Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và phát huy tính sáng tạo của học sinh thông qua dạy học dự án bài Vật liệu polime – Hóa học 12
lượt xem 2
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là nghiên cứu về vật liệu polime và tầm quan trọng của vật liệu polime trong đời sống của con người. Bằng những kiến thức hóa học hiểu được những tác động của nó đối với môi trường sống. Nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của việc sử dụng thiếu hợp lý nguồn năng lượng. Từ đó đưa ra giải pháp của vấn đề sử dụng vật liệu polime trong cuộc sống.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và phát huy tính sáng tạo của học sinh thông qua dạy học dự án bài Vật liệu polime – Hóa học 12
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ĐẶNG THAI MAI -------------------------- SÁNG KIẾN GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC DỰ ÁN BÀI “VẬT LIỆU POLIME” – HÓA HỌC 12 Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hằng Bộ môn: Hóa học Đơn vị : Trường THPT Đặng Thai Mai Tổ : Tự nhiên Năm thực hiện: 2021 Điện thoại: 0942698025
- MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG PHẦN I: ÐẶT VẤN ÐỀ 1 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1 II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI. 2 1. Mục tiêu 2 2. Nhiệm vụ 2 III. THỜI GIAN, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. 2 1. Thời gian nghiên cứu 2 2. Đối tượng nghiên cứu 2 3. Phạm vi nghiên cứu 3 IV. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI. 3 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 3 II. CƠ SỞ THỰC TIỄN. 4 III. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 4 1. Những hạn chế của hoạt động đổi mới phương pháp dạy học. 4 2. Thực trạng học tập môn hóa học của học sinh 5 3. Thực trạng tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo ở trường 6 THPT. IV. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG 7 1. Về phía Giáo viên 7 2. Về phía học sinh 8 V. NỘI DUNG BÀI HỌC 9 VI. MỘT SỐ CÂU HỎI VỀ MÔI TRƯỜNG. 43 VII. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 45 1. Đối tượng dạy học 45
- 2. Một số hình ảnh hoạt động của các nhóm 45 3. Kết quả khảo sát thăm dò ý kiến 47 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 48 1. Kết luận 48 2. Khuyến nghị 48 PHỤ LỤC 1 50 PHỤ LỤC 2 51
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ngày nay, với thành tựu của các ngành khoa học, nhu cầu cuộc sống con người càng cao. Trong khi đó do tác động của điều kiện tự nhiên, biến đổi khí hậu, kim loại bị ăn mòn đi nhiều, nguồn khoáng sản ngày càng cạn kiệt, do đó, việc đi tìm nguồn nguyên liệu thay thế là rất cần thiết. Vật liệu polime đang được chú ý do những tính năng cơ lí rất cao. Vật liệu polime với sự phong phú về chủng loại và đa dạng về tính chất đã có mặt khắp mọi lĩnh vực của cuộc sống. Có thể nói, trong cuộc sống con người hiện nay từ ăn mặc đến chỗ ở, phương tiện đi lại đều không thể tách rời vật liệu polime. Polime có nhiều ứng dụng quan trọng trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề của cuộc sống như: • Sản xuất đồ gia dụng: bạn có thể nhận thấy rõ ràng rất nhiều đồ gia dụng sử dụng trong nhà bạn được làm từ nhựa polime như rổ, chai lọ, áo mưa, ống dẫn điện, ống dẫn nước... • Lĩnh vực công nghiệp: các sản phẩm công nghiệp cũng sử dụng rất nhiều nhựa polime như quá trình sản xuất ô tô, máy bay... • Lĩnh vực thời trang: rất nhiều các loại quần áo hiện nay có pha một phần hoặc hoàn toàn làm từ polime, các túi xách cũng được sử dụng nhiều polime bởi khả năng chống nước và độ bền mà nó mang lại. Mặc dù chúng có những ứng dụng, vai trò quan trọng là thế, thế nhưng cũng để lại nhiều tác động xấu đến với môi trường, con người như : • Quá trình để sản xuất polime sẽ tạo ra khí CO2 làm tăng hiệu ứng nhà kính, gia tăng sự biến đổi khí hậu và kèm theo các hệ lụy tới môi trường sống như: nước biển dâng cao, hạn hán, lũ lụt… • Tác động xấu đến sức khỏe của con người: Vì các chất phụ gia được thêm vào sản phẩm để tạo nên các polime nhân tạo có thể gây tổn thương và làm thoái hóa thần kinh ngoại biên, làm tổn thương các cơ quan sinh dục nam... • Sự tồn tại của polime trong đất và nước sẽ ngăn cản quá trình trao đổi oxy làm xói mòn, sạt lở đất, không giữ được chất dinh dưỡng gây cây cối sinh trưởng không tốt, sinh vật biển có thể bị chết do ăn phải chất thải,… • Các polime ở dưới dạng bao bì plactic sẽ gây tắc nghẽn cống, kênh rạch và ao hồ, gây ứ đọng nước và gây ô nhiễm môi trường. • Nếu bạn đốt những sản phẩm polime sẽ gây độc cho sức khỏe và gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. • Những dạng phế thải từ nhựa nhiệt dẻo như polietilen, polipropilen, polistiren, polivinyl clorua, polimetylmetacrylat hay các sản phẩm từ nhựa nhiệt rắn như epoxi, polieste không no, poliuretan và các chế phẩm từ cao su khi bị thải ra [Type text] Page 1
- ảnh hưởng nặng nề đến môi trường do chúng tồn tại trong đất thời gian khá lâu rất khó phân hủy. Nếu đem chôn lấp vừa tốn diện tích đất vừa gây ô nhiễm cho nguồn nước và đất. Nếu dùng phương pháp đốt cũng tốn kém và còn gây ô nhiễm môi trường do khói bụi, làm suy giảm tầng ozon và sinh ra các chất độc hại hữu cơ khó phân hủy. Nếu dùng phương pháp tái sinh thì cũng thu được sản phẩm có chất lượng không cao, mà giá thành lại không phải là thấp. Bên cạnh đó, con người lại đang sử dụng các loại vật liệu thông dụng này chưa thật sự tiết kiệm, an toàn và có trách nhiệm, thậm chí là bừa bãi. Chính điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường, đến sự phát triển của xã hội. Hóa học là nghành khoa học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên. Hóa học có sự kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực nghiệm. Hóa học đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, sản xuất, góp phần lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội. Là một trong những môn học có giá trị thực tiễn cao nhất, hóa học hiện diện ở mọi ngóc ngách trong cuộc sống. Hầu như mỗi vật dụng nào chúng ta đang sử dụng đều là kết quả của hóa học. Từ những món ăn hằng ngày, đồ dùng học tập, thuốc chữa bệnh, đến các hương thơm dịu nhẹ của nước hoa, mỹ phẩm, dược phẩm... đều là sản phẩm của hóa học. Hóa học được mệnh danh là “khoa học trung tâm của các nghành khoa học”. Vì có rất nhiều nghành khoa học khác đều lấy hóa học làm cơ sở nền tảng phát triển như: vật lí học, sinh học, hay khoa học tội phạm, là cầu nối các nghành khoa học tự nhiên khác như vật lí, sinh học, y dược và địa chất học...Hóa học còn là cơ sở cho nhiều nghành công nghiệp khác phát triển như: công nghiệp, điện tử, luyện kim, dược phẩm,...Từ hàng ngàn năm trước hóa học đã xuất hiện với cái tên vô cùng thú vị “Giả kim thuật”. Giả kim thuật do những nhà giả kim xa xưa nghiên cứu kim loại. Với mục đích lớn nhất là biến đổi những chất bình thường, giá thành rẻ thành những chất kim loại quý hiếm như vàng. Hóa học hiện diện khắp nơi trong cuộc sống, qua đó thấy được vai trò vô cùng quan trọng của bộ môn hóa học. Ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, lao động của con người hiện đại càng nhẹ nhàng hơn, năng suất lao động cao hơn, sản phẩm hàng hóa nhiều hơn phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của con người ngày càng đa dạng. Song trong công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, quá trình sản xuất của con người cũng làm đã cho môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên bị tàn phá nghiêm trọng, thời tiết khí hậu bất thường … Nhân loại đang đứng trước những nguy cơ tiềm ẩn đe doạ cuộc sống như: bệnh tật hiểm nghèo, ảnh hưởng tới tuổi thọ và chất lượng cuộc sống. Vì vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay không chỉ đòi hỏi sự quan tâm của một quốc gia, vùng lãnh thổ nào mà là vấn đề quan trọng, cấp thiết của toàn nhân loại. Điều này đã được khẳng định tại Hội nghị của Liên hiệp quốc về “Môi trường và phát triển” họp ở Riô- Đgia nêrô ngày 14/3/2002. Theo báo cáo của Bộ tài nguyên và môi trường, thực trạng môi trường nước ta hiện nay là: Ô nhiễm nước, không khí và đất xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều [Type text] Page 2
- vấn đề vệ sinh môi trường đã phát sinh cả ở thành thị và nông thôn. Môi trường bắt đầu ô nhiễm, trước hết là do khai thác dầu. Các sự cố môi trường như bão lụt, hạn hán ngày càng tăng lên. Môi trường bị ô nhiễm là do ý thức bảo vệ môi trường của con người còn kém. Hơn nữa do dân số nước ta tăng nhanh và tập trung quá đông vào các đô thị lớn nên tình trạng ô nhiễm không khí, nguồn nước ngày càng trầm trọng. Điều quan trọng là tình trạng ô nhiễm môi trường đang trực tiếp ảnh hưởng xấu đến đời sống và sức khoẻ của con người. Các căn bệnh hiểm nghèo như: ung thư, dịch tiêu chảy cấp, bệnh ngoài da đều có nguyên nhân bắt nguồn từ môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề. Chính vì vậy việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho con người, đặc biệt là học sinh vô cùng quan trọng, đòi hỏi không chỉ nhà trường mà toàn xã hội cần quan tâm thực hiện. Ở cấp học THPT, nội dung giáo dục môi trường phải được coi là nội dung chính thống, có hệ thống, có chất lượng và phải hiệu quả. Cần phải giúp các em tự mình chiếm lĩnh được tri thức, kỹ năng và tự thân các học sinh xác định được thái độ phải đối xử đúng đắn với thiên nhiên như chính ngôi nhà của mình. Việc giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, đặc biệt là với bộ môn có mối liên hệ chặt chẽ đời sống và thực tiễn như bộ môn hóa học thì việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho các thế hệ học sinh lại cần được chú trọng hơn nữa. Ngày nay, dạy học phát triển phẩm chất, năng lực đang trở nên phổ biến trên thế giới. Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực thể hiện sự quan tâm tới việc người học làm được gì sau quá trình đào tạo chứ không thuần túy là chỉ biết được gì; quan tâm tới người dạy sẽ dạy như thế nào để hình thành phẩm chất, năng lực của người học chứ không phải chỉ là dạy nội dung gì cho người học với mong muốn người học biết càng nhiều, càng sâu. Dạy học hiện đại đặt ra hàng loạt các yêu cầu đối với các thành tố của hoạt động dạy học, trong đó đặc biệt lưu tâm đến PPDH phát triển phẩm chất, năng lực cho người học. Xu hướng hiện đại được hiểu là khuynh hướng, chiều hướng mang tính mới, tiên tiến. Xu hướng hiện đại về PP, KTDH phát triển phẩm chất, năng lực được xem xét là chiều hướng lựa chọn và sử dụng các PP, KTDH mới, tiên tiến nhằm phát triển phẩm chất, năng lực. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Việc lựa chọn được các PPDH và KTDH phù hợp với khả năng của HS, của GV; tính chất của hoạt động cụ thể trong kế hoạch dạy học, điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, địa phương nhằm đạt được mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực đã đề ra là hết sức quan trọng. Định hướng chung của Bộ Giáo Dục về phương pháp dạy học, giáo dục đảm bảo các tiêu chí sau: • Tích hợp, lồng ghép nội dung lý thuyết trong thực hành, thảo luận; kết hợp liên hệ kiến thức, kĩ năng của môn công nghệ với kiến thức, kĩ năng của các môn học, hoạt động giáo dục khác một cách phù hợp, thiết thực. • Chú trọng dạy học trải nghiệm; vận dụng linh hoạt các PP, KT dạy học và hình thức tổ chức, không gian hoạt động, học tập, tạo cơ hội để học sinh rèn luyện kĩ [Type text] Page 3
- năng, vận dụng kiến thức thông qua các chủ đề, nội dung thực tế vào thực hành, vận dụng kiến thức vào tình huống thực tế cuộc sống. • Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tạo điều kiện để học sinh tự tìm hiểu, mở rộng tri thức, tiếp tục phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết của học sinh THPT. • Khai thác, sử dụng hợp lí thiết bị dạy học, mạng internet; tận dụng các chất liệu, vật liệu sẵn có ở địa phương. Nhận thấy trong giai đoạn hiện nay, nhiều học sinh còn lười học, chưa có tính tự giác. Đa số các em học sinh còn tiếp thu kiến thức một cách thụ động, chưa có niềm đam mê đối với môn học và tính sáng tạo trong học tập của các em còn bị hạn chế. Vì vậy, việc sử dụng các PP, KT dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh là hết sức cần thiết. Và một trong các phương pháp mang lại tính hiệu quả cao của việc phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đó là phương pháp “Dạy học dựa trên dự án” hay còn gọi là “Dạy học dự án”. Dạy học dựa trên dự án là cách thức tổ chức dạy học, trong đó học sinh thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, trong đó có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu, trình bày. Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi xin được chia sẻ đề tài : “Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và phát huy tính sáng tạo của học sinh thông qua dạy học dự án bài “Vật liệu polime”” – Hóa học 12. II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI. 1. Mục tiêu Nghiên cứu về vật liệu polime và tầm quan trọng của vật liệu polime trong đời sống của con người. Bằng những kiến thức hóa học hiểu được những tác động của nó đối với môi trường sống. Nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của việc sử dụng thiếu hợp lý nguồn năng lượng. Từ đó đưa ra giải pháp của vấn đề sử dụng vật liệu polime trong cuộc sống. 2. Nhiệm vụ Nghiên cứu các nội dung cơ sở lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài. Tìm hiểu thực trạng về tính chủ động, tích cực trong việc lĩnh hội kiến thức môn hóa học cũng như khả năng tư duy sáng tạo, vận dụng kiến thức đã học được vào thực tiễn đời sống của học sinh. Tìm hiểu khái niệm, điều kiện sử dụng, các giai đoạn của phương pháp dạy học dựa trên dự án, cũng như ý nghĩa của nó trong việc phát triển phẩm chất chủ yếu và năng lực của học sinh. Sử dụng việc dạy học dự án vào bài dạy và các phương pháp dạy học tích cực như: tích hợp liên môn, hợp tác nhóm nhỏ, dạy học STEAM…vào bài dạy [Type text] Page 4
- “Vật liệu polime” nhằm tạo sự hứng thú, sinh động trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Và quan trọng hơn nữa là qua đó giúp cho học sinh phát huy được tính sáng tạo, có ý thức bảo vệ môi trường và tái sử dụng các vật liệu phế thải. Thực nghiệm sư phạm để nghiên cứu hiệu quả của giáo án đã xây dựng và khả năng áp dụng vào quá trình dạy học, rút ra kết luận, giúp học sinh THPT phát triển năng lực sáng tạo và hình thành thái độ, hành vi đúng đắn trong hoạt động nhận thức cũng như trong đời sống xã hội. III. THỜI GIAN, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. 1. Thời gian: Đề tài được thực hiện nghiên cứu và áp dụng trên đối tượng học sinh kéo dài 2 tuần. 2. Đối tượng nghiên cứu: Ý thức bảo vệ môi trường, tính sáng tạo của học sinh lớp 12 sau khi học bài “Vật liệu polime”. 3. Phạm vi nghiên cứu: Dạy học dự án bài “Vật liệu polime” – Hóa học 12. Tích hợp các môn học: vật lí, địa lý, công nghệ, giáo dục công dân trong dạy bài “Vật liệu polime” – Hóa học 12. Ý thức, trách nhiệm của học sinh đối với việc bảo vệ môi trường sống cũng như tính sáng tạo của các em trong việc tái chế vật liệu polime thành những vật liệu hữu ích. IV. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI. Về mặt lí luận: Góp phần làm sáng tỏ tác dụng của việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, đặc biệt là phương pháp dạy học “Dựa trên dự án” và tích hợp liên môn vào bài dạy trong việc phát triển khả năng sáng tạo và hứng thú học tập cho học sinh. Về mặt thực tiễn: Thiết kế giáo án một bài dạy cụ thể với việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực như: dạy học dự án, phương pháp đóng vai, hợp tác nhóm nhỏ, dạy học STEAM…; kết hợp với tích hợp liên môn và hệ thống câu hỏi bài tập có nội dung liên quan đến vật liệu polime, hiểu biết về các vật liệu polime. Từ đó thúc đẩy học sinh có ý thức bảo vệ môi trường, tuyên truyền, hướng dẫn cộng đồng sử dụng vật liệu polime an toàn, tiết kiệm, hiệu quả, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đồng thời phát huy được tính tích cực sáng tạo của học sinh thông qua việc tái chế vật liệu polime. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. CƠ SỞ LÝ LUẬN - Về thực trạng học tập bộ môn Hoá học của học sinh ở các trường THPT: đa số HS đang học tập mang tính đối phó, chưa thực sự hứng thú với môn học. [Type text] Page 5
- Hóa học là bộ môn khoa học gắn liền với tự nhiên, đi cùng đời sống của con người. Việc học tốt bộ môn hóa học trong nhà trường sẽ giúp học sinh hiểu được rõ về cuộc sống, những biến đổi vật chất trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy việc hiểu biết về hoá chất và nắm được những tính chất của chất giúp chúng ta biết vận dụng để giải các bài tập, xử lí các tình huống diễn ra trong tự nhiên và sử dụng hoá chất đúng cách, hiểu được tầm quan trọng của hoá chất để ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống con người. Từ những hiểu biết này giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của Tổ quốc, đồng thời biết làm những việc bảo vệ môi trường sống trước những hiểm họa về môi trường do con người gây ra trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm tạo dựng một cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Mặc dầu là bộ môn được coi là khó đối với học sinh, nhưng nếu tạo cho học sinh hứng thú khi học bài trên lớp... thì việc học môn hóa học lại trở nên nhẹ nhàng, bằng cách cho học sinh nắm chắc các kiến thức cơ bản, sát với thực tế đời sống, sản xuất, đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của nhu cầu lao động sản xuất và tiếp tục học lên cao của học sinh. Vì vậy, người giáo viên đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong chất lượng giảng dạy nói chung, trong giảng dạy bộ môn hóa học nói riêng. - Về phương pháp dạy học(PPDH) tích cực hiện nay tại các trường THPT; vai tò của PPDH tích cực trong dạy học. PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học . “Tích cực” trong PPDH tích cực được dùng với nghĩa tức là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chữ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Trên thực tiễn, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Phê chuẩn hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải hăng hái chủ động cải biến chính mình về tri thức, năng lực, thái độ hoài nghi, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Bởi vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có biện pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế. Như vậy, khi đã chú trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì dĩ nhiên phải phát huy tính hăng hái chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy học lấy học trò làm trọng tâm không phải là một biện pháp dạy học cụ thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục đích, nội [Type text] Page 6
- dung, biện pháp, công cụ, tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến biện pháp dạy và học. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng trái lại thói thường học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng thầy giáo chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp thầy giáo tích cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích nghi, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế, thầy giáo phải bền chí dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp ăn nhịp hoạt động dạy với hoạt động học thì mới hiệu quả. Như vậy, việc dùng thuật ngữ “Dạy và học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN. - Vai trò của bộ môn hóa học trong việc hình thành và phát triển trí dục học sinh. Hóa học là nghành khoa học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, nghiên cứu về thành phần, cấu trúc, tính chất và sự biến đổi của các đơn chất và hợp chất. Hóa học có sự kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực nghiệm, là cầu nối các nghành khoa học tự nhiên khác như vật lí, sinh học, y dược, địa chất học. Những tiến bộ trong lĩnh vực hóa học gắn liền với sự phát triển của những phát hiện mới trong các lĩnh vực của các nghành sinh học, y học và vật lý. Hóa học đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, sản xuất, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội. Những thành tựu của hóa học được ứng dụng vào các nghành vật liệu, năng lượng, y dược, công nghệ sinh học, nông - lâm – ngư nghiệp và nhiều lĩnh vực khác. Trong chương trình giáo dục phổ thông, Hoá học là môn học thuộc giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp ở cấp THPT, được học sinh lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân. Môn Hoá học giúp học sinh có được những tri thức cốt lõi về hoá học và ứng dụng những tri thức này vào cuộc sống, đồng thời có mối quan hệ với nhiều lĩnh vực giáo dục khác. - Ý nghĩa của hoạt động sáng tạo trong quá trình học tập của học sinh. Hoạt động TNST là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Việc hoạt động TNST xuất hiện như một nội dung mới trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã dành được sự quan tâm cũng như ý kiến từ dư luận. Hoạt động TNST không gọi là môn học mà là hoạt động giáo dục. Hoạt động TNST được xem là một bộ phận hữu cơ không thể thiếu trong quá trình giáo dục nói chung, quá trình dạy học nói riêng ở nhà trường phổ thông, góp phần thực hiện [Type text] Page 7
- các mục tiêu giáo dục đào tạo của nhà trường phổ thông. Một môi trường lớp học tốt luôn đòi hỏi phải có sự sáng tạo – điều khiến cho các bài học và công việc học tập trở nên thú vị. Yếu tố sáng tạo được tích hợp trong chương trình giảng dạy sẽ giúp học sinh học hỏi những điều mới, cải thiện năng lực giao tiếp và các kĩ năng cảm xúc và xã hội. Các lớp học sáng tạo sẽ làm thay đổi cách học sinh học tập và cách chúng áp dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống thực. Vai trò quan trọng của sự sáng tạo có thể thấy rõ thông qua những lợi ích thiết thực mà hoạt động giáo dục này mang lại như sau: • Giúp học sinh học với niềm vui: Hoạt động sáng tạo tạo cơ hội cho học sinh học tập trong niềm vui, giúp học sinh học tập mà không cảm thấy bị áp lực. • Tự do thể hiện quan điểm: Không giống như các phương pháp giảng dạy truyền thống, các lớp học sáng tạo cho học sinh cơ hội thể hiện bản thân. • Phát triển cảm xúc: Sự sáng tạo rất quan trọng đối với sự phát triển cảm xúc của học sinh. Học sinh phải học cách tương tác và thể hiện bản thân trước các bạn xung quanh. Khi học sinh có thể thể hiện cảm xúc thật của mình một cách sáng tạo trong lớp học, chúng sẽ cảm thấy tự tin hơn. • Tăng cường khả năng tư duy: Sáng tạo có thể kích thích khả năng tư duy tưởng tượng ở học sinh. Đó là lý do tại sao giáo viên thúc đẩy các hoạt động như câu hỏi mở, hoạt động nhóm, các buổi thảo luận, tranh biện. • Giảm căng thẳng và lo lắng: Việc học tập theo cách truyền thống sẽ khiến học sinh cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi. Sự sáng tạo, cảm giác vui vẻ này giúp học sinh thư giãn và giảm bớt sự lo lắng, từ đó chuẩn bị tốt cho các kỳ thi. • Tăng cường kỹ năng giải quyết vấn đề: Các hoạt động động não sẽ kích thích các kỹ năng giải quyết vấn đề ở học sinh. Sáng tạo thực sự có thể thay đổi cách học sinh tiếp cận một vấn đề, suy nghĩ sâu và giàu trí tưởng tượng hơn. • Cải thiện sự tập trung và sự chú ý: Các phương pháp giảng dạy truyền thống thường gây nhàm chán khiến học sinh cảm thấy buồn ngủ, mất tập trung. Các chiến lược giảng dạy sáng tạo sẽ cải thiện sự tập trung và sự chú ý của học sinh, từ đó khiến thời gian dành cho việc học trở nên hiệu quả hơn. • Giúp học sinh giao tiếp tốt hơn: Một môi trường lớp học sáng tạo mở ra cho học sinh một thế giới giao tiếp. Học sinh có thể thực hiện việc thảo luận cởi mở và chủ động. Điều này cũng kích thích kĩ năng giải quyết vấn đề trong nhóm và cảm giác gần gũi với nhau. • Theo đuổi theo đam mê: Việc tìm được điều là niềm đam mê và theo đuổi nó chính là yếu tố tạo nên thành công trong cuộc sống. Trong các lớp học sáng tạo, học sinh được học tập với các hoạt động học tập đa dạng dựa trên thế mạnh của người học. Học sinh có cơ hội theo đuổi niềm đam mê của bản thân, điều này mang lại học sinh cảm giác hạnh phúc, tự do và thoải mái để sáng tạo. [Type text] Page 8
- • Cơ hội trong tương lai: Những người sáng tạo thường có lợi thế hơn hẳn trong tương lai so với những người có kỹ năng học tập đơn thuần. Nhất là trong bối cảnh thế giới có những chuyển biến mạnh mẽ như ngày nay, kĩ năng sáng tạo sẽ giúp học sinh có khả năng thích ứng và khẳng định mình, tạo ra sự khác biệt của bản thân trong cuộc sống. Chính các lớp học sáng tạo là nơi nuôi dưỡng và chuẩn bị điều đó cho học sinh. • Tư duy đổi mới: Câu hỏi mở và thảo luận trong lớp là hai chiến lược giảng dạy sáng tạo phổ biến giúp học sinh phát triển tư duy đổi mới. Học sinh có cơ hội suy nghĩ nghiêm túc hơn các chủ đề và đưa ra những ý tưởng sáng tạo. • Thúc đẩy việc học tập suốt đời: Một người có tư duy sáng tạo luôn có mong muốn học những điều mới. Đó chính là kĩ năng học tập suốt đời. Nó giúp học sinh luôn tích cực tham gia vào các hoạt động học tập không chỉ trên lớp mà cả ngoài cuộc sống. Nói cách khác, chính các lớp học sáng tạo sẽ dạy học sinh các kĩ năng cần thiết của việc học tập suốt đời. Trong hai bài diễn thuyết trên TED talk, đó là “Liệu trằng trường học đã giết chết sự sáng tạo” và “Làm thế nào để có thể thoát khỏi thung lũng chết của giáo dục” Sir Ken Robinson đã nêu lên tầm quan trọng của sáng tạo trong nền giáo dục ngày nay. Để làm được điều đó, có lẽ chúng ta cần phải thực hiện rất nhiều công việc, nhưng trong đó quan trọng nhất vẫn là người giáo viên – người có thể tạo dựng được môi trường học tập sáng tạo – người thực hành các phương pháp giảng dạy sáng tạo – người là hình mẫu và truyền cảm hứng cho học sinh về sự sáng tạo. III. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 1. Những hạn chế của hoạt động đổi mới phương pháp dạy học. PPDH là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Để đổi mới PPDH, đòi hỏi người thầy không chỉ có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng mà còn phải tự mình vượt qua những thói quen đã ăn sâu, bám rễ (một số thầy cô giáo viên nhiều năm bám theo chương trình cũ, phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào nghiệp vụ sư phạm nên rất khó để dứt bỏ trong ngày một, ngày hai). Hoạt động đổi mới PPDH hiện nay có những thuận lợi và khó khăn như sau: * Thuận lợi: Các trường THPT hiện nay đã được trang bị máy vi tính và máy chiếu cơ bản đáp ứng được nhu cầu tối thiểu. Tại một số trường, giáo viên đã được học các lớp phổ cập tin học và được hướng dẫn cách soạn một bài giảng điện tử, cách thức ứng dụng các thiết bị hiện đại, CNTT vào quá trình dạy học. Kết quả, giáo viên đã biết ứng dụng CNTT và các thiết bị hiện đại vào việc soạn giảng và bước đầu đã mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng dạy học cũng như việc đổi mới PPDH. * Khó khăn: [Type text] Page 9
- Một trong những biểu hiện của việc đổi mới PPDH là chúng ta cần đa dạng hóa và vận dụng nhuần nhuyễn các hình thức học tập: Học sinh làm việc cá nhân, thảo luận nhóm, … Với cơ sở vật chất hiện nay – bàn ghế cố định - thì việc tổ chức thảo luận nhóm cũng gặp một số khó khăn trong quá trình di chuyển (với một số nước tiên tiến hoặc một số trường trong nước, mỗi bàn chỉ có một học sinh thì việc tổ chức thảo luận nhóm trong giờ dạy rất thuận tiện). Ứng dụng CNTT và các phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học là một trong các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đổi mới PPDH theo quan điểm hiện đại nhưng hiện tại vẫn còn một số giáo viên vì trình độ ứng dụng CNTT còn hạn chế, hoặc chưa sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đại nên còn lúng túng hoặc có tâm lí “e ngại” khi đổi mới PPDH. Mặt khác số lượng máy tính và máy chiếu ở nhiều trường còn chưa đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của GV và HS. Vì thế, tuy việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy đã đem lại hiệu quả cao nhưng mức độ ứng dụng trong nhà trường và bản thân giáo viên chưa cao, chưa rộng rãi và chưa thể trở thành một hệ thống ứng dụng đồng bộ trong môi trường giáo dục hiện nay. Với cách tổ chức thi cử - kiểm tra - đánh giá như hiện nay, một số bộ môn rất ngại thay đổi PPDH, muốn dạy khác đi cũng không được, buộc thầy cô một số bộ môn phải dạy cho học sinh cách học vẹt để vào phòng thi dễ kiếm điểm, để đỗ đạt. Bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được, việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá ở trường trung học phổ thông vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Cụ thể là: Hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông chưa mang lại hiệu quả cao. Truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Hoạt động kiểm tra đánh giá chưa bảo đảm yêu cầu khách quan, chính xác, công bằng; việc kiểm tra chủ yếu chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức và đánh giá qua điểm số đã dẫn đến tình trạng giáo viên và học sinh duy trì dạy học theo lối "đọc- chép" thuần túy, học sinh học tập thiên về ghi nhớ, ít quan tâm vận dụng kiến thức. Nhiều giáo viên chưa vận dụng đúng quy trình biên soạn đề kiểm tra nên các bài kiểm tra còn nặng tính chủ quan của người dạy. Hoạt động kiểm tra đánh giá ngay trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học trên lớp chưa được quan tâm thực hiện một cách khoa học và hiệu quả. Các hoạt động đánh giá định kỳ, đánh giá diện rộng quốc gia, đánh giá quốc tế được tổ chức chưa thật sự đồng bộ hiệu quả. Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là không rèn luyện được tính trung thực trong thi, kiểm tra; nhiều học sinh phổ thông còn thụ động trong việc học tập; khả [Type text] Page 10
- năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế. 2. Thực trạng học tập môn hóa học của học sinh. Một thực tế cho thấy môn hoá học là một môn trừu tượng, kiến thức rộng, khô khan, học sinh khó tiếp thu, chỉ học trên sách vở mà ít quan tâm đến những hiện tượng, tự nhiên, ứng dụng thực tế, điều này làm cho các em mau quên kiến thức và dễ chán, cảm thấy kiến thức hoá học thật trừu tượng, khó hiểu dẫn đến không yêu thích bộ môn, học một cách thụ động không biết giải quyết những hiện tượng liên quan đến kiến thức hoá học diễn ra xung quanh, không biết ứng dụng kiến thức thực tiễn vào cuộc sống, ảnh hưởng đến vốn hiểu biết và kĩ năng sống của các em. Nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí, phù hợp với thế hệ học trò thì dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Thực trạng cho thấy với đặc thù của bộ môn, học sinh cảm thấy rất khó khăn trong vấn đề lĩnh hội và tiếp thu kiến thức, dẫn đến không yêu thích môn học , hoặc có tư tưởng chỉ học thuộc lòng những kiến thức trong sách vở để kiểm tra, thi cử chứ không phải học để hiểu biết, vận dụng vào thực tiễn đời sống nên việc tiếp thu kiến thức diễn ra một cách thụ động, hạn chế khả năng tư duy, sáng tạo, tầm nhìn, tầm hiểu biết kiến thức khoa học. Đặc điểm của bộ môn hóa là mang tính thực nghiệm cả về định tính và định lượng. Khái niệm hóa học luôn trừu tượng, khó hiểu, không quan sát bằng mắt thường được (như nguyên tử, phân tử…). Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng phần lớn học sinh học rất yếu về môn khoa học tự nhiên, trong đó có môn hóa học. * Thuận lợi: Được sự quan tâm của nhà trường, phân công giảng dạy đúng chuyên môn, được tham gia các lớp tập huấn chuyên môn do Sở GDĐT tổ chức. Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình trong công tác. Học sinh chấp hành khá tốt nội qui nhà trường, được trang bị đầy đủ SGK. Về cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố hóa; trường, lớp khang trang, thoáng mát, có trang thiết bị thực hành cơ bản đáp ứng nhu cầu tối thiểu, tạo điều kiện tốt cho việc học tập, sinh hoạt và vui chơi giải trí. * Khó khăn: a. Đối với giáo viên Do nhiều lý do nên giáo viên vẫn còn dạy học theo lối truyền thống, truyền thụ kiến thức theo lối một chiều, chưa mạnh dạn trong việc đổi mới PPDH. Một số giáo viên có ý thức đổi mới PPDH nhưng chỉ mang tính đối phó khi có thao giảng, dự giờ, kiểm tra. Một bộ phận giáo viên không tích cực đầu tư trong tiết dạy cũng như công tác soạn giảng, thậm chí còn sao chép giáo án của người khác hoặc tải trên mạng về điều chỉnh chút ít để làm giáo án của riêng mình và để đối phó; lên [Type text] Page 11
- lớp thiếu sự chuẩn bị phương tiện, đồ dùng dạy học dẫn đến tình trạng dạy chay, giờ học nhàm chán, thiếu thu hút, không gây được hứng thú cho học sinh. Trong quá trình dạy học còn nặng về truyền thụ lý thuyết, ít vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống, ít cho học sinh thực hành thí nghiệm mà chủ yếu là thí nghiệm biểu diễn của giáo viên. b. Đối với học sinh: Một bộ phận học sinh có ý thức tự học còn thấp, năng lực tiếp thu bài chưa tốt. Phương pháp học tập của học sinh chưa phù hợp với đặc thù bộ môn, thụ động trong học tập, tái hiện một cách máy móc rập khuôn những gì giáo viên giảng, lười suy nghĩ tìm tòi sáng tạo. Còn nhiều học sinh chưa chú tâm vào việc thực hiện hiệm vụ của giáo viên giao trên lớp, làm bài tập ở nhà, lười suy nghĩ, lười chép bài hoặc chép qua loa cho có lệ. Đa số học sinh không học bài cũ, không nghiên cứu bài mới trước khi đến lớp. Nhiều học sinh mất căn bản về kiến thức toán học nên khi gặp những bài toán khó có liên quan nhiều đến kiến thức toán học thì các em lại không làm bài được. Từ đó dẫn đến chất lượng học tập của các em thấp. Một bộ phận gia đình học sinh chưa quan tâm nhiều đến việc học tập của các em, thiếu sự phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục con em mình. 3. Thực trạng tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo ở trường THPT. Thực trạng các hoạt động TNST đang được áp dụng trong các nhà trường hiện nay trong chương trình hiện hành đều là các hoạt động chủ yếu được tổ chức dựa trên các chủ đề đã được quy định trong chương trình với các hình thức còn chưa phong phú và học sinh thường được chỉ định, phân công tham gia một cách bị động. Giáo viên tổ chức hoạt động cho học sinh nhưng không rõ hoạt động đó sẽ hướng tới hình thành những năng lực gì của các em. Điều đó không phù hợp với một chương trình định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Đa số giáo viên đã thấy rõ vị trí vai trò của hoạt động TNST trong nhà trường, song phần vì thời gian dành cho hoạt động còn hạn chế, một số GV còn chú trọng chuyên môn, một số chưa tích cực cập nhật sự đổi mới, số khác tích cực tham gia nhưng chưa có kỹ năng tổ chức từ đó dẫn đến GV ngại việc hoặc làm qua loa, hiệu quả hoạt động không cao. HS chưa có kỹ năng, cũng chưa được định hướng cụ thể nên còn e dè, thậm chí chưa nhiệt tình tham gia các hoạt động tập thể. Cha mẹ học sinh chưa thật sự nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động, còn chưa ủng hộ con em tham gia hoạt động tập thể. Công tác quản lí, chỉ đạo các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong các nhà trường đã được trú trọng, Tuy nhiên, đây là một nội dung mới nên trong quá trình tổ chức hoạt động TNST cho học sinh, vẫn còn lúng túng, chưa khoa học tạo nên nhiều ý kiến trái chiều, băn khoăn về yêu cầu, cách thức tổ chức thực hiện, về khả năng của học sinh... vì vậy để việc tổ chức hoạt động TNST cho học sinh có [Type text] Page 12
- hiệu quả, BGH các nhà trường cần có những biện pháp cụ thể trong quản lý chỉ đạo các HĐTNST. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong trường THPT là một hoạt động rất cần thiết. Tuy nhiên, tại các trường THPT nhìn chung hoạt động này chưa được chú trọng và quan tâm đúng mực.Vì vậy hiệu quả của việc giảng dạy ở các trường THPT do các hoạt động trải nghiệm sáng tạo mang lại hiện nay chưa cao mặc dầu đã có sự quan tâm. Do vậy, việc tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong giảng dạy ở trường THPT là rất quan trọng. Để minh họa cho điều này tôi đã làm khảo sát nhỏ đối với học sinh, giáo viên trong trường như sau: 3.1. Đối với học sinh - Khảo sát về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong học tập: Để thấy được sự hứng thú của học sinh đối với các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong quá trình học tập tôi làm phiếu khảo sát và thu được kết quả như sau: Kết quả khảo sát tiến hành trên 780 học sinh khối 11 và 12 và thu được kết quả như sau: Bảng kết quả điều tra về mức độ cần thiết của các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong học tập và mức độ hứng thú của học sinh đối với các hoạt động trải nghiệm sáng tạo Kết quả điều tra Câu hỏi 1 Câu hỏi 2 Tổng số học sinh điều tra Không Rất cần Cần Rất hứng Hứng Không cần thiết thiết thú thú hứng thú thiết 780 669 86 25 664 101 15 Tỉ lệ 86,77% 11% 3,2% 85,13% 12,95% 1,92% Như vậy theo kết quả bảng điều tra thì phần lớn học sinh rất muốn được tham gia các hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Bởi đây là cơ hội cho các em được trải nghiệm thực tế, được thể hiện mình và làm những điều mình thích, vì có những học sinh có thể học trên lớp không tốt nhưng kiến thức thực hành và kiến thức thực tế của các em rất tốt. 3.2. Đối với giáo viên Để thấy được mức độ cần thiết của việc xây dựng các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học cho học sinh trong nhà trường tôi làm khảo sát như sau: [Type text] Page 13
- - Khảo sát về mức độ quan tâm của giáo viên về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học. Câu 1: Thầy ( cô) thấy hoạt động trải nghiệm sáng tạo đối với việc dạy học ở trường THPT là: - Rất cần thiết - Cần thiết - Không cần thiết Câu 2: Việc trải nghiệm sáng tạo cho môn hóa học là: - Rất cần thiết - Cần thiết - Không cần thiết Câu 3: Thầy (cô) đã tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo nào cho học sinh lớp mình dạy chưa? - Đã tổ chức - Chưa tổ chức Sau khi khảo sát trên 72 giáo viên tôi nhận được kết quả như sau: Bảng kết quả điều tra về mức độ quan tâm của giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Kết quả điều tra Tổng số Câu hỏi 1 Câu hỏi 2 Câu hỏi 3 giáo viên Rất Không Không Cần Rất cần Cần Đã tổ Chưa tổ điều tra cần cần cần thiết thiết thiết chức chức thiết thiết thiết 70 66 4 0 68 2 0 21 49 94,28 5,72 2,86 Tỉ lệ 0 97,14 % 0% 30% 70% % % % Như vậy, theo số liệu điều tra chúng ta thấy phần lớn giáo viên đều rất quan tâm đến hoạt động trải nghiệm sáng tạo đối với môn mình dạy. Tuy nhiên, do còn nhiều điều khó khăn, những vấn đề khách quan lẫn chủ quan nên phần lớn giáo viên vẫn chưa tổ chức được các hoạt động trải nghiệm sáng tạo một cách hiệu quả. IV. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG 1. Về phía giáo viên. * Về mặt khách quan: Một số các trường còn chưa có phòng thí nghiệm thực hành hoặc có nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu nên việc dạy học còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong các tiết thực hành. Trang thiết bị hỗ trợ cho công tác dạy của giáo viên và học tập của học sinh còn thiếu. Hệ thống các phòng chức năng tại một số trường còn thiếu, hệ thống trang thiết bị và các điều kiện hỗ trợ dạy học tại các trường chưa thật sự đáp ứng được điều kiện dạy học trong giai đoạn đổi mới và phát triển giáo dục. [Type text] Page 14
- Chương trình hiện tại còn quá tải so với khả năng nhận thức của học sinh nên nhiều em không theo kịp nội dung bài học. Do điều kiện học sinh của huyện đa số là con của nông dân nên các em ngoài việc học tập còn phụ giúp gia đình làm kinh tế nên thời gian đầu tư cho việc học tập không được nhiều. Khả năng vận dụng kiến thức của học sinh còn hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của các em. Nhiều cha mẹ học sinh đi làm ăn xa nên việc theo dõi, đôn đốc học tập của các em ở nhà chưa thường xuyên là liên tục. Trình độ của GV tại các trường THPT chưa đồng bộ. * Về mặt chủ quan: Giáo viên chưa nhận thức hết tầm quan trọng việc đổi mới, thiếu tính kiên trì và thường xuyên trong việc thực hiện đổi mới PPDH. Sự đa dạng các phương tiện, kỹ thuật dạy học còn hạn chế làm ảnh hưởng đến kết quả dạy và học. Giáo viên ít quan tâm đến công tác đầu tư, chuẩn bị cho tiết dạy, trong giảng dạy ít quan tâm đến các học sinh yếu, kém. Hoạt động giảng dạy vẫn còn dựa vào kinh nghiệm truyền thống, bỏ qua xây dựng kế hoạch. Vì thế, GV đã phải vướng mắc không ít những khó khăn trong điều kiện các hoạt động dạy và học đang được đổi mới mạnh mẽ. Đổi mới chương trình dạy học, đổi mới phương pháp và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS chưa có sự gắn kết, điều này dẫn đến chất lượng và hiệu quả trong các hoạt động đổi mới dạy học không được như mong muốn. Một số cán bộ quản lý, giáo viên còn mơ hồ, không hiểu những phương pháp dạy học hiện đại, phát triển năng lực học sinh. Cho nên, trong sinh hoạt chuyên môn, còn lúng túng, bối rối, thiếu cụ thể, chi tiết trong chỉ dẫn, trong minh chứng về những phương pháp, cách dạy hiện đại trên. 2. Về phía học sinh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến các em không thích môn hóa học là do môn hóa học các em được làm quen lần đầu tiên và trễ hơn so với các môn học khác. Kiến thức hóa học tương đối nhiều và khó mà khả năng ghi nhớ của HS còn hạn chế. Kiến thức hóa học là một chuỗi có liên quan chặt chẽ với nhau. Kiến thức trước làm tiền đề cho kiến thức sau, kiến thức sau được xây dựng từ kiến thức trước. Đa số học sinh không nắm vững lý thuyết dẫn đến không áp dụng được lý thuyết để giải quyết các vấn đề thực tiễn dẫn đến chưa say mê học tập môn hóa học mà ngược lại cảm thấy sợ hãi, ghét học môn hóa học. Thậm chí có những vấn đề thực tiễn đã hướng dẫn chi tiết, giải quyết xong nhưng khi gặp lại học sinh vẫn còn bỡ ngỡ, không làm được. Một bộ phận lớn phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em mình. Học sinh chưa xác định được động cơ học tập. [Type text] Page 15
- Học sinh học tập thụ động, lười học không chịu học bài, làm bài tập và thiếu tinh thần hợp tác với giáo viên trong giờ học. Khả năng tự ghi bài của học sinh còn chưa tốt nên trông chờ vào việc ghi bảng, đọc chép của giáo viên. Một số học sinh còn mê chơi các trò chơi điện tử rồi dẫn đến bỏ học, cúp tiết, thiếu tôn trọng giáo viên. Qua đó tôi thấy, số học sinh yêu thích môn hóa học còn rất ít, nên tôi nhận thấy trách nhiệm của mình rất quan trọng, là phải tìm hiểu nguyên nhân do đâu các em không thích học bộ môn hóa và trách nhiệm của tôi là một người dạy phải tìm tòi phương pháp giảng dạy thích hợp nhằm kích thích hứng thú học tập cho học sinh từ đó các em yêu thích môn học hơn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. V. NỘI DUNG 1. Các môn tích hợp được sử dụng Môn học Lớp Bài học Nội dung liên quan I. Chất dẻo Hóa học 12 Bài 14: vật liệu II. Tơ polime III. Cao su Bài 35: Biến dạng cơ II. Biến dạng đàn hồi Vật lý 10 của vật rắn Biến dạng đàn hồi. Biến dạng dẻo Bài 15: công dân với II. 1. Ô nhiễm môi trường và 10 một số vấn đề cấp trách nhiệm của công dân trong thiết của nhân loại. việc bảo vệ môi trường. II. 1. Tình hình tài nguyên, môi Giáo dục Bài 12: Chính sách tài trường ở nước ta hiện nay. công dân 11 nguyên và bảo vệ môi II. 3. Trách nhiệm của công dân trường đối với chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường. Công 11 Bài 15: Vật liệu cơ II. Một số loại vật liệu thong nghệ khí dụng. Bài 2: Cách mạng II. Tác động của cuộc cách Địa lí 11 khoa học công nghệ mạng khoa học và công ngệh hiện đại. hiện đại đến sự phát triển xã hội. Trong đó, môn vật lí và môn công nghệ có liên quan đến phần nhận biết tính chất của vật liệu polime để các em sử dụng hợp lí. Môn giáo dục công dân, [Type text] Page 16
- địa lí giúp cho học sinh tìm hiểu thêm về sự biến đổi của môi trường xung quanh, nhận biết và hiểu được trách nhiệm của bản thân. Từ đó, các em học sinh sẽ có ý thức tốt hơn trong việc bảo vệ môi trường sống, phát huy được khả năng sáng tạo trong việc tái chế sử dụng vật liệu polime. 2. Thiết bị dạy học và học liệu được sử dụng Sách giáo khoa và sách giáo viên Hóa học 12- Nguyễn Xuân Trường (Tổng Chủ biên) và cộng sự. NXB Giáo dục. - Sách Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Hóa học - Máy tính, máy chiếu projector - Phiếu học tập - Hình ảnh và tư liệu liên quan đến nội dung bài học của mạng Internet. - Các ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học: Sử dụng phần mềm Pwer point. 3. Chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ và những phẩm chất, năng lực HS có thể hình thành và phát triển trong dạy học a) Kiến thức: Nêu được khái niệm, thành phần chính, sản xuất và ứng dụng của: chất dẻo, vật liệu compozit, tơ tổng hợp và tơ nhân tạo, cao su thiên nhiên và cao su tổng hợp. b) Kĩ năng: - Viết được công thức cấu tạo của polime từ monome và ngược lại. - Viết được các PTHH tổng hợp một số polime thông dụng, các PTHH cụ thể điều chế một số chất dẻo, tơ, cao su,. - Phân biệt được polime thiên nhiên với polime tổng hợp hoặc nhân tạo. - Học tập hợp tác, thu nhập thông tin, xử lý thông tin và vận dụng thực hành thí nghiệm. - Vận dụng kiến thức (vật lý, hóa học, toán học, công nghệ, địa lí, giáo dục công dân) để giải quyết vấn đề thực tiễn và môi trường. - Giải được một số bài tập có liên quan. - Có kĩ năng vận dụng các kiến thức trong bài học vào thực tế đời sống, bảo vệ nguồn tài nguyên vô giá. c) Thái độ: - Yêu thích bộ môn Hóa học. - Tích cực tham gia các hoạt động tập thể. - Tích cực sử dụng và bảo quản được một số vật liệu polime trong đời sống an toàn, hiệu quả. - Tuyên truyền, hướng dẫn cộng đồng sử dụng vật liệu an toàn hiệu quả, giảm ô nhiễm môi trường. [Type text] Page 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh thông qua dạy học Lịch sử Bài 17: Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946 (SGK Lịch sử lớp 12 Ban Cơ bản)
14 p | 133 | 34
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị trong việc giảng dạy địa lí tự nhiên Việt Nam ở lớp 12
21 p | 45 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục kỹ năng sống và sử dụng ngôn ngữ cho học sinh THPT qua tác phẩm Chí Phèo
19 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn hiện nay
43 p | 44 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục STEM thông qua chủ đề Lắp mạch điện đèn trang trí - Vật lí 11
40 p | 14 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p | 24 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo nhóm góp phần giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
10 p | 14 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức phòng cháy chữa cháy cho học sinh trung học phổ thông trong các giờ dạy môn Hóa học
21 p | 39 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tạo sự hứng thú cho học viên Trung tâm GDNN - GDTX khi mở đầu tiết học giáo dục hướng nghiệp thông qua việc thực hiện các trò chơi kỹ năng sống
15 p | 37 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Bài tập thực hành Word khối 10
37 p | 13 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng của tỉ số thể tích
15 p | 26 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Công tác phòng ngừa, can thiệp với học sinh bị chứng rối loạn hành vi ở trường THPT
35 p | 6 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn