intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài tập sửa sai nhằm nâng cao chất lượng học tập và giảng dạy nhảy cao lớp 10 trường THPT Quỳnh lưu 4

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:50

17
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là góp phần nào nâng cao chất lượng giảng dạy nội dung nhảy cao cho các thầy cô của trường THPT Quỳnh Lưu 4 cũng như các thầy cô ở các trường trong huyện, trong tỉnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài tập sửa sai nhằm nâng cao chất lượng học tập và giảng dạy nhảy cao lớp 10 trường THPT Quỳnh lưu 4

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI MỘT SỐ BÀI TẬP SỬA SAI NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP VÀ GIẢNG DẠY NHẢY CAO LỚP 10 TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4 Lĩnh vực: Phương pháp dạy học bộ môn
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI MỘT SỐ BÀI TẬP SỬA SAI NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP VÀ GIẢNG DẠY NHẢY CAO LỚP 10 TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4 Lĩnh vực: Phương pháp dạy học bộ môn Người thực hiện: Trần Văn Chương ĐT: 0986820737 NĂM HỌC: 2020 – 2021
  3. MỤC LỤC Phần I. Đặt vấn đề.........................................................................................................1 Phần II. Nội Dung nghiên cứu.......................................................................................4 1. Cơ sở khoa học......................................................................................................4 a. Cơ sở lý luận........................................................................................................4 b. Cơ sở thực tiễn.....................................................................................................6 2. Thực trạng vấn đề:................................................................................................7 Bảng 2.1 . Thực trạng về mức độ yêu thích các nội dung điền kinh của học sinh những năm gần đây (số học snh được phỏng vấn n = 100)..................................10 Năm học 2019-2020...............................................................................................10 Năm học 2020-2021...............................................................................................10 Bảng 2.2 . Kết quả phỏng vấn về yêu cầu lựa chọn bài tập bổ trợ........................11 (số người phỏng vấn n = 10).................................................................................11 3. Lựa chọn hệ thống các bài tập...........................................................................12 3.1. Hệ thống các bài tập sửa sai............................................................................12 3.2. Hệ thống bài tập bổ trợ kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng................................13 3.3. Hệ thống bài tập nhằm phát triển thể lực:.......................................................14 Bảng 3.1. Kết quả phỏng vấn hệ thống bài tập sửa sai.........................................15 (số người phỏng vấn n = 10).................................................................................15 Bảng 3.2. Kết quả phỏng vấn hệ thống bài tập bổ trợ kỹ thuật............................16 (số người phỏng vấn n = 10).................................................................................16 Bảng 3.3. Kết quả phỏng vấn hệ thống bài tập phát triển thể lực(số người phỏng vấn n = 10).............................................................................................................18 4. Các giải pháp.......................................................................................................20 4.1. Giải pháp 1: Công tác tư tưởng và khảo sát..................................................20 4.2. Giải pháp 2: Phân nhóm đối tưởng học sinh..................................................21 4.3. Giải pháp 3: Lồng ghép các bài tập sửa sai vào từng tiết học.......................21
  4. 4.4. Giải pháp 4: Kết hợp hệ thống bài tập bổ trợ chuyên môn và hệ thống bài tập phát triển thể lực vào giảng dạy kĩ thuật...............................................................22 4.5. Giải pháp 5: Sự dụng một số trò chơi nhỏ vào giảng dạy nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tập luyện thể thao....................................................................24 4.6. Giải pháp 6: Giáo dục đạo đức, tinh thần, thái độ cho học sinh trong giờ học. ...............................................................................................................................29 4.7. Giải pháp 7: Giao bài tập về nhà...................................................................30 Phần III : Kết luận.......................................................................................................37 1. Kết luận :..............................................................................................................37 2. Kiến nghị:.............................................................................................................37 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................38 PHỤ LỤC.................................................................................................................39
  5. Phần I. Đặt vấn đề Lý do chọn đề tài Ngày nay đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá với tinh thần “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Việc tập luyện thể dục thể thao (TDTT) đã đem lại sức khoẻ cho con người, hoàn thiện về thể chất cho nhân dân lao động, có thể nói sức khoẻ con người là một yếu tố hợp thành quan trọng của lực lượng sản xuất, có sức khoẻ mới có lao động, có lao động mới có sự sáng tạo sản xuất ra của cải vật chất. Đất nước lớn mạnh cùng với sự lớn mạnh của nhiều ngành trong cả nước, trong đó TDTT cũng được phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Điền kinh là môn thể thao cơ bản nó chiếm vị trí quan trọng trong chương trình thi đấu của các đại hội Olympic Quốc tế, còn được mệnh danh là nữ hoàng sắc đẹp và trong đời sống thể thao của nhân loại. Điền kinh được phát triển cùng với sự ra đời của xã hội loài người, ngay từ những ngày đầu tiên xuất hiện xã hội loài người, các bài tập điền kinh đã được loài người sử dụng từ thời cổ Hy Lạp. Song lịch sử phát triển của nó được ghi nhận trong cuộc thi đấu chính thức từ năm 776 trước công nguyên, cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Từ những hoạt động trong lao động sản xuất tạo ra những kỹ năng, kỹ xảo để tự vệ, để chiến đấu và phòng chống thiên tai, dần dần hình thành các trò chơi vận động, các cuộc thi đấu và nó thu hút mọi người tham gia tập luyện. Chính vì thế mà điền kinh được coi là một trong những nội dung chính và không thể thiếu được trong các kỳ thi đấu của thế vận hội Olympic, giải thế giới châu lục và quốc gia. Nội dung điền kinh không chỉ là các môn thi đấu mà nó có ý nghĩa tập luyện, do đó điền kinh là một trong những môn thể thao có vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục thể chất, đồng thời là môn học chủ yếu đối với học sinh ở các trường trung học, nó chiếm tỷ lệ 60% so với các nội dung khác. Điền kinh nói chung, gồm nhảy cao nói riêng trong trường trung học phổ thông còn là một mặt của giáo dục toàn diện, trang bị cho học sinh những kiến thức về lĩnh vực thể dục thể thao, phát triển toàn diện các tổ chức thể lực giúp các em có thể học tốt các môn học văn hóa, lao động sản xuất và mọi công tác khác. Tập luyện điền kinh một cách có hệ thống và khoa học có tác dụng củng cố và tăng cường sức khỏe, là cơ sở để phát triển toàn diện các tố chất thể lực, tạo điều kiện để nâng cao thành tích các môn thể thao khác.Trong cuộc sống hiện nay, vị trí công tác TDTT trong nhà trường càng được xác định theo đúng tầm quan trọng của nó. Thông qua giáo dục trong bộ môn giáo dục thể chất (GDTC), đã bồi dưỡng cho học sinh những đức tính dũng cảm, giúp học sinh biết được kĩ năng cơ bản để tập luyện giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể lực, góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kỉ luật, thói quen tự giác tập luyện thể dục thể thao, giữ gìn vệ sinh. Có sự tăng tiến về thể lực, đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và thể hiện khả năng của bản thân về thể dục thể thao, biết vận dụng những điều đã học vào nếp sinh hoạt ở trong và ngoài nhà trường, góp phần chuẩn bị cho thế hệ trẻ có nếp 1
  6. sống, tác phong công nghiệp. Trong giáo dục thể chất, điền kinh là nội dung cơ bản, là nền tảng để phát triển các tố chất thể lực cơ sở cho các môn thể thao khác. Điền kinh bao gồm nhiều môn thi đấu, trong đó môn nhảy cao nói chung và nhảy cao kiểu nằm nghiêng nói riêng là môn thi đấu và tập luyện phổ biến rộng rãi trong các trường phổ thông, các hội khỏe phù đổng từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng của học sinh, sinh viên so với khu vực và thế giới còn khá khiêm tốn. Bởi vậy mà việc giảng dạy môn nhảy cao kiểu nằm nghiêng ngày càng được chú trọng song vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Như ta đã biết nhảy cao là một môn thể thao có tác dụng nâng cao năng lực hoạt động nội tạng, phát triển các tố chất sức bật, sức nhanh, sự khéo léo...Không chỉ vậy nhảy cao kiểu nằm nghiêng còn có tác dụng rèn luyện tinh thần dũng cảm và ý chí vượt qua mọi khó khăn, phục vụ tốt yêu cầu của đời sống hàng ngày trong lao động và học tập. Mặt khác mục tiêu cần đạt của kĩ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng theo chuẩn kiến thức, kĩ năng là: Học sinh biết cách thực hiện 4 giai đoạn kĩ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng. Một số trò chơi, động tác bổ trợ kĩ thuật và phát triển sức mạnh chân; Thực hiện cơ bản đúng các giai đoạn kĩ thuật: chạy đà, giậm nhảy, trên không, tiếp đất. Vận dụng những kiến thức đã học vào tập luyện và thi đấu. 2
  7. Qua nhiều năm công tác và giảng dạy ở trường THPT tôi nhận thấy kĩ thuật nhảy cao của học sinh còn yếu, đặc biệt là kĩ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng. Vì nội dung học hoàn toàn mới và tương đối khó so với nhảy cao kiểu bước qua mà các em đã học ở trường cấp II nên mức độ tiếp thu còn chậm, không vận dụng được kỷ thuật để thực hiện tốt động tác, tính tích cực chủ động còn yếu. Qua trao đổi và dự giờ với đồng nghiêp hầu như các đồng chí đều băn khoăn trăn trở, chưa có hướng giảng dạy để khắc phục những điểm yếu trên. Xuất phát từ thực tế nêu trên vấn đề đặt ra là phải lựa chọn ra những bài tập phù hợp với điều kiện thực tế nhằm nâng cao thành tích môn nhảy cao nằm nghiêng trong chương trình giảng dạy ở các trường phổ thông, trong những năm gần đây tôi đã mày mò, thử nghiệm một số bài tập và đã có kết quả khả quan, hy vọng sẽ giúp được nhiều đồng nghiệp tháo gỡ khó khăn khi giảng dạy nhảy cao lớp 10. Xuất phát từ những lý do trên tôi mạnh dạn đưa ra đề tài: “Một số bài tập sửa sai nhằm nâng cao chất lượng học tập và giảng dạy nhảy cao lớp 10 trường THPT Quỳnh lưu 4” Đề tài là các giải pháp hoàn toàn mới do cá nhân tự mày mò đúc rút từ kinh nghiệm của bản thân nghiên cứu mong rằng sẽ góp một phần nhỏ vào công tác viết sáng kiến, nghiên cứu khoa học của trường cũng như của nghành trong tỉnh nhà và các giải pháp tôi đưa ra góp phần nào nâng cao chất lượng giảng dạy nội dung nhảy cao cho các thầy cô của trường THPT Quỳnh Lưu 4 cũng như các thầy cô ở các trường trong huyện, trong tỉnh. 3
  8. Phần II. Nội Dung nghiên cứu 1. Cơ sở khoa học a. Cơ sở lý luận - Vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của điền kinh nói chung và nhảy cao nói riêng Ngày nay, với quan điểm giáo dục toàn diện về “Đức, trí, thể, mỹ” hay phậm chất và năng lực trong đó giáo dục thể chất là một bộ phận hữu cơ, là 1/10 năng lực mà giáo dục hướng tới, là yêu cầu tất yếu, nội dung quan trọng của quá trình giáo dục thế hệ trẻ, bởi xét về góc độ nào đó thì giáo dục thể chất là một quá trình sư phạm nhằm tăng cường bảo vệ sức khoẻ cho mọi người, đặc biệt là học sinh THPT, những chủ nhân tương lai của đất nước. Với chiến lược phát triển con người toàn diện thì việc tập luyện thể dục thể thao chiếm vị trí quan trọng ở mỗi cấp học. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Ngày nay, Đảng và Chính phủ lấy tư tưởng đó làm nền tảng cho công tác giáo dục thế hệ trẻ, trở thành con người phát triển về mọi mặt: Có tri thức, có sức khỏe dồi dào và thể chất cường tráng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, phong trào tập luyện thể dục thể thao được phát triển rộng rãi khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi và đặc biệt là được phát triển sâu rộng trong các trường học. Giáo dục thể chất trong trường học là nhiệm vụ quan trọng trong việc trang bị kiến thức, kỹ năng cơ bản cho học sinh, củng cố và phát triển tố chất thể lực học sinh. Mục tiêu của Giáo dục thể chất là phát triển toàn diện các tố chất thể lực, hình thể, nâng cao sức khỏe, phát triển thành tích thể thao đồng thời góp phần hình thành nhân cách cho học sinh các cấp. Môn điền kinh là một môn thể thao có vị trí quan trọng trên đấu trường quốc tế, là một trong những môn thi chính trong các kì đại hội thể thao của các châu lục, của thế giới, của các kì Olympic quốc tế và nó đáp ứng được các mục tiêu của giáo dục thể chất. Chính vì vậy, điền kinh nói chung và nội dung nhảy cao nói riêng là một trong những nội dung học bắt buộc của GDTC trong trường phổ thông, trong chương trình giáo dục phổ thông mới phẩm chất và năng lực trong đó có năng lực thể chất. Việc nâng cao kết quả học tập là một yêu cầu tất yếu trong giáo dục phổ thông. Mặt khác GDTC là một mặt của giáo dục toàn diện ngoài phát triển năng lực thể chất, còn rèn luyện các năng lực giải quyết vấn đề, giao lưu hợp tác và phẩm chất nhân ái trung thực yêu nước trong trường phổ thông, trong đó môn GDTC có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, thể lực của học sinh, chuẩn bị cho người lao động tương lai đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Việc dạy và học môn GDTC trong trường phổ thông có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những kiến thức và kỹ năng cơ bản để rèn luyện nâng cao sức khoẻ, 4
  9. thể lực, góp phần giáo dục đạo đức, ý chí và xây dựng lối sống lành mạnh, đồng thời giúp học sinh giải toả những căng thẳng do thiếu vận động tạo nên. - Đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi học sinh trung học phổ thông: Lứa tuổi THPT việc hứng thú học tập của các em mang tính chất rộng rãi và sâu sắc hơn lứa tuổi thiếu niên. Ở lứa tuổi này tri giác thể hiện tương đối chính xác trong các hoạt động TDTT. Cảm giác vận động cho phép kiểm tra tính chất vận động, hình dáng, biên độ, phương hướng, trương lực cơ tức là kiểm tra được sự vận động của cơ thể mình. Sự tri giác về vận động thông qua cảm giác cơ bắp sẽ tạo cho các em khả năng tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật của bài tập thể thao. Hoạt động học tập ở lứa tuổi này khác nhiều so với lứa tuổi thiếu niên, thái độ học tập của các em với môn học trở nên có lựa chọn hơn. Ở các em đã hình thành hứng thú học tập gắn liền với nghề nghiệp, các em đã xác định cho mình hứng thú ổn định với môn học nào đó, hứng thú này liên quan đến việc lựa chọn nghề nghiệp nhất định sau này. Ở thanh niên mới lớn, tính định hướng được phát triển mạnh mẽ ở tất cả các quá trình nhận thức, quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và hoàn thiện hơn. Ghi nhớ chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời ghi nhớ logic trừu tượng ngày một có ý nghĩa rõ rệt. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc đáo, sáng tạo, tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn. Sự phát triển có ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển tâm lý của lứa tuổi thanh niên, quá trình này rất phong phú và phức tạp. Tuổi thanh niên là tuổi quyết định hình thành thế giới quan. Hệ thống quan điểm về khoa học, tự nhiên, về các nguyên tắc ứng xử...Đời sống tình cảm của thanh niên rất phong phú và mới mẻ, đặc điểm đó thể hiện rất rõ trong tình bạn của các em. Vì đây là lứa tuổi mà các hình thức đối xử có lựa chọn đối với mọi người trở nên sâu sắc hơn. Nói chung đặc điểm diễn biến tâm lý ở lứa tuổi thanh niên còn rất phức tạp, bởi đây là giai đoạn chuyển giao từ trẻ em sang người lớn. Tất cả các quá trình, đặc điểm về nhân cách đang dần trưởng thành. Sự nông nổi bồng bột trong tình cảm, sai lầm nhận xét, đánh giá thế giơi quan có thể chịu ảnh hưởng của nhiều mặt ở lứa tuổi thiếu niên... Giáo dục ở lứa tuổi học sinh THPT cần phải khéo léo, giúp đỡ các em hình thành những phẩm chất, năng lực tiềm năng. 5
  10. Tuổi thanh niên là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về thể lực nhưng sự phát triển về cơ thể còn kém so với sự phát triển của cơ thể người lớn. Tuổi thanh niên bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lý. Nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng cơ thể đã chậm lại. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của võ não phức tạp và các chức năng của võ não đang phát triển. Cấu trúc của tế bào bán cầu đại não có những đặc điểm như trong cấu trúc tế bào não của người lớn. Số lượng dây thần kinh tăng lên, liên kết các phần khác nhau của võ não lại. Điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hóa hoạt động phân tích tổng hợp...của vỏ bán cầu đại não trong quá trình hoạt đọng. Đa số các em đã vượt qua thời kỳ phát dục. Nhìn chung thì đây là lứa tuổi có cơ thể phát triển cân đối, khỏe và đẹp. Đa số các em có thể đạt được những khả năng phát triển về cơ thể như người lớn. b. Cơ sở thực tiễn Ngày nay trong hệ thống Giáo dục thể chất nước ta, điền kinh là một môn thể thao có vị trí quan trọng. nó được mệnh danh là môn “Nữ hoàng sắc đẹp” trên võ đài Olympic và là nội dung cơ bản trong các chương trình thi đấu trong các kì đại hội TDTT quốc gia, khu vực, tỉnh và Hội khỏe phù động các cấp. Chính vì vậy điền kinh được phổ biến trong các trường phổ thông và là nội dung chính trong môn Giáo dục thể chất ở THPT. Nhảy cao là một trong những môn điền kinh có lịch sử lâu đời và phát triển rất rộng rãi ở nhiều quốc gia, là một môn thể thao sử dụng chủ yếu năng lực bản thân thông qua một số hình thức vận động. Ngày nay, không chỉ là một môn thi đấu trong các cuộc thi điền kinh, mà còn một nội dung giảng dạy chính trong các trường chuyên nghiệp củng như các trường THPT. Việc nâng cao kết quả học tập là một yêu cầu tất yếu trong giáo dục phổ thông. Thành tích các môn thể thao là kết quả của quá trình chuẩn bị khác nhau. Đó là: “Thể lực, kĩ thuật, chiến thuật, tâm lý và ý chí”. Trong đó, yếu tố kĩ thuật đóng vai trò hơn cả và là nhân tố cơ bản không thể thiếu được trong quá trình đào tạo và giảng dạy thể dục thể thao. Hoàn thiện kĩ thuật là một vấn đề quan trọng quyết định đến thành tích thể thao. Qua kinh nghiệm thực tế và các công trình nghiên cứu khoa học đã chứng minh: Động tác kĩ thuật càng thuần thục, chính xác thì càng tiết kiệm, tận dụng và phát huy khả năng dùng sức của cơ thể. Nhảy cao kiểu nằm nghiêng là một kĩ thuật khó trong môn thề dục của chương trình giáo dục phổ thông, là một hoạt động không có chu kì, đòi hỏi người tập phải đủ về thể lực, kĩ thuật và tư duy thực hiện động tác. Trong giảng dạy, việc hướng dẫn học sinh nắm bắt kĩ thuật là quan trọng, nhưng việc tìm ra những sai lầm thường mắc và nguyên nhân của nó, xác định vận dụng các biện 6
  11. pháp và bài tập để sửa chữa những sai lầm đó cũng quan trọng không kém. Chính vì vậy, việc tìm ra các bài tập nhằm nâng cao kĩ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh trung học phổ thông là cần thiết. Giáo dục thể chất là một mặt của giáo dục toàn diện trong nhà trường phổ thông, nó có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ, nâng cao sức khoẻ thể lực cho học sinh, chuẩn bị cho người lao động trong tương lai đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Với mục tiêu “Khoẻ để học tập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “khoẻ để chinh phục đỉnh cao tri thức” giáo dục thể chất đã góp phần trang bị cho học sinh những phẩm chất năng lực để rèn luyện sức khoẻ, góp phần giáo dục đạo đức, ý chí và xây dựng lối sống lành mạnh, đồng thời giúp học sinh giải toả những căng thẳng do thiếu vận động tạo nên và giúp các em giải quyết tốt nhiều vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Song công tác giáo dục thể chất học đường nói chung và giáo dục thể chất trong trường THPT nói riêng vẫn còn là mối day dứt, lo âu của nhiều nhà khoa học chuyên ngành. Thực tế thấy rằng từ trước đến nay giáo dục thể chất vẫn được xem là môn phụ ở các trường phổ thông. Bởi nó không thuộc các môn văn hóa và không phải là môn thi tốt nghiệp. Sự quan tâm và đầu tư đối với giáo dục thể chất cũng chưa đầy đủ và thiết bị phục vụ giảng dạy và tập luyện vẫn còn nhiều thiếu thốn. Hiện nay, hầu hết các trường học trong cả nước học sinh học môn thể dục đều phải học ngoài sân. Nếu mưa các em phải nghỉ vì điều kiện sân bãi chưa thực sự tốt và được đầu tư đúng mức. Thực tế nhiều học sinh ngại học nhảy cao, nguyên nhân do đặc thù bộ môn là vượt chướng ngại vật, dễ gây ra chấn thương, nhưng nguyên nhân chính cũng do một số giáo viên chưa có những phương pháp, kĩ năng và cách thức dạy học tạo hứng thú cho học sinh. 2. Thực trạng vấn đề: Trước khi vào bậc trung học phổ thông, phần lớn các em là học sinh của nhiều trường trung học cơ sở khác nhau nên kĩ năng, nhận thức của các em với môn học Nhảy cao cũng khác nhau, dẫn đến có sự chênh lệch rất lớn giữa các em và sự thay đổi kĩ thuật động tác từ nhảy cao “kiểu bước qua” ở cấp II sang kĩ thuật nhảy cao “Kiểu nằm nghiêng” ở cấp III, nhiều em còn nhận thức “kĩ thuật bước qua tốt hơn kĩ thuật nằm nghiêng về thành tích”. Điều này làm cho việc giảng dạy của giáo viên gặp nhiều khó khăn? Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của nhà trường còn nhỏ hẹp làm ảnh hưởng đến yêu cầu học tập, tập luyện của môn thể dục nói chung và nội dung nhảy cao nói riêng nên phần đông các em tập luyện chưa hiệu quả, chưa nắm bắt và vận dụng tốt kĩ thuật động tác nhảy cao kiểu nằm nghiêng để đáp ứng yêu cầu môn học. Môn nhảy cao là một kĩ thuật khó, nó hoạt động không có chu kì nên tương đối phức tạp. Người tập không những phải nắm vững kĩ thuật động tác ngay từ đầu mà còn phải duy trì, thực hiện chính xác và thuần thục. Vậy ngay từ đầu, người tập phải xây dựng 7
  12. được một số khái niệm đúng về động tác thì quá trình tập luyện mới đạt hiệu quả cao. Vì một số sai lầm thường mắc phải trong quá trình thực hiện kĩ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng của học sinh khối 10 trường THPT Quỳnh lưu 4 đã làm cho thành tích bị hạn chế, ảnh hưởng đến kết quả dạy và học. Kĩ thuật nhảy cao kiểu ”nằm nghiêng” là nội dung học hoàn toàn mới và có độ khó tương đối cao so với nhảy cao kiểu bước qua mà học sinh đã học nhiều năm ở trường THCS nên mức độ tiếp thu chậm, đặc biệt là học sinh nữ, động tác sai khó sửa nên đa số các em học sinh không vận dụng được kỹ thuật để thực hiện hoàn chỉnh tốt động tác. Đối tượng học sinh đang ở lứa tuổi dậy thì, đa số các em học sinh nữ xuất hiện sức ì, có nhiều thay đổi về tâm- sinh lý, giới tính, rất ngại học những giờ học nhảy, độ né tránh, mất tập trung đối với môn học, đa số các em không thể tiếp thu và vận dụng tốt kỹ thuật để phát huy nâng cao thành tích trong học tập và thi đấu. Điều kiện khi học môn nhảy cao ở trường chúng tôi là ở ngoài trời, nên phải chịu ảnh hưởng của thời tiết rất nhiều như (gió, nắng nóng, mưa, bụi…) vì vậy hiệu quả của một tiết học ở nội dung này là không cao. Bên cạnh đó trình độ kỹ thuật các em không đồng đều cho nên việc hướng dẩn kỹ thuật cho các em gặp không ít khó khăn. Kĩ thuật nhảy cao kiểu ”nằm nghiêng” là môn có kỹ thuật khó và dễ gây ra chấn thương do vậy đòi hỏi học sinh phải có lòng dũng cảm, kiên trì để thực hiện kỹ thuật ở mức xà cao. Trang thiết bị của trường còn nhiều hạn chế nên cũng ảnh hưởng đến việc dạy và học. Trong giảng dạy và tập luyện TDTT, việc nắm bắt kỹ thuật là quan trọng mà trong khi tập luyện thì người tập rất hay mắc phải những sai lầm, vì vậy trong giảng dạy phải nhanh chóng tìm ra những sai lầm thường mắc cũng như những nguyên nhân của nó, đây là vấn đề khó, nhưng việc xác định vận dụng các giải pháp và bài tập để sửa chữa lại những sai lầm đó lại càng quan trọng hơn. Trong quá trình trực tiếp giảng dạy kĩ thuật và dự giờ của đồng nghiệp, các lần thực hiện kiểm tra đánh giá kĩ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng của các em học sinh lớp 10, tôi đã tổng hợp được những sai lầm và nguyên nhân mà các em thường mắc phải như sau: TT NHỮNG SAI LẦM THƯỜNG MẮC NGUYÊN NHÂN Giai đoạn chạy đà: - Chạy đà không chính xác, có xu - Không ổn định nhịp điệu chạy đà, 1 hướng giảm tốc hoặc lỡ nhịp, rối chạy cao trọng tâm, tư thế xuất phát loạn nhịp, chạy đà không đúng góc không ổn định. độ. - Không đặt được phần gót chân - Các bước cuối cùng không ổn định giậm nhảy vào đúng điểm giậm nhảy. 8
  13. Giai đoạn giậm nhảy - Giậm nhảy yếu do không tạo được - Hiểu sai quan điểm, cơ chân yếu đà, góc độ giậm nhảy lớn hoặc nhỏ - Giậm nhảy chậm, góc độ hoãn xung quá, giậm nhảy gần hoặc xa xà quá nhỏ cơ không đủ sức duỗi - Sau khi giậm nhảy, người lao vào - Kỹ thuật 4 bước cuối cùng quá dài, 2 xà không hạ thấp được trong tâm - Đánh tay không đúng, không hỗ trợ - Lúc giậm nhảy thân gập về phía đưa cơ thể lên cao.. trước, tốc độ giậm nhảy bị chậm - Tay không ép vào thân khi qua xà, làm rơi xà. Giai đoạn trên không - Chân lăng đá vào xà. - Chân lăng đá không tích cực, không - Không có thao tác xoay gót chân cao hoặc bị co 3 khi qua xà, nên không tạo được thân - Chân giậm nhảy co chậm và không người nằm nghiêng với xà. khéo léo. - Tay không ép vào thân khi qua xà, - Bị “tụt mông” làm rơi xà. - Giậm nhảy không tích cực và tập luyện ít. - Chưa thực hiện được động tác mở hông. Giai đoạn tiếp đất - Không dùng chân để giảm chấn - Khi tiếp đất chân giậm không chùng 4 động, do chân giậm nhảy không duỗi gối hoãn xung. kịp thời khi qua xà. - Khi tiếp đất bị lai sang kĩ thuật kiểu - Chân đá lăng chạm đất trước. bước qua Từ những sai lầm trên đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tinh thần, thái độ và thành tích của các em Qua khảo sát điều tra ngẫu nhiên học sinh trường THPT Quỳnh Lưu 4 về mức độ yêu thích các nội dung điền kinh kết được thể hiện ở bảng sau: 9
  14. Bảng 2.1 . Thực trạng về mức độ yêu thích các nội dung điền kinh của học sinh những năm gần đây (số học snh được phỏng vấn n = 100) Năm học 2019-2020 TT Nội dung Số lượng Chiếm % 1 Chạy ngắn 38/100 38 % 2 Chạy bền 8/100 8% 3 Nhảy cao 22/100 22 % 4 Nhảy xa 32/100 32 % Năm học 2020-2021 TT Nội dung Số lượng Chiếm % 1 Chạy ngắn 36/100 36 % 2 Chạy bền 7/100 7% 3 Nhảy cao 20/100 20 % 4 Nhảy xa 30/100 30 % Như vậy số lượng học sinh yêu thích nội dung nhảy cao chiếm tỷ lệ tương đối thấp, chỉ nhiều hơn nội dung chạy bền, điều này cũng đã làm ảnh hưởng đến chất lượng của dạy học nội dung nhảy cao. Mặt khác những thực trạng ở các trường THPT cho thấy việc giảng dạy môn điền kinh chưa được chú trọng, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, dụng cụ tập luyện thô sơ, hệ thống bài tập đơn giản chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển cho học sinh. Vì vậy thành tích tập luyện của các em chưa cao, đặc biệt là trong môn nhảy cao kiểu nằm nghiêng. Qua thực tế nhiều năm giảng dạy ở tại trường THPT Quỳnh lưu 4, tôi thấy có một số nguyên nhân chính sau đây làm giảm thành tích của các em: + Chưa có sự đầu tư, quan tâm đúng mức + Do các điều kiện bên ngoài như: Dụng cụ, sân bãi... + Do các yếu tố chủ quan của người học như: Kĩ thuật, thể lực + Tâm lý lười học nhảy cao của một số học sinh kéo theo cả lớp lười học Trong đó, nguyên nhân sâu xa là do người làm công tác giảng dạy chưa chú ý phát triển các tố chất thể lực chuyên môn đúng mức. 10
  15. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy nội dung nhảy cao kiểu nằm nghiêng ngoài việc chú ý giảng dạy về kĩ thuật động tác thì cần quan tâm đến việc phát triển các tố chất thể lực chuyên môn trong giờ học. Sử dụng hệ thống bài tập một cách khoa học để phát triển sức mạnh bột phát nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh lớp 10. Xác định các yêu cầu qua tham khảo và tổng hợp tài liệu, bằng việc đọc và tham khảo các tài liệu như: Điền kinh, lý luận và phương pháp TDTT, học thuyết huấn luỵên, tâm-sinh lý TDTT...Tôi đã tổng hợp được một số yêu cầu cần đạt được của hệ thống bài tập bổ trợ chuyên môn nhằm nâng cao khả năng tiếp thu kỹ năng cho học sinh khi giảng dạy kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng sau đây: 1. Bài tập bổ trợ chuyên môn phải trực tiếp giúp cho người học nắm được các khâu riêng lẻ cũng như hoàn chỉnh của kỹ thuật. 2. Bài tập bổ trợ chuyên môn phải hình thành kỹ năng vận động, hình thành kỹ thuật cho người tập. 3. Bài tập bổ trợ chuyên môn phải giúp khắc phục các yếu tố ảnh hưởng tới việc nắm bắt kỹ thuật và nâng cao thành tích như: Các tố chất thể lực, tâm lý... 4. Cần đa dạng hoá các hình thức tập luyện triệt để, lợi dụng các phương tiện tập luyện để giúp cho quá trình chuyển đổi và liên kết kỹ năng tốt hơn. 5. Các bài tập phải hợp lý , vừa sức và được nâng cao dần độ khó, đặc biệt chú ý đến khâu an toàn để tránh xảy ra chấn thương. Sau khi xác định được 5 yêu cầu trên, để tăng thêm độ tin cậy tôi đã tiến hành phỏng vấn các chuyên gia và các thầy cô giáo trong và ngoài bộ môn. Tổng số người được phỏng vấn là 10 người, kết quả phỏng vấn được trình bày ở bảng sau: Bảng 2.2 . Kết quả phỏng vấn về yêu cầu lựa chọn bài tập bổ trợ (số người phỏng vấn n = 10) TT Các yêu cầu Số lượng Chiếm % 1 Yêu cầu 1 10/10 100% 2 Yêu cầu 2 08/10 80% 3 Yêu cầu 3 09/10 90% 4 Yêu cầu 4 07/10 70% 5 Yêu cầu 5 10/10 100% 11
  16. Như vậy 5 yêu cầu chúng tôi đã xác định để lựa chọn hệ thống bài tập bổ trợ chuyên môn cho học sinh lớp 10 trường THPT Quỳnh lưu 4 khi học nhảy cao nằm nghiêng đã được sự đồng ý với tỷ lệ rất cao từ 70% đến 100%. Vì vậy, tôi sử dụng 5 yêu cầu này để tham khảo, đối chiếu trong khi lựa chọn bài tập bổ trợ chuyên môn cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng học tập và giảng dạy nội dung nhảy cao nằm ngiêng ở THPT Quỳnh Lưu 4. 3. Lựa chọn hệ thống các bài tập Dựa vào các thực trạng, yêu cầu và các cơ sở lựa chọn đối với bài tập bổ trợ chuyên môn được tôi nêu ở trên. Kết hợp tham khảo các tài liệu chuyên môn, các kết quả khảo sát công tác huấn luyện và giảng dạy ở một số trường THPT. Từ đó tôi đã bước đầu xác định được hệ thống bài tập bổ trợ chuyên môn cho học sinh khi học kỹ thuật nhảy cao kiểu nằm nghiêng gồm 3 hệ thống bài tập: bài tập sửa sai, bài tập bổ trợ kỹ thuật và hệ thống bài tập phát triển thể lực, các bài tập được thể hiện cụ thể như sau: 3.1. Hệ thống các bài tập sửa sai - Nhóm I: Đối với giai đoạn kĩ thuật chạy đà: * Sai lầm thường mắc: + Chạy đà có xu hướng giảm tốc hoặc lỡ nhịp, rối loạn nhịp. + Chạy đà không đúng góc dộ. + Không đặt được phần gót chân giậm nhảy vào đúng điểm giậm nhảy. * Cách khắc phục, sửa sai: Bài tập 1: Xác định hướng chạy đà, giậm nhảy và điểm xuất phát, tập động tác đưa chân vào điểm giậm nhảy. Đo đà (2 bước thường bằng 1 bước chạy) Bài tập 2: Đi 3,5 bước và đúng gót chân vào điểm giậm nhảy. Bài tập 3: Chạy đà 3,5 bước đặt chân vào điểm giậm nhảy kết hợp với đá lăng. Bài tập 4: Đo đủ đà (7,9,11 bước ), tập chạy đà nhiều lần để điều chỉnh đà và góc độ chạy đà hợp lý, sau mỗi lần chạy có thể tiến, lùi ở điểm xuất phát. - Nhóm II: Đối với giai đoạn kĩ thuật giậm nhảy: * Sai lầm thường mắc: + Giậm nhảy yếu do không tạo được đà + Sau khi giậm nhảy, người lao vào xà + Đánh tay không đúng, không hỗ trợ đưa cơ thể lên cao.. * Cách khắc phục, sửa sai: 12
  17. Bài tập 5: Tập động tác tay ở ba bước đà cuối - nhảy mạnh -đá lăng. Bài tập 6: Tập các động tác đá lăng (lên không và kết hợp với giậm nhảy) Bài tập 7: Đứng có vịn đá lăng. Bài tập 8: Tập bài tập phát triển sức mạnh chân và độ linh hoạt của hông. - Nhóm III: Đối với giai đoạn kĩ thuật trên không: * Sai lầm thường mắc: + Chân lăng đá vào xà. + Không có thao tác xoay gót chân khi qua xà, nên không tạo được thân người nằm nghiêng với xà. + Tay không ép vào thân khi qua xà, làm rơi xà. * Cách khắc phục, sửa sai: Bài tập 9: Đứng đá lăng lên cao – xoay gót chân Bài tập 10: Bật nhảy đá lăng lên cao – xoay gót chân Bài tập 11: Tập mô phỏng chân lăng qua xà thấp. Bài tập 12: Tập mô phỏng động tác giậm nhảy và ép tay cùng bên vào thân khi qua xà thấp. - Nhóm IV: Đối với giai đoạn kĩ thuật tiếp đất: * Sai lầm thường mắc: + Không dùng chân để giảm chấn động, do chân giậm nhảy không duổi kịp thời khi qua xà. + Chân đá lăng chạm đất trước. * Cách khắc phục, sửa sai: Bài tập 13: Tập nhảy cả hai chân từ trên cao xuống, tiếp đất bằng chân giậm nhảy có chùng chân để giảm chấn động (độ cao 0,5-1m) Bài tập 14: Chạy đà chính diện (vuông góc với xà) – giậm nhảy chân lăng duỗi thẳng qua xà. 3.2. Hệ thống bài tập bổ trợ kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng - Nhóm I: Bài tập bổ trợ kỹ thuật giậm nhảy: Bài tập 1: Chạy đà nhảy cao tự do để xác định chân giậm nhảy. 13
  18. Bài tập 2: Đứng chân giậm nhảy trước (sát mép hố cát) chân lăng sau. Tạo đà và giậm nhảy qua xà thấp (tiếp đất bằng chân giậm nhảy). Khi tạo đà và giậm nhảy cần phối hợp với đánh mạnh 2 tay từ trước ra sau, về trước dừng đột ngột. Bài tập 3: Đi 3 bước giậm nhảy thực hiện động tác giậm nhảy đá lăng. - Nhóm II : Bài tập bổ trợ kỹ thuật chạy đà kết hợp giậm nhảy: Bài tập 4: Chạy chậm 3, 5, 7 bước giậm nhảy thực hiện động tác giậm nhảy đá lăng. Bài tập 5: Chạy đà chính diện giậm nhảy đá lăng qua xà thấp. Bài tập 6: Chạy đà đúng góc độ giậm nhảy đá lăng qua xà thấp. Bài tập 7: Chạy đà 5, 7, 9 bước giậm nhảy đá lăng chạm vào vật chuẩn treo trên cao (chạm vật chuẩn bằng chân lăng). - Nhóm II: Bài tập bổ trợ kỹ thuật giai đoạn trên không và tiếp đất: Bài tập 8: Đứng tại chỗ đá lăng xoay mũi bàn chân. Bài tập 9: Tập mô phỏng chân lăng giai đoạn trên không. Bài tập 10: Chạy đà giậm nhảy bằng chân giậm nhảy thực hiện động tác trên không và tiếp đất (có xoay người) Bài tập 11: Tập mô phỏng động tác chân giậm nhảy giai đoạn trên không. Bài tập 12: Chạy đà đúng góc độ giậm nhảy đá lăng cao thu nhanh chân giậm nhảy rồi tiếp đất tại chỗ (xà để ở mức cao, chú ý không nhảy qua xà). - Nhóm IV: Bài tập hoàn thiện kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng: Bài tập 13: Chạy 3-5 bước đà thực hiện hoàn chỉnh kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng. Bài tập 14: Chạy 5-7 bước đà thực hiện hoàn chỉnh kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng. Bài tập 15: Chạy đà thực hiện hoàn chỉnh kỹ thuật nhảy cao nằm nghiêng. 3.3. Hệ thống bài tập nhằm phát triển thể lực: Bài tập 1: Nhảy dây. Bài tập 2: Chạy đạp sau 25m. Bài tập 3: Chạy nâng cao đùi 20m. Bài tập 4: Ngồi xổm trên chân giậm nhảy, chân lăng duỗi về trước, đứng lên ngồi xuống. Bài tập 5: Chạy 30m xuất phát thấp. Bài tập 6: Bật cao tại chỗ. 14
  19. Bài tập 7 : Chạy đà bật nhảy bằng hai chân với tay chạm vật cố định trên cao Bài tập 8: Chạy lò cò tiếp sức bằng chân trụ. Bài tập 9: Ke cơ bụng gập chân vuông góc với thân người. Bài tập 10: Đi vịt. Bài tập 11 : Bật cóc liên tục 20m. Bài tập 12: Gánh tạ đứng lên ngồi xuống với trọng lượng tạ vừa phải. Bài tập13: Ngồi xổm trên một chân, chân kia duỗi thẳng phía trước, 2 tay chống hông, bật nhảy đổi chân. Bài tập 14: Đứng lên ngồi xuống bằng 2 chân. Bài tập 15: Chạy đuổi, mỗi đợt chạy gồm 2 nhóm, mỗi nhóm 2 - 5 học sinh, đứng ở tư thế xuất phát cao 2 nhóm đứng cách nhau 4 - 5m, trong từng nhóm có người này cách người kia 1,5m. Sau khi nghe lệnh các em đồng loạt cùng xuất phát, em sau đuổi em trước với đoạn đường 25 - 30m. Sau khi xây dựng được nhóm bài tập, để lựa chọn được những bài tập tối ưu nhất tôi đã tiến hành phỏng vấn 10 người, đó là các thầy cô giảng dạy thể dục trong trường và các thầy cô dạy thể dục có kinh nghiệm ở các trường lân cận. Kết quả thu được thể hiện rõ qua bảng 3.1 Bảng 3.1. Kết quả phỏng vấn hệ thống bài tập sửa sai (số người phỏng vấn n = 10) Đồng Tỷ lệ Nhóm Bài tập ý (%) Bài tập I: Xác định hướng chạy đà và điểm giậm nhảy, tập 9 90 động tác đưa chân vào điểm giậm nhảy. Bài tập 2: Đi 3,5 bước và đúng gót chân vào điểm giậm 9 90 Nhóm nhảy. I Bài tập 3: Chạy đà 3,5 bước đặt chân vào điểm giậm nhảy 10 100 kết hợp với đá lăng. Bài tập 4: Đo đủ đà ( 7,9,11 bước ), tập chạy đà nhiều lần 10 100 để điều chỉnh đà. Bài tập 5: Tập động tác tay ở ba bước đà cuối - nhảy mạnh 9 90 -đá lăng. Bài tập 6: Tập các động tác đá lăng (lên không và kết hợp 9 90 15
  20. với giậm nhảy) Bài tập 7: Đứng có vịn đá lăng. 8 80 Nhóm Bài tập 8: Tập bài tập phát triển sức mạnh chân và độ linh II 9 90 hoạt của hông. Bài tập 9: Đứng đá lăng lên cao – xoay gót chân 10 100 Bài tập 10: Bật nhảy đá lăng lên cao – xoay gót chân 10 100 Nhóm III Bài tập 11: Tập mô phỏng chân lăng qua xà thấp. 9 90 Bài tập 12: Tập mô phỏng động tác giậm nhảy và ép tay 9 90 cùng bên vào thân khi qua xà thấp. Bài tập 13: Tập nhảy cả hai chân từ trên cao xuống, tiếp đất bằng chân giậm nhảy có chùng chân để giảm chấn động (độ 10 100 Nhóm cao 0,5-1m) IV Bài tập 14: Chạy đà chính diện (vuông góc với xà) – giậm 10 100 nhảy chân lăng duỗi thẳng qua xà. Qua bảng 3.1 trên ta thấy, đối với việc lựa chọn bài tập sửa sai thì với tất cả các bài tập mà tôi đưa ra có tỉ lệ % đồng ý rất cao từ 80% trở lên. Điều đó một phần khẳng định tính tối ưu của bài tập được lựa chọn. Từ kết quả phỏng vấn trên (bảng 3.1) tôi thu được 14 bài tập sửa sai để áp dụng Tương tự như trên, chúng tôi cũng tiến hành phỏng vấn các thầy cô, gồm 10 người với nhóm bài tập bổ trợ kỹ thuật nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy kĩ thuật nhảy cao nằm nghiêng ở trường THPT Quỳnh lưu 4, Kết quả được trình bày qua bảng sau: Bảng 3.2. Kết quả phỏng vấn hệ thống bài tập bổ trợ (số người phỏng vấn n = 10) Đồng Tỷ lệ Nhóm Bài tập ý (%) Nhóm Bài tập 1: Chạy đà nhảy cao tự do để xác định chân giậm 10 100 I nhảy. Bài tập 2: Đứng chân giậm nhảy trước (sát mép hố cát) 10 100 chân lăng sau. Tạo đà và giậm nhảy qua xà thấp (tiếp đất bằng chân giậm nhảy). Khi tạo đà và giậm nhảy cần phối hợp với đánh mạnh 2 tay từ trước ra sau, về trước dừng đột 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2