhân, thợ thủ công thì chỉ quen với tournevis, cưa xẻ, dùi đục… Rõ ràng là hai Page | 4
- nguồn lực quan trọng này sẽ là sự bất bình đẳng giữa những gia đình ở nông thôn với những gia đình ở thành thị, những gia đình tầng lớp tri thức và gia đình gia cấp xã hội thấp hơn. Từ đó sẽ có sự bất bình đẳng trong quá trình học tập và thành công trong giáo dục của mỗi học sinh. Chiến lược (stratégie). Nhiều nhà khao học giải thích sự bất bình đẳng giáo dục chủ yếu dựa trên khái niệm “vốn văn hóa”, tuy nhiên nhiều nhà khoa học khác lại chọn khái niệm “chiến lược”. Khái niệm này, với nghĩa sơ khai trong tất cả các ngôn ngữ, trong đó có ngôn ngữ tiếng Việt, đều được sử dụng trong chiến tranh. Theo từ điển tiếng Việt, “chiến lược là kế hoạch và sách lược toàn cục chỉ đạo chiến tranh”. Còn theo wikipedia “Chiến lược” là một từ có nguồn gốc từ lĩnh vực quân sự, đó là phương cách để chiến thắng trong một cuộc chiến tranh. Có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng có thể hiểu chiến lược là chương trình hành động, kế hoạch hành động được thiết kế để đạt được một mục tiêu cụ thể, là tổng hợp những mục tiêu dài hạn và những biện pháp, cách thức, con đường đạt đến những mục tiêu đó. Tuy nhiên khái niệm “chiến lược” nay được dùng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, thương mại và giáo dục. Theo Minzberg, Ahstrand et Lampel, chiến lược (stratégie) là những hoạch định của các nhà quản lý nhằm đến việc đạt được những kết quả như mong muốn dựa trên những nhiệm vụ cụ thể, những mục tiêu cụ thể và mang tính lâu dài. Rõ ràng là chiến lược là một khái niệm bao gồm các hoạch định, hành động, phương pháp, nguồn lực ...được xây dựng lâu dài để đạt được một hoặc nhiều mục đích trong tương lai. Khi nói đến chiến lược, Minzberg đã đưa năm từ bắt đầu bằng chữ « P » trong đó có « plan » (hoạch định), « perspective » (tương lai). Trong giáo dục, Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã đề cập đến chiến lược phát triển giáo dục của Quốc gia, của Tỉnh, của từng địa phương và từng trường học tùy theo nhiệm vụ riêng của mình để áp dụng những chiến lược giáo dục phù hợp. Từ đó mỗi gia đình cũng sẽ có một chiến lược riêng cho mình trong định hướng và đầu tư giáo dục cho con mình. Pierre Bourdieu cũng khẳng định rằng « các chiến lược phụ thuộc vào vốn kinh tế, vốn văn hóa và vốn xã hội». Chia sẻ vấn đề chiến lược trong giáo dục, Bourdon cũng khẳng định rằng « người học đến từ thành phần gia đình khác nhau sẽ không có những định hướng học tập giống nhau ». Ông cũng nói thêm rằng, « chiến lược của mỗi cá nhân sẽ khác nhau dựa trên tầng lớp xã hội khác nhau ». Rõ ràng là mục đích của một chiến lược không chỉ là một kết quả gần như ngay lập tức mà là mục tiêu lâu dài. Nếu chiến lược của mỗi cá nhân phụ thuộc vào chính cách ứng xử của chính mình, phụ thuộc vào các nguồn lực của mình có (nguồn lực nội sinh, ngoại sinh...) thì chiến lược của một tổ chức phải đề cao tính hợp tác, tính liên kết của tất cả các nhân tố cùng nhau hành động vì Page | 5
- những mục tiêu chung đồng thời là những mục đích riêng của mỗi cá nhân dựa trên những kế hoạch hành động cụ thể đã được xác định trước. Hiệu ứng trường học (effet établissement). Khái niệm « hiệu ứng trường học » là một khái niệm mới trong lĩnh vực giáo dục tại Việt Nam, tuy nhiên, việc lựa chọn trường học của bố mẹ phụ huynh học sinh lại là một hiện tượng không mang tính thời sự nữa. Từ rất lâu rồi, trước khi gửi con vào một trường học nào đó, nếu như có sự lựa chọn, bố mẹ thường quan tâm đến một số tiêu chí như là chất lượng giảng dạy, kết quả đào tạo của học sinh, vị trí xếp hạng của trường ... Chính vì thế, khái niệm « chạy trường » ở Việt Nam luôn được nhắc nhiều trên các diễn đàn, trên mọi phương tiện thông tin trước mỗi năm học mới. Theo Demailly, khái niệm « hiệu ứng trường học » chỉ ra « sự khác biệt hóa của một số hoạt động của hệ thống trường học dựa trên những tính chất riêng biệt của từng trường ». Điều đó có nghĩa là, để phân tích một trường học nào đó, cần phải dựa trên nhiều yếu tố khác nhau : «cơ cấu xã hội và giáo dục của nhà trường, vị trí xếp hạng của nhà trường, đội ngũ giáo viên và người đứng đầu của trường đó ». Những đặc điểm quan trọng này sẽ là những dấu hiệu cần thiết để phân biệt trường này với trường khác. Rõ ràng là thành công trong giáo dục không chỉ quyết định bởi chính bản thân người học với sự đầu tư văn hóa, chiến lược phát triển giáo dục của mỗi gia đình, của mỗi cá nhân học sinh, mà sự thành công đó phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu xã hội, giáo dục của một trường học. Các trường học nằm trong khu phố có tầng lớp xã hội khá giả sẽ có nhiều lợi thế hơn với những trường chỉ đón con em của tầng lớp dân thường. Qủa vậy, « văn hóa cao quý cũng có khu phố riêng của nó » (Pierre Bourdieu, 1966, trang 327). Mặt khác, vị thứ xếp hạng của một trường học sẽ là một tiêu chí quan trọng quyết định sự lựa chọn trường của cha mẹ học sinh. Bởi đây là một dấu hiệu tường minh, kết quả chính thống về chất lượng giáo dục của một trường học được công bố rộng rãi. Chính vì vậy, những trường có vị trí cao trong bảng xếp hạng thường là sự lựa chọn ưu tiên của phụ huynh, học sinh. Hơn nữa, những gia đình khá giả, gia đình tri thức thường có xu hướng chọn trường cho con mình hơn so với những gia đình khác. Khi càng nhiều gia đình khá giả lựa chọn, thì cơ cấu xã hội, giáo dục của trường đó rất tốt. Từ đó, chất lượng giáo dục càng được nâng cao. Khi giải thích cho những khó khăn mà chương trình song ngữ tiếng Pháp ở Nghệ An, chúng tôi cần phải đề cập đến mọi yếu tố liên quan khi đi sâu nghiên cứu dựa trên ba khái niệm « vốn văn hóa », « chiến lược » và « hiệu ứng trường học ». Và từ ba khái niệm này chúng tôi sẽ đi sâu phân tích những nguyên nhân Page | 6
- trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng của các lớp song ngữ tiếng Pháp. 2.1. Thực tế khách quan: Tiếng Pháp trải qua nhiều thăng trầm không chỉ ở Nghệ An và trên cả nước. Sau những năm 2000, số lượng các lớp tiếng Pháp trên cả nước giảm dần theo từng năm. Chỉ tính riêng từ năm học 20112012 đến năm học 20122013 tại Nghệ an, số lượng trường có tiếng Pháp (bao gồm cả tiếng Pháp NN1, NN2 và song ngữ) giảm 07 trường trong 1 năm với hơn 2000 học sinh. Đặc biệt sau năm học 20142015, chỉ còn lại chương trình song ngữ trên cả Tỉnh. Đây là một sự thật không thể phủ nhận và cũng là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của hệ song ngữ. Sự “xóa tên” các lớp tiếng Pháp khác trên địa bàn toàn tỉnh kéo theo một xu hướng tiêu cực khi phụ huynh và học sinh chạy theo phong trào và chuyển hướng sang lựa chọn tiếng Anh. Hai trường cấp 1,2 Cửa Nam và Lê Lợi tham gia chương trình song ngữ cùng nhau vào cùng thời điểm (1994). Tuy nhiên, hiện nay chỉ có trường tiểu học và THCS Lê Lợi đang tiếp tục chương trình mặc dù số lượng lớp, số lượng học sinh ngày càng giảm. Bảng 1. Dạy tiếng Pháp và bằng tiếng Pháp năm học 20112012 tại Nghệ An. Số trường Số lớp Số giáo viên Số học sinh Tiếng Pháp song ngữ 5 19 11 468 Tiếng pháp chuyên Tiếng Pháp ngoại ngữ 2 5 17 5 460 Tiếng Pháp ngoại ngữ 1 17 111 46 4230 Tổng 27 147 62 5158 Bảng 2. Dạy tiếng Pháp và bằng tiếng Pháp năm học 20122013 tại Nghệ An. Số trường Số lớp Số giáo viên Số học sinh Tiếng Pháp song ngữ 5 18 12 457 Tiếng Pháp chuyên Tiếng Pháp ngoại ngữ 2 1 3 1 90 Page | 7
- Tiếng Pháp ngoại ngữ 1 13 60 26 2410 Tổng 20 84 43 3008 Số liệu do Sở GD và ĐT cung cấp 2.2. Đối với phụ huynh học sinh: Gia đình đóng vai trò quan trọng trong định hướng, giúp đỡ học sinh trong quá trình học tập. Đặc biệt từ cấp tiểu học, gia đình đóng vai trò quyết định trong việc lựa chọn trường, định hướng học tập, đầu tư và giúp đỡ học sinh trong quá trình học tập. Gia đình được xem như là trường học đầu tiên và là nơi tạo nên nguồn lực ngoại sinh (objectivé) giúp cho học sinh tích lũy vốn văn hóa của mình. “vốn văn hóa” của gia đình là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công trong học tập của mỗi học sinh. Vì vậy khi đánh giá về một trường học, chúng ta cần nghiên cứu cơ cấu xã hội của trường đó, đặc biệt là cha mẹ học sinh, khi làm sáng tỏ các đặc điểm xã hội, nguồn lực kinh tế, nhu cầu giáo dục của từng gia đình liên quan đến học tập và giáo dục con cái. “Học sinh đến từ gia đình càng khá giả, thì tiến bộ trong học tập càng rõ ràng” (Pascal PRESSOUX, 1995). Rõ ràng là một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình khá giả sẽ được thừa hưởng vốn văn hóa và kinh tế của gia đình và thường được định hướng tốt từ bố mẹ, những người nói chung có trình độ văn hóa cao và một tầm nhìn xa hơn những gia đình thuộc tầng lớp thấp hơn. Hơn nữa, những gia đình thuộc tầng lớp cao hơn có xu hướng mong muốn con cái học tập cao hơn, đi xa hơn so với những gia đình thuộc tầng lớp thấp, những người mà đòi hỏi con mình trong học tập là không cao. Vì một phần là do nguồn lực kinh tế chưa đủ để có thể định hướng học tập xa hơn, cao hơn; phần khác là do họ có thể cũng chưa có tầm nhìn đủ xa để định hướng sớm và lâu dài cho con mình trong quá trình học tập. Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa tầng lớp xã hội và kết quả học tập của con cái. Khi nói đến bất bình đẳng trong trường học, Bourdieu nhấn mạnh đến vốn văn hóa của học sinh và phụ huynh. Mặt khác, khái niệm “chiến lược” gia đình, phụ thuộc nhiều vào nguồn lực kinh tế, vốn văn hóa và vốn xã hội, phải được xem xét nghiêm túc khi nó có mối liên hệ chặt chẽ với những lựa chọn học tập của gia đình học sinh cũng như của chính học sinh. Những chiến lược này, theo chúng tôi, được hiểu theo hai loại: chiến lực bên trong và chiến lược bên ngoài. Chiến lược bên trong bởi vì chính gia đình, học sinh, tùy theo trình độ học vấn và vị trí xã hội, sẽ có những chiến lược riêng của của mình trong sự lựa chọn trường, định hướng học tập và trong quá trình Page | 8
- học tập. Chiến lược bên ngoài là vì xã hội không ngừng phát triển, nhu c ầu xã hội thay đổi, thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải; tất cả vấn đề này đòi hỏi gia đình phải có những tính toán, suy nghĩ kỹ trước khi chọn trường cho con. Nếu như gia đình khó khăn thường gần như không có chiến lược nào bởi vì điều quan trọng đối với họ là nỗi lo cuộc sống hàng ngày khi bố mẹ phải lao động vất vả để kiếm sống. Hơn nữa, trình độ hiểu biết của họ hạn chế, khái niệm “chiến lược” dừng như không tồn tại trong suy nghĩ của họ, điều đó có nghĩa là sự lựa chọn trường học cho con hay đầu tư giáo dục là không thể. Trong khi đó, những gia đình khá giả, kinh tế vững, có trình độ văn hóa cao, hiểu biết xã hội rộng, sẽ luôn quan tâm đến năng lực học tập và bằng cấp khi định hướng từ rất sớm con mình đến học những ngôi trường có chất lượng, hướng đến học cao hơn và xa hơn nữa là nghề nghiệp trong tương lai. Quả vậy, khi nói đến bất bình đẳng giáo dục, nếu Bourdieu xem trọng tầng lớp xã hội, thì Boudon lại khẳng định “bất bình đẳng xã hội ở trường học là kết quả của việc áp dụng những chiến lược khác nhau của từng gia đình thùy theo định hướng học tập của họ”. Boudon cũng khẳng định rằng mỗi một lựa chọn (học ngoại ngữ nào, môn học tự chọn nào ...) là kết quả của những chiến lược cá nhân dựa trên tầng lớp xã hội của họ. Chúng tôi đã thực hiện của khảo sát bố mẹ học sinh hai trường THCS C1 và THCS C2 và thấy rằng trình độ học vẫn của hai đối tượng khác nhau. Ở trường C1 25% bố mẹ là cán bộ công chức, 67,1% buôn bán và chỉ có 7% làm nghề khác hoặc thất nghiệp. Trong khi đó ở trường C2, số lượng bố mẹ là công chức là 28,5%, buôn bán là 42,8% (buôn bán nhỏ ở chợ) và số còn lại là 28,5%. (xem phụ lục). Điều đó có nghĩa là trình độ của bố mẹ của hai trường khá khác nhau. Cần phải nói thêm rằng trình độ học vấn của bố mẹ (đặc biệt là mẹ) ảnh hưởng rất lớn đến học tập của học sinh (vì theo điều tra, giúp đỡ con cái học tập ở nhà thường là mẹ). Trên thực tế, bố mẹ không có bằng cấp hoặc bằng cấp thấp của trường C2 chiếm 90% trong khi đó con số này là 64% ở trường C1. Vì thế, chũng tôi cũng đã đặt câu hỏi liên quan đến việc hỗ trợ học tập ở nhà của bố mẹ. Ở trường C1 34,21% mẹ giúp đỡ con làm bài tập về nhà trong khi đó chỉ có 5% mẹ có đồng hành cùng con trong học tập và 90% học sinh không nhận được sự hỗ trợ nào của bố mẹ ở nhà ở học sinh trường C2; con số này là chỉ chiếm 9% ở trường C1. Sự lựa chọn trường học của phụ huynh, học sinh dựa vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố “Hiệu ứng trường học” mang tính quyết định. Cũng theo Demailly, đánh giá một trường học cũng cần dựa trên “vị trí xếp hạng của trường, đội ngũ giáo viên, người lãnh đạo”. Vì thế, trường có vị thứ xếp hạng cao, đội ngũ giáo viên tốt, hiệu trưởng năng động…sẽ thu hút được nhiều gia đình học sinh có định hướng, có đầu tư trong khi những gia đình khó khăn hơn thường chấp nhận qui định tuyển sinh chung. Vì vậy những trường có chất lượng tốt, thứ hạng cao thì thường thừa hưởng đối tượng phụ huynh có tầng lớp xã hội cao hơn, có nguồn lực kinh tế và vốn văn hóa tốt hơn, có chiến lược Page | 9
- phát triển giáo dục cho con dài hạn và rõ ràng hơn …Nói cách khác khi đưa một chương trình giáo dục mới vào như chương trình song ngữ tiếng Pháp chẳng hạn, thì điều quan trọng phải lựa chọn trường học hội đủ các tiêu chí như có cơ cấu xã hội có trình độ văn hóa cao, có nguồn lực kinh tế vững và có chiến lược phát triển lâu dài và bền vững. Hơn nữa, khi lựa chọn tiếng Pháp song ngữ thì gia đình phụ huynh thường có định hướng du học sau này, hoặc ít nhất cũng theo học những trường đại học có chất lượng trong nước. Vì mục đích của chương trình này là đào tạo thế hệ trẻ Nghệ An, đặc biệt thành phố Vinh, có trình độ ngoại ngữ cao, đủ sức tiếp tục học nâng cao ở nước ngoài và trở thành những công dân toàn cầu trong tương lai. Những gia đình đủ hiểu biết, đủ nguồn lực kinh tế mới có thể thực hiện được mục đích và định hướng của chương trình. 2.3. Đối với các Trường tham gia chương trình song ngữ : Việc lựa chọn chương trình song ngữ là quyết định của Tỉnh, của Sở giáo dục với sự đồng ý của Hiệu trưởng các trường nơi thực hiện chương trình. Nếu có sự đồng thuận cao thì việc phát triển các lớp tiếng Pháp là dễ giàng, nhưng nếu lãnh đạo các trường không quyết tâm, tâm huyết với chương trình thì khó khăn trong quản lý và phát triển lớp học này là điều khó tránh khỏi. Hơn nữa, với cơ chế phân cấp quyền lực, hiệu trưởng có quyền được lựa chọn nhóm môn học không bắt buộc dựa trên điều kiện nhân lực và cơ sở vật chất có sẵn. Hiệu trưởng thực sự đóng một vai trò hết sức quan trọng trong trường học. Nhiều nghiên cứu khoa học đã phân tích vai trò của hiệu trưởng mặc dù kết quả chưa đồng nhất vì còn tùy thuộc vào hoàn cảnh khác nhau của các nước, của từng vùng, thậm chí từng khu phố. Nếu như ở các nước nói tiếng Anh, hiệu trưởng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của học sinh. Ngược lại, ở Pháp “hiệu trưởng chỉ là một nhiệm vụ chứ không phải là một chức vụ” (Pascal BRESSOUX, 1995). Ở Việt Nam, luôn tồn tại một thứ bậc quyền lực rõ ràng: thầy cô được xếp trên bố mẹ, nhưng thầy cô lại phải chịu sự chỉ đạo của Hiệu trưởng. Nói cách khác, trong một trường học, Hiệu trưởng là người có ảnh hưởng quan trọng mang tính quyết định thành công hay thất bại của một trường học. Vì người đứng đầu của một trường học phải chịu trách nhiệm lớn nhất trong chính sách lãnh đạo của mình, trong cách điều hành các hoạt động giảng dạy và đặc biệt là áp dụng chiến lược phát triển giáo dục của trường mình. Ở giai đoạn đầu của dự án song ngữ tiếng Pháp khi chương trình này đang phát triển mạnh, chất lượng học sinh rất tốt khi được tuyển chọn trên địa bàn toàn thành phố. Đối tượng học sinh gần như xuất thân từ gia đình có kinh tế vững vàng và có chiến lược phát triển lâu dài. Các lớp song ngữ lúc đó được coi là lớp “vip” khi phụ huynh học sinh đầu tư nhiều vào lớp này như cơ sở vật chất (lắp đặt phương tiện nghe nhìn hiện đại...), đầu tư học tập cho con (sách vở, tài liệu, đĩa nghe, ...); trường học quan tâm khi bố trí giáo viên tốt nhất trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy các môn văn hóa tại lớp này. Tuy nhiên, chính sách Page | 10
- luân phiên lãnh đạo đã làm thay đổi người quản lý và Hiệu trưởng không tâm huyết với tiếng Pháp sẽ không dành ưu tiên cho lớp này nữa khi xã hội đang dần phát triển và tiếng Anh đang được lựa chọn đưa vào trường học sớm hơn, nhiều phụ huynh lựa chọn tiếng Anh hơn theo xu thế. Lớp tiếng Pháp thì luôn hạn chế sỹ số (35 học sinh) và chỉ mỗi lớp một khối, lợi ích từ lớp này đem lại là không cao và chưa rõ ràng (vì đây là những lớp đầu tiên) nên có thể số lượng ít ỏi này không được đưa vào chiến lược phát triển của các nhà trường. Nhiều Hiệu trưởng không đưa kế hoạch phát triển tiếng Pháp vào chương trình nhà trường; yêu cầu giáo viên tiếng Pháp phải học văn bằng 2 tiếng Anh để chuyển sang dạy ngoại ngữ này và vì vậy các lớp tiếng Pháp bị “xóa sổ” ở cấp THCS và kéo theo hệ lụy cấp tiểu học cũng phải dừng học. Vì theo lộ trình quy định hiện hành thì cấp tiểu học ở phường nào thì lên cấp THCS ở phường đó. Trong khi đó các lớp tiếng Pháp song ngữ vẫn tồn tại ở phường khác là nhờ sự quyết liệt của Hiệu trưởng khi xác định tiếp tục với chương trình. Mặt khác, một số trường đã không xây dựng cho mình một chiến lược phát triển ổn định, lâu dài nên bị động khi chương trình song ngữ được phía Pháp ngữ chuyển sang cho phía Việt Nam quản lý và phát triển. Vì vậy, nhiều trường đã gặp không ít khó khăn trong quản lý chương trình, quản lý đội ngũ giáo viên và chiến lược phát triển lớp học. Sự thay đổi xã hội ảnh hưởng rất lớn đến trường học, sự thiếu chuẩn bị hoạch định lâu dài, thiếu chiến lược đầu tư phát triển, các lớp song ngữ tiếng Pháp không còn là sự ưu tiên và thay vì tiếp tục chương trình trong sự thiếu định hướng, các trường quyết định chọn tiếng Anh như nhiều trường khác trên địa bàn. Chính giáo viên đang giảng dạy tiếng Pháp cũng bị “bỏ rơi” khi thậm chí một giai đoạn dài học không được biên chế, thậm chí còn bị coi là giáo viên dự án. Rõ ràng là nhà trường đã không có chiến lược cụ thể trong việc bảo vệ giáo viên và tạo điều kiện cho giáo viên được yên tâm cống hiến. Và đến lượt mình, giáo viên tiếng Pháp cũng phải chấp nhận dạy tiếng Anh khi nhà trường đã quyết định lựa chọn ngôn ngữ này. 2.4. Đối với Tỉnh và Sở giáo dục đào tạo: Dường như lãnh đạo Tỉnh và Sở cũng chưa xây dựng được kế hoạch, chiến lược phát triển tiếng Pháp lâu dài khi trên thực tế chưa có chương trình cụ thể trong đào tạo giáo viên, phát triển lớp học, lựa chọn trường học và lộ trình học. Trên thực tế, giáo viên giảng dạy các lớp song ngữ (kể cả những môn khoa học bằng tiếng Pháp) đều được phía Pháp ngữ đào tạo sớm từ năm thứ 2 ở cấp Đại học qua cuộc thi tuyển chọn quốc gia khó khăn và khoa học. Những sinh viên được lựa chọn tiếp tục được đào tạo để chuẩn bị cho các lớp song ngữ sau này. Sau khi tốt nghiệp Đại học, các sinh viên này phải trải qua kỳ thi do Bộ giáo dục và đào tạo kết hợp với cộng đồng Pháp ngữ tổ chức trên qui mô toàn quốc với phương châm sinh viên đến từ vùng miền nào sẽ được về giảng dạy tại đại phương đó (nếu vượt qua kỳ thi tuyển chọn). Như vậy, phía Pháp ngữ Page | 11
- đã có sự chuẩn bị và định hướng sớm khi xây dựng đội ngũ để chuẩn bị cho sự ra đời của chương trình. Nói cách khác, phía Tỉnh, Sở giáo dục không cần có sự chuẩn bị này vì gần như tất cả, từ nhân lực, vật lực đều do phía Pháp đài thọ. Tuy nhiên, khi chương trình song ngữ chuyển sang hoàn toàn cho phía Việt Nam quản lý, nhiều khó khăn bắt dầu xuất hiện như sự khó khăn về nguồn lực : chế độ tiền lương cho giáo viên, cơ sở vật chất cho các lớp song ngữ ; về nhân lực : biên chế hay không biên chế giáo viên giảng dạy các lớp song ngữ, đào tạo hay không giáo viên tiếng Pháp, tuyển dụng giáo viên dạy các bộ môn khoa học bằng tiếng Pháp... Và những khó khăn trong định hướng phát triển các lớp song ngữ cũng là bài toán khó cho các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương. Học sinh tiếp tục chương trình này ở Nghệ An sẽ lên trường chuyên Phan Bội Châu để tiếp tục học, nhưng với điều kiện phải vượt qua kỳ thi tuyển chọn chung của nhà trường. Vậy học sinh không muốn đi tiếp theo chương trình sẽ học gì và ở đâu ? Học sinh muốn học tiếp chương trình song ngữ mà không vào được trường chuyên Phan Bội Châu thì sẽ học ở đâu ? Đây là hướng đi mà chúng ta chưa có tính toán trước, chưa có chiến lược lâu dài. Vì thế rất nhiều học sinh ở cấp tiểu học, thậm chí cấp THCS phải từ bỏ chương trình vì cơ hội đi hết chương trình THPT với tiếng Pháp là rất hạn chế. Hơn nữa, các trường có tiếng Pháp có thể quyết định dừng chương trình mà không có một qui định văn bản nào từ phía Tỉnh, Sở giáo dục và đào tạo yêu cầu các trường tiếp tục chương trình và vì vậy “phép vua thua lệ làng”, chính Hiệu trưởng các trường song ngữ là người đua ra quyết định cuối cùng. 2.5. Nguyên nhân khác: Chúng ta không thể phủ nhận vai trò và vị trí hàng đầu của tiếng Anh, vì vậy xu hướng lựa chọn ngôn ngữ này không phải là khó hiểu, thậm chí đây là định hướng mang tích quốc sách nếu chúng ta muốn hội nhập nhanh hơn với thế giới. sự thay đổi xã hội buộc chính sách giáo dục cũng phải thay đổi theo, từ đó các trường học cũng phải có chiến lược riêng của mình cho phù hợp với thời đại. Gia đình học sinh cũng có những tính toán, định hướng học tập cho con em mình. Hàng năm, sau khi học xong cấp THPT, trung bình khoảng gần 10% sỹ số học sinh song ngữ tiếng Pháp đi du học (con số chưa chính thức). Chủ yếu lựa chọn nước Pháp để học đại học và cao hơn đại học, và một số khác chọn Canada (vùng nói tiếng Pháp), Bỉ. Số học sinh còn lại chủ yếu chọn các trường Đại học trong nước và chuyển sang học chuyên ngành khác mà không theo tiếng Pháp nữa, chỉ một số ít tiếp tục với ngôn ngữ này. Như đã phân tích ở trên, việc lựa chọn đi du học chỉ là sự lựa chọn của rất ít phụ huynh học sinh, những gia đình có điều kiện cũng như có chiến lược lâu dài từ trước. Hơn nữa, nhiều gia đình có điều kiện sẽ lựa chọn các nước nói tiếng Anh để gửi con đi du học. Vì Page | 12
- thế tiếng Pháp không còn là lựa chọn tối ưu của các gia đình này và lớp Pháp song ngữ thiếu đi những gia đình tiềm năng. Khi lớp song ngữ tiếng Pháp không còn là lựa chọn số một nữa, khi trên địa bàn thành phố có nhiều trường THCS có chất lượng, các trường có tiếng Pháp không có nhiều học sinh đặc biệt là những học sinh có định hướng tiếng Pháp lâu dài. Các trường này phải chấp nhận lấy học sinh trong phường và chỉ có những học sinh của các gia đình thường không chọn tiếng Pháp mà tùy sự sắp xếp của nhà trường hoặc có học sinh ngoài phường thì họ chấp nhận vào lớp tiếng Pháp vì trái tuyến. Việc sụt giảm sỹ số, sụt giảm chất lượng của các lớp tiếng Pháp song ngữ là không thể tránh khỏi và mất hẳn chương trình song ngữ của một số trường rõ ràng là dễ hiểu. Mặt khác, chương trình song ngữ nặng hơn chương trình phổ thông bình thường kể cả về thời lượng (7 tiết/tuần), kể cả môn học (3 môn học bắt buộc tiếng Pháp, Toán,Vật lý bằng Pháp). Đây cũng là một lý do mà nhiều học sinh không theo kịp chương trình dẫn đến chất lượng và số lượng sụt giảm. Giải thích cho số lượng lớp tiếng Pháp sụt giảm không thể không đề cập đến tình hình giảng dạy ngôn ngữ này ở các cấp sau THPT và đặc biệt là cơ hội việc làm cho sinh viên học tiếng Pháp sau khi ra trường. Trên thực tế hiện nay rất ít các trường Đại học trong nước có ngành học tiếng Pháp hoặc bằng tiếng Pháp. Chỉ tồn tại ở một số thành phố lớn và số lượng lớp cũng khá hạn chế. Trường ĐH Vinh đã từng là điểm đến của rất nhiều học sinh học tiếng Pháp trong tỉnh và kể cả các tỉnh lân cận. Tuy nhiên, sau khi chính sách một ngoại ngữ được trường này áp dụng thì khoa tiếng Pháp cùng với khoa tiếng Nga, tiếng Trung lần lượt bị xóa sổ. Hơn 30 giáo viên phải chuyển sang dạy tiếng Anh. Và từ đây các trường THPT trên địa bàn không có sự lựa chọn khi cạnh tranh ở các trường tại các tành phố lớn là khó khăn nên cũng dần dần chuyển sang tiếng Anh. Sự chuyển đổi này ảnh hưởng rất lớn đến các lớp song ngữ. Tuy nhiên, một lý do quan trọng giải thích cho sự sụt giảm các lớp tiếng Pháp trong đó có lớp song ngữ là thiếu cơ hội việc làm sau khi học xong Đại học. Thực tế trên thị trường công việc hiện nay, cơ hội dành cho những người sử dụng tiếng Pháp là rất hạn chế. Khi các lớp tiếng Pháp đang không ngừng giảm thì không thể tiếp tục đào tạo sinh viên sư phạm ngành pháp. Và rất nhiều sinh viên ngành sư phạm tiếng Pháp phải chuyển sang làm du lịch, làm nhiều công việc khác không liên quan tiếng Pháp hoặc chấp nhận thất nghiệp. Các công ty nước ngoài tại Việt Nam gần như ưu tiên tuyển dụng tiếng Anh, thậm chí kể cả các công ty đến từ Pháp. Page | 13
- C. KẾT LUẬN “Sự thành công của học sinh không chỉ là do các đặc tính của chính học sinh đó (tuổi, xuất thân…), mà thành công đó là kết quả của một quá trình có sự tham gia của mọi nhân tố giáo dục liên quan” (Olivier COUSIN, 1993, p403). Hiển nhiên là sự thành công của một học sinh phụ thuộc rất lớn vào nhiều nhân tố khác nhau nhưng tạo thành một khối liên kết chặt chẽ không thể tách rời. Giải quyết một vấn đề giáo dục không thể ngày một ngày hai, mà cần có một quá trình lâu dài và cần có sự vào cuộc của tất cả các nhân tố liên quan: từ chính sách của Bộ giáo dục và Đào tạo đến sự quyết tâm của từng học sinh. Qua bài viết này, chúng tôi cũng xin phép được đưa ra một số giải pháp với hy vọng đóng góp ý kiến nhỏ để giải quyết những vấn đề mà hệ thống giáo dục đang gặp phải nói chung và đối với các lớp song ngữ tiếng Pháp nói riêng. Có nhiều nguyên nhân của việc sụt giảm số lượng lớp học và chất lượng học sinh song ngữ tạo Nghệ An như đã phân tích ở phần trên. Vì vậy rất cần việc phân tích từng nguyên nhân để đưa ra những giải pháp phù hợp nhất có thể. Trước hết, chúng tôi xin đề cập đến những vấn đề của hệ thống giáo dục hiện nay. Dường như hệ thống giáo dục của chúng ta, từ mấy năm lại đây, đang luẩn quẩn với việc cải cách trong giảng dạy và học tập ngoại ngữ và phân bổ quota cho mỗi ngoại ngữ trong mọi lộ trình hiện có. Đã có thời điểm, chỉ dạy một ngoại ngữ duy nhất trên toàn quốc đã được đề nghị. Nói cách khác, Bộ giáo dục chưa hành động quyết liệt khi để cho các Tỉnh, các Sở tự quyết định lựa chọn môn học ngoại ngữ cho mình. Mà ở mỗi Tỉnh, các trường học lại đưa ra lý do để đồng ý hoặc không đồng ý với với chính sách của Sở giáo dục và đào tạo với cớ là thiếu cơ sở vật chất, thiếu giáo viên hoặc là do nhu cầu người học hay Page | 14
- cũng do chính sách phân quyền. Chính vì vậy phía Bộ phải có những chính sách cụ thể, bắt buộc các Tỉnh có tiếng Pháp phải tiếp tục chương trình đồng thời yêu cầu các Tỉnh phải áp dụng chính sách đa ngôn ngữ. Bộ giáo dục, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ phải hợp tác với tất cả các doanh nghiệp, nghiên cứu các yêu cầu của doanh nghiệp để có những định hướng chuyên môn phù hợp với từng ngành nghề và từng khu vực. Trường học không còn là một tổ chức độc lập, một đơn vị bị tách rời; mà cần mở ra với thế giới bên ngoài và đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Tại sao các công ty Pháp cần người nói tiếng Anh? Có thể vẫn còn thiếu những người nói tiếng Pháp chất lượng vì thực tế ở Việt Nam, các trường Đại học hoặc các khoa có lớp tiếng Pháp đang tỏ ra quá khiêm tốn trong khi Bộ giáo dục và đào tạo chưa có chiến lược đầu tư nguồn nhân lực nói tiếng Pháp chất lượng cho các lĩnh vực như y học, kiến trúc, khoa học và công nghệ cao ... Thứ hai, việc thiếu tính liên tục của các khóa học tiếng Pháp sẽ là trở ngại lớn đối với sự phát triển của ngôn ngữ này tại Nghệ An. Khi Đại học Vinh xóa bỏ hoàn toàn các khóa tiếng Pháp, học sinh trung học ở các cơ sở nói tiếng Pháp sẽ đi đâu và học tiếng Pháp để làm gì khi ở trường Đại học, họ sẽ phải học một ngôn ngữ khác? Đây là lý do tại sao các lớp học tiếng Pháp ở trường trung học biến mất theo thời gian, nó gây ra hậu quả tương tự ở trường THCS và tiểu học. Do đó, điều quan trọng là phải duy trì sự liên tục từ cấp độ tiểu học đến giáo dục đại học, đặc biệt Nghệ An là một tỉnh nói tiếng Pháp truyền thống. Đối với chương trình song ngữ, tương lai không rõ ràng hơn khi ở trung học, cánh cửa mở ra cho học sinh vẫn còn rất hạn chế: chỉ có 35 học sinh vào trường THPT chuyên Phan Bội Châu. Sau đó những học sinh kém may mắn sẽ đi về đâu? Bởi vì không có cơ sở nào khác có lớp học tiếng Pháp. Do đó, tốt hơn là nên mở các lớp học ngoại ngữ 1, hoặc ngoại ngữ 2 cho những học sinh không thể tiếp tục với chương trình song ngữ. Các gia đình sẽ tự tin gửi con mình đến các lớp học song ngữ vì những học sinh này sẽ luôn có cơ hội thứ hai nếu các em không được lựa chọn vào trường chuyên. Nói cách khác, nên có ít nhất hai khóa học song song bắt đầu từ THCS để đảm bảo tất cả những người chọn tiếng Pháp bất kể trình độ nào, lộ trình nào cũng được tiếp tục với ngôn ngữ mình đã chọn. Thậm chí, nếu phía Tỉnh và Sở quyết tâm và có chiến lược lâu dài thì có thể mở 02 lớp tiếng Pháp tại trường chuyên Phan Bội Châu trong đó một lớp chuyên và một lớp song ngữ (như một số Tỉnh khác đã và đang thực hiện). Thứ ba, theo những phân tích ở phần nguyên nhân, chúng tôi một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ cấu xã hội của các trường học. Đây là lý do tại sao việc lựa chọn một ngôi trường như vậy cho các lớp học tiếng Pháp đòi hỏi sự nghiên cứu nghiêm túc và chiến lược cụ thể từ phía Bộ nhưng trên hết là trách nhiệm của lãnh đạo Tỉnh bao gồm Sở giáo dục, Phòng giáo dục và lãnh đạo nhà trường. Theo chúng tôi, nên thành lập các lớp học tiếng Pháp ở những vùng thuận lợi có trình độ văn hóa cao; lựa chọn những trường có chất lượng giáo dục tốt có uy tín trong thành phố và cả Tỉnh. Bên cạnh đó, phía Tỉnh Page | 15
- cần phải giữ gìn và phát triển mỗi quan hệ ngoại giao, hữu nghị giữa hai nước Việt NamPháp và giữa hai tỉnh kết nghĩa Côtes d’Armor Nghệ An bằng cách phát triển các lớp tiếng Pháp trên địa bàn. Thứ tư, đó là việc bổ nhiệm các hiệu trưởng. Không thể phủ nhận rằng hiệu trưởng đóng một vai trò quyết định trong trường học khi họ có một quyền lực nhất định trong hệ thống phân quyền. Khi họ muốn thực hiện một chính sách, họ huy động mọi lực lượng có thể bằng quyền của mình, bằng ảnh hưởng của mình và rõ ràng là bằng vốn xã hội của mình. Sau đó, cần phải bổ nhiệm các hiệu trưởng ủng hộ tiếng Pháp hoặc ít nhất là ủng hộ chính sách đa ngôn ngữ. Việc bổ nhiệm hiệu trưởng các trường đương nhiên không phải dễ, nhưng số lượng các trường có lớp dạy học tiếng Pháp không phải lúc nào cũng đông, việc ưu tiên các trường này có vẻ như không phải là một vấn đề khó. Nếu chúng ta phải tôn trọng luật thay đổi vị trí hiệu trưởng 5 năm một lần, thì có thể luân chuyển những người đứng đầu các trường nói tiếng Pháp với nhau để xây dựng một hệ thống trường học ổn định với những nhà lãnh đạo hiểu hết chương trình. Giải pháp này sẽ được hưởng lợi từ những kinh nghiệm và ý chí của các hiệu trưởng đối với sự phát triển bền vững của các lớp tiếng Pháp. Cuối cùng, một mặt, do chương trình các lớp song ngữ rất nặng, nên cần đội ngũ giáo viên có chất lượng được đào tạo hàng năm mà không quên việc đổi mới, sửa đổi sách giáo khoa và thiết kế đề thi cho phù hợp với trình độ của học sinh hiện nay. Trên thực tế, Bộ cũng đã có những chỉnh sửa giảm nhẹ chương trình hơn cũng như phù hợp với thực tế hơn khi giảm tiết dạy mỗi tuần, thay thế các môn khoa học bằng tiếng Pháp những nơi không có giáo viên bằng tiếng Anh. Mặt khác, đối với sự thành công của học sinh, đội ngũ giảng viên đóng một vai trò quan trọng đến mức chúng ta nói đến hiệu ứng của lớp học và theo Pascal BRESSOUX, “sự ổn định của hiệu quả trường học phụ thuộc rất nhiều vào sự ổn định của đội ngũ giáo viên. " Do đó, điều quan trọng là phải xây dựng một tổ chức giảng dạy ổn định bao gồm các nhà lãnh đạo, giáo viên và các chuyên gia chủ động và hợp tác. Chiến lược giáo dục nói chung được xây dựng trong một thời gian dài, đồng thời huy động trí tuệ không chỉ của tất cả những nhân tố giáo dục mà còn của toàn xã hội. Đề xuất của chúng tôi vẫn mang tính cá nhân và khách quan. Ngoài ra, những sáng kiến này chỉ dừng lại trong khuôn khổ của một tình huống giáo dục cụ thể với tất cả những đặc điểm riêng biệt của nó. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng giáo dục luôn đòi hỏi những phản ánh, phản biện và sự tham gia tích cực của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi nhà trường và toàn xã hội và tất nhiên như chính phủ đã tuyên bố “Giáo dục là chiến lược quốc gia hàng đầu”. SKKN này được thực hiện dựa trên những kinh nghiệm của bản thân và những trăn trở khi tiếng Pháp đang gặp khó khăn. Bài viết dựa trên lý thuyết Page | 16
- vững chắc của các nhà khoa học giáo dục trên thế giới, những nghiên cứu mang tính khoa học, có điều tra và thông tin đáng tin cậy. Hy vọng bài viết này sẽ giúp những nhà quản lý giáo dục, các trường đã và đang giảng dạy tiếng Pháp song ngữ trên địa bàn và cả các tỉnh khác trên cả nước nhìn nhận lại quá trình quản lý, xây dựng và phát triển hệ song ngữ nói chung và hệ song ngữ tiếng Pháp nói riêng. Từ đó sẽ có được chiến lược giáo dục đúng đắn, duy trì, phát triển và mở rộng lớp học dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Trước thực trạng tiếng Pháp hệ song ngữ đang gặp khó khăn, SKKN này hy vọng sẽ đóng góp một số giải pháp căn cơ để duy trì các lớp tiếng Pháp trên địa bàn và mong muốn phát triển cả về số lượng và chất lượng đưa các lớp song ngữ tiếng Pháp trở về những ngày vinh quang của mình. Đồng thời đóng góp ý kiến cho sự phát triển chung trong chiến lược đa ngôn ngữ trong chương trình giáo dục, đáp ứng mọi yêu cầu hội nhập quốc tế và là bản tham chiếu cho chương trình phát triển hệ song ngữ tiếng Anh trên địa bàn. Nguồn tài liệu tham khảo: 1. QĐ 2658 QDBGDĐT 2018 kế hoạch triển khai đề án dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 20172025. 2. BERNOUX, Ph. (2004). Sociologie du changement, dans les entreprises et les organisations. Edition du Seuil. 3. BERTUCCI, M M (2007). Enseignement du français et plurilinguisme, Le Français aujourd'hui 1/2007 (n° 156), p. 4956. Consulté sur le site www.cairn.info/revuelefrancaisaujourdhui20071page49.htm. 4. BOURDIEU, P (1966). L’école conservatrice. Les inégalités devant l’école et devant la culture. R.franç de sociol. 1966, 73. Les changements en France (pp 325347). 5. BOURDIEU, P (1979). « Les trois états du capital culturel », Actes de la recherche en sciences sociales, vol. 30, n° 30, p. 3–6. En ligne: . 6. BRESSOUX, P. (1995). Les effets du contexte scolaire sur les acquisitions des élèves : effetécole et effetsclasses en lecture. Revue française sociologie, XXXVI (pp 273294) 7. COUSIN, O (1993) « L’effet établissement, construction d’une problématique », R.franç.sociol.XXXIV,395419 Page | 17
- 8. DEMAILLY, L. (1991) L’effet établissement (chapitre VII, pp 191204) dans Le collège, crise, mythes et métiers (1991) 9. THURLER, G et PERRENOUD, Ph (2004), Professionnalisation et formation des chefs d’établissement, Administration et Education, no102, pp. 6776. Các trang mạng tham khảo: 1. Capital culturel: http://www.leconflit.com/articleducapitalculturel56757504.html 2. La stratégie. www.lemondedepolitique.fr 3. La stratégie. www.techoscience.net 4. La stratégie. www.linternaute.com/dictionnaire 5. L’avenir de la francophonie. http://www.senat.fr/rap/r97001/r97001.html, 6. L’enseignement du français au Vietnam. http://www.ambafrancevn.org/L enseignementdufrancaisauVietnam Phụ lục Kết quả điều tra học sinh song ngữ tiếng Pháp Tên trường THCS C1 THCS C2 76 21 Số lượng học sinh tham gia Cán bộ công chức 22.5 % 28.5 % Buôn bán 67.1 % 43.0 % Nghề nghiệp của Nghề khác 10.4 % 28.5 % mẹ Tiến sỹ 3% 5 % Thạc sỹ 9% 0 % Page | 18
- Cử nhân 24% 5 % Trình độ chuyên Khác 64% 90 % môn của mẹ Từ điển 68% 100 % Sách giáo khoa 61% 100 % Phương tiện học Đĩa nghe 25% 81 % tập Khác 13% 57.2 % Tiếng Pháp 51% 66 % Tiếng Anh 4% 33 % Học thêm Toán 30.3 % 100 % Văn 19.7 % 81 % Môn học khác 4 % 19 % Bố mẹ 34.21% 5 % Hỗ trợ học bài ở Người khác 57% 5 % nhà Không 9% 90 % Page | 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phân loại các dạng bài tập trong chương 2 Hóa 10 - Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học và định luật tuần hoàn
32 p | 22 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng hệ thống câu hỏi bài tập chương Liên kết hóa học - Hóa học 10 - Nâng cao nhằm phát triển năng lực học sinh
24 p | 70 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p | 138 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 39 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong chương trình Hóa học hữu cơ 11
74 p | 41 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng kho tư liệu video hỗ trợ dạy học chương trình Tin học 10
11 p | 23 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp giảng dạy chương Este và Lipit thuộc chương trình Hóa học 12 cơ bản
20 p | 35 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 38 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phân loại và phương pháp giải bài tập chương andehit-xeton-axit cacboxylic lớp 11 THPT
53 p | 28 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp giải bài tập di truyền phả hệ
27 p | 11 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tích hợp kiến thức văn học vào giảng dạy một số bài trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 12
10 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phân loại và cách giải bài toán tìm giới hạn hàm số trong chương trình Toán lớp 11 THPT
27 p | 53 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giúp học sinh trung bình và yếu ôn tập và làm tốt câu hỏi trắc nghiệm chương 1 giải tích 12
25 p | 25 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hoạt động khởi động (Warm up) tích cực trong dạy học Listening Tiếng Anh lớp 10 – Chương trình thí điểm
17 p | 13 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thư viện online về kiến thức thực tế và gợi ý nhiệm vụ STEM môn Toán và Khoa học tự nhiên theo chương trình giáo dục 2018
26 p | 8 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn