intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục kỹ năng sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số phục vụ việc học và giải trí một cách hiệu quả nhằm phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh THPT

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:62

11
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm nghiên cứu việc sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số của học sinh hiện nay từ đó giáo dục kỹ năng sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số phục vụ việc học và giải trí một cách hiệu quả nhằm phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh THPT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục kỹ năng sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số phục vụ việc học và giải trí một cách hiệu quả nhằm phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh THPT

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỬ DỤNG CÁC THIẾT BỊ SỐ LÀM VIỆC TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ PHỤC VỤ VIỆC HỌC VÀ GIẢI TRÍ MỘT CÁCH HIỆU QUẢ NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ CHỦ VÀ TỰ HỌC CHO HỌC SINH THPT LĨNH VỰC: KĨ NĂNG SỐNG
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲ HỢP =====  ===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỬ DỤNG CÁC THIẾT BỊ SỐ LÀM VIỆC TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ PHỤC VỤ VIỆC HỌC VÀ GIẢI TRÍ MỘT CÁCH HIỆU QUẢ NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ CHỦ VÀ TỰ HỌC CHO HỌC SINH THPT LĨNH VỰC: KĨ NĂNG SỐNG Nhóm tác giả: Trần Thị Nhung Nguyễn Thị Hoa Lâm Tổ chuyên môn: Khoa học tự nhiên Toán-Tin Năm thực hiện: 2022- 2023 Số điện thoại: 0987 064 645 0965 609 324
  3. MỤC LỤC
  4. PHẦN I - MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thời đại công nghệ 4.0 đã mang lại cho ta nhiều lợi ích khi được tiếp cận mọi thông tin thường trực trên thế giới, giúp con người chúng ta mở mang đầu óc, học hỏi thêm nhiều kiến thức, kỹ năng trong cuộc sống. Hiện nay, các thiết bị số ngày càng phát triển, hiện đại và được sử dụng rộng rãi. Cùng với đó là sự phát triển như vũ bão của môi trường số. Nhà nhà, người người sử dụng thiết bị số, môi trường số để tiếp nhận, cập nhật thông tin. Sự tiện dụng của máy tính, điện thoại… khi truy cập mạng xã hội cũng giúp ích rất nhiều cho việc trao đổi thông tin. Không thể phủ nhận các lợi ích to lớn mà thiết bị số, môi trường số mang lại cho con người, nhưng bên cạnh đó vẫn có những mặt trái từ môi trường số như nghiện game, bạo lực học đường, lừa đảo trên mạng, kinh doanh tiền ảo, đánh bạc qua mạng… ít nhiều cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến suy nghĩ, tác phong, lối sống, chất lượng học tập của các em, đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh phổ thông. Trong độ tuổi THPT, các bạn học sinh có những chuyển biến tâm sinh lý phức tạp mà nếu không trang bị kỹ năng sống vững vàng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới tương lai, dẫn tới nhiều hậu quả đáng tiếc của việc thiếu kỹ năng sống ở học sinh THPT như: + Không làm chủ bản thân, dễ sa vào lối sống buông thả và hư hỏng. + Không kiểm soát được cảm xúc, các em dễ ứng xử thiếu văn hóa, ảnh hưởng đến các mối quan hệ trọng xã hội. + Ảnh hưởng nghiêm trọng đến học tập, tương lai. Năng lực sống là yếu tố cần thiết, quan trọng đối với con người, đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh THPT, vì đây là lứa tuổi các bạn sắp trưởng thành, chuẩn bị bước vào cuộc sống xã hội rộng lớn. Rèn luyện năng lực sống có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi người để họ luôn là chính mình, có thể đương đầu với mọi thử thách trong cuộc sống. Trong những năm gần đây chương trình giáo dục của Bộ giáo dục đã hướng đến việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Thực tế cho thấy giáo dục năng lực sống trong nhà trường chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng yêu cầu của Bộ giáo dục đề ra. Căn cứ vào tình hình thực tế, thấy rằng rất nhiều học sinh chưa nhận thức đúng đắn trong việc sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số, chưa khai thác được các lợi ích mà thiết bị số, môi trường số mang lại, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Giáo dục kỹ năng sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số phục vụ việc học và giải trí một cách hiệu quả nhằm phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh THPT”. 4
  5. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài của chúng tôi hướng đến nghiên cứu việc sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số của học sinh hiện nay từ đó giáo dục kỹ năng sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số phục vụ việc học và giải trí một cách hiệu quả nhằm phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh THPT. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về thiết bị số, môi trường số, năng lực tự chủ, tự học; các tác động của việc sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số; các kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh khi sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số. - Mô tả thực trạng, phân tích đánh giá thực trạng sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số của học sinh THPT hiện nay. - Đề xuất các biện pháp giáo dục kỹ năng sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số phục vụ việc học và giải trí một cách hiệu quả nhằm phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh THPT. - Phân tích kết quả thu được để cho thấy hiệu quả của các biện pháp. 4. Phương pháp nghiên cứu Để trình bày sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi đã sử dụng phối kết hợp nhiều phương pháp như: + Phương pháp nghiên cứu cơ sở khoa học: Nghiên cứu các cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của đề tài. + Phương pháp điều tra: Điều tra thực trạng của vấn đề. + Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm các biện pháp trên các đối tượng học sinh khác nhau để kiểm tra tính đúng đắn, tính thực tiễn và thiết thực của đề tài. + Phương pháp thống kê toán học: Xử lí số liệu bằng thống kê toán học, vẽ biểu đồ. 5. Đóng góp mới của đề tài - Là đề tài nghiên cứu về tác động tích cực, tiêu cực của việc sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số đối với lứa tuổi học sinh THPT, đây là một vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay. - Mô tả được thực trạng và đề xuất được giải pháp giáo dục kỹ năng sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số phục vụ việc học và giải trí một cách hiệu quả nhằm phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh THPT. 5
  6. PHẦN II - NỘI DUNG I. Cơ sở khoa học 1. Cơ sở lí luận 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Thiết bị số Thiết bị số là thiết bị điện tử, máy tính, viễn thông, truyền dẫn, thu phát sóng vô tuyến điện và thiết bị tích hợp khác được sử dụng để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số [4]. Các thiết bị số hiện nay được nhiều học sinh sử dụng như điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy tính bàn, laptop… 1.1.2. Môi trường số Môi trường số (MTS), hay còn gọi là môi trường kỹ thuật số là môi trường truyền thông tích hợp, nơi các thiết bị kỹ thuật số giao tiếp, quản lý nội dung và hoạt động. Khái niệm này dựa trên các hệ thống điện tử kỹ thuật số được tích hợp và triển khai cho cộng đồng toàn cầu (theo wikipedia). MTS là một không gian sống, trong đó công nghệ số đã chuyển phương thức sản xuất truyền thống trong hệ thống công nghiệp sang phương thức áp dụng các công nghệ với những trụ cột, như: dữ liệu lớn, internet kết nối vạn vật, công nghệ điện toán đám mây… MTS là môi trường nhân tạo, được hình thành và phát triển nhờ cách mạng công nghiệp hiện đại – cách mạng chuyển xã hội tri thức sang xã hội thông minh. Cũng có người gọi MTS là môi trường mạng (Network Environment), mọi thông tin được cung cấp, truyền dẫn, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua hạ tầng công nghệ thông tin. MTS trong thế giới hiện đại là một không gian công cộng rộng lớn có quy mô toàn cầu, được gọi là không gian mạng (Cyberspace), với cấu trúc đa dạng và phức tạp, các thành tố kết nối rất đặc biệt. Khái niệm không gian mạng còn dùng để chỉ mạng lưới toàn cầu của các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, gồm các mạng viễn thông và hệ thống máy tính. Tham gia vào MTS sẽ tạo ra những trải nghiệm xã hội, trong đó các cá nhân có thể tương tác, trao đổi ý kiến, chia sẻ thông tin, cung cấp các hỗ trợ xã hội, tranh luận hoặc đánh giá những hiện tượng, sự kiện có liên quan đến đạo đức, chính trị, giáo dục, kinh doanh, những xung đột quân sự, chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh, những va chạm chính kiến, những đối thoại hoặc đối đầu về văn hóa. Sự tương tác của con người với các cá nhân, tổ chức hay cộng đồng trong MTS sẽ ngày càng đa dạng, đa chiều, tức thời hơn, không có những rào cản khi con người tương tác với nhau như trong không gian thực. Các hoạt động trong mọi lĩnh vực khoa học, văn hóa, nghệ thuật, kinh doanh, thương mại, khám, chữa bệnh… đều có thể thực hiện mọi lúc, mọi nơi. Đây chính là tính ưu việt của không gian mạng. 6
  7. 1.1.3. Năng lực tự chủ và tự học 1.1.3.1. Năng lực Theo từ điển tiếng Việt “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hành động nào đó. Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. Năng lực là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… năng lực của cá nhân được đánh giá qua phương thức và khả năng hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Người có năng lực là người đạt hiệu suất và chất lượng hoạt động cao trong các hoàn cảnh khách quan và chủ quan như nhau. Năng lực gắn bó chặt chẽ với tính định hướng chung của nhân cách. Năng lực của học sinh là một cấu trúc động, có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chứa trong nó không chỉ là kiến thức, kỹ năng mà cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội… thể hiện ở tính sẵn sàng hành động của các em trong môi trường học tập phổ thông và những điều kiện thực tế đang thay đổi của xã hội. 1.1.3.2. Năng lực tự học Nguyễn Cảnh Toàn đưa ra quan niệm về năng lực tự học: “Năng lực tự học được hiểu là một thuộc tính kỹ năng rất phức hợp. Nó bao gồm kỹ năng và kỹ xảo cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho người học có thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra” [7], [8]. Năng lực tự học là sự bao hàm cả cách học, kỹ năng học và nội dung học: “Năng lực tự học là sự tích hợp tổng thể cách học và kỹ năng tác động đến nội dung trong hàng loạt tình huống – vấn đề khác nhau”. [8] Năng lực tự học là những thuộc tính tâm lí mà nhờ đó chúng ta giải quyết được các vấn đề đặt ra một cách hiệu quả nhất, nhằm biến kiến thức của nhân loại thành sở hữu của riêng mình. 1.1.3.3. Năng lực tự chủ Holec định nghĩa năng lực tự chủ của người học là “khả năng có trách nhiệm với việc học của bản thân”. Holec cũng giải thích có trách nhiệm với việc học “là khả năng tự xác định mục tiêu, nội dung, tiến độ học tập, lựa chọn phương pháp, kiểm soát điều chỉnh quá trình học tập và đánh giá kết quả học tập của bản thân”. Cùng quan điểm chú trọng đến yếu tố năng lực của Holec là Huttunen (1986), theo Huttunen tính tự chủ của người học là khả năng có trách nhiệm với việc học của bản thân. Quan điểm của Legutke và Thomas (1991) mang tính cụ thể hơn khi cho thấy tính tự chủ của người học là năng lực có trách nhiệm với những quyết định của bản thân về những vấn đề liên quan đến việc học cùng những hành động thực hiện. Theo Esch (1996), “Sự tự chủ của người học không phải là tự học mà không có sự hướng dẫn; tính tự chủ của người học không phải do người dạy bắt ép mà có được; tính tự chủ của người học không phải là một đặc tính ổn định có được một 7
  8. cách dễ dàng”. Điều đó có nghĩa người học phải có trách nhiệm trong việc lập kế hoạch và tổ chức việc học của họ, đánh giá kết quả học tập của họ và thậm chí đề xuất điểm số đạt được cho các nhiệm vụ thực hiện. Năng lực tự chủ và tự học là một trong các năng lực chung, năng lực cơ sở làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và trong lao động nghề nghiệp. Ở cấp Trung học phổ thông, năng lực tự chủ và tự học có các biểu hiện như sau: - Tự lực: Luôn chủ động, tích cực thực hiện những công việc của bản thân trong học tập và trong cuộc sống; biết giúp đỡ người khác vươn lên để có lối sống tự lực - Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng: Biết khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu cá nhân phù hợp với đạo đức và pháp luật. - Tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của mình: Đánh giá được những ưu điểm và hạn chế về tình cảm, cảm xúc của bản thân tự tin, lạc quan; biết tự điều chỉnh tình cảm, thái đô, hành vi của bản thân, luôn bình tĩnh và có cách cư xử đúng; sẵn sàng đón nhận và quyết tâm vượt qua thử thách trong học tạp và đời sống; biết tránh các tệ nạn xã hội. - Thích ứng với cuộc sống: Điều chỉnh được hiểu biết, kĩ nāng, kinh nghiệm của cá nhân cần cho hoạt động mới, môi trường sống mới; thay đổi cách tư duy. - Định hướng nghề nghiệp: Nhận thức được cá tính và giá trị sống của bản thân; nắm được những thông tin chính về thị trường lao động, về yêu cầu và triển vọng của các ngành nghề; xác định được hướng phát triển phù hợp sau khi học phổ thông, lập được kế hoạch, lựa chọn các môn học phù hợp với định hướng nghề nghiệp bản thân. - Tự học, tự hoàn thiện: Xác định được nhiệm vụ học tập dựa trên kết quả đã đạt được, biết đặt mục tiêu học tập chi tiết, cụ thể, khắc phục những hạn chế. Đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập, hình thành cách học riêng của bản thân, tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau. Ghi chép thông tin bằng các hình thức phù hợp, thuận lợi cho việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết. Tự nhận ra và điều chỉnh được những sai sót, hạn chế của bản thân trong quá trình học tập, suy ngẫm cách học của mình, rút kinh nghiệm đề có thể vận dụng vào tình huống khác. 1.1.4. Vị trí, vai trò của tự chủ, tự học Ngày nay, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật, số liệu các tri thức cần lĩnh hội tăng lên, đòi hỏi chúng ta phải thay đồi căn bản cả nội dung giáo dục lẫn phương pháp dạy học. Dạy học theo hướng phát triển năng lực tự chủ và tự học mang lại cho học sinh những trải nghiệm phong phú; nhờ đó, học sinh phát triển được vốn sống, có khả năng nhận biết cảm xúc, tình cảm, sở thích, cá tính, và khả 8
  9. năng của bản thân, biết tự làm chủ để có hành vi phù hợp, sự tự tin, tinh thần lạc quan trong học tập và đời sống. Năng lực tự chủ và tự học giúp học sinh có khả năng suy ngẫm về bản thân, tự nhận thức và điều chỉnh được những hạn chế của mình trong quá trình học tập và không ngừng học hỏi để tự hoàn thiện. Điều đó, đòi hỏi người học cần có sự chủ động tích cực trong quá trình tự học, tự tìm kiếm kiến thức cho bản thân và người dạy có trách nhiệm là phải khơi dậy những năng lực tiềm ẩn trong người học. Việc tự tìm lấy kiến thức, tri thức và làm chủ được kiến thức đó có nghĩa là tự học và tự chủ. Năng lực tự học đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao. Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian không nhiều khi học ở nhà trường. Tự học giúp tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người bởi lẽ nó là kết quả của sự hứng thú, sự tìm tòi, nghiên cứu và lựa chọn. Như vậy năng lực tự chủ và tự học có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách của học sinh, đặc biệt năng lực này gần như là yếu tố quyết định đến kết quả học tập của học sinh, giúp người học tự tin hơn, làm chủ quá trình học tập của chính bản thân mà không còn bị động, phụ thuộc trong quá trình khám phá tri thức. Nó được xem là nhóm năng lực quan trọng nhất đối với học sinh. Việc tăng cường ý thức, rèn luyện năng lực tự chủ và tự học để học sinh thích ứng với mọi điều kiện càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. 1.2. Mục tiêu của việc giáo dục kĩ năng sử dụng thiết bị số trong môi trường số đối với học sinh Sử dụng thiết bị số trong môi trường số (hay còn gọi là năng lực số) là đề cập đến kiến thức, kỹ năng và thái độ cho phép trẻ sử dụng các thiết bị số nhằm phát triển và phát huy tối đa khả năng trong thế giới công nghệ số ngày càng lớn mạnh trên phạm vi toàn cầu, một thế giới mà trẻ vừa được an toàn, vừa được trao quyền theo cách phù hợp với lứa tuổi cũng như phù hợp với văn hóa và bối cảnh địa phương (khái niệm năng lực số của UNICEF – 2019). Việc giáo dục kĩ năng sử dụng thiết bị số trong môi trường số đối với học sinh nhằm định hướng phát triển các kĩ năng tìm kiếm, đánh giá, quản lý được thông tin; giao tiếp, hợp tác, giải quyết các vấn đề an toàn, hiệu quả trong môi trường số. Đồng thời hướng dẫn giáo viên và các nhà quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục, gia đình, tổ chức xã hội xây dựng kế hoạch phát triển năng lực số cho học sinh. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số - Môi trường xã hội của học sinh: Cơ sở hạ tầng hạn chế (như điều kiện kết nối Internet khó khăn và tỷ lệ hộ gia đình có máy tính thấp), chi phí cao cho việc 9
  10. sử dụng hạ tầng CNTT-TT, chất lượng công nghệ thấp, hoặc không có nội dung trực tuyến bằng ngôn ngữ địa phương… đều dẫn đến sự lạc hậu về công nghệ. - Bối cảnh gia đình: là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến năng lực số của học sinh. Hiểu biết của cha mẹ về vai trò của CNTT-TT đối với tương lai của trẻ, các cuộc thảo luận về các cơ hội và rủi ro của Internet, các hoạt động truyền thông hàng ngày đối với trẻ, tất cả đã hình thành nên phương thức giáo dục trong đó trẻ hòa nhập xã hội bằng cách sử dụng phương tiện truyền thông số tại nhà. - Các nhà trường: Đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển các năng lực số bao gồm khả năng sáng tạo khi tích hợp công nghệ kỹ thuật số như một công cụ học tập tích cực. Vì chính nhà trường, nơi nuôi dưỡng cho trẻ không chỉ thời gian sử dụng thiết bị số mà còn nhận được sự hướng dẫn của thầy cô, cũng như khuyến khích trẻ tự tin hơn gia nhập môi trường số và có thể phát triển hết khả năng của mình. - Vai trò của tổ chức, cá nhân: Tham gia với vai trò khác nhau đều có thể giúp cho trẻ có cơ hội phát triển được kĩ năng của mình, nếu có sự hợp tác nhiều bên giúp trẻ tạo hệ sinh thái để phát triển năng lực số cho trẻ. - Vai trò của môn Tin học: Chương trình GDPT 2018 đưa môn Tin học vào cho trẻ từ lớp 3 những đổi mới hết sức hiện đại, cập nhật có vai trò rất lớn trong việc hình thành năng lực số trong thời gian tới. - Năng lực số bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi việc sử dụng hơn là tiếp cận. Việc tiếp cận giúp cho mỗi đối tượng tham gia vào môi trường số. Nghĩa là việc có được thiết bị số không đảm bảo rằng nó sẽ được sử dụng trong thực tế. - Điều quan trọng không phải là thời gian ngồi trước các thiết bị số mà là việc khai thác hết các chức năng của thiết bị số, cả ở nhà và ở trường. - Năng lực số bị ảnh hưởng bởi số năm trẻ sử dụng máy tính: Càng sớm có năng lực số thì tác động càng lớn. - Hiểu và xử lý văn bản để phát triển các năng lực số cho các em. Cần tăng cường kỹ năng về ngôn ngữ viết cũng như khả năng đọc hiểu của học sinh, hiểu và xử lý văn bản để phát triển các kĩ năng số cho các em. - Việc giáo viên sử dụng CNTT-TT có mối tương quan tích cực với năng lực số của học sinh: nếu nhà trường muốn phát triển tốt nhất năng lực số của học sinh thì cần phải đầu tư vào đào tạo CNTT-TT cho giáo viên, đồng thời hỗ trợ tích hợp CNTT-TT vào chương trình giảng dạy (UNESCO 2017). Giáo viên cũng sẽ có khả năng đóng vai trò dẫn dắt trong việc tạo ra và triển khai tầm nhìn của trường học như một cộng đồng dựa vào sự đổi mới và học tập liên tục, là hình mẫu cho học sinh với sự khác nhau về độ tuổi, giới tính, mặt bằng ngôn ngữ và văn hóa xã hội sáng tạo tri thức của riêng mình. Giáo viên xây dựng cộng đồng học tập trong lớp học ở đó học sinh thường xuyên được tham gia phát 10
  11. triển các kỹ năng. Lúc này, các trường học được biến đổi thành các tổ chức học tập ở đó tất cả các thành viên được tham gia vào quá trình học tập. 1.4. Tác động của việc sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số đối với học sinh 1.4.1. Tác động tích cực Trong thời đại công nghệ 4.0 như hiện này, không thể phủ nhận mặt tích cực của việc sử dụng các thiết bị số khai thác thông tin trong môi trường số đối với học sinh. - Thay đổi phương thức học tập: Trong thời đại công nghệ 4.0 với lượng thông tin bùng nổ như hiện này thì ngoài việc tiếp thu kiến thức từ nhà trường, học sinh còn có thể tham gia các lớp học trực tuyến, các diễn đàn trao đổi thông tin, các nhóm chia sẻ kinh nghiệm… từ đó phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề, nâng cao hiệu quả học tập. Ngoài ra, học sinh có thể thực hiện các bài kiểm tra, đánh giá theo nhiều hình thức khác nhau, tại nhiều thời điểm khác nhau trên các hệ thống trực tuyến như LMS, SHUB, Azota, Quizizz, Kahoot… tạo điều kiện cho học sinh chủ động sắp xếp kế hoạch cá nhân trong học tập. - Tiếp nhận thông tin, học hỏi kiến thức và kỹ năng: Việc cập nhật thông tin trong một xã hội hiện đại như hiện nay là điều nên làm và cần phải làm, nó giúp chúng ta dễ dàng tìm hiểu, nắm bắt được nhiều thông tin quan trọng. Học hỏi thêm rất nhiều kiến thức, trau dồi những kĩ năng giúp cho bạn hoàn thiện bản thân mình hơn nữa. - Mang đến lợi ích về trí não: Việc sử dụng thiết bị số để tìm kiếm, chắt lọc thông tin trên môi trường số một cách hợp lý sẽ giúp não bộ được rèn luyện tốt hơn, nhanh nhạy hơn, tăng khả năng phán đoán, xử lí từ đó đưa ra các quyết định phù hợp. - Bày tỏ ý kiến cá nhân: Học sinh có thể sử dụng môi trường mạng để thể hiện các ý kiến, các quan điểm của bản thên về các sự việc xung quanh, từ đó giúp mọi người hiểu thêm về nhau. - Kết nối bạn bè: Chúng ta có thể biết được nhiều thông tin về bạn bè hoặc người thân bằng cách kết bạn trên mạng xã hội. Chúng ta cũng có thể gặp gỡ và giao lưu kết bạn với tất cả mọi người trên thế giới có cùng sở thích hay quan điểm giống mình. Từ đó có thể xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn hoặc hợp tác với nhau về nhiều mặt. - Giải phóng sức lao động: Thay vì chúng ta làm các báo cáo, tổng hợp thông tin một cách thủ công thì việc sử dụng các thiết bị số khai thác nguồn thông tin phong phú trong môi trường số sẽ rút ngắn thời gian, tăng hiệu quả làm việc. Ngoài ra, với môi trường số chúng ta có thể mua bán Online, thực hiện các giao dịch… bất kể khoảng cách địa lý nhằm giải phóng sức lao động. 11
  12. 1.4.2. Tác động tiêu cực Chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích mà thiết bị số, môi trường số đã mang đến cho con người hiện nay. Tuy nhiên, nó cũng chứa đựng nhiều nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn có thể ảnh hưởng xấu tới công việc, mối quan hệ cá nhân và cuộc sống của người sử dụng. - Tác động đến học tập: Hiện nay nhiều học sinh rất khó rời khỏi các thiết bị số. Thời gian các em sử dụng các thiết bị số trong ngày là rất lớn. Hiện tượng học sinh sử dụng điện thoại, máy tính bảng… trong giờ nghỉ trưa, trước khi đi ngủ, nửa đêm và thậm chí trong giờ học diễn ra nhiều. Bên cạnh đó, khi giáo viên muốn học sinh tư duy, động não để giải quyết một vấn đề thì từ sự sẵn có, cách tìm kiếm nhanh chóng của Google đã khiến các em dựa dẫm, ỷ lại, phụ thuộc vào những câu trả lời sẵn có. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả học tập của các em. - Tác động tới nhận thức, hành vi, tư tưởng, lối sống: Không phải tất cả các thông tin trên môi trường mạng đều là đúng. Một bộ phận học sinh khi làm việc trong môi trường mạng không kiểm soát được bản thân, không phân biệt được đúng sai, ngộ nhận những điều trên mạng là lẽ phải, là lý tưởng sống, sai lệch trong nhận thức từ đó có những hành vi, lối sống tiêu cực, thậm chí là vi phạm pháp luật. - Tác động tới các kĩ năng xã hội: Mất thời gian cho các thiết bị công nghệ có thể lấy đi sự bổ ích từ các hoạt động khác như học tập, tập thể dục, hoặc các hoạt động đội nhóm để nâng cao kỹ năng giao tiếp xã hội. Nhiều học sinh đang dành phần lớn thời gian chơi Game, xem phim, lướt mạng xã hội như Facebook, Tiktok,…và chỉ như đối thoại một mình. Vì vậy, các em dành rất ít thời gian để giao tiếp với các bạn đồng trang lứa hay bạn bè ở lớp. Nếu một học sinh có kỹ năng xã hội kém, học sinh đó sẽ cảm thấy rất khó để giao tiếp với mọi người, nhất là khi đang ở vào độ tuổi trưởng thành, và điều này có thể gây hại cho cuộc sống của các em trong thời gian dài. Những người sống tách biệt khó có thể hòa hợp với cuộc sống xã hội và trong nhiều trường hợp họ sẽ có cảm giác trầm cảm, cô đơn. Đến khi gặp phải khó khăn, các em không biết mở lòng, không tâm sự với ai mà chỉ nghĩ "quẫn" dẫn đến những hậu quả thật đáng tiếc. - Tác động tới sự phát triển thể chất, sức khỏe: Một nền giáo dục toàn diện, hoàn hảo sẽ giúp tăng cường cả về thể chất lẫn tinh thần cho học sinh. Việc sử dụng quá nhiều và tập trung quá mức vào các thiết bị số để truy cập vào Internet, chơi Game, xem phim, tham gia các trang mạng xã hội… có thể dẫn đến thói quen không lành mạnh, gây ức chế sự phát triển về thể chất, trí não, ảnh hưởng tới sức khỏe. 1.5. Những điều học sinh nên làm khi sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số Để tránh được các tác động tiêu cực như trên thì học sinh cần phải: 12
  13. Kiểm soát được thời gian sử dụng thiết bị số: Không sử dụng thiết bị số trong thời gian dài. Nếu cần sử dụng thiết bị để học tập thì sau 30-40 phút nên rời khỏi thiết bị, đứng dậy đi lại, vận động trong 5-10 phút rồi sau đó tiếp tục học. Biết cách bảo mật thông tin cá nhân: không chia sẻ thông tin cá nhân lên mạng. Tuyệt đối KHÔNG chia sẻ thông tin, hình ảnh nhạy cảm, tâm trạng riêng tư. Kiểm soát được mục tiêu, nội dung khi làm việc trên môi trường số: Cần xác đinh rõ mình sử dụng thiết bị số để làm gì? Với mục đích gì? Có tác dụng gì trong học tập, cuộc sống? Với các nội dung tiếp nhận được, cần có tư duy phản biện, thẩm định, đánh giá, phân tích, đối chiếu, so sánh… để khẳng định tính xác thực của thông tin từ các nguồn chính thống chứ không dễ dàng tin theo và lan tỏa thông tin đó khi chưa biết rõ mức độ tin cậy của thông tin. Kiềm chế, cân nhắc, suy nghĩ kỹ trước khi chia sẻ, bình luận một nội dung, hình ảnh, clip của người khác. Không nên a dua, có những bình luận ác ý, hay hành vi khiếm nhã khi tương tác trên không gian mạng, vì các hành động này có thể ảnh hưởng xấu, gây đau khổ cho bạn bè và những người khác. Kiểm soát các chương trình, trang thông tin, phần mềm ứng dụng khi sử dụng các thiết bị số. Không chia sẻ vị trí định vị của mình khi sử dụng các ứng dụng trên mạng. Cẩn trọng trước các đường link: Nếu không chắc chắn về nguồn gốc, độ tin cậy của liên kết thì không nên click vào, tránh việc nhiễm mã độc, bị lừa đảo hoặc bị đánh cắp thông tin cá nhân. 1.6. Các kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh khi sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số Như đã trình bày ở trên, trong thời đại ngày này, việc sử dụng thiết bị số làm việc trong môi trường số là điều không thể thiếu. Tuy nhiên, thiết bị số và môi trường số có những tác động tích cực, tiêu cực nhất định đối với học sinh. Muốn sau này trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước trong thời đại 4.0 các em cần học tập và rèn luyện để sớm hình thành các kỹ năng sau: Kỹ năng bảo mật thông tin cá nhân: Những thông tin như tên thật, tuổi, số điện thoại, trường lớp, địa chỉ nhà, ảnh cá nhân hay các loại mật khẩu là những thông tin cá nhân, cần được bảo mật, không nên chia sẻ những thông tin này trên mạng. Các em nên đặt bảo mật 2 lớp để tránh bị lấy cắp tài khoản phục vụ cho những mục đích xấu. Những bài đăng trên mạng cũng nên giới hạn người xem là bạn bè, để tránh sự nhòm ngó từ người lạ. Kỹ năng nghiên cứu độc lập, khả năng tự học: Đây là kỹ năng rất quan trọng bởi vì ngoài những kiến thức trên lớp do giáo viên truyền đạt, các em cần tham khảo, nghiên cứu tài liệu để tự nâng cao, hoàn thiện kiến thức của mình trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển rất nhanh hiện nay. Điều này sẽ giúp kể cả khi rời nhà trường các em cũng có thể tự học để nâng cao trình độ chuyên môn. 13
  14. Kỹ năng tư duy sáng tạo: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất. Bởi trong học tập, cuộc sống đều rất cần có khả năng sáng tạo để giải quyết các tình huống. Kỹ năng khai thác và sử dụng công nghệ thông tin: Rất nhiều nhà trường, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi số, quá trình này phụ thuộc phần lớn vào việc sử dụng, khai thác hệ thống CNTT. Do đó, học sinh cần phải thành thạo kỹ năng sử dụng các thiết bị số để có thể sử dụng, tương tác với môi trường số trong thời đại 4.0. Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin: Nhu cầu khám phá và tìm hiểu về những thứ xung quanh chúng ta luôn là vô hạn. Để phục vụ cho nhu cầu đó thì trau dồi những kỹ năng tìm kiếm thu thập thông tin là rất cần thiết. Trong quá trình chúng ta tìm kiếm không phải tất cả những thông tin mà chúng ta nhận được cũng đều đúng đắn. Mặt khác khối lượng thông tin mà chúng ta tìm được sau mỗi lần thắc mắc là “rất lớn”. Chính vì vậy mà lúc này con người lại cần đến một kỹ năng cũng quan trọng không kém đó là kỹ năng xử lý thông tin. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử trên môi trường số: Ngoài các kỹ năng giao tiếp truyền thống như đọc, nói và viết mạch lạc, rõ ràng thì các em học sinh cần bổ sung thêm kỹ năng giao tiếp trên mạng xã hội. Cần biết cách thông qua Internet để tiếp cận với nhiều người để thu thập và trao đổi thông tin. Trước khi bình luận, chia sẻ hay đăng tải bất cứ thông tin gì các em cần phải tìm hiểu và suy nghĩ kỹ vì những bài đăng trên mạng sẽ có nhiều người xem, đánh giá, bình luận. Bên cạnh đó, thông tin được đăng tải trên mạng xã hội không phải lúc nào cũng đúng. Có rất nhiều tin sai sự thật, tin kích động chống phá nhà nước,… được lan truyền trên mạng. Nếu không tìm hiểu kỹ thì các em có thể tin tưởng vào các nguồn tin sai trái, ảnh hưởng đến nhận thức, từ đó chia sẻ các bài viết, tiếp tay cho kẻ xấu lan truyền tin giả. Kỹ năng làm việc theo nhóm: Kỹ năng này rất cần thiết để học sinh có thể biết cách hợp tác, phối hợp để hoàn thành nhiệm vụ học tập và sớm hình thành tác phong cần thiết này khi làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức. Điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh các khóa học trực tuyến phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Bởi môi trường học tập trực tuyến, học sinh càng cần tăng cường làm việc nhóm để tăng hiệu quả công việc. Kỹ năng tư duy phản biện: Các thông tin trên môi trường mạng chưa hẳn đã đúng. Học sinh cần rèn luyện tư duy phản biện để phân tích, xử lí thông tin thu nhận được, cần biết cách lật ngược vẫn đề, biết cách đặt câu hỏi cho sự việc, từ đó phân biệt được đúng sai. Thông qua tranh biện, học sinh sẽ cải thiện được cả kỹ năng giao tiếp, lập luận, khả năng phân tích vấn đề, tư duy logic, sáng tạo… Kỹ năng quản lý thời gian: Một khi học sinh bước ra khỏi vùng an toàn để đến một môi trường mới, được tự do “bay nhảy”, chắc chắn sẽ khó thoát khỏi những cám dỗ, những cuộc vui, hay sự lười biếng của bản thân. Và điều đó sẽ ảnh 14
  15. hưởng rất nhiều đến việc học cũng như cuộc sống của các em. Tuy nhiên, để quản lý thời gian hiệu quả không phải là dành toàn bộ thời gian cho việc học hay hoàn thành một dự án nhanh chóng mà nó đánh giá dựa trên hiệu quả công việc đạt được và cách mà các em phân bổ thời gian hợp lý cho học tập, làm việc và cuộc sống cá nhân. Rèn luyện kỹ năng quản lý thời gian sẽ giúp các em phối hợp nhịp nhàng giữa học và chơi. 2. Cơ sở thực tiễn Hiện nay, học sinh sử dụng các thiết bị số như điện thoại thông minh, máy tính, máy tính bảng… tương đối nhiều. Việc học sinh sử dụng các thiết bị số làm việc trên môi trường số diễn ra thường xuyên. Nhưng một thực tế là kĩ năng về sử dụng các thiết bị số của học sinh lại chưa đúng, chưa hiệu quả, chưa biết khai thác những cái tích cực trên mạng xã hội mà nhiều khi do tính tò mò, hiếu kì các em lại bị các trang mạng không chính thống cuốn hút, lôi kéo… nên dễ mắc sai lầm. Các em chơi game giỏi, lướt Tiktok giỏi nhưng kĩ năng tìm kiếm thông tin phục vụ việc học tập và giải trí một cách hiệu quả và lành mạnh thì không nhiều. Các em có thể bảo vệ nhân vật trên game nhưng lại không thể bảo vệ mình khỏi cám dỗ của mạng, khỏi những hiện tượng lừa đảo… Đặc biệt Internet, mạng xã hội đang chiếm lĩnh giới trẻ với tốc độ chóng mặt, những trò chơi trực tuyến nhanh chóng tìm đuợc những tín đồ trung thành và cuồng nhiệt, những buổi tán gẫu thâu đêm, những chiêu trò câu like ngày càng phổ biến. Giới trẻ và sự mê đắm của họ trong Internet, mạng xã hội trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của xã hội hiện nay. Theo bà Tô Thụy Diễm Quyên, chuyên gia giáo dục toàn cầu, CEO Innedu STEAM cho rằng, hiện nay, học sinh chỉ cần một chiếc điện thoại là biết tất cả thông tin trên thế giới. Thách thức của chúng ta trong tương lai là công nghệ trí tuệ nhân tạo, robot sẽ thay thế con người. Dự đoán, năm 2030 gần một nửa công việc trên thế giới sẽ bị robot thay thế. “Do đó, trong số 10 học sinh ra trường thì 8 bạn phải giỏi về Công nghệ thông tin, nếu không các bạn sẽ bị đào thải. Nếu chỉ ôm điện thoại để chát chít, xem phim, chơi game thì sẽ tạo ra thách thức rất lớn. Việc kiểm soát công nghệ là chìa khóa cho tương lai. Việc sử dụng điện thoại thông minh hay ngu ngốc là do mỗi chúng ta”. Chính vì thế: Con người muốn sử dụng thiết bị thông minh thì mình phải thông minh hơn nó, làm chủ được nó chứ không để nó làm chủ mình. Nhưng dường như chúng ta đang "quá tin tưởng" hay đúng hơn là phó mặc cho khả năng tự tìm tòi của học sinh, cả bố mẹ và thầy cô chưa có sự định hướng đúng cho học sinh để các em tìm kiếm khai thác một cách đúng đắn, có hiệu quả. Nếu không được định hướng đúng đắn học sinh sẽ rất dễ có những nhận thức lệch lạc, sai lầm, ảnh hưởng lớn đến học tập và cuộc sống như: Tăng tình cảm ảo, xa rời tình cảm thật, lãng phí thời gian và sao nhãng học tập, làm việc, nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, giết chết sự sáng tạo, không trung thực và bạo lực trên mạng, mất ngủ… vì học sinh không chỉ học được kiến thức mà phải có khả năng vận dụng vào đời 15
  16. sống, hay các kĩ năng ứng phó với tệ nạn xã hội, lừa đảo mạng, khả năng ứng phó với virus, tin tặc... "Chẳng được ai hướng dẫn", đó là tình trạng chung của thanh thiếu niên hiện nay đối với CNTT nói chung và Internet nói riêng. Chúng ta thường nói nhiều tới tầm quan trọng của CNTT, nhu cầu nối mạng toàn cầu để hội nhập và phát triển, thậm chí coi việc giới trẻ ngày càng quan tâm và sử dụng Internet nhiều là một biểu hiện của sự nâng cao trình độ tin học và phát triển giáo dục. Nhưng dường như chúng ta chưa thực sự quan tâm đến việc hướng dẫn, rèn luyện kĩ năng tìm kiếm thông tin hữu ích cho học sinh, cách tra cứu, thu thập những thông tin, kiến thức liên quan phục vụ cho học tập và cuộc sống. Chính vì thế mà hiện nay, làm thế nào để học sinh sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số đạt hiệu quả, làm chủ thời gian, làm chủ được các kiến thức thu nhận được từ môi trường số luôn là trăn trở của phụ huynh và của tất cả các thầy cô giáo ở các cấp học và là nguyện vọng của các em học sinh hiện nay. II. Thực trạng sử dụng thiết bị số làm việc trong môi trường số của học sinh 1. Tổ chức điều tra 1.1. Mục đích điều tra - Tìm hiểu nhận thức và thực trạng hiện nay các em học sinh sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số có phù hợp về thời gian, cách thức và nội dung hay không. - Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. - Kết quả điều tra làm cơ sở cho việc đề xuất biện pháp giáo dục kĩ năng sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số một cách hiệu quả nhằm phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh. 1.2. Cách thức điều tra Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp điều tra như: - Phương pháp chuyên gia: tham khảo ý kiến giáo viên, phụ huynh về thời gian và cách thức, nội dung sử dụng thiết bị số làm việc trên môi trường số của học sinh khi ở lớp hay ở nhà, từ đó tiến hành xây dựng các phiếu điều tra. - Phương pháp quan sát: tập trung quan sát các biểu hiện của học sinh khi các em sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số đề từ đó có những biện pháp giúp các em làm việc trên môi trường số hiệu quả hơn. - Phương pháp điều tra bằng phiếu điều tra: thu thập thông tin về thời gian, cách thức và hiệu quả của việc học sinh sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số. Phiếu điều tra được thể hiện ở Phụ lục 1 và Phụ lục 2. 16
  17. 1.3. Mẫu điều tra Để tìm hiểu thực trạng việc học sinh sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số, chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát 60 giáo viên, 327 phụ huynh và 945 học sinh của trường THPT Quỳ Hợp. 2. Kết quả điều tra 2.1. Kết quả điều tra giáo viên, phụ huynh 2.1.1 Sự cần thiết của việc sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số đối với học sinh Kết quả khảo sát cho thấy, đa số giáo viên, phụ huynh (82.1%) đều nhận thấy sự cần thiết nên cho học sinh sử dụng thiết bị số làm việc trong môi trường số để các em thu nhập thông tin, học tập tìm kiếm kiến thức, trao đổi giao lưu với bạn bè, người thân, giải trí… 2.1.2 Có nên quản lý hay để học sinh tự do sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số Kết quả khảo sát cho thấy, việc để học sinh sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số vẫn nên cần có sự quản lý từ thầy cô và phụ huynh để giám sát định hướng cho các em sử dụng đúng mục đích, thời gian (84%)… Bên cạnh đó thì 17
  18. một số phụ huynh, thầy cô (16%) còn cho rằng các cháu đã lớn, cũng không nên quản lý mà để các cháu tự làm chủ thiết bị của mình. 2.1.3. Có thường xuyên kiểm tra hiệu quả của việc sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số của học sinh hay không Qua kết quả điều tra thì thấy có 44% thầy cô, phụ huynh đã quan tâm đến việc sử dụng thiết bị số làm việc trong môi trường số của học sinh và con/em mình. Có đến 56% thầy cô, phụ huynh ít quan tâm về việc này. Vấn đề là ở đây thầy cô/phụ huynh mới kiếm soát được thời gian sử dụng chứ chưa quản lý được việc các em sử dụng thế nào cho có hiệu quả. 2.1.4. Sự cần thiết phải rèn luyện kỹ năng tự chủ và tự học cho học sinh khi sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số Có 52% giáo viên và phụ huynh thấy được sự cần thiết phải rèn luyện cho học sinh kỹ năng tự chủ và tự học khi sử dụng thiết bị số làm việc trong môi trường số một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên vẫn có 8% nhận thấy việc này là không cần thiết. 18
  19. 2.2. Kết quả điều tra học sinh. Khi sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số, chủ yếu các em sử dụng vào mục đích vui chơi, giải trí, xem phim (87%), tạo thêm mối quan hệ bạn bè (56%) còn phục vụ cho việc học tập tìm kiếm thông tin rất ít (24%)… Thời gian sử dụng các thiết bị số cũng chiếm rất nhiều thời gian của các em: Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình học tập, sức khỏe cũng như các hoạt động khác của các em, dễ tạo nên sự trầm cảm, xa rời thực tế và rơi vào “sống ảo”. Các em sử dụng thiết bị số nhiều, truy cập môi trường số nhiều nhưng các em chưa có kỹ năng, bản lĩnh tự chủ nên nhận thức về những mặt tiêu cực trong môi trường số còn rất hạn chế, rất dễ bị các trang mạng không chính thống lôi kéo tham gia vào các tệ nạn, tật xấu… Qua khảo sát thực tế, nhận thấy các em chưa nhận thức được việc sử dụng mạng xã hội quá nhiều ảnh hưởng như thế nào đến tư tưởng, lối sống của mình như: Các em bắt chước hình tượng của mình trên mạng xã hội (đã được gọt rửa, trau chuốt) để thể hiện bản thân (82,2%), coi các hành vi, lời nói, hành động trên mạng là lý tưởng sống mà đang xa rời thực tế, ngồi với bạn nhưng lại ôm điện thoại để chát, chuyện trò với những người ở nơi khác (77,8%%) 19
  20. thích sống trong thế giới ảo hơn là thế giới thực, một số em còn tin vào tất cả những gì tiếp nhận được từ mạng xã hội, điều này rất đáng lo ngại… 3. Thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân của thực trạng Việc sử dụng thiết bị số mang lại nhiều thuận lợi: Người học hoàn toàn có thể tự học và lựa chọn thông tin phù hợp để phát triển nhận thức của bản thân. Người học có điều kiện kèm theo thế chủ động tiếp xúc với những nguồn tài liệu đồ sộ, đa chiều trong học liệu số. Cơ hội này cũng tạo thử thách cho người học đứng trước những lựa chọn, sàng lọc những kiến thức và kỹ năng, tài liệu, hoạt động giải trí phù hợp với tiềm năng học tập. Thách thức đó cũng chính là thời cơ để người học hình thành, phát triển phẩm chất, nghĩa vụ và trách nhiệm, năng lực tự chủ và tự học. Sử dụng các thiết bị số làm việc trong môi trường số hiện nay được xem là hình thức, phương thức nhằm kết nối mọi người, cộng đồng, gia đình, bạn bè lại với nhau, giúp thu hẹp khoảng cách địa lý cùng nhiều lợi ích khác như trao đổi công việc, học tập; tìm kiếm thông tin; giải trí sau những giờ học tập căng thẳng, cải thiện kỹ năng sống, bày tỏ và kiểm soát cảm xúc, khuyến khích, phát huy tài năng... góp phần làm phong phú những hình thức tương tác trong hoạt động giải trí của học sinh: tương tác giữa học sinh – học sinh, học sinh – giáo viên. Các tương tác này tạo cơ hội phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác bên cạnh những phẩm chất và năng lực đã được đưa ra trong chương trình GDPT 2018. Với học sinh hiện nay, gần như 80-90% các em có các thiết bị số để dùng đặc biệt là điện thoại di động, máy tính bàn, Ipad có kết nối internet có thể làm việc trên môi trường số. Mạng Wifi phủ sóng khắp nơi nên học sinh dễ dàng dùng thiết bị số để truy cập và làm việc trong môi trường số theo mục đích, nhu cầu của mình. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn: Các em đang độ tuổi mới lớn, sự tò mò thích khám phá nhiều nên tất cả những thông tin được cập nhật trong môi trường số các em đều muốn tìm hiểu, xem và truy cập. Tuy nhiên thông tin trên không gian số thật giả lẫn lộn rất khó phân biệt, các trò chơi, trang giải trí nhiều, hấp dẫn, lôi cuốn các em… Các em thiếu sự quản lý, định hướng và chỉ dẫn từ bố mẹ và thầy cô để sử dụng các thiết bị số trong môi trường số một cách đúng đắn. Không thể phủ nhận việc sử dụng thiết bị số làm việc trong môi trường số của các em học sinh hiện nay đem lại rất nhiều mặt tích cực, nhưng bên cạnh đó còn có rất nhiều em hay bị sao nhãng giữa việc dùng thiết bị số với việc học tập, làm việc. Điều đó khiến cho các bậc cha mẹ học sinh lo ngại về tần suất sử dụng dùng thiết bị số của con mình sẽ ảnh hưởng đến việc học. Đáng báo động hơn là một bộ phận giới trẻ bị đắm chìm trong cộng đồng mạng, mọi sự việc diễn ra trong ngày đều đăng lên mạng, xảy ra các xung đột, mâu thuẫn cũng vì mạng dẫn đến 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2