intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức giữ gìn di sản văn hóa Ca trù cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:59

29
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Giáo dục ý thức giữ gìn di sản văn hóa Ca trù cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ" nhằm giúp GV tạo được hứng thú học tập cho học sinh qua bộ môn Ngữ văn nói chung và qua học các văn bản trữ tình giàu chất văn hóa nói riêng. Góp phần quan trọng vào việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) cho GV và HS đáp ứng yêu cầu mới của chương trình giáo dục.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục ý thức giữ gìn di sản văn hóa Ca trù cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƢỜNG THPT CỜ ĐỎ _________________________________________ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC Ý THỨC GIỮ GÌN DI SẢN VĂN HÓA CA TRÙ CHO HỌC SINH THPT QUA DẠY HỌC VĂN BẢN BÀI CA NGẤT NGƢỞNG CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Tác giả: Dƣơng Thị Thao Tổ bộ môn: Ngữ văn - Ngoại ngữ Năm thực hiện: 2020 - 2021 Số điện thoại: 0976063182
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƢỜNG THPT QUỲNH LƢU 3 _________________________________________ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC Ý THỨC GIỮ GÌN DI SẢN VĂN HÓA CA TRÙ CHO HỌC SINH THPT QUA DẠY HỌC VĂN BẢN BÀI CA NGẤT NGƢỞNG CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Tác giả : Trần Thị Hồng Tổ bộ môn : Ngữ văn – Tiếng anh Năm thực hiện : 2021 - 2022 Số điện thoại : 0989.343.782 Email : hongtranql3@gmail.com Nghệ An, tháng 4 năm 2022
  3. MỤC LỤC BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................... 1 2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 2 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................ 3 5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 3 6. Đóng góp mới của đề tài ....................................................................................... 3 7. Cấu trúc SKKN ..................................................................................................... 3 PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ................................................................. 4 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .......................................................................................................................... 4 1.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 4 1.1.1. Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể .............................................................. 4 1.1.2. Di sản văn hóa(DSVH) phi vật thể Ca trù ...................................................... 4 1.1.3. Hát nói - bộ phận của nghệ thuật Ca trù ......................................................... 6 1.1.4. Tầm quan trọng và yêu cầu giáo dục về di sản văn hóa phi vật thể trong giáo dục phổ thông ............................................................................................................ 6 1.1.5. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực ................................................. 7 1.1.6. Dạy học theo đặc trưng thể loại ...................................................................... 8 1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................... 9 1.2.1. Thực trạng việc tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn DSVH dân tộc thông qua dạy học Ngữ văn ở các trường THPT. ...................................................................... 9 1.2.2. Thực trạng của việc dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng tại các trường phổ thông ........................................................................................................................ 10 1.2.3. Sự cần thiết trong việc tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn DSVH dân tộc thông qua dạy học Ngữ văn ở các trường THPT .............................................................. 12 CHƢƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC GIỮ GÌN DSVH CA TRÙ CHO HS THPT QUA DẠY HỌC VĂN BẢN BÀI CA NGẤT NGƢỞNG. .............................................................................................................. 14 2.1. Những nguyên tắc đề xuất giải pháp ................................................................ 14 2.1.1. Dựa vào đặc điểm của văn bản trữ tình (VBTT) giàu chất văn hóa ............. 14 2.1.2. Đảm bảo tính giáo dục và phù hợp với đặc thù vùng miền .......................... 15
  4. 2.2. Những giải pháp cụ thể .................................................................................... 15 2.2.1. Giải mã cụ thể thông tin văn hóa trong văn bản ........................................... 15 2.2.2. Dạy học gắn liền với đặc trưng thể loại ....................................................... 17 2.2.3. Sử dụng đa dạng các phương pháp trực quan .............................................. 20 2.2.4. Dạy học gắn liền với hoạt động trải nghiệm sáng tạo ................................... 24 CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ....................................................... 31 3.1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm ................................................................... 31 3.2. Nội dung thực nghiệm ...................................................................................... 31 3.3. Tiến trình thực nghiệm ..................................................................................... 32 3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm ......................................................................... 43 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................. 45 1. Kết luận ............................................................................................................... 45 2. Ý nghĩa của đề tài ................................................................................................ 46 3. Phạm vi áp dụng .................................................................................................. 46 4. Kiến nghị, đề xuất ............................................................................................... 46 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 48 PHỤ LỤC
  5. BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT DSVH Di sản văn hoá GV-HS Giáo viên - Học sinh THPT Trung học phổ thông VHTT Văn hoá truyền thống BSVHDT Bản sắc văn hoá dân tộc NCT Nguyễn Công Trứ VBVH Văn bản văn học PPDH Phương pháp dạy học SGK Sách giáo khoa CLB Câu lạc bộ VBTT Văn bản trữ tình TN Thực nghiệm ĐC Đối chứng TNSP Thực nghiệm sư phạm SKKN Sáng kiến kinh nghiệm
  6. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa đã chi phối và tác động mạnh mẽ đến các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam về cả hai mặt thuận lợi và thách thức. Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn về mọi mặt như: kinh tế, chính trị và quan hệ quốc tế. Song, để đứng vững và tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa những thành công đó đòi hỏi con người Việt Nam phải giữ vững và phát huy được những tinh hoa văn hóa của dân tộc, trong đó việc giữ gìn di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc là một trong những vấn đề hết sức cần thiết. Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa có những bước vận động rất quan trọng. Văn hóa được coi là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội. Nối tiếp truyền thống coi trọng văn hóa của dân tộc, trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” [2] Từ năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có hướng dẫn về việc sử dụng di sản văn hóa (DSVH) trong dạy học tại các trường phổ thông. Điều này góp phần giáo dục toàn diện học sinh (HS), giữ gìn và phát huy giá trị của DSVH truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 1.2. Việc giáo dục ý thức giữ gìn di sản văn hóa dân tộc có thể thông qua nhiều cách, nhiều hình thức, nhiều kênh khác nhau, trong đó thông qua việc dạy học các tác phẩm văn chương trong nhà trường là một trong những cách giáo dục hữu dụng. Bởi, văn học là một bộ phận không thể tách rời văn hóa. Giữa văn hóa và văn học có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Một tác phẩm văn học hay được đề cao và lưu truyền lại cho thế hệ sau phải là một tác phẩm thành công cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật được vận dụng từ các giá trị văn hóa. Do vậy, khi dạy học, nếu giáo viên biết vận dụng linh hoạt các tín hiệu văn hóa trong tác phẩm văn học thì có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục học sinh ý thức giữ gìn di sản văn hóa dân tộc. 1.3. Trước ảnh hưởng của thời kì hội nhập và xu thế toàn cầu hóa hiện nay dù học sinh thuộc địa bàn nông thôn, hay miền núi đều sớm có điều kiện tiếp xúc với nền kinh tế thị trường. Các em chịu ảnh hưởng lớn từ văn hoá mạng, nhạy bén song dễ bị chi phối bởi cái mới làm mai một đi những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp. Giáo dục ý thức giữ gìn và phát huy những giá trị di sản văn hóa tinh túy của dân tộc chính là giáo dục lòng yêu nước, giáo dục tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, là nâng cao vị thế và tầm vóc của dân tộc. Bởi vậy, việc tuyên truyền, vận động, giáo dục cho học sinh hiểu và có ý thức giữ gìn DSVH dân tộc là một vấn đề mang 1
  7. tính thời sự và cấp thiết đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta. 1.4. Trong xu thế chung của một nền giáo dục hiện đại - giáo dục toàn diện nhằm đòi hỏi phát triển năng lực người học ở mọi mặt chứ không nghiêng về một yếu tố nào đó, có nghĩa là phải giáo dục toàn diện học sinh từ “ đức, trí, thể, mỹ và nghề nghiệp”. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực hướng tới mục tiêu phát triển tối đa phẩm chất và năng lực của người học thông qua cách thức tổ chức các hoạt động học tập. Nó có vai trò rất quan trọng, giúp cho học sinh chủ động tích cực chiếm lĩnh kiến thức, chú trọng tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên để hình thành kiến thức. Chú trọng tới thực hành vận dụng kiến thức để rèn luyện hình thành, phát triển kĩ năng. Học sinh nỗ lực, chủ động, sẵn sàng tiếp nhận nhiệm vụ học tập - hình thành thái độ. Biết vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lí các vấn đề đặt ra trong thực tiễn - học tập và cuộc sống. 1.5. Nguyễn Công Trứ là một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX. Ông còn là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn. Thơ văn ông mang màu sắc thời đại rất rõ rệt. Khi nhắc tới sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Công Trứ, người ta không thể không nhắc đến thơ hát nói. Và khi nhắc đến thơ hát nói thì không thể không nhắc đến Bài ca ngất ngưởng. Tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Đây là văn bản trữ tình giàu chất văn hóa. Dạy học tác phẩm này cũng là một cách để chúng ta giáo dục học sinh ý thức giữ gìn, trân quý những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Từ những lí do trên và thực tiễn dạy học, chúng tôi chọn đề tài “Giáo dục ý thức giữ gìn di sản văn hóa Ca trù cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ” để trình bày báo cáo sáng kiến kinh nghiệm. 2. Mục đích nghiên cứu - Định hướng cách tiếp cận văn bản Bài ca ngất ngưởng dựa trên những tín hiệu văn hóa, trên cơ sở đó lồng ghép giáo dục ý thức giữ gìn DSVH Ca trù cho HS. - Giúp GV tạo được hứng thú học tập cho học sinh qua bộ môn Ngữ văn nói chung và qua học các văn bản trữ tình giàu chất văn hóa nói riêng. - Góp phần quan trọng vào việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) cho GV và HS đáp ứng yêu cầu mới của chương trình giáo dục. 3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu - Tìm hiểu giá trị nội dung nghệ thuật văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ (NCT), từ đó đề xuất quy trình dạy học tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn DSVH qua dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng của NCT - Đối tượng là văn bản Bài ca ngất ngưởng của NCT (SGK Ngữ Văn 11, tập 1, NXB Giáo dục) 2
  8. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài: Di sản văn hóa phi vật thể; Ca trù; Hát nói - bộ phận của nghệ thuật Ca trù; Tầm quan trọng và yêu cầu giáo dục về di sản văn hóa phi vật thể trong giáo dục phổ thông; Dạy học theo định hướng phát triển năng lực, dạy học theo đặc trưng thể loại. - Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu - Đề xuất một số biện pháp, cách thức nhằm giáo dục ý thức giữ gìn di sản văn hóa ca trù cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng - Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính phù hợp và hiệu quả các đề xuất. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đã phối hợp 2 nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn. Bao gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo cứu tài liệu; Phương pháp điều tra, phỏng vấn; Phương pháp thực nghiệm sư phạm; Phương pháp tiếp cận văn hóa. 6. Đóng góp mới của đề tài - Về mặt lý luận: góp phần làm rõ hơn lý thuyết về dạy học theo định hướng phát triển năng lực, dạy học theo đặc trưng thể loại, dạy học gắn liền với di sản văn hóa. - Về mặt thực tiễn: + Thông qua đề tài nghiên cứu, chúng tôi mong muốn đem đến hướng khai thác mới về văn bản thuộc thể hát nói góp phần định hướng dạy học các văn bản văn học trữ tình theo đặc trưng thể loại. + Đề tài góp phần quan trọng giáo dục học sinh có ý thức gìn giữ, trân trọng và yêu quý những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. + Đề tài cũng góp phần khẳng định giá trị văn hóa truyền thống của đất nước Việt Nam. + Giúp các em phát triển kỹ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức, phát triển trí tuệ và nhân cách. 7. Cấu trúc SKKN Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của sáng kiến được triển khai trong 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu Chƣơng 2: Một số giải pháp giáo dục ý thức giữ gìn di sản văn hóa Ca trù cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ Chƣơng 3: Thực nghiệm sư phạm 3
  9. PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể Theo “ Công ước bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể” được UNESCO thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2003 và Việt Nam cam kết thực hiện từ ngày 20 tháng 9 năm 2005, di sản văn hóa phi vật thể (DSVHPVT) được hiểu là “ các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng- cũng như những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan- mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần DSVH của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, DSVHPVT được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường, với mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người” Tại Điều 4, Mục 1, Văn bản hợp nhất số 10/VBHN-VPQH, ngày 23 tháng 7 năm 2013, “Luật DSVH” do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành, DSVHPVT là “ sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác”. 1.1.2. Di sản văn hóa(DSVH) phi vật thể Ca trù Có 2 loại DSVH, đó là: DSVH vật thể (sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, bao gồm các di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh, các di vật cổ vật, bảo vật quốc gia). DSVH phi vật thể (những sản phẩm tinh thần có giá trị về lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác). Ca trù là DSVH phi vật thể, được bắt nguồn từ dân ca, dân nhạc, một số trò diễn và múa dân gian. Xuất hiện sơ khai vào đầu thế kỷ XI, bắt đầu thịnh hành trong nước từ thế kỷ 15 nhưng đến nửa cuối thế kỷ XX, Ca trù mới được thế giới biết đến lần đầu tiên qua tiếng hát của nghệ nhân Quách Thị Hồ (1909 - 2001). Từ đó, Ca trù còn được nhiều nhạc sĩ, nhạc học gia nước ngoài theo học, tìm hiểu, nghiên cứu và giới thiệu tại nhiều trường Đại học trên thế giới. Ca trù hiện có ở 14 tỉnh, thành trong cả nước. Hát Ca trù có 5 không gian trình diễn chính: hát cửa đình (hát thờ), hát cửa quyền (cung đình, chúc hỗ), hát tại gia (nhà tơ), hát thi và hát ca quán (hát chơi). 4
  10. Mỗi không gian có lối hát và cách trình diễn riêng. Ca trù xưa được tổ chức chặt chẽ thành phường, giáo phường, do trùm phường và quản giáp quản lý. Ca trù có qui định về truyền nghề, cách học đàn, hát, cho đào nương vào nghề (lễ mở xiêm áo), chọn đào nương đi hát thi,…Tham gia biểu diễn Ca trù có ít nhất 3 người: một nữ ca sĩ gọi là “đào nương, ca nương” hát theo lối nói và gõ phách lấy nhịp; một nam nhạc công gọi là “kép” đệm đàn đáy cho người hát; một người điểm trống chầu gọi là “quan viên”. Trong đó, ca nương là một trong 3 thành phần quan trọng. Để trở thành một người ca nương được mọi người công nhận, người nghệ sỹ phải trải qua quá trình học hỏi, luyện tập và trau dồi. Trong Ca trù có các thể cách chỉ các làn điệu hát, hình thức diễn xướng múa, diễn, nghi lễ, việc thi cử trong Ca trù. Khi thể cách là làn điệu hát, thì “thể cách” hoàn toàn trùng hợp với “làn điệu” (thể cách Hát nói, Bắc phản,…). Một điệu có thể là một bài hát nhưng cũng có thể gồm nhiều bài; mỗi bài bao giờ cũng chỉ có một lời ca với tên gọi riêng của nó. Thể cách chỉ một tiết mục múa, diễn xướng hay nghi lễ trong trình diễn Ca trù. Trong nghệ thuật biểu diễn Ca trù, số thể cách có sự thêm bớt thành các biến cách, làm phong phú thêm cho thể cách Ca trù. Tư liệu Hán Nôm hiện đã ghi nhận được 99 thể cách Ca trù chia thành 3 nhóm: nhóm hát thuần túy gồm 66 làn điệu, bao gồm 5 nhóm nhỏ là hát, đọc, nói, ngâm, thổng; nhóm kết hợp hát - múa - diễn gồm 19 thể cách và nhóm nghi lễ, trình diễn nghề trong thi cử gồm 14 thể cách. Trong Ca trù, thơ giữ một vị trí rất quan trọng. Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc cho rằng hát Ca trù là hát thơ với một hệ bài bản phong phú quy định cho từng lối hát. Lời lẽ, ca từ của Ca trù mang tính uyên bác, ít lời mà nhiều nghĩa, giàu chất thơ, mang nhiều cảm xúc, trầm ngâm, sâu lắng. Kỹ thuật hát rất tinh tế, công phu, đòi hỏi phải nắn nót, trau chuốt từng chữ. Khi hát, đào nương không cần há to miệng, không đẩy mạnh hơi từ buồng phổi mà ém hơi trong cổ, ậm ự mà lời ca vẫn rõ ràng, tròn vành rõ chữ. Ca trù có nhiều điệu hát, thể hát sử dụng các thể thơ quen thuộc như: lục bát (điệu Bắc phản, Cung bắc, Đại thạch, Hồng hạnh, Thư phòng, Mưỡu,...), song thất lục bát, thơ 7 chữ và 1 câu lục cuối bài, Đường luật, phú, Đường luật trường thiên. Đặc biệt, thể hát nói (thơ 8 chữ) là thể thơ dành riêng cho Ca trù. Cùng với thơ, múa cũng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên nét đặc sắc, riêng biệt của nghệ thuật hát Ca trù. Có nhiều điệu múa được sử dụng trong Ca trù như: múa Bài Bông (hát cửa đình), múa Đại Thạch (hát thờ và hát thi), múa Bỏ Bộ và múa Tứ Linh (hát thờ),...Với những giá trị văn hóa sâu sắc, ngày 01/10/2009, Ca trù của Việt Nam đã chính thức được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.Việc Ca trù được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp đòi hỏi chúng ta không ngừng gìn giữ, bảo tồn và phát huy để loại hình nghệ thuật này có cơ hội tỏa sáng hơn nữa. 5
  11. 1.1.3. Hát nói - bộ phận của nghệ thuật Ca trù Hát nói là thể thơ mà lời của nó có thể được hát lên theo làn điệu dân ca - Ca trù. Trong hát nói có cả hát và nói; lời ca, lời hát xích gần về phía lời nói. Hình thức thể hiện mang phong cách khẩu ngữ nên thường dung dị, dễ hiểu, gần với đời thường. Vẻ đẹp của thể hát nói là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp của âm nhạc và thơ ca. Hát nói với tư cách là ca từ của bộ môn nghệ thuật Ca trù. Trong các thể thơ của Ca trù như: Lục bát, Song thất lục bát,…hát nói là một trong những thể thơ tiêu biểu để lại số lượng tác phẩm lớn và được yêu thích nhất.Hát nói độc đáo không chỉ ở nội dung và hình thức mà còn ở chỗ vừa là một điệu hát của Ca trù vừa là một thể loại văn học. Hát nói có một cấu trúc hoàn chỉnh, ổn định và mang tính đặc thù, khu biệt với các thể thơ khác. Khác với thơ Đường luật, hát nói là một thể thơ mở, khá tự do về vần nhịp và không hạn định về số câu trong bài và số chữ trong câu. Ngôn từ trong thơ hát có sự pha trộn lời Hán với lời Việt. Cái chính trong hát nói là ở thể thơ điệu nói, không phải thơ hình ảnh. Cái hay của hát nói là giọng điệu “nửa hát, nửa nói, có tính chất kể chuyện”(GS Hà Minh Đức). Một bài hát nói không phụ thuộc vào bài nhạc nhất định. Nghệ nhân hát nói, khi biểu diễn, hoàn toàn chịu sự chi phối của lời thơ. Thơ hát nói có cấu tạo đặc biệt như vậy là do sự chi phối của chủ thể trữ tình trong bài thơ. Đó là tiếng nói của một con người tài tử thoát vòng cương tỏa, thoát tục lụy, danh lợi nắm lấy phút vui hiện tại. Chính cảm thức ấy, nhân sinh quan ấy mới tạo thành thể thơ hát nói được. Nội dung “hành lạc” chiếm vị trí đáng kể trong thơ hát nói, chủ thể trữ tình hiện ra qua lời văn nhất quán và xuất hiện giọng điệu khảng khái, ngang tàng, ngạo nghễ, thách thức. Thơ hát nói được sáng tác để hát trong ca quán, trong dinh thự, trong cửa chùa,… với mục đích giải trí nên nghiên cứu văn bản hát nói không thể không đặt nó trong mối liên hệ với âm nhạc hát nói Ca trù. Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ là bài hát nói tiêu biểu mang nét nổi bật của Ca trù. Văn bản thể hiện rõ những cá tính, phóng cách, lối sống độc đáo của ông Hi Văn. Bài thơ chính là lối sống ngất ngưởng khi làm quan cũng như lúc hưu quan đồng thời thể hiện quan niệm sống phóng khoáng của tác giả. 1.1.4. Tầm quan trọng và yêu cầu giáo dục về di sản văn hóa phi vật thể trong giáo dục phổ thông Hướng dẫn số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL ngày 16/01/2013 của liên Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ văn hóa, thể thao và Du lịch về việc Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên đã quy định cụ thể việc lồng ghép nội dung dạy học di sản văn hóa vào các môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông (nội khóa hoặc ngoại khóa), bao gồm những nội dung: Xây dựng kế hoạch và tổ chức dạy học các nội dung liên quan đến di sản và hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu, khai thác các nội dung khác của 6
  12. di sản văn hóa thông qua tư liệu, hiện vật; Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học phù hợp: dạy học trên lớp hoặc tổ chức các hoạt động ngoại khóa tại nhà trường; dạy học tại nơi có di sản văn hóa; tổ chức tham quan- trải nghiệm di sản văn hóa; dạy học thông qua các phương tiện truyền thông, đa phương tiện. Hướng dẫn này được thực hiện bởi ngành giáo dục và đào tạo, ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Trong đó, ngành giáo dục có trách nhiệm chính về việc tổ chức dạy học thí điểm các nội dung DSVH từng cấp. Việc sử dụng DSVH phi vật thể trong giảng dạy ở trường phổ thông nhằm thực hiện các mục tiêu: hình thành và nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa tinh thần dân tộc; rèn luyện tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong đổi mới phương pháp học tập, rèn luyện; góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, phát hiện bồi dưỡng, năng khiếu, tài năng của học sinh; xây dựng môi trường văn hóa ở trường học và quan trọng hơn nữa còn góp phần phát triển nhân cách học sinh. Xuất phát từ những mực tiêu đó, một trong những nhiệm vụ giáo dục DSVH phi vật thể cho HS phổ thông chính là giúp HS hiểu biết một số đặc điểm cơ bản của DSVH phi vật thể; giáo dục thái độ trân trọng, bảo vệ giá trị DSVH phi vật thể cũng như giá trị lịch sử của đất nước, của nhân loại; giáo dục hành vi tích cực trong bảo tồn DSVH phi vật thể. 1.1.5. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực Trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 1998) có giải thích: Năng lực là “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 giải thích khái niệm năng lực như sau: năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện cho phép con người huy động tổng hợp các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Những năng lực cần thiết phải hình thành cho học sinh THPT: Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 xác định hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi sau: - Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; - Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất. Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, chương trình giáo dục phổ thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu của học sinh. 7
  13. Môn Ngữ văn Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn; giúp HS có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; giúp HS khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế. Môn Ngữ văn cũng góp phần giúp HS phát triển các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực nghĩa là thông qua bộ môn, học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định. 1.1.6. Dạy học theo đặc trưng thể loại Loại thể văn học là: “Phạm trù phân loại các tác phẩm văn học, vốn đa dạng đồng thời có sự giống nhau, từng nhóm một, về một số dấu hiệu nhất định. Các nhóm lớn nhất là những “loại”; mỗi loại gồm những nhóm nhỏ hơn là những thể (hoặc “thể loại”, “thể tài”)[1, Tr. 190]. Từ đó có thể thấy thể loại văn học là phương thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn bản. Do vậy, dạy học bám sát đặc trưng thi pháp loại thể là việc dẫn dắt HS khám phá, phát hiện, phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó. Dạy học bám sát đặc trưng thi pháp loại thể cũng là một trong những yêu cầu cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông hiện nay. Việc xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong dạy học tác phẩm văn chương. Không xác định rõ “chất của loại” trong thể dễ dẫn đến tình trạng khi thấy thơ, ta dạy thơ trữ tình, khi gặp truyện, ta dạy học theo tinh thần văn xuôi tự sự. Vì thế, có thể nói, xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong việc dạy học tác phẩm văn chương. Để đảm bảo được yêu cầu trên, trước khi hướng dẫn HS đi vào tìm hiểu văn bản, người GV cần hướng dẫn HS xác định thể loại của tác phẩm, tìm hiểu những đặc trưng của thể loại đó. Kiến thức về thể loại sẽ giúp HS tìm ra con đường để đi sâu vào phân tích kết cấu và ngôn ngữ, các phương tiện nghệ thuật đặc trưng… mà tác giả dùng để tái hiện đời sống xã hội. Từ đó, lĩnh hội được những tư tưởng, tình cảm được thể hiện trong tác phẩm, cảm nhận tác phẩm một cách sâu sắc nhất. Đây cũng chính là điều kiện đầu tiên quyết định hiệu quả quá trình tiếp nhận của HS. Khi tiếp cận và giảng dạy các tác phẩm văn chương, đòi hỏi người giáo viên phải có hướng tiếp cận, định hướng đúng đắn về loại thể, điều đó sẽ giúp cho người giáo viên cảm thụ các tác phẩm được sâu sắc hơn, toàn diện hơn, giảng dạy có kết quả hơn. Đúng như Trần Thanh Đạm khẳng định: “đối với các giáo viên văn học 8
  14. chúng ta, tìm hiểu sự phân chia loại thể văn học là nhằm mục đích trang bị cho mình những tri thức cần thiết để dùng vào việc phân tích tác phẩm, từ đó làm cho việc hiểu và cảm, dạy và học tác phẩm có kết quả hơn”. Mỗi tác phẩm văn học là một sáng tạo độc đáo, riêng biệt, thể hiện rõ cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Thông qua sản phẩm tinh thần ấy, nhà văn nhà thơ thể hiện một nhân sinh quan có ý nghĩa tiến bộ về con người, về cuộc đời. Bài ca Ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ là một văn bản trữ tình, thuộc thể hát nói- một thể loại văn học vốn là ca từ của bộ môn nghệ thuật Ca trù. Cùng với Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Công Trứ- nhà nho tài tử đã mượn thể hát nói để khẳng định cái tôi đầy mới mẻ, đầy cá tính của mình. Tác phẩm này đã làm nên tên tuổi của Hi Văn, ở đó những cảm xúc và suy tư của nhà thơ trước các hiện tượng đời sống được thể hiện một cách trực tiếp. Tính chất cá thể hoá của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hoá của sự thể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu. Tác phẩm có khả năng thể hiện những biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc của tình cảm cho tới những chính kiến, những hành xử trong cuộc đời. Việc sử dụng thể loại hát nói trong sáng tác văn chương, Nguyễn Công Trứ đã góp phẩn đem đến bầu không khí mới cho văn học trung đại Việt Nam lúc bấy giờ. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Thực trạng việc tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn DSVH dân tộc thông qua dạy học Ngữ văn ở các trường THPT. DSVH là nguồn cung cấp chất liệu để xây dựng nội dung dạy học. Dưới dạng công cụ, thiết bị dạy học, DSVH giúp quá trình học tập của HS trở nên hấp dẫn, hứng thú và hiểu bài sâu sắc hơn. Từ đó, HS có ý thức trách nhiệm hơn trong việc gìn giữ, bảo tồn và phát triển những DSVH. Việc sử dụng DSVH trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông còn góp phần đổi mới PPDH theo hướng tích cực phát triển năng lực, phẩm chất người học. Tuy nhiên, việc vận dụng PPDH gắn với giáo dục ý thức giữ gìn DSVH dân tộc trong môn Ngữ văn ở trường THPT còn nhiều bất cập. * Về cách dạy của GV: Lâu nay, nhiều GV vẫn còn dạy học khép kín, tách biệt giữa nhà trường và cuộc sống bên ngoài, cô lập giữa kiến thức với kĩ năng, tình huống thực tiễn, dạy tác phẩm văn học chỉ bó hẹp trong phạm vi văn bản văn học, ít hướng dẫn cho HS thói quen, kĩ năng liên hệ, mở rộng đến những vấn đề liên quan. GV thuyết giảng nhiều nên HS ít được làm việc, ít có cơ hội bày tỏ chính kiến của mình; những kiến thức ngoài văn bản, cách hiểu riêng của HS ít được GV quan tâm. Một số GV còn lúng túng trong việc nghiên cứu, thiết kế nội dung và chưa chủ động trong việc sưu tầm tư liệu để sử dụng trong dạy học. Bên cạnh đó, hiệu quả của việc đưa giá trị DSVH dân tộc đến với thế hệ trẻ chưa đạt yêu cầu. Việc dạy học Ngữ văn gắn liền với giáo dục ý thức giữ gìn DSVH dân tộc chỉ mang tính giới thiệu, chưa đánh giá đúng vai trò, giá trị và chưa được đầu tư, chú trọng. Có chăng cũng chỉ mới dừng lại ở các hoạt động ngoài giờ chính khoá. 9
  15. Về vấn đề học tập của học sinh: Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy số đông HS hiện nay không hiểu hết giá trị của các DSVH, mà có xu hướng ưa chuộng những hình thức nghệ thuật mới, hiện đại, ít quan tâm tìm hiểu cái hay, cái đẹp của nghệ thuật dân tộc. Văn bản Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ là sản phẩm của nền văn học uyên bác có một khoảng cách khá xa với HS bây giờ. Thế nên, GV dù cố gắng tái hiện bầu không khí thời đại cho tác phẩm thì tìm kiếm sự rung động sâu xa trong lòng các em vẫn là điều khó khăn. Hơn nữa, đây là văn bản rất ít được lựa chọn trong thi cử nên tâm lí HS có phần lơ là, không tham gia tương tác tích cực, thiếu sự quan tâm đúng mực. Từ đó dẫn đến giờ học Văn trôi qua nặng nề, thiếu sự sinh động, hấp dẫn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học của bộ môn. Từ thực tế nghiên cứu và giảng dạy, chúng tôi nhận thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên: Thứ nhất, bên cạnh những sự tự làm mới mình của đại đa số GV thì vẫn còn một số GV giảng dạy bộ môn Ngữ văn chưa vượt qua được sức ì và tâm lí ngại thay đổi. Có nhiều GV có tâm lí an phận, không chịu học hỏi tiếp thu cái mới mặc dù yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới đòi hỏi năng lực người thầy ngày càng cao. Thứ hai, chưa hiểu rõ, hiểu đúng về vị trí, vai trò của DSVH thông qua việc dạy học Ngữ văn ở trường Phổ thông, chưa truyền được cảm hứng cho HS. DSVH rất quan trọng, là một phần tâm hồn của một quốc gia, dân tộc làm nên nét riêng độc đáo, khẳng định giá trị của một dân tộc, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Nó còn làm nên giá trị tinh thần, làm nên cốt cách của con người Việt Nam. Nhưng trong thực tế, không phải GV Ngữ văn nào cũng lưu ý điều này. Thứ ba chưa chủ động tiếp cận công nghệ thông tin (CNTT) và khai thác CNTT để phục vụ cho việc dạy học. Ở các trường phổ thông, GV Ngữ văn cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc khai thác sử dụng CNTT trong việc tiến hành các hoạt động dạy học. Tuy nhiên trong thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng: có nhiều giáo viên chưa thực sự mặn mà, chưa thực sự chủ động trong việc tiếp cận công nghệ. Thứ tư, chưa có sự vào cuộc kịp thời của các cấp quản lý nhà trường. Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục DSVH cũng như các điều kiện dành cho nó chưa được đầu tư đúng mức. Các nội dung giáo dục DSVH chưa được vận dụng linh hoạt vào đặc điểm của từng địa phương, trường học, chưa khai thác sâu rộng, tiềm năng của di sản chưa được phát huy. Các hoạt động vẫn chỉ mang tính phong trào, vận động. Việc phối hợp các lực lượng giáo dục di sản cũng chưa chặt chẽ, cơ chế và sự vận hành phối hợp thiếu hiệu quả. 1.2.2. Thực trạng của việc dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng tại các trường phổ thông 1.2.2.1. Mục đích và đối tượng khảo sát 10
  16. Để tìm hiểu về thực trạng dạy học bài Bài ca ngất ngưởng gắn với việc giáo dục ý thức giữ gìn DSVH Ca trù và suy nghĩ của HS về việc GV sử dụng các PPDH tích cực, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 36 GV dạy môn Ngữ văn tại 3 trường THPT tại địa bàn (Nội dung phiếu khảo sát được trình bày trong phụ lục 2) và 120 HS ở ba trường THPT trên địa bàn (Nội dung phiếu khảo sát được trình bày trong phụ lục 3). 1.2.2.2. Nội dung khảo sát - Tìm hiểu thực trạng dạy học gắn với việc giáo dục ý thức giữ gìn DSVH của GV dạy môn Ngữ văn. - Tìm hiểu việc xây dựng giáo án bài giảng để hiểu rõ hơn cách tổ chức các hoạt động học có phù hợp, cụ thể để phát triển năng lực HS hay không. - Tìm hiểu hứng thú và thái độ học tập của HS đối với các PPDH của GV. Từ đó xác định những khó khăn của GV và HS gặp phải để bước đầu đề xuất những biện pháp nhằm dạy văn bản Bài ca ngất ngưởng theo hướng tích hợp để phát triển năng lực HS một cách hiệu quả nhất. 1.2.2.3. Phương pháp khảo sát Để thực hiện đề tài, bên cạnh việc dùng phiếu khảo sát, chúng tôi còn tiến hành nghiên cứu giáo án, bài giảng, trao đổi trực tiếp với giáo viên; dự giờ dạy một số giáo viên trong một số năm học liên tiếp. 1.2.2.4. Kết quả khảo sát * Đối với giáo viên: sau khảo sát chúng tôi thu được các số liệu như sau: - Về vấn đề “Khả năng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực của thầy/ cô” thì chỉ có 5/36 (13%) GV cho rằng “có khả năng cao” vận dụng các PPDH tích cực trong quá trình giảng dạy. Có 5/36 (13%) cho rằng mình có khả năng, còn lại 26/36 (72%) GV trả lời ở mức độ bình thường. - Về vấn đề “Phương pháp mà thầy/ cô sử dụng khi dạy “Bài ca ngất ngưởng” có 24/36 (67%) trả lời rằng chỉ sử dụng PPDH truyền thống; 12/36 GV ( 23%) còn lại có vận dụng PPDH mới vào hoạt động dạy học văn bản nhưng chỉ đơn thuần để cung cấp nội dung kiến thức bài học. - Về vấn đề Mức độ quan tâm đến tín hiệu văn hóa trong văn bản của thầy/ cô khi dạy Bài ca ngất ngưởng”, có 11/36 GV (30,5%) quan tâm đến tín hiệu văn hóa trong văn bản nhưng mới chỉ dừng lại ở hoạt động cung cấp kiến thức văn hóa, hoàn toàn chưa gắn với việc giáo dục ý thức giữ gìn DSVH Ca trù cho HS; 25/36 GV (69,5%) cho rằng dạy văn bản Bài ca ngất ngưởng chỉ cần hướng đến mục tiêu chuẩn kiến thức, kỹ năng. Cùng với quá trình trao đổi, dự giờ của các đồng nghiệp, cộng với kết quả thu được qua khảo sát nói trên, chúng tôi kết luận một số vấn đề như sau về tình hình dạy văn bản Bài ca ngất ngưởng hiện nay như sau: 11
  17. - Phần lớn GV chủ yếu dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng như một tác phẩm thơ trữ tình mà chưa chú ý đến cái nét riêng của nó là thể loại hát nói, chưa thật sự gắn với việc giáo dục ý thức giữ gìn DSVH phi vật thể Ca trù cho HS. - Một số GV còn chưa thực sự tự tin và vận dụng linh hoạt, hiệu quả các PPDH tích cực. Như vậy, vẫn còn hiện tượng nhiều GV chưa thực sự đổi mới PPDH hoặc việc vận dụng phương pháp của bộ phận GV trong thực tiễn dạy học còn nhiều điểm chưa thực sự hợp lí, nó cần được điều chỉnh, cải tiến để dạy học văn bản có hiệu quả hơn. * Đối với học sinh: Qua việc trao đổi, quan sát trực tiếp với HS, hỏi ý kiến 120 HS thuộc 3 trường THPT trên địa bàn, với câu hỏi: Học văn bản Bài ca ngất ngưởng của NCT em biết gì về văn hóa Ca trù? chúng tôi thu nhận được kết quả: 60/120 HS ( 50%) khẳng định “hoàn toàn không biết”; 40/120 HS (33,3%) trả lời “có nghe qua”; 20/120 HS ( 16,6%) cho rằng “có biết đến”. Có 90/120 HS (75,5 %) cho rằng GV “rất ít khi” sử dụng các phương pháp dạy học khác ngoài phương pháp thuyết trình, hỏi đáp. Về hứng thú của HS khi GV sử dụng các PPDH tích cực trong dạy học ở trường THPT thì hầu hết HS lựa chọn “Thích” hoặc “Rất thích”. Cũng có một số ít HS lựa chọn “bình thường”. Xuất phát từ thực trạng đó mà việc bảo tồn và phát huy các giá trị của DSVH Ca trù qua dạy học văn bản Bài ca ngất ngưởng của NCT tại các trường THPT có nhiều nguy cơ rơi vào bế tắc. Qua kết quả khảo sát của GV và HS nêu trên, chúng tôi thấy rằng việc giáo dục ý thức giữ gìn DSVH dân tộc thông qua dạy học Ngữ văn ở các trường THPT nói chung và qua văn bản Bài ca ngất ngưởng của NCT nói riêng là hết sức cần thiết. Đồng thời GV sử dụng các PPDH tích cực nhằm góp phần phát triển năng lực cho HS, thổi ngọn lửa đam mê tình yêu văn học cho HS là rất quan trọng, đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông. 1.2.3. Sự cần thiết trong việc tích hợp giáo dục ý thức giữ gìn DSVH dân tộc thông qua dạy học Ngữ văn ở các trường THPT Với mỗi quốc gia, trong mọi giai đoạn lịch sử, DSVH truyền thống dân tộc luôn là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển, là linh hồn, sức sống của quốc gia, dân tộc đó. Chính vì vậy, viêc giữ gìn và phát huy DSVH truyền thống dân tộc đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Xuất phát từ thực tế đó, Đảng coi việc xây dựng và bảo vệ DSVH dân tộc là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài của quá trình phát triển đi lên của đất nước. Mỗi người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ phải luôn giữ gìn, phát huy bản sắc VHDT, đó cũng là thể hiện trách nhiệm đối với đất nước. Bảo tồn, phát huy văn hóa sẽ không thể đạt hiệu quả, nếu như không được chú trọng ở môi trường học đường, nơi sát nhất với những “người trong cuộc” mang trách nhiệm giữ gìn văn hóa của chính mình. Điều này góp phần hiện thực hóa mục tiêu dạy học môn Ngữ văn theo quan điểm của Bộ Giáo dục và đào tạo; nâng cao ý thức cho HS trong việc giữ gìn và phát huy các di sản dân 12
  18. tộc; tạo không khí thoải mái cho HS khi học tập; tích cực đẩy mạnh phong trào “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Bảo tồn và phát huy bản sắc VHDT là chiến lược phát triển bền vững quốc gia, là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Trường phổ thông vừa có trách nhiệm giáo dục nhận thức cho HS về DSVH, vừa có trách nhiệm sử dụng DSVH để dạy học. Việc làm này sẽ nâng cao ý thức và trách nhiệm của HS đối với DSVH. Trong quá trình dạy học Ngữ văn, GV ngoài việc “đánh thức” tinh thần cảm thụ văn học nên chăng còn cần đưa các em đến gần hơn với ý đồ sáng tạo của nghệ sĩ, đưa hình tượng nghệ thuật vào văn cảnh đời sống và kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm, giúp HS hiểu được vị trí của tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống và truyền thống nghệ thuật. Làm thế nào để môn Ngữ văn xứng đáng với tầm quan trọng của nó, đó là thách thức lớn đối với đội ngũ nhà giáo, các tác giả xây dựng chương trình sách giáo khoa (SGK). 13
  19. CHƢƠNG 2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC GIỮ GÌN DSVH CA TRÙ CHO HS THPT QUA DẠY HỌC VĂN BẢN BÀI CA NGẤT NGƢỞNG 2.1. Những nguyên tắc đề xuất giải pháp 2.1.1. Dựa vào đặc điểm của văn bản trữ tình (VBTT) giàu chất văn hóa VBTT giàu chất văn hóa trước hết là một văn bản văn học (VBVH) mang những đặc điểm của loại VBTT: Bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp; Người đứng ra bộc lộ cảm xúc gọi là nhân vật trữ tình hay chủ thể trữ tình; VBTT thường ngắn gọn “chỉ nổi lên một âm sắc, một tình cảm cơ bản” (Selinh) nên không thể kéo dài mà buộc phải ngắn gọn; Ngôn ngữ của VBTT là ngôn ngữ của cảm xúc nên tràn đầy tính biểu cảm. Đó là ngôn ngữ đầy hình ảnh, nhạc điệu, nhất là trong thơ trữ tình. Những đặc điểm nêu trên làm cho VBTT có đặc trưng, phong thái riêng so với các loại văn bản khác. Trong những loại thể cụ thể của VBTT lại có những “biến tấu” cho phù hợp với từng loại thể khác nhau. Ngoài những đặc điểm chung thì VBTT giàu chất văn hóa còn có đặc điểm riêng, chính là trong mỗi VBTT giàu chất văn hóa luôn chứa đựng những “mã văn hóa” (tín hiệu văn hóa) nhất định. Muốn tiếp cận loại văn bản này đòi hỏi người tiếp nhận phải phát hiện và giải được mã văn hóa đó. Mỗi VBTT giàu chất văn hóa tồn tại 3 phương diện văn hóa: Thứ nhất: VBVH phản ánh toàn bộ đời sống cộng đồng dân tộc trong đó văn hóa như phần hợp thành quan trọng nhất. Dễ thấy nhất là các chủ đề, đề tài văn hóa (“khai sáng”, tôn giáo, nữ quyền,…), sinh hoạt văn hóa như: tập tục, lễ hội, lối sống của một cộng đồng, một thời đại nào đó. Thứ hai: Ngôn ngữ với tư cách là chất liệu tạo nên VBVH là một trong những hiện tượng văn hóa quan trọng nhất. Chẳng hạn: các biểu tượng văn hóa, lời ăn tiếng nói dân gian hay bác học của nhân vật, các hình thức thể loại,… như sự “kết tinh” văn hóa trong không gian và thời gian nhất định. Thứ ba: VBVH khi được công chúng tiếp nhận đã ảnh hưởng, tác động xã hội, đến tâm lí, sở thích cá nhân và cộng đồng, đôi khi tạo nên cả những phong trào xã hội. Hoạt động của nó cũng là một hiện tượng văn hóa. Với Bài ca ngất ngưởng, cần chú ý tiếp nhận văn bản không đơn thuần như một bài thơ trữ tình mà văn bản còn mang đầy đủ những nét đặc trưng và tồn tại các phương diện của một VBTT giàu chất văn hóa. Do vậy, khi tìm hiểu văn bản, điều quan trọng là phải bám sát vào đặc trưng của VBTT giàu chất văn hóa, giải mã được tín hiệu văn hóa có trong văn bản, từ đó GV định hướng cách tiếp nhận văn bản cho HS theo đặc trưng thể loại gắn với giáo dục ý thức giữ gìn DSVH dân tộc. 14
  20. 2.1.2. Đảm bảo tính giáo dục và phù hợp với đặc thù vùng miền Điểm nổi bật của xu hướng giáo dục hiện đại là mọi hoạt động giáo dục đều hướng vào người học dựa trên nền kiến thức được kết hợp từ nhiều môn học, những giá trị nhân văn được đặc biệt quan tâm. GV phải phối hợp được các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết, hỗ trợ, tác động lẫn nhau tạo nên kết quả tổng hợp và vững chắc. Các bài dạy theo hướng kết hợp sẽ làm cho nhà trường gắn với thực tiễn cuộc sống và sự phát triển của cộng đồng. Dạy văn gắn với đời sống sẽ có tác dụng thiết thực đến việc bồi dưỡng chính trị, đạo đức, tư tưởng, tình cảm cho HS. Học theo hướng kết hợp với cuộc sống đời thường sẽ giúp cho các em quan tâm hơn đến con người và cộng đồng xã hội. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng dạy học ở các trường đóng trên địa bàn nông thôn sẽ có nhiều thách thức khác nhau. Do đó, muốn tiến hành dạy học hiệu quả thì người dạy cần phải hiểu được trình độ nhận thức của người học, nhằm hướng các hoạt động của HS vào mục đích chung của tập thể, phân loại đối tượng và lựa chọn nội dung, phương pháp truyền đạt phù hợp. Để có được giờ dạy hiệu quả cần nắm vững các nguyên tắc sau đây: - Đặc điểm của địa phương: Một dân tộc được xác định bởi 3 yếu tố là văn hóa, ngôn ngữ và lãnh thổ. Trong cùng một địa phương có thể có nhiều nét văn hóa đặc trưng, tồn tại nhiều DSVH vật thể hay phi vật thể cần được bảo tồn, lưu giữ, nói bằng nhiều phương ngữ, thổ ngữ khác nhau. Nếu người GV dạy Văn biết vận dụng sự hiểu biết của mình về các yếu tố này sẽ là điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng PPDH lồng ghép với giáo dục ý thức giữ gìn giá trị DSVH của dân tộc có hiệu quả hơn. - Triển khai các PPDH phù hợp: GV phải am hiểu đặc trưng văn hóa của từng địa phương, biết khơi dậy lòng yêu mến, tự hào, tôn trọng các giá trị văn hóa dân tộc từ HS. Song song với việc tăng cường truyền đạt kiến thức văn hóa bằng tiếng Việt là khuyến khích bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH dân tộc. 2.2. Những giải pháp cụ thể 2.2.1. Giải mã cụ thể thông tin văn hóa trong văn bản Văn học là sản phẩm của văn hóa. Văn hóa trong VBVH vừa là nội dung vừa là phương tiện để khám phá, lí giải vẻ đẹp của tác phẩm. Nghiên cứu dạy học VBVH dựa trên những hiểu biết về văn hóa là một con đường cần thiết và đúng đắn để tiếp cận, giải mã tác phẩm, góp phần mở rộng, nâng cao tầm đón nhận của HS, khắc phục khoảng cách về không gian, thời gian, tầm văn hóa tư tưởng, thời đại giữa HS với tác phẩm - tác giả. Văn bản Bài ca ngất ngưởng của NCT chứa đựng những thông tin văn hóa thú vị. Khi giảng dạy văn bản này, GV phải giải mã cụ thể những thông tin văn hóa trong tác phẩm, cung cấp cho HS cách hiểu đầy đủ, chính xác những nét đẹp văn hóa ấy. Có thể giải quyết nhiệm vụ này bằng hai cách: Một là GV trực tiếp cung cấp kiến thức; Hai là GV giao nhiệm vụ yêu cầu HS tự tìm tòi, khám phá, thu thập thông tin trên cơ sở định hướng của GV, sự hỗ trợ của công 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2