Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh THPT thông qua công tác chủ nhiệm
lượt xem 12
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là góp phần xây dựng nên người học sinh hạnh phúc trong một lớp học hạnh phúc của một trường học hạnh phúc. Góp phần đào tạo thế hệ học sinh có đủ kĩ năng sống cơ bản, phát triển những năng lực và phẩm chất chủ yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh THPT thông qua công tác chủ nhiệm
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC KỸ NĂNG KIỂM SOÁT CẢM XÚC CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LĨNH VỰC: CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Năm thực hiện: 2020- 2021
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT HOÀNG MAI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC KỸ NĂNG KIỂM SOÁT CẢM XÚC CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LĨNH VỰC: CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Người thực hiện: Nguyễn Thị Trang - 0986233401 Tổ: Khoa học tự nhiên Bùi Thị Minh Hằng - 0983545891 Tổ: Toán - Tin Năm thực hiện: 2020- 2021
- MỤC LỤC PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trang I. Lý do chọn đề tài 1 II. Mục đích nghiên cứu 2 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 IV. Phương pháp nghiên cứu 2 PHẦN II. NỘI DUNG 3 I. Cơ sở lí luận 3 1. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc. 3 1.1. Cảm xúc là gì? 3 1.2. Kiểm soát cảm xúc là gì? 5 1.2.1. Hiểu biết về cảm xúc - “Hiểu chính mình” 5 1.2.2. Làm chủ cảm xúc 5 1.2.3. Chuyển hóa cảm xúc 6 1.2.4. Nhận biết các cảm xúc của người khác 6 2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển phẩm chất và năng 7 lực cho học sinh. 2.1. Thay mặt hiệu trưởng quản lý toàn diện học sinh của một lớp. 7 2.2. GVCN là cầu nối giữa hiệu trưởng, GVBM, các tổ chức trong nhà 7 trường với HS và tập thể học sinh. 2.3. GVCN là người cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập thể HS 8 2.4. GVCN là người đại diện cho nhà trường trong công tác phối hợp với phụ huynh và các lực lượng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo 8 dục. II. Cơ sở thực tiễn 8 1. Yêu cầu về giáo dục kỹ năng sống trong chương trình giáo dục phổ 8 thông 2. Những khó khăn đặc trưng của học sinh THPT trong việc kiểm soát 9 cảm xúc 2.1. Hoạt động học tập 9 2.2. Hình ảnh bản thân 10 2.3. Giao tiếp với bạn 10 2.4. Sự phát triển thể chất, tâm lý 10
- III. Thực trạng giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh ở 11 trường THPT Hoàng Mai 1. Thuận lợi 11 2. Khó khăn 11 IV. Triển khai nội dung đề tài: 12 1. Một số phương pháp giúp kiểm soát cảm xúc của bản thân. 12 1.1. Điều chỉnh trạng thái cơ thể tốt nhất. 12 1.2. Suy nghĩ tích cực. 13 1.3. Khéo léo trong cách sử dụng ngôn từ. 13 1.4. Tự tin vào bản thân. 14 1.5. Lắng nghe- Thấu hiểu 14 1.6. Lòng biết ơn. 14 2. Sử dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực trong tổ chức 15 các hoạt động giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh THPT. 2.1. Xây dựng chủ đề giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh. 15 2.2. Tổ chức thực hiện các chủ đề giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc 16 trong giờ sinh hoạt lớp. 2.2.1. Chủ đề: Hiểu biết về cảm xúc 16 2.2.2. Chủ đề: Làm chủ cảm xúc 18 2.2.3. Chủ đề: Chuyển hóa cảm xúc 20 PHẦN III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 27 PHẦN IV. KẾT LUẬN 33 PHỤ LỤC 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO 51 .
- DANH MỤC VIẾT TẮT GVBM Giáo viên bộ môn GVCN Giáo viên chủ nhiệm HS Học sinh THPT Trung học phổ thông KNS Kỹ năng sống KN Kỹ năng NQ/TW Nghị quyết/ Trung ương CLB Câu lạc bộ GDNGLL Giáo dục ngoài giờ lên lớp
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Căn cứ vào Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo; Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT, ngày 26 tháng 12 năm 2018 về ban hành chương trình giáo dục phổ thông mới với mục tiêu giúp HS tiếp tục phát triển những phẩm chất chủ yếu (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm), các năng lực cần thiết (năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo) đối với người lao động; ý thức và nhân cách công dân; …., khả năng thích ứng với những thay đổi trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới. Trong cuộc sống hiện đại, học sinh thường xuyên chịu tác động của những yếu tố tích cực và tiêu cực. Nếu thiếu kỹ năng sống các em dễ có những hành vi không mong muốn dẫn đến những hậu quả đáng tiếc như: bạo lực học đường, nghiện game, nghiện mạng xã hội, vi phạm luật an toàn giao thông, quan hệ tình dục tuổi vị thành niên, nói tục, sử dụng các chất kích thích, có khi còn bị trầm cảm trước các áp lực về thi cử, điểm số; thiếu tôn trọng sự khác biệt của mỗi cá nhân, thiếu trách nhiệm với bản thân và gia đình,… Những điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Điều đó yêu cầu học sinh không chỉ tích lũy kiến thức mà còn phải được rèn luyện các kỹ năng sống cơ bản, đặc biệt là kỹ năng kiểm soát cảm xúc. Việc kiểm soát cảm xúc tốt sẽ giúp học sinh có thái độ sống chan hòa, có định hướng sống tích cực, thích ứng với những biến đổi mạnh mẽ về tâm- sinh lý. Từ đó giúp các em học tập tốt hơn, hạnh phúc hơn, là nhân tố quan trọng xây dựng nên một lớp học hạnh phúc của trường học hạnh phúc. Trong quá trình dạy học, trường THPT Hoàng Mai đã rất tích cực thực hiện giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh thông qua lồng ghép trong chương trình chính khóa và hoạt động GDNGLL. Tuy nhiên việc giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh vẫn chưa được chú trọng nhiều và chưa được quan tâm một cách đúng mức. Nhiều giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm còn lúng túng trong việc áp dụng các phương pháp và tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh nên việc giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh chưa đạt hiệu quả cao.Trước những hạn chế đó, với vai trò là giáo viên chủ nhiệm chúng tôi đã tiến hành xây dựng và áp dụng các phương pháp giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh thông qua các giờ sinh hoạt lớp kết hợp với tư vấn tâm lí cho học sinh có hành vi không mong muốn từ năm học 2018-2019 đến nay và đã thu được nhiều kết quả tích cực. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm về: “Giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh THPT thông qua công tác chủ nhiệm.” 1
- II. Mục đích nghiên cứu - Vận dụng cơ sở lí luận và thực tiễn về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong công tác chủ nhiệm để xác định nội dung và hình thức giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh. Góp phần ngăn ngừa và giảm thiểu những tác hại từ những hành vi không mong muốn do mất kiểm soát cảm xúc cho học sinh. - Góp phần xây dựng nên người học sinh hạnh phúc trong một lớp học hạnh phúc của một trường học hạnh phúc. - Góp phần đào tạo thế hệ học sinh có đủ kĩ năng sống cơ bản, phát triển những năng lực và phẩm chất chủ yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1. Đối tượng nghiên cứu: Các phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh trong công tác chủ nhiệm. 2. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh trường THPT Hoàng Mai. IV. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp quan sát: Dự giờ các tiết đổi mới phương pháp sinh hoạt lớp của các giáo viên chủ nhiệm trong và ngoài trường. - Phương pháp khảo sát: thăm dò ý kiến của học sinh. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. - Phương pháp phân tích tổng hợp. 2
- PHẦN II. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận 1. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc 1.1. Cảm xúc là gì? Theo định nghĩa của từ điển Oxford, cảm xúc là “Một cảm giác mạnh mẽ xuất phát từ hoàn cảnh, tâm trạng hoặc mối quan hệ với người khác”. Cảm xúc là một trải nghiệm tích cực hoặc tiêu cực có liên quan đến một mô hình hoạt động sinh lý cụ thể. Cảm xúc tạo ra những thay đổi về sinh lý, hành vi và nhận thức khác nhau.Trong thực tế, Joseph LeDoux đã định nghĩa cảm xúc là kết quả của một quá trình nhận thức và ý thức xảy ra để đáp ứng với phản ứng của hệ thống cơ thể đối với một kích hoạt nào đó. Như vậy, cảm xúc là một trạng thái tâm lí phức tạp bao gồm ba thành tố riêng biệt: một trải nghiệm chủ quan, một phản ứng sinh lý và một phản hồi hành vi rõ ràng. Các nhà tâm lý học đã cố gắng xác định các loại cảm xúc khác nhau mà con người trải nghiệm. Trong suốt những năm 1970, nhà tâm lý học Paul Eckman đã xác định được sáu loại cảm xúc cơ bản là hạnh phúc, buồn bã, ghê tởm, sợ hãi, ngạc nhiên và giận dữ. Hạnh phúc: là một trạng thái cảm xúc dễ chịu mà đặc trưng bởi cảm giác của sự mãn nguyện, niềm vui, hài lòng, thỏa mãn và sự khỏe mạnh. Được thể hiện qua: - Biểu hiện của khuôn mặt như nụ cười rạng rỡ, ánh mắt long lanh,... - Ngôn ngữ cơ thể như tư thế thoải mái. - Giọng nói dịu dàng, vui vẻ,.... Buồn: là trạng thái cảm xúc nhất thời, đặc trưng bởi cảm giác thất vọng, đau buồn, tuyệt vọng, mất hứng thú và tâm trạng chán nản. Được thể hiện qua một số phương thức: - Sự trầm lặng - Sự thờ ơ - Khóc - Cô lập bản thân với những người khác. Sợ hãi: là phản ứng cảm xúc đối với một mối đe dọa tức thì; là một cảm xúc mạnh mẽ có thể đóng vai trò quan trọng trong sự sống còn. Thúc đẩy cơ thể bạn chạy xa khỏi nguy hiểm hoặc đứng lên và chống lại. Những biểu hiện của cảm xúc này gồm có: - Biểu cảm khuôn mặt như mở to mắt và thu cằm lại. - Cố gắng che giấu hoặc chối bỏ những mối đe dọa. - Những phản ứng sinh lý như thở gấp và tim đập mạnh. 3
- Ghê tởm: là một cảm giác có thể bắt nguồn từ nhiều thứ, bao gồm vị, cảnh tượng, mùi khó chịu,....Được thể hiện qua một số cách thức như: - Tránh xa đối tượng gây ghê tởm. - Biểu cảm khuôn mặt như nhăn mũi và môi cong lên. Giận dữ: là một cảm xúc mạnh mẽ đặc trưng bởi cảm giác thù địch, kích động, thất vọng và sự phản kháng đối với người khác. Sự giận dữ thường được thể hiện qua: - Biểu cảm khuôn mặt như cau mày và trừng mắt. -Ngôn ngữ cơ thể như là tư thế đứng nặng nề hoặc né tránh một số người. - Giọng nói như là nói chuyện cộc cằn hoặc la hét. - Phản ứng sinh lý như là đổ mồ hôi hặc đỏ mặt. - Những hành vi gây hấn như đánh nhau, đá hoặc ném đồ vật. Ngạc nhiên: Sự bất ngờ thường diễn ra rất ngắn và được đặc trưng bởi phản ứng sinh lý như là giật mình sau những điều diễn ra bất ngờ. Sự ngạc nhiên thường được diễn tả bởi: - Biểu cảm khuôn mặt như là nhướn mày, mở to mắt và miệng mở rộng. - Những phản ứng bằng miệng như la hét, thét lên và nín lặng. - Phản ứng vật lý như nhảy lùi lại phía sau. Các nhà tâm lý học cũng phân loại cảm xúc gồm cảm xúc tích cực và cảm xúc tiêu cực. Cảm xúc tích cực là cảm xúc chúng ta thường cảm thấy dễ chịu, hài lòng khi trải nghiệm đối với môi trường xung quanh. Một số cảm xúc tích cực phổ biến bao gồm: Yêu, vui sướng, thỏa mãn, hài lòng, quan tâm, thích thú, hạnh phúc, thanh thản,.... 4
- Cảm xúc tiêu cực là những cảm xúc mà chúng ta thường không thấy vui lòng khi trải nghiệm; là những cảm xúc không hài lòng hay không vui được gợi lên trong một người để thể hiện ảnh hưởng tiêu cực của một sự kiện hay một người. Một số cảm xúc tích cực phổ biến bao gồm: Sợ hãi, tức giận, ghê tởm, buồn, thịnh nộ, cô đơn, .... Những cảm xúc tích cực và tiêu cực tác động đến suy nghĩ và hành vi của con người. Khi chúng ta có thể chấp nhận, nắm lấy và khai thác cả hai loại cảm xúc chúng ta sẽ cho mình cơ hội tốt nhất để có một cuộc sống cân bằng, có ý nghĩa. Vì vậy, chúng ta cần học cách tăng cường cảm xúc tích cực, đồng thời phải học cách thích nghi với những cảm xúc tiêu cực và đối phó với chúng một cách hiệu quả. Điều quan trọng là phải hiểu làm thế nào để biến cảm xúc tiêu cực thành một trải nghiệm tích cực cũng như tận dụng cảm xúc tích cực. Đó chính là Kỹ năng kiểm soát cảm xúc của mỗi người. 1.2. Kiểm soát cảm xúc là gì? Theo Aristore “Bất cứ ai cũng có thể trở nên giận dữ- đó là điều rất dễ xảy ra. Tuy nhiên, để giận đúng người, với mức độ thích hợp, đúng thời điểm, vì những lý do chính đáng và biểu lộ sự tức giận đúng cách- lại là điều không dễ”. Chúng ta đã biết về tầm quan trọng của việc chấp nhận và điều tiết cảm xúc của mình, cả tích cực và tiêu cực. Vậy làm thế nào để chúng ta thực sự làm được điều này? 1.2.1. Hiểu biết về cảm xúc - “Hiểu chính mình” Theo John Mayer, một trong những cha đẻ của lý thuyết về Trí tuệ cảm xúc, thì ý thức về bản thân có nghĩa là chúng ta đồng thời “có ý thức” về tâm trạng tức thời và cả về những ý nghĩ liên quan với tâm trạng ấy. Ý thức về những cảm xúc của mình được thể hiện thành ý nghĩ như: “Lẽ ra ta không nên cảm thấy như thế”, “Mình sẽ nghĩ đến những điều tốt đẹp để vui lên” hoặc nếu phạm vi của ý thức hẹp hơn, đó là ý nghĩ thoáng qua, như “Đừng nghĩ tới điều đó nữa” để phản ứng với sự kiện đặc biệt gây khó chịu”. Ý thức về bản thân có ảnh hưởng mạnh hơn với những cảm xúc thù địch và gây hấn. Hiểu rằng mình đang giận dữ sẽ mở rộng các khả năng giải quyết, quyết định cứ để mặc nó hoặc tự giải thoát nó. Hiểu biết về cảm xúc chính là ý thức về bản thân – có thể nhận biết các cảm xúc của mình. Năng lực này có ý nghĩa căn bản đối với sự hiểu biết bản thân và trực giác tâm lý. Ai bị mù về những gì mình cảm nhận được sẽ bị phó mặc cho những tình cảm của mình. Trái lại, những người biết chắc về cảm giác của mình sẽ có thể sống tốt hơn, cảm nhận chân thực và đúng đắn hơn về các quyết định của mình. Hiểu biết về cảm xúc của bản thân là nền tảng cho năng lực tự giải thoát khỏi tâm trạng xấu. 1.2.2. Làm chủ cảm xúc Năng lực làm cho những tình cảm của mình thích nghi với hoàn cảnh phụ thuộc vào ý thức về bản thân. Trong thực tế, chế ngự những cảm xúc tiêu cực chính là chìa khóa đem lại hạnh phúc và sự cân bằng. Con người phải biết tự trấn 5
- an mình, thoát ra khỏi sự chi phối của lo âu, buồn rầu và giận dữ; cũng như thấy được những hậu quả tiêu cực của trình trạng ngược lại. Những người không có năng lực tâm lý căn bản này thường xuyên phải đấu tranh chống lại những tình cảm nặng nề. Những ai có năng lực đó thì chịu đựng thất bại và những điều không mong muốn trong cuộc đời rất tốt. 1.2.3. Chuyển hóa cảm xúc Chúng ta cần phải hướng dẫn các cảm xúc để tập trung chú ý, tự kiềm chế và tự thúc đẩy. Sự kiểm soát các cảm xúc là cơ sở của mọi sự hoàn thiện. Năng lực tự đặt mình vào trạng thái linh hoạt tâm lý cho phép làm những điều xuất sắc. Những người có năng lực này sẽ làm việc vô cùng hiệu quả. Những học sinh lo sợ, suy sút tinh thần hoặc dễ nổi giận đều không thể học được; em nào tự nhốt mình vào các trạng thái cảm xúc ấy không ghi nhận được thông tin, hoặc không sử dụng được nó tốt nhất. Cảm xúc mang nặng tiêu cực thường thu hút sự chú ý vào những lo lắng và chống lại mọi định hướng chú ý sang chỗ khác. Khi các cảm xúc đã xâm chiếm đầu óc đến mức xua đuổi mọi ý nghĩ khác và phá hoại nỗ lực tập trung vào công việc hoặc hành động đang làm, thì chúng đã vượt qua giới hạn bệnh lý rồi. 1.2.4. Nhận biết các cảm xúc của người khác Sự đồng cảm là yếu tố căn bản để thiết lập các mối quan hệ của cá nhân. Đồng cảm dựa vào ý thức về bản thân; khi chúng ta càng nhạy cảm với cảm xúc của mình, thì chúng ta càng hiểu rõ cảm xúc của người khác. Những người không có khả năng diễn đạt cảm xúc đều không có ý niệm nào về những gì họ cảm thấy và hoàn toàn không hiểu được những gì người khác cảm thấy. Về mặt tình cảm, họ không có “tai”; họ không cảm nhận được những nốt nhạc và những hợp âm xúc cảm nằm trong lời lẽ và cử chỉ của người khác dù là một sự đổi giọng, một sự im lặng hay một cơn giận dữ bùng nổ. Bị chính cảm xúc của mình làm cho bối rối, những người không có khả năng diễn đạt cảm xúc bị cảm xúc của người khác làm bối rối. Tình trạng không cảm nhận được cảm xúc của người khác là thiếu xót nghiêm trọng về cảm xúc và là khiếm khuyết bi thảm về cái được người ta coi là “tính người”. Trong các mối quan hệ của con người, ân cần, sự trìu mến bắt nguồn từ sự hòa hợp với người khác và khả năng đồng cảm. Người ta hiếm khi thể hiện những cảm xúc của mình bằng lời lẽ mà bằng nhiều cách khác. Hiểu cảm xúc của người khác bằng trực giác, trước hết là giải thích được tín hiệu không lời như giọng nói, cử chỉ, biểu hiện nét mặt,… Những học sinh có năng lực hiểu tình cảm nhờ vào tín hiệu không lời là những em được yêu quý nhất trong trường, những em ổn định nhất về tâm lý. Những học sinh này cũng đạt được kết quả học tập tốt, dù mức IQ trung bình của các em không cao hơn những em chậm hiểu những thông điệp không lời, điều đó khiến người ta nghĩ rặng sự làm chủ năng lực đồng cảm này làm cho việc học tập dễ dàng hơn (hay thu hút sự yêu mến của các giáo viên). Giống như từ ngữ là phương thức biểu hiện tư duy lý tính, tín hiệu không lời là phương thức biểu hiện cảm xúc. Khi lời lẽ của ai đó ngược lại với cách biểu hiện giọng nói, với những cử chỉ hay kênh không lời khác, 6
- thì sự thật của cảm xúc này là ở cách người đó nói chứ không phải ở những gì người đó nói. Về mặt giao tiếp, quy tắc chung là ít nhất có tới 90% thông điệp cảm xúc không được biểu hiện bằng lời. Và những thông điệp ấy có thể là sự lo sợ trong giọng nói, sự bực mình thể hiện bằng cử chỉ mạnh, bao giờ cũng được cảm nhận gần như vô thức. Như vậy, kiểm soát cảm xúc là một kỹ năng cần được rèn luyện; là khả năng nhận thức và quản trị được cảm xúc của mình và biết được cảm xúc của những người xung quanh. Người có khả năng kiểm soát cảm xúc sẽ hiểu rõ được cảm giác của người khác, từ đó điều chỉnh được hành vi tác động phù hợp. Người có kỹ năng kiểm soát cảm xúc sẽ đối mặt với các khó khăn một cách tự tin, giải quyết mâu thuẫn hài hòa, dùng tinh thần tích cực trong giao tiếp. Giữ tâm trạng cảm xúc cân bằng, con người sẽ ra quyết định sáng suốt và giải quyết các vấn đề tốt hơn. Ngược lại, nếu không kiểm soát tốt cảm xúc rất dễ khiến bạn thất bại trong giao tiếp, đàm phán hay thậm chí hủy hoại các mối quan hệ. Chính vì vậy, biết cách kiểm soát cảm xúc giúp chúng ta có mối quan hệ hòa hợp, dễ thành công trong công việc. 2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh 2.1. Thay mặt hiệu trưởng quản lý toàn diện học sinh của một lớp. - GVCN phải hiểu rõ khu vực nghề nghiệp của cha mẹ, mức sống, hoàn cảnh sống của gia đình; Các đặc điểm thể chất, tâm sinh lý; Học lực và các đặc điểm nhận thức – học tập; Quan hệ cộng đồng, bạn bè;.....của học sinh trong lớp. - GVCN phân loại và theo dõi, quản lý học sinh theo trình độ (học lực, hạnh kiểm); Theo đặc điểm tính cách; Theo loại quan hệ; Các trường hợp đối tượng cần quan tâm đặc biệt;... - Dựa trên kết quả tìm hiểu và phân loại học sinh, GVCN xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp và khoa học; Tổ chức và hướng dẫn học sinh xây dựng và thực hiện kế hoạch rèn luyện kỹ năng kiểm soát cảm xúc; Thực hiện kiểm tra và đánh giá học sinh khách quan, công bằng và toàn diện. 2.2. GVCN là cầu nối giữa hiệu trưởng, GVBM, các tổ chức trong nhà trường với HS và tập thể học sinh. - Truyền đạt tất cả các yêu cầu, chủ trương, quyết định của nhà trường, nghành cho học sinh bằng sự thuyết phục, giải thích để học sinh thực hiện một cách tự giác, tích cực. - Tập hợp ý kiến, nguyện vọng của học sinh để phản ánh lên nhà trường, GVBM, các tổ chức giáo dục khác; Thường xuyên tiếp nhận thông tin từ học sinh, giải tỏa những băn khoăn, vướng mắc cho học sinh. - Bảo vệ quyền lợi học sinh. 7
- 2.3. GVCN là người cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập thể HS - Luôn động viên, giúp đỡ học sinh vượt qua giai đoạn “khủng hoảng” của tuổi dậy thì một cách an toàn và lành mạnh. - GVCN là người định hướng, điều khiển thái độ, hành vi, hoạt động của cá nhân và dư luận theo hướng tích cực. Điều đó đòi hỏi GVCN phải có kỹ năng kiểm soát, làm chủ cảm xúc của bản thân. 2.4. GVCN là người đại diện cho nhà trường trong công tác phối hợp với phụ huynh và các lực lượng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục GVCN căn cứ vào đặc điểm, điều kiện của lớp, nhà trường, cộng đồng, gia đình học sinh,... để tổ chức phối hợp với các lực lưỡng giáo dục tạo ra sức mạnh tổng hợp, môi trường giáo dục thuận lợi và tích cực; tổ chức và hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm theo chủ đề như: Thanh niên với tình bạn, tình yêu; Học sinh với văn hóa giao thông; Học sinh với vấn đề bình đẳng giới; Tôn trọng sự khác biệt; nét đẹp văn hóa ứng xử của học sinh trong nhà trường; Kỹ năng học tập trong thời đại 4.0; Sống để yêu thương; Kỹ năng ứng phó với căng thẳng; Kỹ năng giải quyết các xung đột;... góp phần hình thành và rèn luyện cho học sinh các kỹ năng sống cơ bản, đặc biệt là kỹ năng kiểm soát cảm xúc. II. Cơ sở thực tiễn 1. Yêu cầu về giáo dục kỹ năng sống trong chương trình giáo dục phổ thông Theo Điều 2 của Luật Giáo dục năm 2005, mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; Hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thông báo 242-TB/TW ngày 15 tháng 4 năm 2009 của Bộ chính trị (khóa X) về tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020, đã nêu một trong những hạn chế của giáo dục phổ thông như sau: “Việc giáo dục tư tưởng, đạo đức lối sống cho HS chưa được chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp, giáo dục phổ thông mới chỉ quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến “dạy người”, kỹ năng sống và dạy nghề cho thanh thiếu niên”. Nghị quyết của hội nghị trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”. Xuyên suốt nhiều kỳ Đại hội Đảng cũng như nhiều hội nghị Trung ương, quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu không thay đổi. Đồng thời nhấn mạnh con người phát triển toàn diện không chỉ giỏi về tri thức khoa học mà còn cần có hệ thống năng lực cơ bản để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong thời đại công nghệ 4.0. Trước yêu đó, chương trình giáo dục THPT hiện nay đang được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực. Khác với cách tiếp cận nội dung, tiếp cận năng lực chú trọng vào việc yêu cầu HS phải thể hiện được, làm được, biết vận dụng những kiến thức để giải quyết các tình huống 8
- trong cuộc sống. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà trường THPT cần được tiếp cận theo hướng đổi mới. Với đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó đã khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu của việc giáo dục, trang bị các kỹ năng sống cần thiết cho HS như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng kiểm soát cảm xúc,... 2. Những khó khăn đặc trưng của học sinh THPT trong việc kiểm soát cảm xúc Học sinh THPT gồm đa số các em từ 15 đến 18 tuổi. Đây là gia đoạn của tuổi dậy thì với những biến đổi mạnh mẽ về tâm- sinh lý đến mức nhiều người coi đây như là gia đoạn “khủng hoảng” thứ hai trong tiến trình phát triển của trẻ. Ở lứa tuổi này, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của tự ý thức, thái độ đối với bản thân của học sinh, nhu cầu được tôn trọng, được khẳng định mình trong học tập và trong các mối quan hệ trở nên phức tạp, đa diện và sâu sắc hơn. Thể hiện qua những niềm tin, thế mạnh hay hạn chế, những điều khiến bản thân tự hào hay thất vọng,....Thường xuyên phải đối mặt với những thay đổi về cơ thể và tâm lý, chịu nhiều áp lực từ bạn bè, gia đình và xã hội, lứa tuổi này cũng trải nghiệm nhiều cảm xúc tiêu cực như căng thẳng, giận dữ, lo lắng thậm chí dẫn đến trầm cảm,... Những cảm xúc này thường kéo theo những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi tiêu cực đối với các em. 2.1. Hoạt động học tập Trong chương trình giáo dục ở trường THPT, việc học tập gắn kết mật thiết với lĩnh vực nghề nghiệp tương lai, HS cần có thái độ nghiêm túc và có ý thức hơn nhiều với việc học tập và lựa chọn nghề nghiệp. Do tính phức tạp của hoạt động học tập cũng như những yêu cầu ngày càng cao của gia đình và xã hội, nhiều HS rơi vào trạng thái căng thẳng, áp lực trong học tập, ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập và cuộc sống. Thậm chí học tập trở thành gánh nặng, là nỗi sợ hãi của một số HS có học lực yếu đến mức các em không muốn phải đến trường. Nói như vậy cũng không có nghĩa là các em HS khá, giỏi không có áp lực trong học tập. Nghiên cứu cho thấy, bản thân HS trường chuyên là những HS xuât sắc, vượt qua hàng nghìn HS khác, thì phần lớn vẫn không hài lòng với bản thân mình trong học tập, chỉ có rất ít em có thái độ tích cực, trong khi số lượng HS có thái độ tiêu cực chiếm tỉ lệ khá lớn. Điều đó có thể giải thích bởi hiệu ứng “cá lớn trong bể nhỏ”, chính vì vậy thay vì tập trung vào các cảm xúc tích cực về sự tiến bộ của bản thân, nhiều em lại chỉ chủ tâm vào sự khác biệt trong điểm số của mình với các bạn học tốt hơn, và điều này là nguyên nhân dẫn tới sự thất vọng, chán nản với bản thân mình. Đối với những HS được cha mẹ kỳ vọng quá cao so với khả năng của bản thân, áp lực này càng lớn. Điều này đặt ra vấn đề rất quan trọng trong giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho HS, giúp các em cải thiện hình ảnh bản thân trong học tập để HS có thái độ tích cực hơn với chính mình. 9
- 2.2. Hình ảnh bản thân Học sinh THPT với những thay đổi về cơ thể có liên quan chặt chẽ đến cách nhìn nhận về bản thân, đặc biệt là hình ảnh cơ thể. Các em quan tâm nhiều đến vẻ bề ngoài đang không ngừng biến đổi của mình, đến cân nặng, chiều cao, nét mặt, từ đó nảy sinh những cảm xúc khác nhau đối với bản thân. Nếu các em nhận thấy vẻ đẹp và nét hấp dẫn của bản thân mình sẽ nảy sinh những cảm xúc tự tin, yêu đời và ngược lại, những khiếm khuyết hạn chế về cơ thể dẫn đến tâm trạng bi quan, nhút nhát, thiếu tự tin về bản thân. Những cảm xúc tiêu cực của các em đôi khi không thực tế và thường xuất phát từ những quan điểm lý tưởng phi thực tế về sự hấp dẫn cơ thể- được ảnh hưởng từ phương tiện truyền thông. Các em hay nhìn nhận và đánh giá vẻ bề ngoài dựa trên một mẫu hình lý tưởng nào đó thường là người mẫu, diễn viên nổi tiếng,... Cũng có thể các em thường tập trung vào những điểm yếu, những nét chưa đẹp thay vì tìm ra và ghi nhận những nét đẹp riêng của bản thân. Vì vậy, nhà trường và các thầy cô giáo cần tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc, giúp các em có cách nhìn nhận phù hợp hơn, tránh được những cảm xúc tiêu cực về bản thân. 2.3. Giao tiếp với bạn Khát vọng trở thành người lớn, độc lập với bố mẹ và khẳng định mình trong nhóm bạn là đặc điểm nổi bật của học sinh THPT. Nhu cầu giao tiếp với bạn phát triển mạnh mẽ, muốn được bạn bè chấp nhận và yêu quý. Khi bị bạn bè từ chối, tẩy chay các em thường rơi vào trạng thái cô đơn, lo hãi và những cảm xúc tiêu cực khác về bản thân, chính vì vậy một số em đã chọn cách nói dối về bản thân, không thể hiện suy nghĩ, cảm xúc của mình một cách trung thực...Điều đó khiến các em cảm thấy “không thoải mái”, “khó chịu với bản thân”, “nhiều khi không nhận ra chính mình” và chính những cảm xúc này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung của các em. 2.4. Sự phát triển thể chất, tâm lý Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở độ tuổi học sinh THPT, sự phát triển về mặt sinh lý đã đi trước một bước so với sự trưởng thành về mặt tâm lý, xã hội. Giai đoạn phát triển đặc biệt này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các điều kiện văn hóa, giáo dục, kinh tế của gia đình, nhà trường và xã hội. Chất lượng cuộc sống được nâng cao, sự bùng nổ của công nghệ thông tin làm cho HS ngày nay sớm có nhu cầu mãnh liệt về quan hệ tình cảm khác giới. Sự “ cởi mở” trong việc bộc lộ cảm xúc cộng với vốn kiến thức hạn hẹp về giới tính đang đặt các em trước những nguy cơ rất lớn liên quan đến vấn đề sức khỏe sinh sản vị thành niên. Điều đó đòi hỏi nhà trường và gia đình phải trang bị kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho HS, giúp các em có được những cảm xúc tích cực trong việc xây dựng và duy trì được tình bạn đẹp, tình yêu trong sáng, lành mạnh tuổi học trò. 10
- III. Thực trạng giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh ở trường THPT Hoàng Mai 1. Thuận lợi Để đáp ứng yêu cầu phát triển những phẩm chất chủ yếu và các năng lực chung cho học sinh theo chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 của Bộ GD và ĐT, sở GD và ĐT Nghệ An đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, giáo viên, đặc là giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp về các hoạt động giáo dục kỹ năng sống (KNS) cho học sinh phổ thông. Những năm trở lại đây, Ban giám hiệu cùng với các thầy cô giáo trường THPT Hoàng Mai đã rất quan tâm, chú trọng tới hoạt động giáo dục KNS cho học sinh. Hình thức tổ chức giáo dục KNS đã được tích hợp trong các môn học văn hóa; thông qua sinh hoạt lớp theo chủ đề, hoạt động trải nghiệm với nội dung khá đa dạng như: Học sinh với văn hóa giao thông; Nói không với bạo lực học đường; Diễn đàn xây dựng tình bạn đẹp;... và mô hình các câu lạc bộ như CLB âm nhạc, CLB Tiếng Anh, CLB Toán học, CLB bóng rổ,... Học sinh hào hứng và tích cực, chủ động sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, nhà trường thường xuyên dành thời trong các tiết sinh hoạt đầu giờ, sinh hoạt dưới cờ để định hướng giáo giục KNS cho học sinh. Học sinh bước đầu đã có nền tảng kiến thức rộng hơn, được trang bị và hiểu biết, thực hành tốt hơn các KNS cơ bản trong học tập, tự tin trong giao tiếp,.... Với sự nỗ lực rèn luyện tích cực của tập thể giáo viên, học sinh trong đổi mới phương pháp dạy học và giáo dục KNS cho học sinh, nhà trường đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong hoạt động giáo dục như: Đạt giải nhất toàn tỉnh và giải tư quốc gia cuộc thi sáng tạo KHKT năm học 2017 – 2018; Giải nhất cuộc thi ATGT vì nụ cười ngày mai cấp quốc gia năm 2018-2019; Nhiều năm liền kết quả thi học sinh giỏi tỉnh và thi THPT quốc gia nằm trong tốp 15 toàn tỉnh,... với những thành tích xuất sắc đó năm 2020 nhà trường THPT Hoàng Mai được nhận Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ. 2. Khó khăn Sau nhiều năm thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và đào tạo, về việc lồng ghép tích hợp chương trình giáo dục KNS, đặc biệt là kỹ năng kiểm soát cảm xúc vào các môn học, các giờ học, trường THPT Hoàng Mai đã thực hiện và tổ chức nhiều hoạt động trải nghiệm để HS được trải nghiệm thực tế. Tuy nhiên, để tổ chức một hoạt động trải nghiệm trang bị cho HS kiến thức về KNS trong đó có kỹ năng kiểm soát cảm cảm xúc là việc làm không đơn giản, khi nguồn kinh phí không cho phép, thời gian có hạn. Cùng với đó không phải giáo viên nào cũng có kỹ năng, năng lực điều hành tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho HS; Nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải... chưa phù hợp với tâm-sinh lí của HS nên hiệu quả lồng ghép chưa cao. Để giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc trong các hoạt động trải nghiệm, sinh hoạt lớp, giáo viên phải tự mày mò tìm hiểu, xây dựng các nội dung, phương 11
- pháp truyền đạt, áp dụng các phương tiện, thiết bị giảng dạy phù hợp, cùng với việc thiếu tài liệu phục vụ giảng dạy nên nhiều giáo viên còn ngại tổ chức mà việc thực hiện giảng dạy còn nặng về hình thức, hạn chế về nội dung. Một trong các phương pháp tích cực hỗ trợ hoạt động giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho HS chính là công tác tư vấn tâm lý cho học sinh. Theo thông tư hướng dẫn thực hiện công tác tư vấn tâm lý cho HS trong trường phổ thông của Bộ GD và ĐT (2017), “Tư vấn tâm lý cho HS là hỗ trợ tâm lý, giúp HS nâng cao hiểu biết về bản thân, hoàn cảnh gia đình, mối quan hệ xã hội, từ đó tăng cảm xúc tích cực, tự đưa ra quyết định trong tình huống khó khăn HS gặp phải khi đang học tại nhà trường”. Những năm gần đây nhà trường đã cử giáo viên tham gia lớp bồi dưỡng năng lực Tư vấn tâm lý, có phòng tư vấn tâm lý cho HS, tuy nhiên nhiều HS còn ngần ngại, chưa mạnh dạn chia sẻ những khó khăn trong học tập và trong cuộc sống, vì vậy việc tư vấn tâm lý cho HS chủ yếu tập trung vào vai trò của GVCN. IV. Triển khai nội dung đề tài 1. Một số phương pháp giúp kiểm soát cảm xúc của bản thân Trong hoạt động giáo dục, cảm xúc của giáo viên ảnh hưởng rất lớn đến HS. Giáo viên có hành động cương quyết, cứng rắn quá không thể mang đến những hiệu quả giáo dục cao, ngược lại những hành động mềm yếu quá lại khiến giáo viên trở thành người nhu nhược, không có uy trước HS. Vậy thì làm thế nào để cảm xúc của chúng ta trở thành một kênh giáo dục HS hiệu quả, có tác dụng tích cực là một vấn đề rất khó. Nếu giáo viên không điều chỉnh được cảm xúc có thể dẫn đến những hành vi, lời nói xúc phạm đến lòng tự trọng của HS và có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường. Các em không thích mình bị phê bình trước đám đông nhất là bạn bè mình và luôn có suy nghĩ rằng lỗi của mình bé tí mà cô cũng phê bình và có tâm lý đổ lỗi cho hoàn cảnh. Khi được trao đổi, phê phán với một cảm xúc hết sức chân thành, có hướng dẫn cách khắc phục sự việc thường có tác động tích cực đến cảm xúc của HS. Lời nói và hành động phải có lúc là mệnh lệnh, có lúc lại mềm dẻo theo hoàn cảnh để HS cảm thấy kính trọng nhưng quý mến thầy cô. Muốn học sinh biết cách kiểm soát cảm xúc của bản thân thì người giáo viên trước tiên cũng phải biết làm chủ cảm xúc của mình. Do vậy, để kiểm soát được cảm xúc thì cả giáo viên và học sinh có thể thực hiện theo các nguyên tắc sau: 1.1. Điều chỉnh trạng thái cơ thể tốt nhất Để kiểm soát cảm xúc, trước tiên cơ thể phải ở trạng thái tốt nhất. Cơ thể khỏe mạnh, tinh thần thoải mái thì những cảm xúc tích cực sẽ dễ dàng đến, ngược lại cơ thể mệt mỏi, tinh thần lo lắng, buồn bã thì cảm xúc tiêu cực sẽ xâm chiếm sẽ làm ta lười biếng, suy nhược tinh thần. Khi tức giận, tim đập nhanh máu dồn lên não, gây căng thẳng, khó chịu khiến chúng ta mất đi khả năng làm chủ bản thân và dễ cáu giận, có xu hướng tìm chỗ trút giận và hành động thiếu cân nhắc. 12
- Để điều chỉnh trạng thái cơ thể thoải mái hơn, thư giãn hơn cần: + Duy trì một lịch sinh hoạt hợp lý, khoa học, thương xuyên tập thể dục để có cơ thể khỏe mạnh. + Hít thở thật sâu trong 5s. + Thả lỏng các cơ bắp. + Uống một cốc nước. + Đếm số. + Mỉm cười. Điều chỉnh cơ thể về cả thể chất lẫn tinh thần giúp cảm xúc được giải tỏa phần nào, bớt ức chế, nóng giận và kiểm soát được cảm xúc bản thân. 1.2. Suy nghĩ tích cực Ngạn ngữ Đức có câu:“gieo suy nghĩ, gặt hành động; Gieo hành động gặt thói quen; Gieo thói quen gặt tính cách, gieo tính cách gặt số phận”. Mọi sự việc diễn ra đều có nguyên nhân của nó. Nếu chúng ta ươm mầm những suy nghĩ tích cực thì hành động sẽ tích cực. Vì vậy: + Thay vì để ý sâu những khuyết điểm của người khác, chúng ta hãy nhìn vào mặt tích cực của họ. + Cần nhìn vào thất bại tìm kiếm bài học. + Đặt mình vào hoàn cảnh người khác. + Nhắm mắt lại, xua đi những suy nghĩ tiêu cực đến với mình và nghĩ tới ít nhất 3 điều tích cực, suy nghĩ về những điều hạnh phúc. - Rồi mọi chuyện sẽ ổn. - Không có gì là hoàn hảo cả. - Chuyện đó sẽ nhanh qua thôi. - Mình đủ lý trí để giải quyết việc này. - Trải qua khó khăn thử thách cũng là cơ hội trưởng thành. - Mình sẽ không tức giận lâu đâu, đây chỉ là cảm giác tạm thời thôi. - Nghĩ đến các câu chuyện động lực. (Giáo viên nên sưu tầm nhiều mẫu chuyện động lực để còn chia sẻ cho học sinh.) 1.3 . Khéo léo trong cách sử dụng ngôn từ Sử dụng ngôn từ phù hợp, khéo léo không chỉ giúp chúng ta điều khiển cảm xúc của chính mình mà còn kiểm soát được cảm xúc của người tham gia trò 13
- chuyện. Ngừng than vãn không dùng những từ mang đến sự tiêu cực, mà thay vào đó, ta nên dùng những từ ngữ mang tính động viên, khích lệ dành cho đối phương. Đây cũng chính là chìa khóa giúp chúng ta kiềm chế cảm xúc tốt hơn, và nhìn nhận cuộc sống với góc độ tích cực. 1.4 . Tự tin vào bản thân Không ít trường hợp chúng ta bị bao vây bởi những buồn bực, tức giận chính là vì thiếu tự tin. Bạn cảm thấy bản thân không có năng lực, dung mạo hay hoạt ngôn bằng người khác và bạn cảm thấy khó khăn, sợ hãi khi giải quyết vẫn đề. Vì thế, tự tin ở bản thân mình là yếu tố quan trọng để chúng ta kiềm chế cảm xúc. Để trở nên tự tin hơn, chúng ta cần rèn luyện các kỹ năng sau: + Học tập nâng cấp bản thân. + Vượt qua nỗi sợ hãi và cố gắng. 1.5. Lắng nghe- Thấu hiểu Ba tuổi đủ để học nói nhưng cả đời không đủ để lắng nghe. Có miệng không có nghĩa là biết nói, có mắt không có nghĩa là biết đọc. Có tay chưa chắc đã biết viết. Vì vậy, có tai càng không có nghĩa là biết nghe. Ngay từ nhỏ ta đã được học nói, học viết, học rất nhiều điều. Vậy lắng nghe được học từ ai và từ đâu? Một kỹ năng vô cùng quan trọng, nó chiếm 53% thời gian giao tiếp nhưng lại không được học và không có lớp nào dạy. Từ nhỏ ai cũng được dạy học nói nhưng lắng nghe chỉ có vài ba câu: con phải biết vâng lời bố mẹ! Con có nghe không? Nhưng cách để nghe hiệu quả thì không ai dạy. Mà bạn khi có kỹ năng lắng nghe tốt sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc, cuộc sống gia đình cũng như giải quyết các xung đột dễ dàng hơn. Vậy làm thế nào để lắng nghe hiệu quả? Thứ nhất: Thay đổi thái độ- muốn lắng nghe hiệu quả cũng như người lắng nghe tốt thì đầu tiên phải “muốn”. Nếu các bạn không muốn lắng nghe thì mọi điều khác đều vô nghĩa. Thứ hai: Thay đổi cử chỉ: thay vì lơ đãng, không tập trung vào cuộc trò chuyện thì hãy nhìn vào người nói để thể hiện sự mong muốn được lắng nghe những điều họ chia sẻ. Ngoài ra cần có những cử chỉ thể hiện sự đồng ý như gật đầu hay mỉm cười, hào hứng khi nghe câu chuyện. Thứ ba: Thay đổi lời nói: thay vì ngồi im lặng thì các bạn hãy là người biết nói, biết lắng nghe. Các bạn cần đáp lại những câu chuyện mà họ kể thông qua các từ khen: ồ tuyệt quá, hay quá… Khi đó, họ sẽ cảm thấy bạn có thành ý và quan tâm tới câu chuyện họ nói. 1.6. Lòng biết ơn Thói quen nuôi dưỡng lòng biết ơn giúp chúng ta lạc quan hơn, khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần, sống hạnh phúc và ít căng thẳng hơn. Dưới đây là một số thói quen nuôi dưỡng lòng biết ơn mỗi ngày. 14
- + Yêu bản thân: Những người biết ơn biết rằng thái độ cảm ơn cũng có thể thúc đẩy lòng trắc ẩn với bản thân. Đó là sự tử tế, thấu hiểu bản thân khi đối mặt với thất bại hay bản thân có những thiếu hụt và khiếm khuyết. Và khi chúng ta khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần thì đương nhiên bạn sẽ thấy mọi thứ thật tuyệt vời. + Viết nhật ký: Ghi nhật ký về lòng biết ơn giúp chúng ta củng cố những suy nghĩ tích cực và điều này đặc biệt hữu ích vì não có xu hướng tập trung tự nhiên vào những gì bạn đang tưởng tưởng, suy nghĩ. + Không né tránh điều tiêu cực: Thể hiện lòng biết ơn mang đến sự lạc quan hơn, nhưng những người biết ơn cũng không né tránh điều tiêu cực. Dù chúng ta thường liên kết lòng biết ơn với việc tập trung vào điều tốt đẹp và tránh những điều tiêu cực, nhưng chìa khóa để có cuộc sống biết ơn là chấp nhận những bước lùi như một phần trong cuộc sống tổng thể của bạn. Hãy nhớ về khoảng thời gian khó khăn đã qua và có thể bạn sẽ bắt đầu cảm thấy biết ơn về trạng thái hiện tại và sẽ vượt qua khó khăn như trước đây bạn đã làm được. + Dành thời gian cho những người thân yêu: Lòng biết ơn giúp chúng ta kết nối với những người khác, giúp củng cố các mối quan hệ, là yếu tố mạnh mẽ nhất về hạnh phúc, khả năng đối phó với căng thẳng. + Biết giá trị của những điều nhỏ bé: Những thứ nhỏ nhặt, những khoảnh khắc bình thường cũng ẩn chứa những giá trị tuyệt vời mà chúng ta nên nắm bắt và tận hưởng. 2. Sử dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực trong tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh THPT 2.1. Xây dựng chủ đề giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho học sinh. Căn cứ vào những yêu cầu cần thiết để hình thành và rèn luyện kỹ năng kiểm soát cảm xúc, chúng tôi đã xây dựng các chủ đề trong tiết sinh hoạt lớp Chủ đề Mục tiêu - Biết được các biểu hiện của 6 cảm xúc cơ bản. - Nhận diện được cảm xúc: + Tích cực: vui sướng, hạnh phúc,... Hiểu biết về cảm xúc + Tiêu cực: buồn, giẫn dữ, ghê tởm, tức giận - Hiểu được cảm xúc của người khác bằng trực giác. - Diễn đạt được cảm xúc. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh thông qua dạy học Lịch sử Bài 17: Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946 (SGK Lịch sử lớp 12 Ban Cơ bản)
14 p | 133 | 34
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị trong việc giảng dạy địa lí tự nhiên Việt Nam ở lớp 12
21 p | 45 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục kỹ năng sống và sử dụng ngôn ngữ cho học sinh THPT qua tác phẩm Chí Phèo
19 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn hiện nay
43 p | 44 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục STEM thông qua chủ đề Lắp mạch điện đèn trang trí - Vật lí 11
40 p | 14 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p | 24 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 14 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức phòng cháy chữa cháy cho học sinh trung học phổ thông trong các giờ dạy môn Hóa học
21 p | 38 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tạo sự hứng thú cho học viên Trung tâm GDNN - GDTX khi mở đầu tiết học giáo dục hướng nghiệp thông qua việc thực hiện các trò chơi kỹ năng sống
15 p | 37 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Bài tập thực hành Word khối 10
37 p | 13 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng của tỉ số thể tích
15 p | 26 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Công tác phòng ngừa, can thiệp với học sinh bị chứng rối loạn hành vi ở trường THPT
35 p | 6 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn