intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khảo sát nhu cầu xây dựng phòng tư vấn tâm lý của học sinh trong trường trung học phổ thông

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:41

25
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là thông qua việc tìm hiểu nhu cầu về phòng tư vấn tâm lý học đường của học sinh trường THPT Yên Thành 2 - Yên Thành - Nghệ An, căn cứ để có cơ sở xây dựng phòng tư vấn tâm lý cho học sinh của trường Yên Thành 2, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của trường, đồng thời hỗ trợ về mặt tinh thần cho học sinh, giúp các em giải tỏa các vấn đề tâm lý gặp phải trong cuộc sống, trong học tập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khảo sát nhu cầu xây dựng phòng tư vấn tâm lý của học sinh trong trường trung học phổ thông

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài:  KHẢO SÁT NHU CẦU XÂY DỰNG  PHÒNG TƯ VẤN TÂM LÝ CỦA HỌC SINH  TRONG TRỪỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LĨNH VỰC: TÂM LÍ GIÁO DỤC
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài:  KHẢO SÁT NHU CẦU XÂY DỰNG  PHÒNG TƯ VẤN TÂM LÝ CỦA HỌC SINH  TRONG TRỪỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LĨNH VỰC: TÂM LÍ GIÁO DỤC Tên tác giả:  HOÀNG DANH THƯỞNG Tổ bộ môn:  Khoa học xã hội Năm thực hiện:  2020 ­ 2021 SĐT liên hệ:  0384461812
  3. Yên Thành, tháng 3 năm 2021
  4. MỤC LỤC
  5. DANH MỤC BẢNG
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TT Từ viết tắt Từ đầy đủ 1 GV Giáo viên 2 HS Học sinh 3 SGK Sách giáo khoa 4 THPT Trung học phổ thông
  7. A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài  Cùng với sự  phát triển của xã hội, cuộc sống ngày càng trở  nên bận rộn   và phức tạp, làm nhiều vấn đề  tâm lý nảy sinh, không phải ai cũng có thể  giải   quyết được, nhất là học sinh tình trạng rối nhiễu tâm trí đã trở nên phổ biến. Và   nhu cầu tư vấn tâm lý trở thành một nhu cầu cần thiết mang tính xã hội rất lớn,  nó trở  thành nhu cầu không thể  thiếu đối với mọi lứa tuổi. Mặt khác trước   những kết quả  học tập không được như  mong đợi ở  các học sinh, các bậc cha   mẹ  và thầy cô chỉ  quan tâm đến việc cố  gắng làm sao để  con em mình dành  nhiều thời gian hơn cho học tập, buộc các em lên lớp phải tập trung nghe giảng,  tìm gia sư kèm tại nhà… Bằng mọi cách mà không biết rằng những cố gắng đó  có khi lại phản tác dụng tạo áp lực học tập quá lớn, đẩy các em vào trạng thái lo  âu, căng thẳng. Đứng trước những lý do khách quan đó, cũng như  những thắc   mắc, khó khăn tâm lý của tôi đã trải qua trong thời học sinh. Bên cạnh đó, bản  thân là một phó hiệu trưởng luôn gần gũi với học sinh và đã được tập huấn về  công tác tuyên truyền về “Sức khỏe sinh sản vị thành niên trong năm 2010”. Cho  nên, người nghiên cứu quyết định chọn đề  tài: “Khảo sát nhu cầu xây dựng  phòng tư vấn tâm lý của học sinh trong trường trung học phổ thông”. 2. Mục đích nghiên cứu  Thông qua việc tìm hiểu nhu cầu về phòng tư vấn tâm lý học đường của   học sinh trường THPT Yên Thành 2 ­ Yên Thành ­ Nghệ  An, căn cứ  để  có cơ  sở  xây dựng phòng tư  vấn tâm lý cho học sinh của trường Yên Thành 2, góp  phần nâng cao chất lượng dạy và học của trường, đồng thời hỗ  trợ  về  mặt  tinh thần cho học sinh, giúp các em giải tỏa các vấn đề  tâm lý gặp phải trong   cuộc sống, trong học tập.   3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu  ­ Khách thể nghiên cứu: Học sinh các khối 10 ­ 11 ­ 12 của trường THPT   Yên Thành 2 ­ Yên Thành ­ Nghệ An.  ­ Đối tượng nghiên cứu: nhu cầu về  xây dựng phòng tư  vấn tâm lý của  học sinh trường THPT Yên Thành 2 ­ Yên Thành ­ Nghệ An.  4. Nhiệm vụ nghiên cứu ­ Nghiên cứu cơ sở lý luận:  ● Khái quát một số vấn đề về tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT  ● Nêu ra những khó khăn về tâm lý của học sinh lứa tuổi này. ● Nêu lên tầm quan trọng của tư vấn tâm lý cho học sinh THPT. ­ Nghiên cứu thực trạng: ●  Đặc điểm riêng của sự  phát triển tâm sinh lý HS trường THPT Yên  1
  8. Thành 2.  ●  Những khó khăn tâm lý gặp phải của HS trường THPT Yên Thành 2   trong học tập, sinh hoạt. ● Xác định nhu cầu tư vấn tâm lý của học sinh trường THPT Yên Thành  2 ­ Yên Thành ­ Nghệ An ●  Xác định nhu cầu xây dựng phòng tư  vấn tâm lý của học sinh trong   trường THPT Yên Thành 2 ­ Yên Thành ­ Nghệ An.  5. Phương pháp nghiên cứu ­ Nghiên cứu tài liệu: Tìm, chọn và nghiên cứu một số sách, báo, bài viết   liên quan đến tâm lý học sinh và tư vấn tâm lý học sinh.  ­ Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: 5 học sinh của 5 lớp: 10A1, 10A7,   11A10, 11A11, 12A8. ­ Phiếu điều tra ý kiến học sinh: phiếu điều tra được tiến hành qua 2 giai   đoạn:  ­ Giai đoạn 1: Trên cơ  sở  lý luận và những đề  tài có liên quan, người   nghiên cứu tiến hành soạn thảo phiếu, với các câu hỏi mở  thăm dò (xin xem   phần phụ lục 1).  ­ Giai đoạn 2: Từ  kết quả  thăm dò, tiếp tục tham khảo các công trình  nghiên cứu trước và các vấn đề  lý luận của đề  tài, người nghiên cứu xây dựng   phiếu điều tra chính thức với 15 câu hỏi (xin xem phần phụ lục 2).  ­ Dùng toán thống kê để xử lý số liệu bằng phần mềm microsoft Excel. 6.  Giới hạn phạm vi nghiên cứu:  ­ Về không gian: nghiên cứu tại trường THPT Yên Thành 2 ­ Yên Thành ­  Nghệ An.  ­ Nội dung nghiên cứu: Chỉ  tìm hiểu nhu cầu của học sinh trường THPT   Yên Thành 2 về việc xây dựng phòng tư vấn tâm lý trong trường học. Thời gian:   Từ tháng 10/2019 đến 03/2021.  2
  9. B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Vài nét về lịch sử vấn đề nghiên cứu Hiện nay tư vấn tâm lý là một dịch vụ đang được sự quan tâm lớn của dư  luận, vì vậy đã có một số công trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề này.  Sau đây là một số nghiên cứu liên quan đến đề tài:  Dương Thiệu Hoa và CTV, 2007, “Khó khăn tâm lý và nhu cầu tham vấn  của học sinh THPT”, tạp chí tâm lý số 2. Bùi Thị Xuân Mai, 2005, “Tham vấn ­   một dịch vụ xã hội cần được phát triển ở Việt Nam”, tạp chí tâm lý học số 2. Vũ Kim Thanh, 2001, “Tư vấn tâm lý ­ một nhu cầu xã hội cần được đáp   ứng”, tạp chí tâm lý học số 2. Các nghiên cứu trên đã thúc đẩy một phần nào sự  ra đời của các trung tâm tư vấn tâm lý ở một số nơi nhưng hầu như chưa có tác  giả nào tìm hiểu thực tế nhu cầu về xây dựng phòng tư vấn tâm lý của học sinh   trong trường THPT. Vì vậy người nghiên cứu bước đầu tìm hiểu về  vấn đề  này. 1.2. Vai trò của tư vấn tâm lý  Trong bối cảnh hiện nay tư  vấn tâm lý có vai trò quan trọng trong đời  sống tinh thần con người.  ● Vai trò của tư vấn tâm lý trong xã hội:  ­ Công tác tư vấn nhằm vào mục tiêu giáo dục mang tính năng phát triển   đời sống lành mạnh, ngăn ngừa tệ  nạn và điều trị  những rối loạn do  thiếu  khung tư  duy trưởng thành, nên ngành này đã đóng một vai trò quan trọng tích  cực với an toàn và phát triển xã hội. ­ Trong thực tiễn triển khai các chính sách, chương trình phát triển xã hội,   tư  vấn tâm lý tỏ  ra là một trong những kỹ  năng quan trọng, giúp các cán bộ  xã  hội thực thi nhiệm vụ của mình. ● Đối với học sinh, người nghiên cứu thấy tư vấn tâm lý có 5 vai trò sau:  ­ Thứ nhất giúp các em hiểu rõ những quy luật phát triển về tâm lý, sinh   lý cơ  thể, đặc biệt là sự  phát triển đời sống tình cảm và sự  trưởng thành nhân   cách trong xã hội. Trong hành trình trưởng thành của con người, đa số  chúng ta  ai cũng gặp những khó khăn, bỡ ngỡ, nếu không được hướng dẫn, tư vấn thì rất   dễ gặp những khó khăn lớn, khiến sự phát triển bị lệch hướng. ­ Thứ hai giúp các em giữ thăng bằng trong đời sống tình cảm, sẽ là người  bạn để các em tâm sự khi không dám nói cùng cha mẹ, giúp cho các em hiểu rõ  bản thân và biết cách cư xử trong xã hội. 3
  10. ­ Thứ  ba  giúp cho mối quan hệ  giữa thầy và trò, quan hệ  gia đình thêm   vững chắc, quan hệ  tình bạn ­ tình yêu trong sáng, sẽ  là hành trang kiến thức   giúp các em tự tin hơn để bước ra xã hội.  ­ Thứ tư là chất “xúc tác” làm tăng khả năng hấp thu, đón nhận kiến thức   từ phía HS trong mối quan hệ dạy và học. ­ Thứ  năm  có tác động tích cực trong hoạt động hướng nghiệp của HS.   Hầu hết các em khi chọn nghề cho tương lai, luôn phân vân giữa nhu cầu xã hội,   áp lực gia đình, triển vọng thăng tiến bản thân, sở thích cá nhân… Vì vậy các em  cần có người hiểu, thông cảm và có khả năng giúp các em lựa chọn ngành nghề  phù hợp với những điều kiện trên. 1.3. Đặc điểm tâm lý học sinh trung học phổ thông 1.3.1. Đặc điểm chung của lứa tuổi  Trong tâm lý học lứa tuổi đã từng nói tuổi thanh niên là giai đoạn phát  triển bắt đầu từ  lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Chính cái  định nghĩa mà giới hạn thứ  nhất là giới hạn sinh lý và giới hạn thứ  hai là giới   hạn xã hội đã chỉ ra tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng.  Đây là lứa tuổi có những chuyển biến quan trọng cả về phát triển thể lực  lẫn tâm lý của con người, là giai đoạn định hình nhân cách. Do gia tốc phát triển của xã hội mà các giới hạn của tuổi thanh niên được   hạ thấp, bắt đầu từ 14 ­ 15. Nhưng nội dung cụ thể của thời kỳ phát triển này  được quyết định không đơn giản chỉ bởi tuổi, mà trước hết là những điều kiện  xã hội (vị  trí của thanh niên trong xã hội, khối lượng tri thức, kỹ  năng mà họ  nắm bắt được và một loạt những nhân tố khác phụ thuộc vào những điều kiện  xã hội đó). Ngày nay hoạt động lao động và hoạt động xã hội ngày càng phức   tạp. Do đó mà có sự  kéo dài của thời kỳ tuổi thanh niên và tính không xác định   của các giới hạn lứa tuổi. Từ khái niệm trên, ta có thể rút ra những đặc điểm cơ thể của tuổi thanh   niên như sau:  Nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Các em gái  đạt được sự  tăng trưởng trung bình vào khoảng tuổi 16 ­ 17, các em trai vào  khoảng 17 ­ 18.  Sự  phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc   bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển gần như  cấu   trúc tế  bào não của người lớn. Điều đó tạo tiền đề  cần thiết cho sự  phức tạp  hoá hoạt động phân tích, tổng hợp… của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học  tập. Đa số các em đã vượt qua thời kỳ phát dục. Nhìn chung thì đây là lứa tuổi   các em có cơ thể phát triển cân đối, khỏe và đẹp.  Hoạt động của thanh niên ngày càng phong phú và phức tạp, nên vai trò xã  4
  11. hội và hứng thú xã hội của thanh niên không chỉ mở rộng về số lượng và phạm   vi mà còn biến đổi cả về chất lượng.  Ở thanh niên ngày càng xuất hiện nhiều  vai trò của người lớn và họ thực hiện các vai trò đó ngày càng có tính độc lập và   có tinh thần trách nhiệm cao. Trong gia đình, các em đã có nhiều quyền lợi và trách nhiệm, cha mẹ  đã  trao đổi với các em một số vấn đề và các em cũng biết quan tâm đến nhiều mặt  sinh hoạt trong gia đình. 14 tuổi, các em bắt đầu gia nhập đoàn thanh niên cộng   sản. Trong tổ chức đoàn các em có thể tham gia công tác tập thể, công tác xã hội   một cách độc lập hơn và có trách 6 nhiệm hơn. 18 tuổi có quyền bầu cử, có  chứng minh thư, có nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động. Tất cả các em đều có  suy nghĩ về việc chọn ngành nghề…  Do đó vị  trí của thanh niên có tính chất không xác định (ở  mặt này họ  được coi là người lớn, mặt khác lại không), đây là một tất yếu khách quan. Tính   chất đó và những yêu cầu đề ra cho thanh niên được phản ánh một cách độc đáo   vào tâm lý thanh niên.  1.3.2. Hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ của học sinh 1.3.2.1. Đặc điểm hoạt động học tập  Học sinh càng trưởng thành kinh nghiệm sống càng phong phú, các em   càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Do vậy thái   độ có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển. Thái độ của thanh niên học sinh đối với các môn học trở nên có lựa chọn   hơn.  Ở  các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh   hướng nghề nghiệp. Cuối bậc THPT các em đã xác định được hứng thú ổn định  đối với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri thức nhất định.  Thái độ học tập của thanh niên học sinh lúc này được thúc đẩy bởi động  cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn của môn học đối với cá nhân, khả năng tiếp thu   môn học của các em), động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học,   rồi mới đến động cơ cụ thể khác…  Thái độ học tập ở không ít em có nhược điểm là: một mặt các em rất tích  cực học một số môn được các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn,   nhưng lại sao nhãng các môn học khác hoặc chỉ học để lấy điểm trung bình.  1.3.2.2. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ  Tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức của  thanh niên mới lớn. Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao.   Quan sát trở  nên có mục  đích, có hệ  thống và toàn diện hơn. Quá trình quan sát đã chịu sự  điều khiển   của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách khỏi tư  duy ngôn ngữ.   Song quan sát của thanh niên học sinh cũng khó có hiệu quả  nếu thiếu sự chỉ  5
  12. đạo của giáo viên. Ghi nhớ  có chủ  định giữ  vai trò chủ  đạo trong hoạt động trí tuệ  của các   em, đồng thời vai trò của ghi nhớ  logic trừu tượng, ghi nhớ  ý nghĩa ngày một  phát triển. Đặc biệt các em đã tạo được tâm thế phân hóa trong ghi nhớ.  Do sự phát triển của các quá trình nhận thức và ảnh hưởng của hoạt động  học tập mà hoạt động tư  duy của thanh niên học sinh có thay đổi quan trọng.  Các em có khả  năng tư  duy lý luận, tư  duy trừu tượng một cách độc lập sáng  tạo. Tư  duy của các em chặt chẽ  hơn, có căn cứ  và nhất quán hơn.  Đồng thời  tính phê phán của tư  duy cũng phát triển. Tuy nhiên số học sinh THPT đạt tới  mức tư duy đặc trưng cho lứa tuổi như trên hiện nay còn chưa nhiều.  Tóm   lại   ở   tuổi   thanh   niên   mới   lớn   những   đặc   điểm   chung   của   con  người   về  mặt  trí  tuệ   thông thườ ng  đã   đượ c  hình thành  và  chúng vẫn  còn  được tiếp tục hoàn thiện. 1.3.3. Sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi 1.3.3.1. Sự phát triển của tự ý thức  Sự  phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân   cách của thanh niên mới lớn, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự  phát triển tâm lý   của lứa tuổi thanh niên. Sau đây là những đặc điểm cơ bản của quá trình: ●   Ở tuổi thanh niên các em vẫn tiếp tục chú ý đến hình dạng bên ngoài  của mình như  (hay soi gương, chú ý sửa tư thế, quần áo…). Hình  ảnh về  thân  thể là một thành tố quan trọng của sự tự ý thức ở thanh niên mới lớn.  ●  Sự  hình thành tự  ý thức  ở  lứa tuổi thanh niên là một quá trình lâu dài,  trải qua những mức độ khác nhau và diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi với tính chất đặc   thù riêng. Thanh niên có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý  của mình, vì vậy các em quan tâm sâu sắc đến đời sống tâm lý, phẩm chất nhân   cách và năng lực riêng của bản thân.  ● Đặc điểm quan trọng trong sự tự ý thức của thanh niên là sự tự ý thức  của họ xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động ­ địa vị  mới mẻ trong  tập thể, những quan hệ mới với thế giới xung quanh. Các em hay ghi nhật ký, so  sánh mình với nhân vật được xem “là thần tượng”.  ● Nội dung của tự ý thức cũng khá phức tạp. Các em không chỉ nhận thức  về cái tôi của mình trong hiện tại mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã  hội, trong tương lai. Thanh niên biết đánh giá nhân cách mình nói chung trong  toàn bộ  những thuộc tính nhân cách. Thanh niên không chỉ  có nhu cầu đánh giá   mà còn có khả năng đánh giá sâu sắc về những phẩm chất, mặt mạnh,  mặt yếu  của những người cùng sống và của chính mình. Nhưng tự  đánh giá khách quan  không phải là dễ  dàng. Các em thường có xu hướng cường điệu hóa: đánh giá   thấp cái tích cực, tập trung phê phán cái tiêu cực, hoặc là đánh giá quá cao nhân   cách của mình ­ tỏ ra tự cao, coi thường người khác.  6
  13. 1.3.3.2. Sự hình thành thế giới quan khoa học Dấu hiệu của sự  hình thành thế  giới quan  ở  các em là sự  phát triển của  hứng thú nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ  trụ. Các em cố gắng xây dựng quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học, đối với   các vấn đề  xã hội, tư  tưởng chính trị, đạo đức. Chính nội dung các môn học  ở  phổ  thông trung học giúp cho các em xây dựng được thế  giới quan tích cực về  mặt tự nhiên, xã hội. Vấn đề ý nghĩa cuộc sống chiếm vị trí trung tâm trong suy   nghĩ của thanh niên.  Tuy nhiên, một bộ  phận thanh niên có lối sống thụ  động do chưa đượ c  giáo dục đầy đủ  về  thế  giới quan hoặc  ảnh hưởng khá mạnh của tàn dư  tiêu  cực quá khứ.  1.3.4. Nhu c ầu giao ti ếp và đời sống tình cảm của học sinh trung   học phổ thông a. Nhu cầu giao tiếp Tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi mang tính chất tập thể  nhất đối với   các em. Điều quan trọng là được sinh hoạt với các bạn cùng lứa tuổi, là cảm   thấy mình cần cho nhóm, có uy tín, có vị trí nhất định trong nhóm. Trong các lớp   học dần dần xảy ra một sự “phân cực” nhất định, xuất hiện những người được  lòng nhất và những người ít được lòng nhất. Những em có vị  trí thấp (ít được  lòng các bạn) thường băn khoăn và suy nghĩ nhiều về nhân cách của mình.  Ở giai đoạn này quan hệ với bạn bè chiếm vị  trí lớn hẳn so với các mối  quan hệ  với người khác. Điều này do lòng khao khát muốn có vị  trí bình đẳng  trong cuộc sống chi phối. Cùng với sự  trưởng thành nhiều mặt, quan hệ  dựa   dẫm, phụ  thuộc vào cha mẹ  dần dần cũng được thay thế  bằng quan hệ  bình  đẳng, tự lập. Trong giao tiếp, thanh niên hướng vào bạn bè nhiều hơn là hướng vào cha  mẹ.   Nhưng khi bàn đến những giá trị  sâu sắc hơn như  chọn nghề, thế   giới  quan, những giá trị đạo đức thì ảnh hưởng của cha mẹ lại mạnh hơn.  b.Đời sống tình cảm  Đời sống tình cảm của thanh niên mới lớn rất phong phú và nhiều vẻ. Đặc   điểm đó được thể hiện rõ nhất trong tình bạn của các em, vì đây là lứa tuổi mà  những hình thức đối xử  có lựa chọn đối với mọi người trở  nên sâu sắc và mặn  nồng. Ở  tuổi thanh niên mới lớn nhu cầu về  tình bạn được tăng lên rõ rệt và  mức độ  cũng sâu sắc hơn. Trong quan hệ với bạn các em cũng nhạy cảm hơn:   không chỉ có khả năng xúc cảm chân tình, mà còn phải có khả năng đáp ứng lại   xúc cảm của người khác (đồng cảm). Tình bạn của thanh niên mới lớn rất bền   vững, và tồn tại rất lâu. 7
  14. Tình bạn được các em coi là mối quan hệ  quan trọng nhất của mình.   Thanh niên thường  lý tưởng hóa tình bạn. Họ  nghĩ về  bạn thường  giống với  điều mình mong muốn ở bạn hơn là thực tế. Sự quyến luyến mạnh mẽ về mặt   cảm xúc khiến các em ít nhận thấy những đặc điểm thực tế ở bạn. Quan niệm của thanh niên về tình bạn và mức độ thân tình trong tình bạn   có sự khác nhau. Nguyên nhân kết bạn cũng rất phong phú (vì phẩm chất tốt ở  bạn, vì tính tình tương phản, vì có hứng thú sở thích chung…).  Một điều cần chú ý nữa là ở thanh niên mới lớn, quan hệ giữa nam và nữ  được tích cực hóa một cách rõ rệt. Bên cạnh các nhóm thuần nhất, có khá nhiều  nhóm pha trộn (cả nam và cả nữ). Do đó ở một số em đã xuất hiện những sự lôi  cuốn đầu tiên khá mạnh mẽ, xuất hiện nhu cầu chân chính về  tình yêu và tình   cảm sâu sắc. Đó là một trạng thái mới mẽ, nhưng rất tự  nhiên trong đời sống   tình cảm của thanh niên mới lớn.  1.3.5. Hoạt động lao động và sự lựa chọn nghề nghiệp  Hoạt động lao động tập thể có vai trò to lớn trong sự hình thành nhân cách  thanh niên mới lớn. Hoạt động lao động được tổ chức đúng đắn sẽ giúp các em   hình thành tinh thần tập thể, lòng yêu lao động, tôn trọng lao động, người lao   động và thành quả  lao động, đặc biệt là có được nhu cầu và nguyện vọng lao   động (Lê Hồng Minh, 2001).  Việc lựa  chọn nghề  nghiệp đã trở  thành công việc khẩn thiết của học   sinh phổ  thông, cuối cấp học thì sự  lựa chọn càng nổi bật. Dù có vô tâm đến  đâu, thì thanh niên mới lớn cũng phải quan tâm, có suy nghĩ trong chọn nghề.   Việc quyết định một nghề  nào đó  ở  nhiều em đã có căn cứ, biết so sánh đặc   điểm   riêng  về   thể   chất,  tâm  lý,  khả  năng   của   mình  với  yêu  cầu  của  nghề  nghiệp, dù sự  hiểu biết của các em về  yêu cầu của nghề  nghiệp là chưa đầy   đủ.  Hiện tại có không ít học sinh còn định hướng một cách phiến diện vào  việc học tập ở đại học và học ở trường dạy nghề. Đại đa số các em hướng dẫn  vào các trường đại học hơn là học nghề… Điều đó cũng cho thấy các em chưa   chú ý đến nhu cầu xã hội đối với các ngành nghề khác nhau và mức độ đào tạo  của các nghề trong khi quyết định đường đời. 1.4. Khó khăn tâm lý của học sinh trung học phổ thông 1.4.1. Stress ở tuổi thanh thiếu niên Theo Charmaine Sauaders (2004), thì  stress có những biểu hiện bất thường về thể lý, về phản ứng tình cảm và sai sót  về tâm lý.   ◘ Triệu chứng thể lý Triệu chứng thể  lý của stress bao gồm các chứng: nhức đầu, mất ngủ,  căng thẳng, tức ngực, đau nhức những bộ  phận khác của cơ  thể  và mệt mỏi   kinh niên. Cảm giác căng thẳng đưa đến stress có thể tích lũy trong cơ thể và tự  8
  15. nó thường thể hiện qua những cơn đau nhức khó chịu.  ◘  Phản  ứng tình cảm Trong quan hệ  giao tiếp, phản  ứng tình cảm của   người đang bị stress có thể biểu hiện qua những triệu chứng: thiếu tự chủ, trầm   cảm mãn tính, dễ cáu kỉnh, mất niềm vui ở cuộc sống… ◘  Sai sót về  tâm lý Stress có thể  gây ra những vấn đề  tâm lý như: thiếu  tập trung, khó quyết định, hay nhầm lẫn và nhạy cảm một cách thái quá.  Sự  thay đổi về  kích thích tố  và những phát triển diễn ra khốc liệt  ở tuổi  thanh thiếu niên có thể gây ra hầu hết những căng thẳng liên tục.  Cũng theo Charmaine Sauaders (2004) stress của tuổi thanh thiếu niên là  do:  Chính bản chất của lứa tuổi thanh thiếu niên. Đương đầu với những vấn  đề thường ngày của gia đình. Những thay đổi về  sinh lý và áp lực xảy ra trong  cuộc sống. Phải hứng chịu những áp lực từ nhà trường, từ công việc và từ chính  cá nhân. Tiếng  ồn, vấn đề  tiền bạc, những yêu cầu của công việc… Phát sinh   những cảm xúc tính dục khi đối diện với người khác phái.  1.4.2. Những áp lực ở học sinh trung học phổ thông 1.4.2.1. Áp lực từ gia đình Mái  ấm gia đình là nơi bình yên cho mỗi thành viên trong gia đình trở  về  sau một ngày làm việc, học tập mệt mỏi. Nhưng đôi khi gia đình lại là nơi tạo  áp lực cho các em, bởi những nguyên nhân sau:  Cha mẹ lao vào kiếm tiền với hy vọng con mình sẽ đầy đủ vật chất, họ  không có thời gian để trò chuyện, quan tâm tới học hành của con cái. Họ lãng  quên đi nhu cầu cần chia sẻ, hướng dẫn t ừ người l ớn c ủa các em (Như  Lịch,   Thiên Long, 2007).  Có  gia  đình khó khăn kinh tế  phải hạn chế  chi tiêu, mẹ  khó tính, bố  nghiện rượu hoặc bạo lực, nhà cửa quá chật chội... Mặt khác lứa tuổi thanh   thiếu niên thì luôn có những công việc lặt vặt, những trách nhiệm trong gia đình,  những quy tắc phải tuân theo. Nhưng với nhiều em, nhất là các bạn trai, công  việc trên dường như  là điều luôn gây khó chịu, gia đình có thể  là một nơi mà   bạn phải chịu đựng nhiều điều, thậm chí gây thù địch, cản trở tự do..  Các em muốn được tự  do bày tỏ  những quan điểm,  ước muốn, dự  định   riêng, qua cách sinh hoạt thất thường về giờ giấc, cách ăn mặc và kiểu tóc kinh  dị, nghe những loại nhạc kích động,… (Lê Văn Hồng và CTV, 1998). Điều này làm cho bậc cha mẹ khó chịu, la mắng hay cằn nhằn. Vì vậy các   em cảm thấy bực bội và phản  ứng lại bằng cách: cải lại hoặc ngôi yên bằng   thái độ thách thức.  Theo Kiến Văn, Lý Chủ  Hưng (2007) có một số  lĩnh vực chính gây xung  đột và căng thẳng trong gia đình là:  9
  16. ◘ Sự khác biệt về tính cách tâm lý giữa những người trong gia đình.  ◘  Đụng chạm về  nhu cầu, cách sinh hoạt của các thành viên trong gia  đình. Sự đụng chạm thường mang tính hình thức là những bực tức nhỏ.  ◘  Những mong đợi của cha mẹ. Bậc cha mẹ  thường mong muốn rất   nhiều điều và hay đặt ra những tiêu chuẩn cao, đầy kỳ vọng nơi con cái. Họ đòi  hỏi con cái phải biết hành động một cách hợp tình, hợp lý, có trách nhiệm trong   khi các em lại muốn sống tự do và được là chính mình. Chính sự kỳ vọng, quan  tâm không đúng mức của cha mẹ làm học sinh có tâm lý lo sợ. ◘  Sức ép trong cuộc sống hiện đại. Nói chung, tuổi thanh thiếu niên có  thể  thay đổi tính cách của mình: vừa là một người lầm lì, khó chịu khi  ở  nhà,  nhưng ra ngoài vẫn có thể là một người rất đáng yêu, đáng tính nhiệm. Và tính  tình có thể  thật thoải mái dễ  chịu  ở  môi trường này, nhưng cũng có tính khí  thất thường ở nơi khác. ◘  Bất mãn trước quyền lực và những quy tắc luật lệ do gia đình đưa ra.  Đây là lãnh vực chính gây căng thẳng đối với lứa tuổi thanh thiếu niên. Mặc dù  quá trình trưởng thành khiến các em có những hành vi vô lý hoặc gây khó khăn  cho người khác nhưng nguyên nhân sâu xa của vấn đề  là do xuất hiện bất mãn  trong tâm lý các em. Khi còn nhỏ, cha mẹ  xuất hiện như  những thần tượng,  đáng yêu và là  những người đem đến mọi sự, mặc dù có thể  trong thực tế họ không như  vậy.   Đến khi trở thành một thanh thiếu niên, các em đánh mất vầng hào quang này và  nhìn thấy cha mẹ với tất cả những bất toàn của họ.  ◘ Ly dị  Đây là một vấn đề  chưa xảy ra  ở  lứa tuổi thanh thi ếu niên, nhưng nếu   trong gia đình có tình trạng này, thì có thể gây ra những ảnh hưởng lâu dài đối  với   các   em   làm   đảo  lộn  nền   tảng  an   toàn   của   gia   đình  và   khó   lườ ng  hết  những tác hại đau lòng.  1.4.2.2. Áp lực từ nhà trường  Ở trường, hầu hết những stress của các em phát sinh từ 3 lĩnh vực: áp lực  từ bạn bè, những vấn đề về học tập và mâu thuẫn với thầy cô giáo (Charmaine  Sauaders, 2004).  ◘ Áp lực từ bạn bè: Các bạn trẻ  hầu hết có tư  tưởng cực đoan thậm chí muốn buông thả,  chấp nhận trả giá cao cho lối sống hoàn toàn tự  do, không lệ  thuộc vào  bất cứ  điều gì. Có những em khước từ  những người bạn vì lối ăn mặc của họ  hoặc   học hành quá chăm chỉ  hoặc có lối sống quá tĩnh lặng hoặc tỏ  ra quá tôn trọng  người khác và đôi khi không vì lý do rõ rệt nào cả. Các em thường lo lắng về vị  trí của mình trong nhóm. Nhiều em có ý định hoặc nghĩ đến việc tự  vẫn, thậm   10
  17. chí còn đưa ra tình trạng bị khước từ và cảm giác cô độc như là nguyên nhân cho  hành động của mình. Các em thường lý tưởng hóa tình bạn, có sự  quyến luyến   mạnh mẽ về mặt cảm xúc khiến các em ít thấy những đặc điểm thực tế ở bạn  nên rất dễ bị “vỡ mộng”. Áp lực từ  bạn bè là sự   ảnh hưởng của những người đồng trang lứa trực   tiếp tác động lên nhau theo thời gian. Bạn bè thường có khuynh hướng hay đưa  ra nhận xét về tất cả những điều mà các em làm và sự tán thành của họ rất quan   trọng. Đối với nhiều thanh thiếu niên, điều nguy hiểm là các em rất nhạy cảm  và quá bận tâm đến sự  tán thành hay chê bai của bạn bè. Các em liên tục muốn  thử sức mình và có thể bị bạn bè xấu khiêu khích “thử lửa” với những thói xấu  hoặc tệ  nạn xã hội: hút thuốc lá, uống rượu, sử  dụng ma túy, đua xe, quan hệ  trai gái bừa bãi, hoặc có những hành động mang tính cách phá hoại với mục đích  chỉ để mua vui cho mình.  ◘ Những vấn đề về học tập Những vấn đề trong việc học hành là một nguyên nhân khác có thể gây ra  những cảm giác căng thẳng và áp lực nơi các em. Các em thường gặp khó khăn về  phươ ng pháp học tập, đây là nhân tố  ảnh  hưởng  đến   kết   quả   học   tập  và   trạng   thái  tâm   lý  bên   trong   học   sinh.   Trong quá trình tiếp thu bài học với kiến thức đã nhiều mà phươ ng pháp dạy  theo kiểu nhồi nhét,  buộc học thuộc , làm học sinh căng thẳng, lo sợ  không  giải quyết hết nhiệm vụ h ọc t ập. Nội dung chương trình quá nặng, mang tính hàn lâm mà thiếu tính phổ  thông, căn bản khoa học, sẽ làm cho học sinh quá tải về trí tuệ. Không có thời  gian vui chơi giải trí, tự học tự khám phá, làm giảm khả năng sáng tạo của học   sinh.  Hình thức tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, trách phạt, kỷ luật   nghiêm khắc làm các em lo lắng, xấu hổ dẫn đến áp lực cho các em.  Tuổi trẻ có quá nhiều ước mơ đến nổi các em tin rằng mình là người giỏi   giang nhất và cứ thế đeo đuổi suy nghĩ đó nhưng rồi các em phải trải qua các kỳ  thi, giải quyết những bài vở  và công việc được giao, phải đương đầu với vấn  đề  điểm số  thứ  hạng làm vỡ  mộng. Như  vậy bài vở  là yếu tố  gây căng thẳng  nhất đối với các thanh thiếu niên.  Nguyên nhân chính gây áp lực trong lớp học là nổi buồn chán, không có  khả năng trả lời các câu hỏi của giáo viên, xung đột và thái độ xấu của bạn bè.   Bạn trẻ thường thấy chán nản khi không theo dỏi bài học hoặc tâm trí sao lãng. ◘ Mâu thuẫn với thầy cô giáo  Các em cũng có vấn đề  đối với các thầy cô giáo, ban giám hiệu và các   quy tắc trong trường. Chính bản chất lứa tuổi thanh thiếu niên khiến bạn trẻ  muốn   nổi   loạn,   hay   thắc   m ắc   và   bất   chấp,   trong   khi   tính   cách   này   khiến   11
  18. người lớn tức điên lên.  Tóm lại, một trong những áp lực lớn nhất mà các em phải đương đầu đó  là những bận tâm về tương lai và sự thành đạt ở đời, bao gồm: những áp lực từ  phía cha mẹ  và xã hội, nhu cầu có bằng cấp cao, có công việc  ổn định, những   hoài bão về  công danh sự  nghiệp và có mức sống với những điều kiện kinh tế  hiện hành. Nhưng trong thời đại này, các em còn phải đối diện với thực tế phức   tạp hơn nhiều, đó là sự  cạnh tranh gay gắt về công ăn việc làm, những trở ngại   lớn lao, cụ  thể  là nạn thất nghiệp tràn lan, tất cả  những điều này đòi hỏi các  bạn trẻ luôn phải phấn đấu vượt qua.  1.4.2.3 Áp lực từ vấn đề sức khỏe giới tính  Lứa tuổi thanh thiếu niên dễ  bị  stress vì các bạn đang sống trong cảm  giác mờ   ảo của những cảm xúc lẫn lộn và đầy  ảo giác về  sự  phát triển tâm   sinh lý bản thân: mặc cảm về hình thức, lo lắng băn khoăn về những biểu hiện   của cơ  thể, về mối quan hệ với bạn khác giới. Các em thường rất dễ  bị  lúng   túng, đôi khi là sự bế  tắc, sự  sai lầm trong cách giải quyết vấn đề, trong cách   xử lý các tình huống “gay cấn”.  Bậc phụ  huynh vẫn thường hay nói với các thanh thiếu niên rằng họ  không còn là đứa trẻ thơ nữa và nên hành động một cách có trách nhiệm, nhưng  mặt khác, những tiêu chuẩn về cách cư  xử  mà người lớn đặt ra cho các em lại  có nhiều giới hạn, khiến các bạn thấy bối rối không ít, đặc biệt nhất trong lĩnh   vực tính dục (Lê Văn Hồng và CTV, 1998).  Xong  ở  các em đã có sự  quan tâm nhiều đến những vấn đề  tình dục, về  sinh sản, về tình yêu nhưng rất ít hiểu biết. Nên việc tìm đọc, xem tranh ảnh về  nội dung giới tính là một nhu cầu tất yếu. Điều này không có gì sai trái nhưng   với luồng thông tin đa dạng đó, có cả  tốt lẫn xấu nếu không có sự hướng dẫn,  kiểm soát của bậc phụ  huynh thì các em khó mà chọn lọc, biết cái gì nên hay   không nên, dễ rơi vào thế bị động và hoang mang.    12
  19. Chương 2 PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ THẢO LUẬN 2.1. Khó khăn tâm lý của học sinh trường trung học phổ  thông Yên   Thành 2 2.1.1. Tâm lý hiện tại của học sinh trường trung học phổ thông Yên   Thành 2 Bảng 2.1. Tâm lý hiện tại của học sinh trường THPT Yên Thành 2 Khối  Khối  Khối 12 Tổng 10 11 Mức độ cảm nhận Thứ   % % % % bậc Rất hài lòng và yên tâm 5,5 5 7,5 6 4 Về cơ bản là hài lòng 21 20 16,25 19,2 3 Hài lòng và lo lắng pha trộn 48 37,5 43,75 43,2 1 Lo lắng nhiều hơn hài lòng 20 26,25 27,5 24,4 2 Thường xuyên lo lắng 4,5 6,25 5 5,2 5 Ý kiến khác 1 5 0 2 6 Từ  bảng 2.1: có 6% số  học sinh được khảo sát là có trạng thái tâm lý   “hài lòng và hoàn toàn yên tâm” với cuộc sống của mình, con số  này chiếm   một tỷ lệ rất nhỏ.  Số còn lại tới 94% có tâm trạng lo lắng ở các mức độ khác nhau, trong đó  5,2% “thường xuyên lo lắng”. Những em này có nguy cơ cao dẫn tới sự lo âu và   rối nhiễu tâm lý, cần được sự  hỗ  trợ  kịp thời và đúng lúc từ  phía gia đình, nhà  trường và 2% “ý kiến khác”: “các em chẳng hài lòng mà cũng chẳng lo lắng”.   Cũng từ số liệu trên cho thấy phản ánh sự căng thẳng quá mức của số đông học   sinh trường THPT Yên Thành 2. So sánh sự  khác biệt về  mức độ  lo lắng, không an tâm của học sinh   giữa các khối 10, 11, 12 thì sự  sai khác là không đáng kể. Khối nào cũng có  những nỗi lo riêng:  Khối 10, có 93,5% HS có tâm trạng lo lắng, vì là khối đầu cấp với môi  trường học xa lạ, chương trình học mới, bạn bè mới… gây cho các em lo âu,  căng thẳng. Trong khi, 92,5% HS khối 12 có tâm trạng lo lắng, vì là khối cuối  cấp với những áp lực chọn ngành nghề, thi tốt nghiệp, đại học, tình yêu tuổi  mới lớn… và HS khối 11 có tâm trạng lo lắng ít nhất trong 3 khối vì các em đã   qua giai đoạn bỡ  ngỡ   ở  lớp 10, mà cũng chưa bị  áp lực cuối cấp của 12, tuy   nhiên các em cũng không thoát khỏi trạng thái tâm lý này 90%.  13
  20. Còn về  mức độ  cảm nhận “hài lòng và hoàn toàn yên tâm” thì học sinh  khối 12 có tỷ lệ chọn là cao nhất trong ba khối (7,5%). Điều này có thể lý giải  được vì học sinh khối 12 có sự  phát triển hoàn thiện hơn về  cơ  thể  cũng như  thái độ nhận thức so với 2 khối còn lại.  2.1.2 Các khía cạnh thể  hiện khó khăn tâm lý của học sinh trường   trung học phổ thông Yên Thành 2  Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế ­ xã hội   cùng các yêu cầu ngày càng cao của nhà trường, thêm vào đó là sự kỳ vọng quá  mức của gia đình đang tạo ra những áp lực lớn gây căng thẳng cho HS. Hậu quả  là ngày càng có nhiều HS gặp khó khăn trong học tập, xây dựng lý tưởng sống,  cách thức  ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ  xung quanh. Khó khăn tâm lý  cụ  thể mà học sinh trường THPT Yên Thành 2 gặp phải là rất đa dạng, các số  liệu ở bảng sau đã phản ánh điều này. Bảng 2.2 Các khía cạnh thể hiện khó khăn lý tâm của HS  trường THPT Yên Thành 2 Khối 10 Khối 11 Khối 12 Tổng Nội dung Mức độ % M % M % M % M Rất khó khăn 30 37,5 12,5 26,8 Quan hệ  Hơi khó khăn 53 2,1 50 2,25 40 1,65 48 2 gia đình Không khó khăn 17 12,5 47,5 25,2 Rất khó khăn 57,8 37,5 8,75 35,6 Quan hệ  Hơi khó khăn 20 2,35 43,75 1,94 22,5 1,4 20,4 1,9 bạn bè Không khó khăn 22,2 23,75 68,75 44 Rất khó khăn 67,8 23,75 16,25 37,2 Quan hệ  Hơi khó khăn 17,8 2,53 31,25 1,78 33,75 1,66 27,2 2 thầy trò Không khó khăn 14,4 45 50 35,6 Học tập  Rất khó khăn 61,1 21,25 20 44,8 nghề  Hơi khó khăn 16,7 2,3 33,75 53,75 1,9 34 2,2 nghiệp Không khó khăn 22,2 15 21,2 Rất khó khăn 47,8 25 25 26 Sức khỏe  Hơi khó khăn 33,3 2,3 30 20 1,3 28 1,8 giới tính Không khó khăn 18,9 45 77,5 46 Nhìn chung HS gặp khó khăn  ở  rất nhiều lĩnh vực, với các mức độ  khác   nhau. 78,8% HS gặp khó khăn trong học tập, xây dựng lý tưởng sống, xác định,   14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0