Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và phát triển một số phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua tổ chức các tiết học Xê-mi-na trong dạy học Lịch sử ở trường THPT
lượt xem 3
download
Mục đích nghiên cứu của sáng kiến nhằm tạo ra một không khí học tập sôi nổi, làm cho giờ học Lịch sử trở nên hấp dẫn hơn, tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Nói cách khác, là nhằm mục đích đổi mới phương pháp dạy học, để góp phần tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục học sinh đối với môn Lịch sử.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và phát triển một số phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua tổ chức các tiết học Xê-mi-na trong dạy học Lịch sử ở trường THPT
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT TÂY HIẾU ***** SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: “HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC CHO HỌC SINH THÔNG QUA TỔ CHỨC CÁC TIẾT HỌC XEMINA TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT” MÔN: LỊCH SỬ NHÓM TÁC GIẢ: TRẦN THỊ THU HƯƠNG PHAN THỊ THANH HƯỜNG TỔ: XÃ HỘI THỜI GIAN THỰC HIỆN: NĂM HỌC 2020 - 2021 SỐ ĐIỆN THOẠI CÁ NHÂN: 0983.695.785 1
- A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài. Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục cần đào tạo đội ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao động, đặc biệt là năng lực hành động, sáng tạo, tính tự lực và trách nhiệm cũng như năng lực cộng tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. Từ thực tế đó, việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đổi mới giáo dục. Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình tiếp cận nội dung sang định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học. Từ chỗ quan tâm tới việc học sinh học được gì tới chỗ quan tâm tới việc học sinh học như thế nào và từ việc học đó, học sinh biết vận dụng như thế nào vào trong thực tiễn cuộc sống…Để thực hiện được điều đó nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề. Trong những năm qua, toàn ngành giáo dục cả nước đã nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và đạt được những thành công bước đầu. Đó là những tiền đề vô cùng quan trọng để chúng ta tiến tới thực hiện việc dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp nói chung chúng tôi thấy rằng, sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh là chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về việc truyền thụ kiến thức, việc rèn luyện các kĩ năng còn ít được quan tâm thấu đáo. Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh học thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn. Xuất phát từ chủ trương đổi mới toàn diện giáo dục, đồng thời trên cơ sở tâm huyết với nghề và bắt nguồn từ những băn khoăn trăn trở trong quá trình dạy học môn Lịch sử ở trường THPT là làm thế nào để có một giờ học tốt? Làm sao để học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, biết vận dụng những kiến thức đã học để ứng dụng vào thực tế cuộc sống, đồng thời phát huy được các phẩm chất và năng lực của các em. Điều đó đã thôi thúc chúng tôi suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu để đưa ra phương pháp phù hợp trong quá trình giảng dạy. Lịch sử là môn học có vai trò và chức năng đặc biệt quan trọng, những kiến thức lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc từ cổ đến kim đều có tác động không chỉ đến trí tuệ mà cả trái tim người học. Những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử trong quá khứ sẽ khơi dậy trong học sinh những tư tưởng tình cảm đúng đắn, mà những tư tưởng tình cảm này là hành trang cần thiết cho thế hệ trẻ trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế. Song, muốn phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ 2
- của bộ môn Lịch sử trong việc giáo dục học sinh, cần phải tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học. Thực trạng nêu trên giúp chúng tôi nhận thấy rằng, nếu áp dụng cách thức tổ chức các tiết học bằng hình thức Xê-mi-na (Seminar) là rất phù hợp, góp phần đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, từ đó hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết cho học sinh. Xuất phát từ những lí do trên, được sự phối hợp và chia sẻ của các đồng nghiệp, chúng tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề “Hình thành và phát triển một số phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua tổ chức các tiết học Xê-mi-na trong dạy học Lịch sử ở trường THPT” để làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích nghiên cứu. Việc nghiên cứu vấn đề “Hình thành và phát triển một số phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua tổ chức các tiết học Xê-mi-na trong dạy học Lịch sử ở trường THPT” chúng tôi mong muốn tạo ra một không khí học tập sôi nổi, làm cho giờ học Lịch sử trở nên hấp dẫn hơn, tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Nói cách khác, là nhằm mục đích đổi mới phương pháp dạy học, để góp phần tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục học sinh đối với môn Lịch sử. Việc “Hình thành và phát triển một số phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua tổ chức các tiết học Xê-mi-na trong dạy học Lịch sử ở trường THPT” còn là thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết số 29 của ban chấp hành trung ương Đảng về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Từ những thu hoạch trong đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ tìm ra những cách tiếp cận dạy học mới có hiệu quả để áp dụng cho một số bài học khác trong chương trình lịch sử THPT. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Học sinh các lớp 11A, 11G, 12D, 12G trường THPT Tây Hiếu. - Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên cứu cách thức tổ chức một số tiết học Xê-mi-na trong chương trình lịch sử lớp 11 và 12 theo các chủ đề đã được lựa chọn. 4. Kế hoạch nghiên cứu. STT Thời gian Nội dung công việc 1 9/2020 Lựa chọn đề tài 2 Từ 10/2020 đến 11/2020 Khảo sát thực trạng, tổng hợp số liệu, xử lý số liệu... 3
- 3 12/2020 Viết đề cương sơ lược 4 Từ 1/2021 đến 2/2021 - Viết báo cáo - Trao đổi và xin ý kiến góp ý của đồng nghiệp. - Chỉnh sửa sau khi đã được đồng nghiệp góp ý 5 27/3/2021 - Báo cáo hội đồng khoa học cấp trường 6 30/3/2021 - Hoàn thiện báo cáo sáng kiến kinh nghiệm. 5. Phương pháp nghiên cứu. Trên cơ sở phương pháp luận sử học Mác - Lênin, đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp thực nghiệm khoa học, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát liên nghành... B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 1. 1 Cơ sở lý luận. 1.1.1. Các văn bản chỉ đạo của các cấp về việc đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đổi mới giáo dục. Điều này đã được xác định trong nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1/1993), nghị quyết trung ương 2 khóa VIII (12/1996) và được thể chế hóa trong Luật giáo dục (12/1998), đồng thời được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4/1999). Tại điều 24.2 - Luật giáo dục nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học. Bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Trong thời gian qua, mặc dù đã có những nổ lực đổi mới phương pháp dạy học trong toàn ngành, trước hết là giáo dục phổ thông, nhưng báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XI vẫn tiếp tục nhận định: “Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, đổi mới chậm…”. Nghị 4
- quyết đại hội Đảng lần này đặt ra yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ, áp đặt, một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực…”. Đây là một nhiệm vụ lớn lao cho toàn ngành giáo dục nước ta, dĩ nhiên trong đó có môn Lịch sử. Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Mục tiêu đổi mới được Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội quy định: “kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh.” Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, ngày 26 tháng 12 năm 2018 Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã ban hành Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh; tạo môi trường học tập và rèn luyện giúp học sinh phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, trở thành người học tích cực, tự tin, biết vận dụng các phương pháp học tập tích cực để hoàn chỉnh các tri thức và kĩ năng nền tảng, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có văn hoá, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp mới. Những định hướng, quan điểm nêu trên là cơ sở và môi trường pháp lí thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng. 1.1.2. Các phẩm chất và năng lực cần hướng tới theo chương trình giáo dục phổ thông mới. 1.1.2.1. Khái niệm về phẩm chất - năng lực và chương trình giáo dục định hướng phẩm chất và năng lực.. Phẩm chất: là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con người, cùng với năng lực tạo nên nhân cách con người. 5
- Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. Trong năng lực gồm có Năng lực chung và Năng lực đặc thù. Năng lực chung: là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi… làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp. Năng lực chung được hình thành và phát triển qua nhiều môn học. Năng lực đặc thù: là những năng lực được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định. Chương trình giáo dục định hướng phát triển phẩm chất và năng lực được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỉ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng quốc tế và được cụ thể hóa trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể được Bộ giáo Dục và Đào Tạo ban hành kèo theo thông tư số 32 ngày 26/12/2018. Giáo dục định hướng phẩm chất và năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức. Khác với chương trình giáo dục định hướng nội dung như trước đây, chương trình dạy học định hướng phát triển phẩm chất và năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, đó chính là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Dưới đây là bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định hướng nội dung và chương trình định hướng phát triển phẩm chất, năng lực sẽ cho chúng ta thấy ưu điểm của chương trình giáo dục mới này. Chương trình định hướng Chương trình định hướng Các tiêu chí phát triển phẩm chất - năng nội dung lực Mục tiêu giáo Mục tiêu dạy học được mô Kết quả học tập cần đạt được dục tả không chi tiết và không mô tả chi tiết và có thể quan nhất thiết phải quan sát, sát, đánh giá được, thể hiện đánh giá được được mức độ tiến bộ của học sinh một cách liên tục. Nội dung giáo Việc lựa chọn nội dung dựa Lựa chọn những nội nhằm đạt dục vào các khoa học chuyên được kết quả đầu ra đã quy môn, không gắn với các định, gắn với các tình huống tình huống thực tiễn, nội thực tiễn. Chương trình chỉ quy dung được quy định chi tiết định những nội dung chính, trong chương trình không quy định chi tiết. 6
- Chương trình định hướng Chương trình định hướng Các tiêu chí phát triển phẩm chất - năng nội dung lực Phương pháp Giáo viên là người truyền Giáo viên là người tổ chức, hỗ dạy học thụ tri thức, là trung tâm trợ học sinh tự lực và tích cực của quá trình dạy học. Học lĩnh hội tri thức. Chú trọng khả sinh tiếp thu thụ động năng giải quyết vấn đề, khả những tri thức được quy năng giao tiếp… định sẵn. - Chú trọng sử dụng các quan điểm, phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, các phương pháp dạy học thí nghiệm, thực hành. Hình thức tổ Chủ yếu dạy học lý thuyết Tổ chức hình thức học tập đa chức dạy học trên lớp học dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học. Đánh giá kết Tiêu chí đánh giá được xây Tiêu chí đánh giá dựa vào năng quả học tập dựng chủ yếu dựa trên sự lực đầu ra, có tính đến sự tiến của học sinh ghi nhớ và tái hiện nội dung bộ trong quá trình học tập, chú đã học. trọng khả năng vận dụng trong các tình huống thực tiễn. Từ bảng so sánh trên có thể thấy được sự khác biệt giữa chương trình tiếp cận nội dung và chương trình giáo dục định hướng phát triển phẩm chất và năng lực. Cụ thể: Về phẩm chất: Chương trình giáo dục phổ thông mới hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu như: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Về năng lực: Chương trình giáo dục phổ thông mới hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi sau: Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục, bao gồm: Năng lực tự chủ và tự học, Năng lực giao tiếp và hợp tác, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: Năng lực ngôn ngữ, Năng lực tính 7
- toán, Năng lực khoa học, Năng lực công nghệ, Năng lực tin học, Năng lực thẩm mĩ, Năng lực thể chất. Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, chương trình giáo dục phổ thông mới còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu của học sinh. Tóm lại, việc chuyển đổi từ dạy học tiếp cận nội dung sang dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế giáo dục quốc tế hiện nay. 1.1.2.2. Các năng lực đặc thù môn Lịch sử cấp THPT. Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử được Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ban hành năm 2018 đã quy định những năng lực cần hình thành và phát triển cho học sinh bao gồm: Thành phần Biểu hiện năng lực - Nhận diện được các loại hình tư liệu lịch sử; hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập. TÌM HIỂU LỊCH SỬ - Tái hiện và trình bày được dưới hình thức nói hoặc viết diễn trình của các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; xác định được các sự kiện lịch sử trong không gian và thời gian cụ thể. - Giải thích được nguồn gốc, sự vận động của các sự kiện lịch sử từ đơn giản đến phức tạp, chỉ ra được quá trình phát triển của lịch sử theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các sự kiện lịch sử, lí giải được mối NHẬN THỨC quan hệ nhân quả trong tiến trình lịch sử. VÀ TƯ DUY - Đưa ra được những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân LỊCH SỬ về các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử trên cơ sở nhận thức và tư duy lịch sử, hiểu được sự tiếp nối và thay đổi của lịch sử; biết suy nghĩ theo những chiều hướng khác nhau khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm câu trả lời về một sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử. Rút ra được bài học lịch sử và vận dụng được kiến thức lịch VẬN DỤNG sử để lí giải những vấn đề của thực tiễn cuộc sống; trên nền KIẾN THỨC, tảng đó, có khả năng tự tìm hiểu những vấn đề lịch sử, phát KĨ NĂNG ĐÃ triển năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lí thông HỌC tin từ những nguồn khác nhau, có ý thức và năng lực tự học lịch sử suốt đời. 8
- 1.2. Cơ sở thực tiễn. 1.2.1. Thực trạng học tập và giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT. Lịch sử cũng như các môn học khác, nó có vai trò tác động đến con người không chỉ về trí tuệ mà còn về tư tưởng và tình cảm. Học Lịch sử không chỉ giúp người học thấy được quá trình phát triển của đất nước, của một dân tộc và của cả xã hội loài người mà hơn thế nữa, nó còn có tác dụng giáo dục học sinh về tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc và biết ơn tổ tiên, tình đoàn kết quốc tế trong sáng. Mặc dù có chức năng và nhiệm vụ quan trọng như trên, thế nhưng thực tế việc dạy học môn Lịch sử hiện nay vẫn chưa hoàn thành tốt vai trò của mình, Lịch sử vẫn bị học sinh xem là môn học phụ, đa số các em đều cho rằng đây là môn học khô khan và nặng nề, học Lịch sử buộc phải ghi nhớ nhiều sự kiện ngày tháng năm, trong khi đây lại là môn học tìm hiểu về quá khứ, mà quá khứ là cái đã qua, không thể thay đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì vận dụng vào thực tế. Từ những suy nghĩ đó, cùng với xu thế lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai mà đa số học sinh từ chỗ không thích, dẫn đến ít học môn Lịch sử, kết quả là học sinh hiểu một cách rời rạc và nông cạn về lịch sử. Bằng chứng là trong các kì thi tốt nghiệp THPT của các năm học trước, điểm thi môn Lịch sử luôn nằm trong nhóm thấp điểm nhất. Một trong những nguyên nhân chính của thực trạng trên là do phương pháp dạy học của giáo viên còn chậm đổi mới, dạy học chủ yếu nặng về cung cấp kiến thức, làm cho giờ học càng trở nên khô khan và nặng nề, học sinh rơi vào tình trạng thụ động, không phát huy được tính tích cực chủ động của mình, không khí học tập trở nên nhàm chán và mệt mỏi. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc anh hùng, cha ông ta đã viết nên những trang sử vẻ vang và oanh liệt, trong đó có biết bao thế hệ đã cống hiến máu xương và trí tuệ của mình cho nền độc lập tự do của tổ quốc. Do vậy, Đã là người Việt Nam thì dù ở đâu và thời đại nào thì cũng phải biết lịch sử của đất nước mình. Như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh: Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam Từ thực tiễn đó, yêu cầu bức thiết đặt ra đối với đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Lịch sử là phải làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học Lịch sử, kích thích sự hứng thú học sử cho học sinh. Đây vừa là trách nhiệm vừa là lương tâm và danh dự của người thầy đứng trên bục giảng. Trong những năm qua, nhiều giáo viên tâm huyết trên mọi miền tổ quốc đã mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng các hình thức tổ chức dạy học mới lạ, chẳng 9
- hạn như tổ chức trò chơi trong các giờ học, hay tổ chức ngoại khóa tham quan, trải nghiệm các di sản, viện bảo tàng… các hình thức tổ chức dạy học đó bước đầu thu được những kết quả tích cực, góp phần làm thay đổi không khí học tập, kích thích sự tích cực chủ động, sáng tạo của các em. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đó thì khi tổ chức những hình thức dạy học mới này các giáo viên cũng còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng, chẳng hạn như điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu, giao thông cách trở, kinh phí… Để góp phần hình thành và phát triển phẩm chất cho học sinh theo đúng tinh thần của đổi mới giáo dục hiện nay, thiết nghĩ trước hết, phải bồi dưỡng khả năng tự nghiên cứu, tự học, tự lĩnh hội tri thức của học sinh. Do vậy, việc sử dụng hình thức tổ chức Xê-mi-na trong dạy học môn Lịch sử ở bậc THPT là cần thiết và hợp lí. 1.2.2. Phương pháp dạy học Xê-mi-na và nhận thức của Giáo viên về dạy học Xê-mi-na ở trường THPT. Dạy học heo định hướng tiếp cận phẩm chất và năng lực là một xu thế tất yếu của xã hội hiện đại nhằm phát triển phẩm chất và năng lực cho người học, đáp ứng mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực có trình độ và tay nghề cao. Xê-mi-na là một trong những hình thức dạy học phù hợp, vừa phát huy tốt vai trò tự học, tự nghiên cứu vừa phát triển năng lực cho người học. Vậy Xê-mi-na là gì? Đã có nhiều tác giả trong nước và trên thế giới đã đưa ra khái niệm về Xê-mi-na. Theo Phan Trọng Ngọ: “Xê-mi-na là hình thức học tập trong đó một nhóm học viên được giao chuẩn bị trước vấn đề nhất định, sau đó trình bày trước lớp (nhóm) và thảo luận vấn đề đã được chuẩn bị”. Theo Lê Duy Cường: “Xê-mi-na là hình thức tổ chức dạy học trong đó một sinh viên hay một nhóm sinh viên được giao chuẩn bị trước một hoặc một số vấn đề nhất định thuộc môn học sau đó trình bày trước nhóm, lớp và thảo luận vấn đề khoa học đã tự tìm hiểu được dưới sự hướng dẫn của một giáo viên am hiểu về lĩnh vực đó” Như vậy, có thể hiểu, Xê-mi-na là một hình thức tổ chức dạy học tích cực, đặt người học trước nhiệm vụ nhận thức thông qua những tình huống có vấn đề do giáo viên đặt ra, người học tự ý thức được vấn đề đó và kích thích ở họ tính tích cực, chủ động, hợp tác nghiên cứu, tranh luận, thảo luận để giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Hình thức dạy học này trước đây thường chỉ được áp dụng trong giáo dục Đại học và Cao đẳng, nhưng hiện nay, khi chuyển từ phương pháp dạy học tiếp cận nội dung sang dạy học định hướng phát triển phẩm chất và năng lực thì hình thức dạy học này hoàn toàn có thể áp dụng được trong dạy học bậc THPT, đặc biệt là đối với môn Lịch sử. Tuy nhiên, để áp dụng hình thức tổ chức dạy học này ở bậc THPT, đòi hỏi cả giáo viên và học sinh phải có nhận thức đúng đắn về Xê-mi-na trong dạy học. 10
- Chúng tôi đã làm cuộc khảo sát về thực trạng nhận thức của giáo viên và học sinh về Xê-mi-na ở một số trường THPT trên địa bàn thị xã Thái Hòa (Trường THPT Tây Hiếu), huyện Nghĩa Đàn (Trường THPT 1/5) và Thành phố Vinh (Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng), sau khi tổng hợp, so sánh, đối chiếu, chúng tôi thu được kết quả như sau: Đối với học sinh: Có 100% học sinh được hỏi đều không biết khái niệm Xê-mi-na là gì? 100% học sinh cho rằng các em chưa bao giờ học tập bằng hình thức Xê-mi-na. (Phụ lục 1) Về phía giáo viên: Đa số các thầy cô đều có nhận thức đúng đắn về Xê-mi- na (93%), và cho rằng hình thức này có thể áp dụng trong dạy học ở bậc THPT (100%). Tuy nhiên, khi được hỏi về việc áp dụng hình thức này trong dạy học của bản thân thì đa số thầy cô đều chưa từng áp dụng (chiếm 100 %). Kết quả khảo sát trên đã cho thấy rõ nét thực trạng nhận thức của giáo viên và học sinh về Xê-mi-na cũng như việc áp dụng hình thức dạy học này ở các trường THPT hiện nay, đồng thời là cơ sở quan trọng để chúng tôi nghiên cứu và thực nghiệm hình thức tổ chức dạy học này đối với môn Lịch sử ở trường THPT. 1.2.3. Tính hiệu quả của hình thức tổ chức dạy học Seminar trong việc hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực cho học sinh. Xê-mi-na là hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tối đa tính năng động và tích cực hoạt động của người học. Thông qua việc nghiên cứu khoa học, người học được rèn luyện tư duy phê phán, khả năng phân tích và nghiên cứu sâu tài liệu, phát huy khả năng tự học và ý thức trách nhiệm trong học tập. Xê-mi-na cũng là phương pháp học giúp người học rèn luyện khả năng diễn đạt, thuyết phục, hùng biện, biết phân tích, gạn lọc những ý kiến trái chiều để đánh giá vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau, bảo vệ ý kiến của mình, biết lắng nghe, chia sẻ, thấu hiểu… Trong các tiết học Xê-mi-na, hoạt động nhóm được duy trì và hoạt động tích cực, do đó mỗi thành viên trong nhóm luôn được trải nghiệm thực tiễn bằng việc điều khiển, báo cáo, chuẩn bị, góp ý, trình bày giải thích, phản biện, sự hợp tác sẽ khai thác tối đa các ý tưởng sáng tạo, làm cho vấn đề được rõ ràng và sâu sắc hơn. Học sinh sẽ học được các kĩ năng về hợp tác, giao tiếp, cách thức làm việc nhóm, cách thức tìm kiếm và chia sẻ thông tin, kĩ năng đọc và ghi chép tài liệu, sắp xếp thông tin, báo cáo, thuyết trình.. Xê-mi-na cũng luôn đặt người học vào tình huống có vấn đề phát triển tư duy sáng tạo của họ. Bởi vì, nó đòi hỏi người học phải huy động những kiến thức, kinh nghiệm của bản thân để giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, có hiệu quả. Xê-mi-na còn góp phần phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ cho người học, bởi vì khi tham gia Xê-mi-na, người học cần trình bày, làm rõ một vấn đề nào đó, hoặc tham gia tranh luận, trao đổi.. từ đó ngôn ngữ có vai trò quan trọng 11
- trong việc chứng minh chính kiến của bản thân và thuyết phục người nghe. Để làm tốt điều này, đòi hỏi mỗi cá nhân phải tham khảo nhiều tài liệu khác nhau, tạo cho mình một vốn ngôn ngữ phong phú, có chọn lọc. Việc diễn đạt ý kiến của bản thân bằng ngôn ngữ nói còn tạo cho người học sự tự tin, khắc phục tâm lí tự ti, mất bình tĩnh, nâng cao tính thuyết phục đối với người nghe. Dạy học bằng hình thức Xê-mi-na không chỉ rèn luyện cho học sinh sự tự tin phát biểu trước đám đông, điều mà đa số học sinh ngày nay rất yếu, ngoài ra còn rèn cho người học biết sống trong tập thể, nói và nghe người khác nói. Đó là tiền đề để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Qua sinh hoạt nhóm, tình đoàn kết sẽ được tăng lên nhờ thông hiểu nhau. Từ đó, các thành viên trong nhóm sẽ biết tuân thủ các quy định, trước hết là của nhóm, là tiền đề để trở thành một công dân sống có trách nhiệm và tuân thủ pháp luật trong tương lai. Với những đặc trưng và ưu điểm như trên, việc vận dụng sáng tạo hình thức tổ chức dạy học Xê-mi-na không chỉ góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực cho người học theo chuẩn đầu ra đã quy định, mà còn phù hợp với Nghị quyết 29-NQ/TW về “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo người học,…tự nghiên cứu của học sinh”. II. LỰA CHỌN CHỦ ĐỀ, THIẾT KẾ VÀ TỔ CHỨC CÁC TIẾT XÊ- MI-NA TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 11 VÀ 12, NHẰM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC CHO HỌC SINH. 2.1. Lựa chọn chủ đề. 2.1.1. Quan điểm lựa chọn chủ đề. Trên cơ sở khảo sát thực trạng, nghiên cứu về phương pháp dạy học Xê-mi- na, đồng thời để cho hoạt động Xê-mi-na đạt kết quả như mong đợi, chúng tôi đã thống nhất một số quan điểm về lựa chọn chủ đề như sau: Thứ nhất: Việc lựa chọn chủ đề phải bám sát chương trình môn học, gắn liền với mục tiêu dạy học, phù hợp với nhu cầu của người học và người dạy. Thứ hai: Lựa chọn chủ đề phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh và có nguồn tài liệu tham khảo phong phú. Thứ ba: Phạm trù kiến thức của chủ đề phải trên cơ sở nền tảng kiến thức học sinh đã được học. Thứ tư: Chủ đề Xê-mi-na phải có tính mới, tính thời sự, có khả năng vận dụng cao và liên hệ rộng rãi. Thứ năm: Các chủ để được lựa chọn phải hấp dẫn, có liên quan đến thực tế nhằm tạo nên sự thu hút ở người học và đáp ứng các yêu cầu mà người học cần (về các phẩm chất và năng lực). 12
- 2.1.2. Mục tiêu lựa chọn các chủ để. Việc lựa chọn các chủ đề để tiến hành tổ chức Xê-mi-na chúng tôi mong muốn đạt được các mục tiêu sau: Thứ nhất: Để đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, tạo nên sự mới lạ, hấp dẫn, kích thích sự hứng thú học tập của học sinh. Thứ hai: Nhằm giúp học sinh nắm vững các kiến thức cơ bản đã học, đồng thời đào sâu thêm những kiến thức có liên quan. Thứ ba: Hình thành và phát triển cho học sinh một số phẩm chất và năng lực được đề ra trong chương trình giáo dục phổ thông mới, bao gồm các phẩm chất yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm. Các năng lực như năng lực tư học, năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, năng lực ngôn ngữ và một số năng lực đặc thù môn Lịch sử. Thứ tư: Nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc dạy và học môn Lịch sử nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. 2.1.3. Lựa chọn chủ đề để tổ chức các tiết học Xê-mi-na. Dựa vào các quan điểm về việc lựa chọn các chủ đề nêu trên và trên cơ sở thực tiễn giảng dạy trong năm học 2020 - 2021, chúng tôi đã thống nhất lựa chọn một số chủ đề trong chương trình lịch sử lớp 11 và 12 để tiến hành thực nghiệm. Cụ thể như sau: Chương trình lịch sử lớp 11 gồm 2 chủ đề: Chủ đề 1: Chiến tranh và hòa bình Chủ đề 2: Cách mạng tháng Mười Nga và những ảnh hưởng của nó. Sở dĩ chúng tôi thống nhất lựa chọn hai chủ đề trên để tiến hành tổ chức Xê-mi-na là bởi những chủ đề này có nội dung kiến thức trọng tâm trong chương trình lịch sử lớp 11. Đối với chủ đề Chiến tranh và hòa bình, trong chương trình lịch sử lớp 11, học sinh đã được học các bài Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) và chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) các em đã biết được đây là hai cuộc chiến tranh lớn nhất, khốc liệt nhất trong lịch sử loài người, nó đã để lại những hậu quả hết sức nặng nề cho nhân loại, có ảnh hưởng và tác động trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, học sinh không chỉ hiểu sâu sắc về nguyên nhân bùng nổ chiến tranh, mà đồng thời còn phải nhận thức được những hậu quả của chiến tranh, từ đó biết lên án chiến tranh, trân quý giá trị của hòa bình. Mặt khác, Chiến tranh và hòa bình ngày nay đã trở thành một trong những vấn đề chính trị quan trọng nhất của thời đại, tuy hiện nay hòa bình, hữu nghị và hợp tác là xu thế chính trong quan hệ quốc tế, nhưng trên thế giới vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ chiến tranh, nội chiến, xung đột, mâu thuẩn dân tộc, sắc tộc, 13
- tôn giáo vẫn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Do vậy, việc giúp học sinh nhận thức được giá trị của hòa bình, lên án chiến tranh là hết sức cần thiết. Việt Nam - một quốc gia đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh trong lịch sử, từ những ngày đầu dựng nước cho đến nay, dân tộc ta đã phải liên tục nổi dậy đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền và tào vẹn lãnh thổ, cha ông ta đã phải hi sinh biết bao nhiêu xương máu để giành lại được nền độc lập tự do, để hôm nay các thế hệ con cháu được sống trong hòa bình. Vì vậy, thông qua chủ đề “Chiến tranh và hòa bình” chúng tôi còn muốn giúp học sinh thấy được trách nhiệm của bản thân trong việc chung tay góp sức bảo vệ tổ quốc và bảo vệ nền hòa bình thế giới. Để đạt được những mục đích trên, nếu chỉ học một vài tiết chính trên lớp thì rất khó có thể thực hiện được, do vậy việc tổ chức tiết học bằng hình thức Xê-mi-na với chủ đề “Chiến tranh và hòa bình” không chỉ giúp học sinh hiểu sâu sắc nội dung bài học mà còn góp phần hình thành các phẩm chất và năng lực cần thiết. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cũng là một nội dung quan trọng, vì nó được xem là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, là một sự kiện trọng đại không chỉ có ý nghĩa đối với nước Nga mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc, có tầm ảnh hưởng sâu rộng, làm rung chuyển, đảo lộn trật tự thế giới. Đó là sự kiện có ý nghĩa quốc tế lớn nhất trong thế kỷ XX, ảnh hưởng rộng nhất tới phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cổ vũ và thúc đẩy cuộc đấu tranh tự giải phóng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và nhân loại tiến bộ, đem lại nhiều bài học kinh nghiệm đối với phong trào công nhân quốc tế và ảnh hưởng to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc tổ chức tiết học Xê-mi-na với chủ đề “Cách mạng tháng Mười và những ảnh hưởng của nó” không chỉ giúp học sinh hiểu sâu sắc bài học, làm sáng tỏ nhiều vấn đề có liên quan, mà còn góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực cho học sinh. Đối với chương trình lớp 12, chúng tôi lựa chọn các chủ đề sau: Chủ đề 1: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa - Những ảnh hưởng và tác động của nó. Chủ đề 2: Cách mạng tháng Tám thành công và bài học kinh nghiệm đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. Cách mạng khoa học - công nghệ là một trong những đặc điểm nổi bật của thế giới đương đại. Các biến đổi của đời sống xã hội và con người đều gắn liền với cách mạng khoa học - công nghệ. Tốc độ phát triển con người và phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, cũng như của các khu vực và thế giới, phụ thuộc ngày càng nhiều vào sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ. 14
- Nó chi phối ngày càng nhiều, ngày càng mạnh các biến đổi của đời sống xã hội và của con người (tuổi thọ, bệnh tật, sức khỏe…) trong mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu. Cuộc cách mạng đó quyết định các chiều hướng phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, quan hệ quốc tế, giáo dục đào tạo, y tế và việc làm… ở quy mô toàn cầu cũng như trong từng quốc gia riêng lẻ.Vì vậy, học sinh không chỉ phải nắm vững về nguồn gốc, đặc điểm, thành tựu của cách mạng khoa học-công nghệ , mà còn cần phải hiểu sâu sắc sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ đối với thế giới cũng như Việt Nam, từ đó thấy được tầm quan trọng của khoa học công nghệ đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Việc học tập trong thời đại công nghệ số và mạng Internet vượt qua sự giới hạn về không gian, thời gian, những kiến thức, thông tin cơ bản ở hầu khắp các lĩnh vực từ xưa đến nay đều có thể tìm thấy trên Internet mà chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh hay máy tính bảng người học dễ dàng tìm được. Hơn thế nữa, người học có thể trao đổi trực tiếp với người giảng bài. Điều này đặc biệt thuận lợi cho việc xây dựng một xã hội học tập với nhu cầu học tập suốt đời của mọi người, đáp ứng những yêu cầu của con người trong thời đại 4.0. Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi giáo dục phải đào tạo ra được những con người năng động, tự lập, các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, nhất là phải tạo điều kiện để phát huy tối đa óc sáng tạo của mỗi cá nhân. Chỉ có như vậy mới tạo ra được những con người năng động và sáng tạo. Vì vậy, lựa chọn chủ đề “Cách mạng Khoa học - Công nghệ, xu thế Toàn cầu hóa và những ảnh hưởng tác động của nó” với hình thức dạy học Xê-mi-na sẽ góp phần tạo môi trường học tập mới, để học sinh có cơ hội học tập theo phương pháp tích cực và sáng tạo. Học sinh cũng sẽ thấy được tầm quan trọng của khoa học công nghệ đối với việc học tập cũng như đời sống và nhất là đối với sự phát triển của đất nước. Một hệ quả quan trọng của cách mạng khoa học - công nghệ là thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa, đó là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược . Toàn cầu hóa vừa là cơ hội rất to lớn cho sự phát triển mạnh mẽ của các quốc gai dân tộc, các nước có thể khai thác sự tiến bộ của khoa học - công nghệ để “đi tắt đón đầu”, rút ngắn khoảng cách phát triển. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng tạo ra thách thức không nhỏ đó là nếu bỏ lỡ thời cơ thì sẽ bị tụt hậu rất xa. Trong xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng cao, do đó dạy học chủ đề “Tác động của cách mạng Khoa học - Công nghệ và xu thế Toàn cầu hóa” theo hình thức tổ chức Xê-mi-na sẽ góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh. Từ đó học sinh nhận thức được tuổi trẻ Việt Nam ngày ngay phải cố gắng trong học tập và rèn luyện, có ý chí và hoài bão vươn lên để trở thành những con người được đào tạo có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như đáp ứng nhu cầu thị trường lao động của thế giới. 15
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trang sử vàng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, một bước ngoặt vĩ đại trên con đường phát triển của dân tộc Việt Nam, đã chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, phá tan xiềng xích nô lệ của phát xít Nhật, lật nhào ngai vàng của chế dộ phong kiến mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Từ đây, nhân dân Việt Nam đã thật sự làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Với ý nghĩa của thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tinh thần yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Cuộc cách mạng ấy đã để lại nhiều giá trị và bài học vô cùng quý giá đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay và trong tương lai, mà thế hệ trẻ là những người gánh vác trọng trách quan trọng này. Chính vì vậy mà dạy học chủ đề “Cách mạng tháng Tám thành công và những bài học kinh nghiệm trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc hiện nay” bằng hình thức tổ chức Xê-mi-na không những giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về cuộc cách mạng vĩ đại ấy mà còn góp phần bồi dưỡng phẩm chất yêu nước, niềm tự hào dân tộc và khơi dậy lòng nhiệt huyết, tinh thần trách nhiệm của các em - chủ nhân tương lai của đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. 2.2. Thiết kế các tiết học Xê-mi-na theo các chủ đề đã lựa chọn. 2.2.1. Nguyên tắc thiết kế. Việc tiến hành các tiết học bằng hình thức Xê-mi-na có thành công, có hấp dẫn hay không, có đạt được mục tiêu hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực cho học sinh hay không, phụ thuộc phần lớn vào việc thiết kế tiết học của giáo viên. Chính vì vậy, việc thiết kế tiết học theo các chủ đề đã chọn phải tuân thủ theo các nguyên tắc nhất định. Dưới đây là một số nguyên tắc mà chúng tôi đã thực hiện trong quá trình thiết kế: Thứ nhất: Việc thiết kế phải bám sát và các chủ đề đã lựa chọn. Thứ hai: Xây dựng hệ thống câu hỏi phải tuần tự theo các cấp độ nhận thức, phù hợp với các đối tượng học sinh. Thứ ba: Các câu hỏi thiết kế phải hấp dẫn để kích thích được sự tò mò, hứng thú, muốn được khám phá của học sinh. Thứ tư: Phải có các câu hỏi dạng mở yêu cầu học sinh phát biểu được suy nghĩ, quan điểm của bản thân về một vấn đề nào đó trong chủ đề. 16
- Thứ năm: Tùy thuộc vào lượng thời gian nhất định để thiết kế chương trình cho phù hợp, không dài quá cũng không ngắn quá. 2.2.2. Thiết kế các chủ đề. Căn cứ vào các nguyên tắc trên, chúng tôi tiến hành thiết kế các chủ đề đã lựa chọn. Cụ thể như sau: 2.2.2.1. Chủ đề lớp 11. Chủ đề 1: “CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH” A. ĐỀ XUẤT CÁC VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU VÀ GIẢI QUYẾT. 1 - Khái niệm về chiến tranh và hòa bình? 2 - Có những loại hình chiến tranh nào? Lấy ví dụ về các loại hình chiến tranh? 3 - Trong lịch sử nhân loại đã có những cuộc chiến tranh lớn nào diễn ra? Những nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh đó? Chiến tranh đã để lại những hậu quả gì? 4 - Có ý kiến cho rằng “Chiến tranh là tội ác” em có đồng ý với ý kiến đó không? Tại sao? 5 - Chiến tranh sẽ để lại những hậu quả hết sức nặng nề, vậy theo em chúng ta cần phải làm gì để ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hòa bình? 6 - Theo em hòa bình có giá trị gì? Hòa bình cho chúng ta những cơ hội nào? 7 - Có ý kiến cho rằng “Hòa bình là khát vọng của toàn nhân loại, trong đó có Việt Nam”. Em có đồng ý với nhận định này không? Tại sao? 8. Tại sao nói “Bảo vệ hòa bình là trách nhiệm của toàn nhân loại”? 9 - Giả sử em là một sứ giả của hòa bình, em sẽ gửi thông điệp gì đến thế giới? B. ĐỊNH HƯỚNG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ: 1. Khái niệm về chiến tranh và hòa bình: Chiến tranh là các cuộc xung đột vũ trang giữa các lực lượng, phe phái, quốc gia... vì mâu thuẩn không thể điều hòa được về lợi ích hoặc mục đích nào đó, hoặc nhằm thôn tính các nước khác thành thuộc địa của mình. Theo chủ nghĩa Mác-Lê nin thì chiến tranh là sự tiếp tục của đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp phát triển với hình thức mới, bằng mọi thủ đoạn khác nhau, nhưng vẫn là thủ đoạn tài nhẫn nhất. Hòa bình là trạng thái không có chiến tranh hay xung đột vũ trang, là mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau và hợp tác giữa các quốc gia - dân tộc, giữa con người với con người, là khát vọng của toàn nhân hoại. 17
- 2. Các loại hình chiến tranh: Chiến tranh chính nghĩa: là các cuộc chiến tranh do các dân tộc hay giai cấp vùng lên đánh đuổi quân xâm lược, lật đổ mọi xiềng xích áp bức bóc lột để giành độc lập, tự do... nó được goi là cuộc chiến tranh giành độc lập hay chiến tranh giải phóng dân tộc... Chiến tranh phi nghĩa: là các cuộc chiến tranh do các thế lực phản động, hiếu chiến tiến hành, thường được gọi là chiến tranh đế quốc, hay chiến tranh xâm lược... 3. Các cuộc chiến tranh lớn trong lịch sử nhân loại: Lịch sử loài người từ khi xuất hiện đến nay đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, nhưng lớn nhất và để lại hậu quả nặng nề nhất là hai cuộc đại chiến thế giới đã diễn ra trong nửa đầu thế kỷ XX. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) - Nguyên nhân sâu xa dẫn đến chiến tranh: Do sự phát triển không đều của CNTB trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dẫn đến sự mâu thuẩn gay gắt giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa và thị trường... - Hậu quả của chiến tranh: gây nên những thảm họa nặng nề đối với nhân loại, khoảng 1,5 tỉ người bị lôi cuốn vào vòng khói lửa, có 10 triệu người chết, 20 triệu người bị thương. Nhiều thành phố, làng mạc, đường sá, cầu cống, nhà máy bị phá hủy... Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945): - Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh: Do sự phát triển không đều của CNTB dẫn đến mâu thuẩn giữa các nước đế quốc về thuộc địa mà cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã không giải quyết được. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, trật tự Vecsxai - Oasinhton ra đời càng tạo ra nhiều mâu thuẩn không thể điều hòa được giữa các nước đế quốc, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã dẫn đến chủ nghĩa phát xít lên nắm quyền ở một số nước và đẩy mạnh các hoạt động xâm lược ở nhiều nơi. Trước tình hình đó, các nước Anh - Pháp thực hiện chính sách dung dưỡng thỏa hiệp với phát xít, còn Mĩ giữ thái độ trung lập. Những chính sách đó đã tạo điều kiện cho phát xít tự do hành động và gây chiến tranh. - Hậu quả của chiến tranh: Hơn 70 quốc gia với 1.700 triệu người đã bị lôi cuốn vào vòng chiến, khoảng 60 triệu người chết, 90 triệu người bị thương, nhiều thành phố, làng mạc và nhiều cơ sở kinh tế bị tàn phá... 4. “Chiến tranh là tội ác”. Vấn đề này tùy thuộc vào sự lập luận của học sinh, giáo viên định hướng cách giải quyết như sau: Ý kiến cho rằng “Chiến tranh là tội ác” là ý kiến đúng đối với những cuộc chiến tranh phi nghĩa, vì những cuộc chiến tranh này là do các thế lực phản 18
- động, hiếu chiến tiến hành nhằm đạt được những mục đích kinh tế, chính trị nào đó mà bất chấp những hậu quả gây ra đối với nhân loại. Những cuộc chiến tranh này đã gây nên những thảm họa hết sức nặng nề, gây ra bao cảnh chết chóc, li tán, chia lìa, đợi chờ, mòn mỏi, những khổ đau tan nát.. Không chỉ là nỗi đau của con người, chiến tranh đã tàn phá mọi thứ mà nó đi qua, phá hủy cả môi trường tự nhiên dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bởi khói lửa của bom đạn, của các chất hóa học do con người chế tạo nhằm phục vụ cuộc chiến. Các công trình kiến trúc được coi là văn minh nhân loại bị hủy hoại, những cánh rừng bất tận không còn màu xanh mà chỉ thấy khói lửa… Chiến tranh cũng khiến cho nền kinh tế trở nên kiệt quệ. Bóc lột giữa con người với con người ngày càng gia tăng, chênh lệch giàu nghèo càng rõ ràng. Cuộc sống của người dân thường xuyên rơi vào đói nghèo, trình độ văn hóa thấp. Mọi quyền dân chủ bình đẳng tự do đều bị xâm phạm một cách nghiêm trọng… 5. Giá trị của hòa bình. Trong muôn vàn những điều tốt đẹp mà cuộc đời mang lại cho mỗi người có lẽ hòa bình chính là món quà vô giá nhất. chỉ có hòa bình mới đem lại cho con người, cho nhân loại cuộc sống bình yên, tự do, ấm no, hạnh phúc… Hòa bình tạo cho chúng ta nhiều cơ hội tốt đẹp: Đối với cá nhân: Sống trong hòa bình, con người sẽ có cuộc sống hạnh phúc, yên ổn, có cơ hội được học tập đầy đủ, được lao động, cống hiến và hưởng thụ, được cháy hết mình với những đam mê chân chính…. Đối với mỗi quốc gia dân tộc: Chỉ có hòa bình mới phát huy được sức mạnh tổng hợp để phát triển bền vững và thịnh vượng, mới thực hiện được các mục tiêu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đối với thế giới: Hòa bình sẽ tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho việc giao lưu hợp tác giữa các quốc gia dân tộc, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và nhân văn. Khi mà mỗi đất nước đều yên ổn để có thể phát triển mọi mặt thì đất nước ấy sẽ không gây hại, xâm lấn gì đến những đất nước khác, từ đó tạo nên nền hòa bình trên thế giới, các quốc gia đều hợp tác với nhau. 6. Hòa bình là khát vọng của toàn nhân loại, trong đó có Việt Nam vì: Nhân loại đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh lớn nhỏ, đã chứng kiến sự khốc liệt của chiến tranh, đã cảm nhận được những mất mát đau thương khủng khiếp do nó gây ra, những hậu quả của chiến tranh để lại sẽ còn là nổi ám ảnh dai dẳng, phải mất một thời gian dài con người mới có thể khắc phục được, chẳng hạn như sự kiện Mĩ ném bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-xaki của Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai...là một minh chứng. 19
- Việt Nam - một dân tộc đã trải qua biết bao đau thương từ những cuộc chiến tranh trong lịch sử. Đặc biệt là hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hai cuộc chiến tranh này đã để lại những nỗi đau thương, mất mát vô cùng lớn mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa thể khắc phục, chính vì thế cho nên dân tộc ta hơn ai hết hiểu rõ nhất về giá trị của hòa bình. Không những Việt Nam chúng ta mà toàn thể nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế giới đều mong muốn có một thế giới hòa bình, chan chứa tình thương. Ở đó con người sẽ được sống trong yên bình, ấm no và hạnh phúc. 7. Bảo vệ hòa bình là trách nhiệm của toàn nhân loại vì: Đó là hạnh phúc, là khát vọng của loài người. Ngày nay, các thế lực phản động hiếu chiến vẫn đang có âm mưu phá hoại hòa bình, gây chiến tranh tại nhiều nơi trên thế giới. Vì vậy, bảo vệ hòa bình chống chiến tranh không phải là trách nhiệm của riêng một quốc gia dân tộc nào, mà là trách nhiệm của mọi người, của toàn nhân loại. Để bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh chúng ta cần phải xây dựng mối quan hệ tôn trọng, thân thiện, bình đẵng giữa con người với con người, giữa các dân tộc, giữa các quốc gia trên thế giới. 8. Biện pháp để bảo vệ hòa bình, ngăn ngừa chiến tranh. - Chiến tranh sẽ để lại hậu quả hết sức nặng nề cho con người, vì vậy để bảo vệ hòa bình và ngăn ngừa chiến tranh đòi hỏi sự chung tay của cả toàn nhân loại. - Trước hết, tất cả các quốc gia cần tuân thủ luật pháp quốc tế và hiến chương của Liên Hợp quốc, giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. - Liên Hợp quốc với tư cách là tổ chức quốc tế lớn nhất giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới cần phát huy tốt vai trò và chức năng của mình để ngăn ngừa chiến tranh, thúc đẩy các mối quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế. - Các quốc gia trên thế giới cần tăng cường giao lưu, hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển, góp phần bảo vệ hòa bình, chống các thế lực hiếu chiến.... - Trách nhiệm của bản thân: + Học sinh cố gắng phấn đấu học tập góp phần nhỏ vào việc giữ gìn hòa bình cho dân tộc và cả nhân loại... + Ý thức bảo vệ hòa bình, lòng yêu hòa bình cần được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi, bằng những việc làm phù hợp. + Cư xử với bạn bè và mọi người xung quanh một cách thân thiện và bình đẳng tránh xung đột mâu thuẫn. + Tham gia đầy đủ, tích cực các hoạt động vì hòa bình. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 177 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy học môn Toán lớp 10
44 p | 67 | 19
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 54 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp rèn luyện kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc nhằm hình thành khả năng ứng phó với căng thẳng của học sinh trường THPT Kim Sơn C
50 p | 16 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 24 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Yên Định 3 giải nhanh bài toán trắc nghiệm cực trị của hàm số
29 p | 34 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 38 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh khai thác có hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11
28 p | 65 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp tính khoảng cách trong hình học không gian lớp 11
35 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giúp học sinh trung bình và yếu ôn tập và làm tốt câu hỏi trắc nghiệm chương 1 giải tích 12
25 p | 25 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và phát triển tư duy phê phán cho học sinh thông qua thí nghiệm hóa học
49 p | 21 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình học hóa bài toán số phức
39 p | 34 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh cách vẽ hình chiếu trục đo (HCTĐ) của vật thể bằng cách dựng mặt phẳng cơ sở
26 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn