Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet" nhằm nghiên cứu tâm sinh lý lứa tuổi học sinh và một số đối tượng liên quan. Nghiên cứu nhu cầu, thói quen, cách thức,... sử dụng Internet của học sinh. Nghiên cứu một số nền tảng thông tin Internet và các trang mạng xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ANH SƠN 2 ---------------------- Tên đề tài: GIÁO DỤC HỌC SINH PHÂN BIỆT TIN GIẢ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LUẬT AN NINH MẠNG KHI SỬ DỤNG INTERNET Thuộc môn: Tin học Nhóm tác giả : Nguyễn Quang Bằng-Nguyễn Thị Hạnh Tổ bộ môn: Toán - Tin Năm thực hiện: 2022 Số điện thoại: 0977738889 Anh Sơn, tháng 4 năm 2022
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet Mục lục PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ ..................................................................................................3 1. Sự cần thiết của vấn đề cần nghiên cứu...................................................................3 2. Đối tượng, mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................3 3. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................4 PHẦN II. NỘI DUNG .....................................................................................................5 1. Một số vấn đề về tin tức ..........................................................................................5 1.1. Tin tức là gì? .....................................................................................................5 1.2. Khái niệm Tin giả .............................................................................................5 1.3. Lịch sử tin giả ...................................................................................................6 1.4. Nguyên nhân hình thành tin giả .......................................................................6 1.5. Đặc trưng cơ bản của tin giả .............................................................................7 2. Mạng xã hội .............................................................................................................8 2.1. Internet và mạng xã hội ....................................................................................8 2.2. Lịch sử xuất hiện mạng xã hội tại Việt Nam ....................................................8 2.3. Cơ chế lan truyền tin giả trên mạng xã hội ......................................................9 2.4. Thói quen và tâm lý cư dân mạng khi tiếp nhận thông tin .............................10 3. Luật An ninh mạng và một số vấn đề liên quan ....................................................10 3.1. Luật An ninh mạng là gì? ...............................................................................10 3.2. Phạm vi áp dụng của Luật An ninh mạng ......................................................10 3.3. Sự cần thiết của Luật An ninh mạng ..............................................................11 3.4. Ý nghĩa, tác dụng của Luật An ninh mạng .....................................................11 3.5. Nội dung cơ bản của Luật An ninh mạng.......................................................13 4. Đặc trưng tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT .....................................................15 5. Các nhóm giải pháp được thực hiện ......................................................................16 5.1. Thực hiện công tác tuyên truyền ....................................................................16 5.2. Giải pháp trang bị kiến thức thông tin cho học sinh THPT ...........................17 5.3. Trang bị kiến thức về Luật An ninh mạng cho học sinh ................................19 5.4. Tích hợp giáo dục Tin giả và Luật An ninh mạng trong bộ môn Tin học .....20 5.5. Xây dựng và vận hành hệ thống thông tin nội bộ ..........................................21 5.6. Xây dựng phần mềm và hướng dẫn học sinh tạo ra phần mềm phân biệt tin giả đơn giản .................................................................................................................22 5.7. Tổ chức tuyên truyền pháp luật ......................................................................23 5.8. Tổ chức cuộc thi tìm hiểu về Luật An ninh mạng và năng lực phát hiện tin giả ...............................................................................................................................23
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet 6. Đóng góp của đề tài ...............................................................................................24 6.1. Tính mới .........................................................................................................24 6.2. Tính khả thi ứng dụng thực tiễn .....................................................................24 6.3. Tính hiệu quả ..................................................................................................25 PHẦN III. KẾT LUẬN .................................................................................................30 PHỤ LỤC ......................................................................................................................32
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet Tác giả: Nguyễn Quang Bằng - Nguyễn Thị Hạnh Đơn vị: Trường THPT Anh Sơn 2 Tên đề tài: Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Sự cần thiết của vấn đề cần nghiên cứu Hiện nay, thời đại bùng nổ công nghệ thông tin và cuộc cách mạng 4.0, nguồn thông tin trên Internet phong phú đa dạng, luôn cập nhật liên tục. Trong nguồn thông tin khổng lồ đó, có rất nhiều thông tin hữu ích cho cuộc sống, nhưng cũng có nhiều thông tin lệch lạc, có hại, gây hiểu nhầm hoặc kết luận nhầm mà người xem khó phân biệt. Theo khảo sát sơ bộ tại đơn vị và 2 trường THPT trên địa bàn huyện Anh Sơn, số lượng học sinh sử dụng Internet tìm kiếm thông tin, học tập, giải trí đạt tỉ lệ 100%. Tuy nhiên, kỹ năng phân biệt tin giả và các hiểu biết liên quan Luật An ninh mạng của các em chưa cao, một số em khi được hỏi thì mới biết có tồn tại Luật An ninh mạng. Việc các em tiếp cận các tin giả nhưng không có kỹ năng phân biệt làm cho các em hiểu sai, hình thành nhận thức về thế giới quan, về xã hội về các vấn đề tâm sinh lý một cách lệch lạc, gây ảnh hưởng xấu đến phát triển tâm sinh lý và hình thành nhân cách con người. Đội ngũ giáo viên tin học được xem là những người có hiểu biết rộng trong nhiều lĩnh vực khoa học, đời sống. Hơn nữa với đặc thù môn học, với thế mạnh chủ lực giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ khả năng khai thác, sử dụng công nghệ thông tin trong đời sống, học tập và lao động cho các em học sinh. Hơn ai hết, chúng ta - những giáo viên giảng dạy bộ môn Tin học là những người đi tiên phong, có vai trò quyết định và chịu trách nhiệm trong vấn đề trang bị cho học sinh các kiến thức thông tin cần thiết, kỹ năng nhận biết, ngăn chặn tin giả. Hiểu rõ được tầm quan trọng của việc trang bị cho các em học sinh kỹ năng phân biệt tin giả cũng như nắm vững một số nội dung của Luật An ninh mạng giúp các em tự tin hơn khi tham gia mạng xã hội, an toàn hơn khi truy cập Internet, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện đề tài: "Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet." 2. Đối tượng, mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu tâm sinh lý lứa tuổi học sinh và một số đối tượng liên quan. Nghiên cứu nhu cầu, thói quen, cách thức,... sử dụng Internet của học sinh. Nghiên cứu một số nền tảng thông tin Internet và các trang mạng xã hội. 3
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet Nghiên cứu các nguồn thông tin chính thống, hạn chế sản xuất và phát tán tin giả. Nghiên cứu đưa ra các giải pháp nhằm giáo dục học sinh phân biệt tin giả. Nghiên cứu Luật An ninh mạng và hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng và các vấn đề liên quan. 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập tài liệu và xử lí thông tin: Phương pháp trực quan Phương pháp phân tích hệ thống Phương pháp khảo sát điều tra Phương pháp thực nghiệm sư phạm Phương pháp sử dụng toán thống kê 4
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet PHẦN II. NỘI DUNG 1. Một số vấn đề về tin tức 1.1. Tin tức là gì? Trước hết chúng ta cần hiểu rõ các khái niệm liên quan đến tin tức. Có nhiều khái niệm về tin tức, ở đề tài này nhóm tác giả lựa chọn khái niệm dễ tiếp cận, phổ thông nhất. Tin tức được hiểu là thông điệp về một sự kiện, hiện tượng thời sự có ý nghĩa trong xã hội. Tin tức cũng được hiểu là những thông tin mà trước đó không biết. 1.2. Khái niệm Tin giả Tin giả (tiếng Anh gọi là Fake news hay Fake informations) là một thuật ngữ được hiểu đơn giản là những tin tức, những câu chuyện không đúng sự thật đã và đang diễn ra. Tin giả được viết và xuất bản thường là với mục đích đánh lừa nhằm gây thiệt hại cho một cơ quan, thực thể hoặc người, đạt được về mặt tài chính hoặc chính trị, thường sử dụng lối viết giật gân, không trung thực hoặc dùng các tiêu đề bịa đặt để tăng lượng độc giả. Tương tự, các câu chuyện và tiêu đề bẫy để nhấn chuột vào kiếm doanh thu quảng cáo từ hoạt động này. Tờ New York Times khẳng định, tin giả trên Internet là những bài báo giả tạo nhằm mục đích đánh lừa người đọc, thường với mục đích kiếm lợi thông qua "lickbait". "Clickbait" là thuật ngữ được dùng trên Internet mang nghĩa "có mục đích chính là thu hút sự chú ý và khuyến khích khách truy cập nhấp vào liên kết tới một trang web cụ thể". "Tin giả là một hình thức lừa dối hoặc cố tình truyền tin sai lệch với mục đích gây hiểu lầm về mặt tài chính hoặc chính trị, khác hẳn với các bài viết mang tính chất châm biếm thông thường" là một quan niệm khác về khái niệm này. Các nhà nghiên cứu cũng khẳng định, tin giả là bất kỳ bài viết, hình ảnh hay video nào chứa thông tin sai sự thật được nguỵ trang dưới dạng nguồn tin đáng tin cậy. Như vậy, tin giả là thuật ngữ dùng để chỉ những thông tin bịa đặt, không có thật, cố tình đăng tải lên các phương tiện truyền thông vì mục đích kinh tế, chính trị và có tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội. Tin giả là những thông tin được tạo ra giống tin thật, có chứng cứ bằng hình ảnh, thậm chí là video để tạo niềm tin tuyệt đối cho người xem. 5
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet 1.3. Lịch sử tin giả Trong những năm gần đây, khi sự tự do ngôn luận cùng với khoa học công nghệ hỗ trợ trở thành virus lan truyền đến cộng đồng nhanh chóng và khó kiểm soát, gây nhiều tác động tiêu cực. Tuy nhiên tin giả đã có nguồn gốc từ xưa. Chẳng hạn, ở thế kỷ thứ XV, trong Lễ Phục sinh năm 1975 ở Trent (Italy), một đứa bé hơn 2 tuổi tên Simonino đã bị mất tích và một thầy thuyết giáo dòng Franciscan, Bernardino da Feltre đã tuyên bố cộng đồng người Do Thái địa phương đã sát hại đứa trẻ, rút và uống máu của nó để mừng lễ "Vượt qua". Tin giả nhanh chóng được lan đi. Nhưng từ lâu trước đó, ông Da Feltre đã nói thi thể cậu bé được tìm thấy trong tầng hầm nhà một người Do Thái. Ngày 01/04/1957, tại Thuỵ Sĩ, xuất hiện tin ảnh nông dân thu hoạch sợi mỳ spaghetti từ cây và đem ra ngoài phơi khô. Tin giả này do đài BBC của Thuỵ Sĩ phát tán. Ngay sau bản tin, họ nhận được hàng nghìn cuộc điện thoại hỏi về cách trồng spaghetti như thế. Nhưng thực tế, đây chỉ là một trò đùa của nhà đài nhân ngày Cá tháng Tư. Đáng tiếc là hậu quả của nó để lại khá nghiêm trọng bởi với tư cách là một cơ quan báo chí chính thống của Mĩ, BBC hay bất cứ kênh truyền thông nào khác không được phép đưa tin giả đến với công chúng bởi dù chỉ là vô tình hay cố ý. Vì nó sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng và khiến họ có phản ứng nghi ngờ khi tiếp nhận thông tin của các cơ quan báo chí. Như vậy, có thể thấy, tin giả không phải mới xuất hiện trong những năm gần đây mà đó đã xuất hiện từ thời cổ đại, trung cổ. Nhưng có lẽ tin giả trở nên bùng nổ khi mạng Internet xuất hiện. Hàng ngày, có rất nhiều tin giả được tung lên mạng xã hội và nhiều tin giả đã trở thành chủ đề hot được nhiều người quan tâm. Việc xuất hiện các công cụ xuất bản tin tức một cách dễ dàng đã khiến tin giả được tạo ra dễ hơn bao giờ hết. Các kênh truyền thông, mạng xã hội chính là những phương tiện đưa tin giả đến với công chúng một cách nhanh nhất, nhiều nhất. Nội dung tin giả thường đề cập đến vấn đề chính trị, tin tức giật gân, những chuyện lạ, câu chuyện về nhân vật nổi tiếng,... Tin giả thường đề cập đến các vấn đề nóng trong xã hội nên tin giả rất dễ lan truyền, có ảnh hưởng lớn và nó càng trở nên nghiêm trọng hơn khi nhiều người tin rằng tin giả là tin thật. Các nghiên cứu cho thấy, những câu chuyện bịa đặt, tin giả khi lan truyền đã thu hút lượng tương tác nhiều hơn tin của các cơ quan báo chí chính thống nổi tiếng. 1.4. Nguyên nhân hình thành tin giả Trước đây, khi mạng xã hội chưa phát triển, báo chí chính thống là nơi cung cấp thông tin chủ yếu cho công chúng, nhưng đến nay, mạng xã hội đang trở thành nguồn tin chủ yếu trong giới truyền thông. Khi có Internet, thông tin từ một cơ quan báo chí cần nhanh hơn. Nhà báo tiếp nhận nguồn tin sẽ luôn muốn tin tức mình có được sẽ cập nhật nhanh chóng nhất, là tin "độc quyền",... Điều đó dẫn đến hệ quả phóng viên, biên tập viên không dành nhiều thời gian hoặc thậm chí 6
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet bỏ qua khâu kiểm chứng nội dung. Chưa kể đến việc tuân thủ các quy trình biên tập, xuất bản tin bài ở nhiều cơ quan báo chí bị buông lỏng, nhiều khâu biên tập kém hoặc bị bỏ qua. Chính những việc làm thiếu trách nhiệm đó đã góp phần phát tán tin giả lên mặt báo chính thống. Ngoài việc buông lỏng trong khâu kiểm duyệt, biên tập của các phóng viên báo chí chính thống nêu trên, hàng ngày còn có một lượng rất lớn tin giả được tạo ra nhằm mục đích câu view, câu like kiếm tiền; thu hút tương tác để bán hàng; tạo scandal để nổi tiếng; tạo kích động, gây bất ổn xã hội phục vụ cho những mục đích xấu,... Hiện nay, số lượng các trang web, mạng xã hội bùng nổ đã giúp đăng tải tin giả ngày càng nhiều, khó kiểm soát hết cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến xuất hiện tin giả. Nhiều trang tin giả có hình thức giả trang tin chính thống khiến công chúng bị nhầm lẫn, thậm chí ngay cả những người có chuyên môn cũng bị đánh lừa. Trong khi đó, việc phân biệt tin giả, tin thật rất khó khăn bởi tin tức không có chuẩn mực để đối chiếu. 1.5. Đặc trưng cơ bản của tin giả Một đặc trưng của tin giả là mang nội dung gây sốc, đánh vào tâm lý tò mò của công chúng. Trong khi đó tỉ lệ công chúng "thông hiểu truyền thông" còn thấp. Đa phần mọi người tiếp cận tin tức do thị hiếu, do nhu cầu, mang tâm lý cả tin nên thường tin vào những thông tin mà mình đọc được. Đây cũng là một nguyên nhân khiến tin giả dễ lan truyền, được một bộ phần người dân đón nhận và phát tán. Theo một số nhà nghiên cứu, xu hướng chia sẻ thông tin phụ thuộc vào tính thiên vị trong công chúng. Khi cộng đồng chia sẻ tin tức đồng nghĩa với việc họ có cùng quan điểm với nguồn tin được chia sẻ. Nó giống như một cách tuyên bố mối quan hệ của người tiếp nhận với một cộng đồng xác định. Khi một thông tin được đăng tải, chỉ cần nguồn tin đó phù hợp với quan điểm của cộng đồng thì đồng nghĩa với việc cá nhân người tiếp nhận sẽ là cầu nối gắn kết chặt chẽ hơn mối quan hệ của cá nhân với cộng đồng ấy. Nhiều thông tin mặc dù đã được cơ quan chức năng khẳng định là giả mạo nhưng vẫn gây tranh cãi trong dư luận vì vẫn có một số bộ phận công chúng bảo vệ quan điểm của mình và kết luận sự việc theo ý kiến cá nhân của bản thân họ. Theo nghiên cứu gần đây, phần lớn người được khảo sát đều tin vào khả năng phát hiện tin giả của mình. Cũng chính vì lý do này dẫn đến họ không muốn và không thực hiện việc kiểm chứng lại thông tin. Sự dễ dãi trong việc kiểm chứng thông tin của các nhà báo và cơ quan báo chí, sự hiếu kỳ ngây thơ của một bộ phận người dân khi tiếp nhận thông tin; sự hỗn loạn của các trang web, các trang mạng xã hội đăng tin giả để câu view; sự 7
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet dễ dàng trong việc phát tán tin tức,... là nguyên nhân dẫn đến tin giả tồn tại, tạo nên một hệ sinh thái tin tức mà người xem không biết đâu là tin thật đâu là tin không thật. 2. Mạng xã hội 2.1. Internet và mạng xã hội Internet là một liên mạng máy tính toàn cầu được hình thành từ các mạng nhỏ hơn, liên kết hàng triệu máy tính trên thế giới thông qua cơ sở hạ tầng viễn thông. Internet là mạng của các mạng máy tính. Trong mạng này, các máy tính và thiết bị mạng giao tiếp với nhau bằng một ngôn ngữ thống nhất. Đó là bộ giao thức TCP/IP (Transmision Control Protocol – Internet Protocol). Trước khi tìm hiểu định nghĩa mạng xã hội (social network), cần tìm hiểu khái niệm truyền thông xã hội (social media) bởi hiện nay ở Việt Nam, hai khái niệm này dang được sử dụng chưa có sự phân biệt rõ ràng. Theo Ruth Page, truyền thông xã hội là các ứng dụng trên Internet nhằm thúc đẩy các mối tương tác xã hội giữa các thành viên tham gia. Theo Kaplan và Haenlein, định nghĩa truyền thông xã hội là một nhóm ứng dụng trên Internet được xây dựng trên nền tảng công nghệ và lý tưởng của web 2.o nhằm tạo điều kiện cho sự sáng tạo và trao đổi thông tin của người sử dụng. Truyền thông xã hội là công cụ truyền thông và công chúng có thể tạo ra và trao đổi thông tin trên mạng Internet. Theo định nghĩa chính thức của Bộ Thông tin và Truyền thông, mạng xã hội "là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác". 2.2. Lịch sử xuất hiện mạng xã hội tại Việt Nam Như chúng ta đã biết, Internet chính thức xuất hiện tại Việt Nam từ năm 1997, sau gần mười năm thì mạng xã hội đầu tiên (Yahoo 360) mới thực sự xuất hiện ở nước ta. Trước thời điểm Yahoo 360 ra đời, ở Việt Nam đã xuất hiện một số dịch vụ kết nối qua mạng Internet (social network), điển hình là Yahoo Messenger và Gmail, nhưng những dịch vụ đó mang tính cá nhân nhiều hơn là mạng xã hội. Năm 2005, Yahoo 360 được thí điểm ở Việt Nam. Điểm khác biệt của Yahoo 360 so với Yahoo Messenger hay Gmail là nó giúp cho người dùng tạod được một trang cá nhân riêng, từ đó có thể viết blog, chia sẻ quan điểm, trao đổi và thảo luận thông tin với những người dùng khác. Với những năm hoàng kim nhất Yahoo 360 thu hút hơn hai triệu người dùng ở Việt Nam. Năm 2006, 8
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet Vietnamnet bình chọn "làn sóng blog" là một trong 10 sự kiện công nghệ thông tin tiêu biểu trong năm. Năm 2008, Yahoo tuyên bố đóng cửa dịch vụ blog Yahoo 360. Đó cũng là thời điểm sau một năm thâm nhập thị trường Việt Nam của mạng xã hội Facebook và có những bước phát triển mạnh mẽ. Sự xuất hiện Facebook đánh dấu một bước phát triển mới truyền thông xã hội ở Việt Nam, đặc biệt khi xét đến quy mô lan toả của thông tin. Nếu như với nền tảng blog, người dùng có thể tạo ra nội dung, nhưng bị hạn chế về khả năng chia sẻ thì Facebook đã phá vỡ rào cản này với tính năng "share" rất dễ dàng, kết nối mạng lưới "friends" nhanh và rộng cùng sự nhạy bén của các tính năng tương tác khác. Facebook đã góp phần lớn thúc đẩy sự phát triển của văn hoá Internet Việt Nam sang một giai đoạn phát triển mới. Hiện nay, với hơn 76 triệu người dùng (chiếm hơn 70% dân số), với một cộng đồng lớn mạnh như vậy, số lượng công dân mạng (netizens) của Việt Nam đủ để hình thành nên một xã hội mạng lưới (network society) thực sự, với sự trợ giúp của các công cụ truỳen thông đại chúng mới, tự tạo ra một lượng thông tin khổng lồ và cũng tự lan truyền khối lượng thông tin đó đến với nhau. Đây cũng là thời điểm mà mạng xã hội bắt đầu tạo ra những ảnh hưởng lớn đến báo chí, truyền thông ở Việt Nam và cũng là thời thế để tin giả được lan truyền chóng mặt và gây những ảnh hưởng, những hệ luỵ không tốt đối với xã hội. 2.3. Cơ chế lan truyền tin giả trên mạng xã hội Kết quả nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts về 126 nghìn tin giả và tin đồn trong 11 năm cho thấy chúng lan nhanh hơn, xa hơn, sâu hơn và rộng hơn so với tin chính thống. Đặc biệt, tin giả thường được người dùng đăng tải lại nhiều hơn. Theo giáo sư Sinan Aral thì nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên bởi tin giả thường mới lạ hơn, và mọi người thường hay chia sẻ những thông tin mới lạ. Mặc dù nhóm nghiên cứu không kết luận rằng tính mới lạ giúp tin giả được đăng lại nhiều hơn, nhưng họ khẳng định tin giả có xu hướng tạo ra bất ngờ hơn tin thật, khiến chúng dễ được chia sẻ nhiều hơn. Số liệu thống kê từ chương trình đánh giá an ninh mạng của BKAV cho thấy, 63% người dùng thường xuyên tiếp xúc với tin tức giả mạo trên Facebook, trong đó khoảng 40% là nạn nhân hàng ngày. Việc thông tin lan truyền trên mạng theo "logic" "một đồn mười, mười đồn trăm". Thông tin càng có giá trị hoặc có sức ảnh hưởng (tiêu cực hay tích cực) thường sẽ được lan truyền nhanh chóng. Tin giả thường được những đối tượng mà các nhà nghiên cứu báo chí gọi là "nhà báo công dân" tung ra. Sự ra đời của Internet, truyền thông xã hội và nền tảng web 2.0 đã tạo ra một thế hệ công chúng mới, độc giả không chỉ là nhưng người tiếp nhận tin tức mà còn là người chủ động 9
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet cung cấp, lan truyền những thông tin cho người khác và thậm chí cho các báo chí chính thống. Chỉ cần có công cụ hỗ trợ là mạng xã hội (Facebook, Youtube, Instagram, Twitter,...) thì các "nhà báo công dân" có thể dễ dàng đăng tải thông tin và chia sẻ nó đến mọi người. Nhưng đây cũng chính là một nguồn phát tán tin giả đáng báo động. Bởi lẽ đa phần "nhà báo công dân" chỉ đơn thuần là những người sử dụng mạng xã hội, họ không được đào tạo chuyên sâu về báo chí, cũng có thể không có khả năng đọc và phân tích tin. Chính vì vậy, nhiều thông tin họ đưa ra, chia sẻ là tin giả. Chưa kể một số kẻ có tâm địa xấu đã lợi dụng mạng xã hội để cố tình tạo và lan truyền tin giả đến công chúng. 2.4. Thói quen và tâm lý cư dân mạng khi tiếp nhận thông tin Thói quen chia sẻ thông tin của người dùng phản ánh tâm lý muốn thông báo, chia sẻ những thông tin mới nhất, nóng nhất trên trang cá nhân của mình cho bạn bè, người thân. Một tin tức giật gân về vấn đề nóng nào đó sẽ thu hút được sự quan tâm, bàn luận đặc biệt và chia sẻ nhanh chóng của người dùng. Tuy nhiên, với thói quen tiếp nhận và chia sẻ thông tin của một bộ phận lớn người dùng hiện nay thường không cần trọng xem xét tính đúng đắn của tiêu đề, nội dung câu chuyện được chia sẻ trực tuyến; không kiểm chứng thông tin trước khi comment hay tương tác; thậm chí có nhiều người chỉ đọc lướt tiêu đề mà không cần xem nội dung bên trong đã tiếp tay cho những đối tượng muốn lan truyền tin giả. 3. Luật An ninh mạng và một số vấn đề liên quan 3.1. Luật An ninh mạng là gì? Luật An Ninh mạng là một bộ luật đã được Quốc hội Việt Nam đã thông qua. Luật mới về An ninh mạng có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019 tại Việt Nam. Không chỉ cung cấp các biện pháp bảo vệ môi trường mạng mà ở một mức độ nào đó đã được quy định bởi Luật An toàn thông tin mạng ngày 19 tháng 11 năm 2015, Luật An Ninh Mạng cũng bao gồm nhiều điều khoản khác nhau để kiểm soát nội dung được đăng hoặc xuất bản trên mạng. Dưới đây là một số vấn đề nổi bật luật an ninh mạng. 3.2. Phạm vi áp dụng của Luật An ninh mạng Luật An ninh mạng áp dụng cho tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến bảo vệ an ninh mạng, được định nghĩa rộng rãi là đảm bảo rằng các hoạt động trong không gian mạng không gây tổn hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Đặc biệt, Luật An ninh mạng sẽ áp dụng cho các tổ chức ở nước ngoài, có người dùng cư trú tại Việt Nam như Google hoặc Facebook. 10
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet Luật An ninh mạng bao gồm tất cả các mạng về cơ sở hạ tầng CNTT, viễn thông, Internet, hệ thống máy tính, cơ sở dữ liệu, xử lý thông tin, hệ thống lưu trữ và kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động của mọi doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong không gian mạng và người dùng Internet bao gồm thương mại điện tử, trang web, diễn đàn trực tuyến, mạng xã hội và blog. Luật An ninh mạng áp đặt các nghĩa vụ khác nhau đối với người vận hành hệ thống thông tin. Theo Luật An toàn thông tin mạng theo đó, người vận hành hệ thống thông tin có nghĩa là bất kỳ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào có quyền quản lý trực tiếp đối với hệ thống thông tin. 3.3. Sự cần thiết của Luật An ninh mạng Nước ta đang phải đối phó với hàng chục nghìn cuộc tấn công mạng với quy mô lớn, cường độ cao mỗi năm, đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, gây tổn thất nặng nề về kinh tế. Luật An ninh mạng ra đời là một chế tài, tạo hành lang pháp lý để xử lý các vấn đề còn tồn tại nêu trên. Không gian mạng và một số loại hình dịch vụ, ứng dụng trên không gian mạng đang bị các thế lực thù địch, phản động sử dụng để tán phát thông tin kêu gọi biểu tình, tụ tập trái phép phá rối an ninh trật tự, kích động bạo loạn, khủng bố, lật đổ chính quyền nhân dân, xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia. Tình trạng đăng tải thông tin xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xúc phạm tôn giáo; lan truyền thông sai sự thật, làm nhục, vu khống tổ chức, cá nhân… diễn ra tràn lan trên không gian mạng nhưng chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, dẫn tới nhiều hậu quả đáng tiếc về nhân mạng, tinh thần; hoạt động sử dụng không gian mạng để xâm trật tự an toàn xã hội ngày càng gia tăng và phức tạp như: đánh bạc, lừa đạo, đánh cắp tài khoản ngân hàng, rửa tiền, mại dâm, ma túy…. Năng lực, tiềm lực quốc gia về an ninh mạng chưa có chính sách điều chỉnh phù hợp, kịp thời; sự phụ thuộc vào thiết bị công nghệ thông tin có nguồn gốc nước ngoài… đặt yêu cầu bức thiết phải xây dựng, hình thành nền công nghiệp an ninh mạng. Công tác quản lý nhà nước về an ninh thông tin, an ninh mạng tại các Bộ, Ban, ngành, địa phương còn tồn tại những bất cập, hạn chế, thiếu đồng bộ, nhất quán do chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào điều chỉnh vấn đề này cho đến khi Luật An ninh mạng được ban hành. 3.4. Ý nghĩa, tác dụng của Luật An ninh mạng Luật An ninh mạng được thông qua có ý nghĩa, tác dụng sau đây: Thứ nhất, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ an ninh quốc gia; xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật, như: Chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ 11
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet nghĩa Việt Nam, bao gồm sử dụng không gian mạng tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ví dụ như thông tin kích động lôi kéo tụ tập đông người, gây rối an ninh trật tự, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, gây mất ổn định về an ninh trật tự... Các hành vi xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; Các hành vi phát tán thông tin gây hại cho tổ chức, cá nhân, gồm: thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; Các hành vi xâm phạm trật tự an toàn xã hội như sử dụng không gian mạng để hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội. Các hành vi tấn công mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng và liên quan như sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử... Thứ hai, nhằm bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được quy định trong Luật An ninh mạng là hệ thống thông tin khi bị sự cố, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt, tấn công hoặc phá hoại sẽ xâm phạm nghiêm trọng an ninh mạng. Với tiêu chí như trên, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được xác định trong các lĩnh vực quan trọng đặc biệt đối với quốc gia như quân sự, an ninh, ngoại giao, cơ yếu; trong lĩnh vực đặc thù như lưu trữ, xử lý thông tin thuộc bí mật nhà nước; phục vụ hoạt động của các công trình quan trọng liên quan tới an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia hoặc những hệ thống thông tin quan trọng trong các lĩnh vực năng lượng, tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường, hóa chất, y tế, văn hóa, báo chí. Chính phủ sẽ quy định cụ thể những hệ thống thông tin nào trong các lĩnh vực nêu trên thuộc Danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được giao cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, trực tiếp là lực lượng An ninh mạng thuộc Bộ Công an, lực lượng Tác chiến Không gian mạng thuộc Bộ Quốc phòng. Để bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật trong nước, Luật An ninh mạng cũng giao Chính phủ quy định cụ thể việc phối hợp giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Cơ yếu Chính phủ, 12
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet các bộ, ngành chức năng trong việc thẩm định, đánh giá, kiểm tra, giám sát, ứng phó, khắc phục sự cố đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Thứ ba, nhằm phòng, chống tấn công mạng. Luật An ninh mạng là văn bản Luật đầu tiên quy định khái niệm của hoạt động "tấn công mạng". Theo đó "Tấn công mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để phá hoại, gây gián đoạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử". Đồng thời, quy định các nhóm hành vi cụ thể liên quan tới tấn công mạng tại Điều 17, 18, 19, 20 và Điều 21; quy định cụ thể các nhóm giải pháp cụ thể để phòng, chống tấn công mạng, quy định trách nhiệm cụ thể của cơ quan chức năng, chủ quản hệ thống thông tin. Như vậy: Hệ thống thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân được bảo vệ trước hoạt động tấn công mạng theo quy định của Luật An ninh mạng. Các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ tương xứng với tầm quan trọng đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được bảo vệ trước các hành vi tấn công mạng. Luật An ninh mạng cũng quy định cụ thể cơ chế phối hợp phòng, chống tấn công mạng của các bộ, ngành chức năng, xác định trách nhiệm cụ thể của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Ban Cơ yếu Chính phủ trong phòng, chống tấn công mạng. 3.5. Nội dung cơ bản của Luật An ninh mạng Luật An ninh mạng gồm 07 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng của Luật An ninh mạng. Quy định đầy đủ các biện pháp, hoạt động bảo vệ tương xứng với mức độ quan trọng của hệ thống thông tin này, trong đó nêu ra tiêu chí xác định, lĩnh vực liên quan, quy định các biện pháp như thẩm định an ninh mạng, đánh giá điều kiện, kiểm tra, giám sát an ninh và ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Luật An ninh mạng đã dành 01 chương (Chương III) quy định đầy đủ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, xử lý nhằm loại bỏ các nguy cơ đe dọa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm: phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng 13
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; phòng, chống gián điệp mạng, bảo vệ thông tin bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng; phòng ngừa, xử lý hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; phòng, chống tấn công mạng; phòng, chống khủng bố mạng; phòng, chống chiến tranh mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống nguy hiểm về an ninh mạng; đấu tranh bảo vệ an ninh mạng. Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng. Chương IV của Luật An ninh mạng tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, trọng tâm là các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai, hoạt động kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này. Cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ, sự tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác sẽ được xử lý nghiêm minh. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển an ninh mạng, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh mạng, nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không gian mạng cũng được quy định chi tiết trong Chương này. Hiện nay, dữ liệu của nước ta trên không gian mạng đã và đang bị sử dụng tràn lan với mục đích lợi nhuận mà Nhà nước chưa có đủ hành lang pháp lý để quản lý, thậm chí là bị sử dụng vào các âm mưu chính trị hoặc vi phạm pháp luật. Để quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, Luật An ninh mạng đã quy định doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ giá trị gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ. Nguồn nhân lực bảo vệ an ninh mạng là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của công tác bảo vệ an ninh mạng. Chương V Luật An ninh mạng đã quy định đầy đủ các nội dung bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng, xác định lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng chất lượng cao, chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh mạng. 14
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng được quy định rõ trong Luật An ninh mạng, tập trung vào trách nhiệm của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các bộ, ngành chức năng, ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện đồng bộ các biện pháp được phân công để hướng tới một không gian mạng ít nguy cơ, hạn chế tối đa các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng. Mặc dù được chuẩn bị kỹ lưỡng, được đa số Đại biểu Quốc hội tán thành, nhưng do đây là đạo luật có quy định về phòng ngừa, đấu tranh, xử lý trực tiếp các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng nên vẫn còn có những ý kiến băn khoăn về nội dung Luật. Một số đối tượng chống đối đã có hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc với những luận điệu như "chống lại loài người", "bịt miệng dân chủ", "đàn áp bất đồng chính kiến", "tạo rào cản kinh doanh", "tăng chi phí cho doanh nghiệp", "thêm giấy phép con", "lạm quyền", "cấm sử dụng Facebook, Google". Đây là những thông tin hoàn toàn bịa đặt, xuyên tạc, với mục đích cản trở hoặc gây tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong quần chúng nhân dân đối với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về an ninh mạng. Luật An ninh mạng không có những quy định nêu trên, không tạo rào cản, không tăng thủ tục hành chính, không cấp giấy phép con và không cản trở hoạt động bình thường, đúng luật của các tổ chức, cá nhân. 4. Đặc trưng tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT Trong giai đoạn này, tính độc lập chủ động sáng tạo trong nhận thức là phẩm chất tâm lý đặc trưng, do vị thế xã hội và sự phát triển tâm lý của các em tạo ra. Nhiều lĩnh vực các em có chính kiến rõ ràng. Tuy nhiên các phẩm chất này của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp dạy học của giáo viên và điều kiện của nhà trường. Các em có sự hứng thú học tập sâu sắc hơn so với các lứa tuổi trước đó, thậm chí trở thành niềm đam mê của các em. Năng lực nhận thức của các em cũng phát triển ở mức độc cao và đa dạng. Nhiều em đã bộc lộ tài năng của mình qua một số lĩnh vực nào đó. Các hoạt động cảm giác, tri giác đạt tới độ tinh tế và nhạy cảm cao. Óc quan sát phát triển mạnh. Tri nhớ logic, ngôn ngữ trừu tượng ngày càng được bổ sung. Hơn nữa, việc học thuộc lòng máy móc, không suy luận như THCS nhiều khi còn bị xem thường. Các em có thể một lúc thực hiện được nhiều công việc, như một lúc có thể tính toán được nhiều phép toán, hay là vừa nghe giảng, vừa chép bài, vừa tư duy. Và các em cũng bắt đầu có sự lựa chọn môn học gây hứng thú cho mình, và môn học phù hợp với ngành nghề của mình. Các bạn nam thường thiên về trí tuệ trừu tượng, logic nên sẽ chọn những bộ môn liên quan đến tư duy nhiều như các môn tự nhiên, còn các bạn nữ lại thiên về tư duy sự kiện, nên sẽ hứng thú với với các môn xã hội. Do phải làm việc với lượng tri thức lớn so với THCS nên các em THPT phát triển nhanh về tính sáng 15
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet tạo và phân tích. Các em có thể độc lập đưa ra lý luận của mình, không nhất nhất là đồng tình với giáo viên, có khi còn biện luận cho ý kiến của mình. Và ở độ tuổi này, tư duy đã đạt tới mức độ trưởng thành. Đây cũng là thời điểm quan trọng để hình thành nhân cách của một công dân chính thức trong tương lai. Giai đoạn quyết định lối suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm, thế giới quan chủ đạo trong mọi hoạt động sau này. Nắm được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi giúp cho nhà trường, giáo viên có phương pháp giáo dục phù hợp. Đặc biệt là giúp học sinh có được các kiến thức thông tin, nhìn nhận xã hội, nắm bắt thời cuộc, định vị bản thân một cách đúng đắn. 5. Các nhóm giải pháp được thực hiện 5.1. Thực hiện công tác tuyên truyền Để ngăn chặn tin giả và tác hại trực tiếp đến công chúng nói chung, học sinh THPT nói riêng, biện pháp khả thi là không ngừng nâng cao nhận thức của người tiếp nhận thông tin, biết sàng lọc các nguồn thông tin để tiếp nhận, lĩnh hội và chia sẻ lại trên các mạng xã hội, đồng thời tránh tung tin thất thiệt vi phạm pháp luật. Tuyên truyền Luật An ninh mạng và phòng chống tin giả trong HĐTT Giải pháp đầu tiên khả thi nhất, đó là tham mưu, thực hiện công tác tuyên truyền đến tận các em học sinh. Thông qua các buổi chào cờ đầu tuần, các buổi sinh hoạt tập thể, sinh hoạt lớp, nội dung giáo dục nhận biết, phòng chống tin giả và các vấn đề về Luật An ninh mạng đã được nhà trường, cán bộ tư vấn và đội ngũ giáo viên chủ nhiệm các lớp thực hiện đều đặn, hiệu quả. Thông qua công tác tuyên truyền định kỳ, bước đầu giáo dục, nhắc nhở các em học sinh luôn có tư tưởng, tác phong, tâm thế đề kháng với các loại tin giả, tin độc hại. Từ đó các em 16
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet có ý thức tốt nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi việc phát tán tin giả, tạo môi trường thông tin an toàn, lành mạnh trong nhà trường, đồng thời giúp các em bước đầu có tác phong sống, học tập, lao động theo đúng Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam. 5.2. Giải pháp trang bị kiến thức thông tin cho học sinh THPT Song song với công tác giáo dục và đào tạo kiến thức theo chương trình giáo dục phổ thông, việc phát triển, lồng ghép một chương trình bổ trợ "kiến thức thông tin" cho học sinh là vấn đề được đặt ra cấp thiết. Trong thời gian qua, trường chúng tôi đã xây dựng và hoàn thiện chương trình trang bị kiến thức thông tin cho học sinh, bước đầu thực hiện và cho một số tác dục tích cực nhất định. Qua kinh nghiệm triển khai chương trình cho thấy, các trường THPT cần lưu ý và chuẩn bị một số yếu tố, điều kiện sau: Xây dựng cơ chế, chính sách cho chương trình bổ trợ kiến thức thông tin và nâng cao nhận thức của học sinh về kiến thức thông tin. Để học sinh có khả năng tư duy, sáng tạo, phản biện và tự chủ trong suốt quá trình học tập, các trường THPT cần chú trọng vào chương trình bổ trợ kiến thức thông tin cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau. Sự quan tâm và định hướng của nhà trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai đưa kiến thức thông tin vào quá trình học tập và phát triển của học sinh, góp phần phát triển năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của học sinh, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh, tạo cơ sở để học sinh tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực bản thân. Kiến thức thông tin giỏi sẽ có khả năng tìm tòi, nhận biết thông tin nào đáng tin cậy, thông tin nào bổ ích, thông tin nào phục vụ tốt cho môn học, cho vấn đề mình đang cần. Bên cạnh đó, để phát triển kiến thức thông tin cho học sinh thì điều quan trọng đầu tiên học sinh phải nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa, cách thức thực hiện và có ý thức rèn luyện tư duy phản biện và nâng cao năng lực thông tin. Việc phát triển mỗi kĩ năng thông tin đều liên quan đến nhận thức về tính cần thiết và vai trò của kĩ năng đó đối với cá nhân. Từ đó, mới nảy sinh nhu cầu mong muốn được phát triển kiến thức thông tin. Chuẩn bị nội dung bổ trợ kiến thức thông tin. Do đặc thù lứa tuổi của đối tượng học sinh ở nhà trường THPT cơ bản đã có nhận thức riêng, có vốn kiến thức nền cơ bản với những hiểu biết nhất định về phương thức làm việc với các nguồn tin (xử lí, phân tích, đánh giá), các trường THPT có thể cân nhắc mức độ triển khai các nội dung bổ trợ kiến thức thông tin vào thực tiễn. Cần làm cho học sinh hiểu rõ được khái niệm cơ bản và các bước chính để có kiến thức thông tin. Từ lí thuyết nền về kiến thức thông tin, có thể tiến hành triển khai theo các bước 17
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet đề xuất của tổ chức Society of College, National and University Libraries. Đây là mô hình đã được các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới áp dụng rộng rãi. • Định nghĩa (define): Sử dụng các công cụ công nghệ thông tin và truyền 1 thông để xác định và thể hiện một cách thích hợp nhu cầu thông tin • Truy cập (Access): Biết cách thu thập và lấy thông tin 2 • Quản lý (Manage): Tổ chức thông tin và phân loại thông tin 3 • Tích hợp (Integrate): Phiên dịch tóm tắt, so sánh và đối chiếu thông tin bằng 4 các hình thức mô tả tương tự hoặc khác nhau • Đánh giá (Evaluate): Đối chiếu để đưa ra đánh giá về chất lượng, mức độ 5 phù hợp, tính hữu ích hoặc hiệu quả của thông tin • Truyền tin (Communicate): Truyền đạt thông tin và kiến thức cho nhiều cá 6 nhân hoặc nhiều nhóm khác nhau. Trước hết, có thể thấy, với việc các nguồn thông tin ngày càng đa dạng, phong phú và ngày càng được chú ý đầu tư, nguồn lực thông tin ở thư viện trong các trường THPT ngày càng lớn. Đây là điều kiện quan trọng để tăng cường hiệu quả sử dụng các dịch vụ thông tin có sẵn tại các thư viện của các trường THPT. Vì vậy, đây cũng là một trong những nội dung chính của các chương trình phát triển kiến thức thông tin cho học sinh ở các trường THPT. Ngoài ra, cũng cần chú trọng nâng cao kĩ năng truy cập, khai thác, quản lí thông tin cho học sinh qua các nội dung như: Phát triển kĩ năng nhận dạng nhu cầu tin, tìm kiếm và đánh giá thông tin, kiến thức về các nguồn thông tin, sử dụng và trao đổi thông tin; phát triển kĩ năng tư duy độc lập, kĩ năng giải quyết vấn đề; Nâng cao nhận thức các vấn đề kinh tế, pháp lí, xã hội, đạo đức có liên quan đến sử dụng, truy cập và trao đổi thông tin,... Chương trình bổ trợ nên hướng tới việc truyền cảm hứng cho học sinh khám phá những điều chưa biết, đưa ra hướng dẫn về cách tốt nhất để đáp ứng nhu cầu thông tin và theo dõi tiến trình của học sinh. Tổ chức các hình thức bổ trợ kiến thức thông tin. Do mỗi nguồn thông tin đều có đặc thù khai thác khác nhau, việc trang bị phương pháp tiếp cận một cách có hệ thống tới các nguồn tin đó là điều hết sức cần thiết để giúp học sinh thu được lợi ích tối đa từ nguồn thông tin mà họ tiếp cận. Học sinh cần nắm được các phương thức tìm kiếm thông tin từ cơ bản đến nâng cao tùy thuộc vào nhu cầu và trình độ khai thác thông tin của học sinh. Tổ chức các buổi hướng dẫn cũng là một giải pháp khả thi cho học sinh ở các trường THPT. Có nhiều phương thức và kênh để tổ chức các hoạt động phát triển kiến thức thông tin cho học sinh, nhất là trong bối cảnh công nghệ thông tin - truyền thông phát triển mạnh mẽ. Nhà trường cần linh hoạt trong việc tổ chức các chương trình phát triển kiến thức thông tin; Tận 18
- Giáo dục học sinh phân biệt tin giả và một số vấn đề về Luật An ninh mạng khi sử dụng Internet dụng các phương tiện thông tin truyền thông, đặc biệt là các dịch vụ web 2.0 và mạng xã hội vào xây dựng các chương trình phát triển kiến thức thông tin trực tuyến cũng nên được chú trọng. Xây dựng đội đội ngũ giáo viên bổ trợ kiến thức thông tin. Để phát triển kiến thức thông tin cho học sinh, đội ngũ giáo viên đóng vai trò quyết định bởi lẽ giáo viên là người trực tiếp giảng dạy, tích hợp kiến thức thông tin vào mục tiêu mỗi môn học. Giáo viên phối hợp với cán bộ thư viện để đánh giá và lựa chọn các nguồn thông tin chất lượng cho các chương trình đào tạo, tổ chức và duy trì các bộ sưu tập và nhiều điểm truy cập thông tin và cung cấp hướng dẫn cho học sinh và giáo viên tìm kiếm thông tin. Tất nhiên, ở đây cũng cần nhấn mạnh đến vai trò tư vấn của người xây dựng và phát triển chương trình nhằm giúp học sinh có thể xây dựng cho mình một kế hoạch nâng cao kiến thức thông tin thật hiệu quả. Xem xét các yếu tố tác động tới việc bổ trợ kiến thức thông tin. Phát triển kiến thức thông tin cho học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau bao gồm: trình độ của giáo viên, phương pháp giảng dạy, kiểm tra, đánh giá của giáo viên, nội dung chương trình đào tạo, công nghệ thông tin, văn hóa nhà trường, nhận thức của các bên liên quan (lãnh đạo ngành nhà trường, giáo viên, học sinh), động cơ học tập và tâm lí của học sinh, hoản cảnh kinh tế và đặc điểm vùng miền của học sinh,... Việc triển khai chương trình bổ trợ kiến thức thông tin sẽ cần sự phối hợp, hợp tác của nhiều bộ phận, tổ chức xã hội. 5.3. Trang bị kiến thức về Luật An ninh mạng cho học sinh Tổ chức tìm hiểu và trang bị kiến thức về Luật An ninh mạng cho học sinh cũng được nhà trường quan tâm thực hiện. Chương trình được xây dựng và có sự điều chỉnh phù hợp cho mỗi năm học. Trang bị kiến thức khi sử dụng Internet nói chung và Luật An ninh mạng nói riêng đươc xây dựng tổng thể, nằm trong chuỗi các hoạt động giáo dục của nhà trường, hoạt động tập thể và các hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường. Nhà trường đã xây dựng bộ câu hỏi với số lượng câu hỏi phong phú, gắn Luật An ninh mạng với đời sống thực tiễn và sát với đối tượng học sinh thường xuyên sử dụng Internet, sử dụng mạng xã hội để trao đổi, đăng tải thông tin. Bộ câu hỏi được bố trí thành các bài "kiểm tra" phép học sinh có thể thực hiện nhiều lần, mỗi lần thực hiện học sinh sẽ được ôn lại các kiến thức liên quan cho đến khi đạt được một mức độ nhất định sẽ được đánh giá là đạt, có "chứng chỉ xanh" để tham gia Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng. Bộ câu hỏi được xây dựng, lựa chọn, thiết kế và đưa lên nền tảng học trực tuyến của nhà trường thptas2.lms.vnedu.vn như một khoá học ngoại khoá về kiến thức xã hội và kiến thức công nghệ thông tin. Học sinh có thể tham gia học tập vào bất kỳ thời điểm nào. Theo định kỳ, ban giáo dục pháp luật và ngoài giờ chính 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh thông qua dạy học Lịch sử Bài 17: Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946 (SGK Lịch sử lớp 12 Ban Cơ bản)
14 p | 133 | 34
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị trong việc giảng dạy địa lí tự nhiên Việt Nam ở lớp 12
21 p | 45 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục kỹ năng sống và sử dụng ngôn ngữ cho học sinh THPT qua tác phẩm Chí Phèo
19 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn hiện nay
43 p | 44 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục STEM thông qua chủ đề Lắp mạch điện đèn trang trí - Vật lí 11
40 p | 14 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p | 24 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 14 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức phòng cháy chữa cháy cho học sinh trung học phổ thông trong các giờ dạy môn Hóa học
21 p | 38 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tạo sự hứng thú cho học viên Trung tâm GDNN - GDTX khi mở đầu tiết học giáo dục hướng nghiệp thông qua việc thực hiện các trò chơi kỹ năng sống
15 p | 37 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Bài tập thực hành Word khối 10
37 p | 13 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng của tỉ số thể tích
15 p | 26 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Công tác phòng ngừa, can thiệp với học sinh bị chứng rối loạn hành vi ở trường THPT
35 p | 6 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn