Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy – học tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ở trường THPT Lê Lợi
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy – học tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ở trường THPT Lê Lợi" nhằm tìm hiểu và đưa ra một cách tiếp nhận đối với một văn phẩm mà thể loại của nó chiếm số lượng không nhiều trong giảng dạy ở nhà trường THPT sẽ có ý nghĩa nhất định đối với người dạy và người học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy – học tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ở trường THPT Lê Lợi
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƢỜNG THPT LÊ LỢI -------- TÊN ĐỀ TÀI MỐT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ DẠY- HỌC TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ CỦA NGUYỄN TUÂN Ở TRƢỜNG THPT LÊ LỢI Lĩnh vực: Văn học Người thực hiện: Thái Thị Lộc Tổ bộ môn: Văn - Anh Năm thực hiện: 2021-2022 Số điện thoại: 0984366204
- MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………... 3 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI …………………………………………..................... 3 II. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ………………….................. 4 III. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. …………………………………………. 4 IV. CẤU TRÚC…………………………………………………………………... 5 V.TÍNH MỚI……………………………………………………………………... 5 B. NỘI DUNG …………………………………………………………....................... 5 I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI ……………………………………………...................... 5 1. Cơ sở lí luận ………………………………………………………............ 5 2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………... 6 II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN ………………. …………………………… 9 1. Vài nét về nhà văn Nguyễn Tuân và vị trí của tác phẩm Người lái đò sông Đà………………………………………………………………................ 9 2. Yêu cầu khi sử dụng phƣơng pháp tích hợp ……………………………... 10 3. Một số biện pháp dạy học tích hợp………………………………………... 11 3.1. Tích hợp trong hoạt động khởi động……………………………………........... 11 3.2. Tích hợp trong hoạt động hình thành kiến thức………………………............ 11 3.3. Tích hợp trong hoạt động luyện tập, vận dụng……………………………… 19 4. Thiết kế kế hoạch bài dạy thực nghiệm……………………………............ 20 III. TRIỂN KHAI THỰC HIỆN………………………………………………… 37 1. Hình thành ý tƣởng……………………………………………..................... 37 2. Khảo sát thực tiễn………………………………………………................... 38 3. Áp dụng thực nghiệm…………………………………………..................... 38 4. Xử lý thực nghiệm, đúc rút kinh nghiệm……………………...................... 38 5. Đánh giá kết quả………………………………………………..................... 38 C. KẾT LUẬN…………………………………………………………...................... 39 I. KẾT LUẬN……………………………………………………………………... 39 II. KIẾN NGHỊ…………………………………………………………………… 40 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….. 42 2
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN Giáo viên GV Học sinh HS Giáo dục và đào tạo GD&ĐT Giáo dục GD Dạy học tích hợp liên môn DHTHLM Dạy học tích hợp DHTH Trung học phổ thông THPT Sách giáo khoa SGK Phương pháp dạy học PPDH Giải quyết vấn đề GQVĐ Hợp tác HT Giao tiếp GT Cách Mạng Tháng Tám CMT8 Công nghệ thông tin CNTT Phương pháp/ Kĩ thuật dạy học PP/KTDH 3
- A. MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Theo các nhà lí luận văn học, người đọc và quá trình tiếp nhận là một khâu quan trọng trong toàn bộ đời sống của một tác phẩm văn chương. Ở khâu này, tác phẩm sẽ thoát li hẳn khỏi người sinh thành - tác giả để tự mình có một cuộc sống riêng. Cuộc sống đó lâu dài hay ngắn ngủi, được tiếp nhận hay bị lãng quên, tất cả đều phụ thuộc vào cảm nhận và đánh giá của người đọc. Đến lượt mình, trình độ tiếp nhận tác phẩm văn chương của độc giả được đo đếm thông qua khả năng “giải mã” những thông điệp thẩm mĩ mà nhà văn đã dụng công gửi gắm. Mà khả năng giải mã những thông điệp thẩm mĩ ấy lại có liên quan chặt chẽ đến điểm nhìn, góc độ phân tích, tiếp cận tác phẩm. Vì thế, đề tài của tôi có ý nghĩa như một đề xuất về cách tiếp cận văn bản nghệ thuật ngôn từ từ nhiều góc độ phục vụ cho công tác giảng dạy trong nhà trường. Bên cạnh đó, hiện nay đổi mới phương pháp dạy - học đang trở thành nhu cầu tất yếu của ngành giáo dục Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng dạy và học. Tự đổi mới cũng là con đường đưa giáo dục Việt Nam hòa nhập với nền giáo dục hiện đại toàn cầu, tiến kịp nền giáo dục tiên tiến của các quốc gia trên thế giới. Một trong những phương pháp đổi mới đem lại hiệu quả khá cao trong nhà trường hiện nay đó là phương pháp dạy học tích hợp. Phương pháp tích hợp cho phép GV có thể kết hợp nhiều kỹ năng trong một tiết dạy, vừa dạy kiến thức, vừa dạy kỹ năng sống, vừa dạy cách làm người. Không những thế, tích hợp còn là sự phối hợp nhiều môn khoa học hay các phân môn trong cùng một bộ môn để làm cho tiết học trở nên phong phú đa dạng và thu hút hơn đối với người tiếp nhận. Hơn nữa Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội nó có tầm quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, quan điểm, tình cảm cho HS. Việc dạy học tích hợp đáp ứng được nhu cầu này. Nó cũng chính là chiếc chìa khoá mở cửa cho tương lai. Chính vì vậy nghành GD cũng đã có những hoạt động thiết thực, bổ ích như tổ chức tập huấn cho GV, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức nhiều cuộc thi trong đó có cuộc thi DHTHLM để đội ngũ GV và xã hội hiểu đúng vấn đề. Mặt khác tích hợp liên môn còn giúp HS tiết kiệm được thời gian, biết kết hợp kiến thức giữa các bộ môn, đồng thời phát triển tư duy, khả năng thông hiểu và vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống. Bởi vậy có thể nói vấn đề tích hợp liên môn không còn là vấn đề xa lạ đối với đội ngũ thầy cô giáo. Tuy nhiên từ hiểu đến vận dụng và vận dụng hiệu quả vào thực tế giảng dạy là cả một vấn đề. Từ góc độ thực tiễn, tôi chọn tác phẩm Người lái đò sông Đà bởi đây là một tác tiêu biểu cho thể loại tùy bút (một tiểu loại của kí hiện đại). Đó là những trang văn thể hiện sự tài hoa cá tính, độc đáo của văn hào Nguyễn Tuân được dệt nên bằng câu chữ tuyệt diệu với sự kết hợp hài hòa của chất nhạc, chất họa và vốn tri 4
- thức đa ngành vô cùng phong phú. Thể loại kí đã có từ lâu nhưng để tiếp nhận một cách sâu sắc thể loại này thì không hề đơn giản. Do vậy, việc “giải mã” tác phẩm cũng chính là đi tìm về vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, đi tìm về với cốt cách tài hoa nghệ sĩ của nhà văn được mệnh danh là “cái định nghĩa hoàn chỉnh về người nghệ sĩ”. Mặt khác, việc tìm hiểu và đưa ra một cách tiếp nhận đối với một văn phẩm mà thể loại của nó chiếm số lượng không nhiều trong giảng dạy ở nhà trường THPT sẽ có ý nghĩa nhất định đối với người dạy và người học. Bởi vì theo ý kiến của rất nhiều GV và HS thì Người lái đò Sông Đà vừa “khó dạy” vừa “khó học”. GV và HS vốn quen thuộc với thơ hay truyện ngắn nhưng còn khá lạ lẫm với thể kí hiện đại. Do đó việc tìm hiểu và thưởng thức một tác phẩm thuộc thể kí còn vấp phải những “rào cản” nhất định. Nhiều GV và HS khi dạy – học tác phẩm Người lái đò sông Đà đã gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí nhiều em HS không thể cảm nổi vẻ đẹp của dòng sông cũng như không thể nhớ được một dẫn chứng nào về tác phẩm khi làm bài kiểm tra hoặc bài thi liên quan đến tác phẩm. Bởi vậy, để hiểu rõ những tầng ẩn nghĩa sâu xa của tác phẩm, GV không những phải nắm bắt rõ đặc trưng thể loại mà còn phải biết tích hợp với những kiến thức phân môn, liên môn học để giúp HS thẩm thấu sâu sắc giá trị cũng như nét độc đáo của tác phẩm. Hướng đến việc thực hiện được yêu cầu đó là một động lực khiến tôi nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy – học tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ở trƣờng THPT Lê Lợi”. Đề tài này là công trình nghiên cứu của tôi, chưa được cá nhân, tập thể và công trình giáo dục nào công bố trên các tài liệu, sách báo và diễn đàn giáo dục hiện nay. II. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tƣợng - Học sinh lớp 12 Trường THPT Lê Lợi. - Văn bản “ Người lái đò sông Đà” (Ngữ văn 12, cơ bản). 2. Phạm vi Đề tài này chỉ nghiên cứu ở HS lớp 12 trường THPT Lê Lợi, huyện Tân Kì, tỉnh Nghệ An. III. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp quan sát (thông qua dự giờ). - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp phân tích- tổng hợp, thống kê toán học, so sánh.... - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 5
- IV. CẤU TRÚC Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài tập trung vào một số vấn đề như sau: - Cơ sở của đề tài. - Một số biện pháp dạy học tích hợp để nâng cao hiệu quả giờ dạy – học tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. - Triển khai thực hiện đề tài. V. TÍNH MỚI CỦA ĐỀ TÀI Với đề tài “Một số biện pháp dạy – học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy – học tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ở trường THPT Lê Lợi”, tôi đã tiếp cận, soi rọi tác phẩm từ nhiều góc độ lí luận văn học, âm nhạc, hội họa, địa lý, điện ảnh... để đổi mới cách dạy tác phẩm. Qua đề tài này tôi đã giúp HS có cái nhìn sâu sắc toàn diện về tác phẩm, từ đó tạo tiền đề vững chắc cho việc tiếp nhận văn bản. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận Xuất phát từ quá trình hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng theo quan niệm duy vật biện chứng thì các sự vật, hiện tượng song song tồn tại và có mối quan hệ qua lại, giao thoa với nhau trong thế giới. Dù chúng rất phong phú, đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng ở chúng vẫn có tính thống nhất giữa tư duy và ngôn ngữ như hai mặt của một tờ giấy. Bộ GD&ĐT đã định hướng chương trình giáo dục sau năm 2015 là “Dạy học tích hợp là quá trình dạy học trong đó giáo viên tổ chức hoạt động để học sinh huy động nội dung, kiến thức, kỹ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó hình thành những kiến thức, kỹ năng mới từ đó phát triển những năng lực cần thiết”. Nghĩa là xác định theo hướng dạy học tích hợp trong phạm vi hẹp và tích hợp trong phạm vi rộng. Hay còn gọi là tích hợp đa môn, tích hợp liên môn. Mục đích tích hợp là hợp lại để có tính thống nhất theo một nguyên tắc “đồng tâm”, “đồng quy”, nghĩa là hướng tới một nội dung bao hàm theo chủ đề, chủ điểm, theo đề tài. Tích hợp là tập hợp trong một đơn vị học tập những mảng kiến thức, kỹ năng khác nhau và phối hợp chúng với nhau để tạo nên hiệu quả cao trong dạy học. Tích hợp được thể hiện trên hai phương diện: tích hợp dọc và tích hợp ngang. Tích hợp dọc là tích hợp các vấn đề gần nhau trong chính từng phân môn khác nhau ở các bài đã, đang, sẽ học ở các lớp dưới và lớp trên. Còn tích hợp ngang là mối liên hệ giữa các phân môn như Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn ở một thời điểm nhất định. Nghĩa là cả ba phân môn trong mỗi bài học đều phải dựa vào một văn bản 6
- chung để khai thác và làm rõ cho nhau, xuyên thấm vào nhau. Tích hợp là một phạm trù rất rộng theo chiều ngang – dọc, xa – gần, trong – ngoài được phối hợp nhuần nhuyễn với nhau có tính thống nhất cặp phạm trù nhất định của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Tích hợp có rất nhiều hướng như: Tích hợp đa môn, tích hợp liên môn, tích hợp xuyên môn, trong nội bộ môn học, tích hợp kiểu lồng ghép,... Tích hợp là một thuật ngữ khá mới nhưng đã trở thành một nhu cầu tất yếu của thời đại và cũng là xu hướng chính của nền giáo dục hiện đại. Nó xuất phát từ yêu cầu đưa HS trở thành đối tượng trung tâm trong giờ học cũng như trong quá trình tìm hiểu tác phẩm. Mặt khác, việc dạy học tích hợp cho phép học sinh chủ động sáng tạo trong tiếp nhận, phối kết hợp nhiều yếu tố trong một bài học cũng như vận dụng những hiểu biết của mình để tìm hiểu, khai thác tác phẩm văn học. Nó góp phần xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống. Dạy học tích hợp thực sự là một phương pháp mới mẻ, có tính hiệu quả cao trong việc giảng dạy ở trường THPT hiện nay. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng của giáo viên Trong những năm gần đây trước xu thế vận động đổi mới của thế giới, nền giáo dục Việt Nam cũng đang khoác lên mình một tấm áo mới năng động hơn, nhạy bén hơn với thời cuộc. Tinh thần đổi mới giáo dục được các thầy cô giáo hưởng ứng nhiệt tình, nhiều thầy cô đã không ngừng tìm tòi đổi mới trong từng tiết dạy thắp lên ở các em ngọn lửa của lòng nhiệt huyết, đam mê văn chương. Song không phải ai cũng ý thức được vai trò của sự đổi mới do đó sự thay đổi trong phương pháp dạy và tính hiệu quả chưa cao, ít nhiều còn thiếu tính đồng bộ. Hơn nữa ở những trường miền núi như trường tôi nguồn tài liệu hướng dẫn đổi mới và các trang thiết bị dạy học trong nhà trường còn hạn chế cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS chưa mấy mặn mà với môn ngữ văn. Không chỉ có vậy, nhiều GV chưa thấy được vai trò quan trọng của thể loại kí nên đôi khi còn dạy mang tính chiếu lệ, qua loa chưa thực sự đầu tư tâm huyết và thời gian. Mặt khác, có những thầy cô chỉ chú trọng phần khai thác nội dung mà xem nhẹ tính chất thể loại, chưa có cách dạy thu hút được học sinh. Thiết nghĩ mỗi thầy cô cần thay đổi cách nghĩ, cách dạy để biến mỗi giờ dạy văn học thành một giờ học hứng thú và ý nghĩa. Để có cơ sở nhận xét về thực trạng dạy - học trong giờ học môn Ngữ Văn ở trường THPT Lê Lợi, đặc bệt là việc dạy - học tác phẩm Người lái đò Sông Đà như đã nêu trên tôi đã tiến hành khảo sát GV trong trường. Kết quả khảo sát GV: Đối tượng khảo sát: GV môn Ngữ Văn của trường THPT Lê Lợi Số lượng khảo sát: 10 GV 7
- Số lƣợng STT Nội dung khảo sát Tỉ lệ % trả lời Thầy cô có vận dụng phương pháp tích hợp trong 10 100% dạy học ngữ văn không? Thường xuyên 5 50% 1 Thỉnh thoảng 3 30% Rất ít 2 20% Thầy cô thường tích hợp ở những hoạt động nào? 10 100% 2 Hoạt động khởi động 4 40% Hoạt động hình thành kiến thức 2 20% Hoạt động luyện tập, mở rộng 4 40% Dạy học có chú trọng đến nội dung và hình thức 10 100% thể loại không? 3 Dạy học chú trọng đến cả nội dung và hình thức 6 60% thể loại Dạy học ít chú trọng đến hình thức thể loại 4 40% Thầy cô có gặp khó khăn khi dạy học văn bản 10 100% Người lái đò sông Đà không? 4 Có 6 60% Không 4 40% Kết quả khảo sát này cho thấy dù GV có chú ý đến đổi mới hình thức dạy học, nhưng chưa đồng bộ, nhất là áp dụng phương pháp DHTH vào dạy học môn Ngữ văn chưa linh hoạt trong các hoạt động, chủ yếu tập trung ở phần khởi động và luyện tập. Do đó kết quả dạy học chưa cao. 2.2. Thực trạng của học sinh Người lái đò sông Đà là một tác phẩm kí mang đậm dấu ấn tùy bút hiện đại được mạnh dạn đưa vào nội dung giảng dạy Ngữ văn 12, THPT chương trình mới. Và nó nhanh chóng trở thành một trong những bài học trọng tâm để học sinh thi THPT Quốc gia. Chưa có được chiều dài thời gian tiếp xúc và chiều sâu thẩm thấu cảm nhận như những tác phẩm khác trong chương trình Ngữ văn 12 nên bài kí của Nguyễn Tuân luôn là một thách thức đối với cả người dạy và người học. HS còn lạ lẫm với những sáng tác nghệ thuật theo thể kí. Hầu hết các em chưa có kỹ năng để 8
- phân tích một tác phẩm kí theo đặc trưng thể loại. Các em luôn cảm thấy khô khan, khó hiểu khi tiếp cận với tác phẩm. GV thì phải tự tìm tư liệu để lĩnh hội thấu đáo tác phẩm, lại phải tìm cách diễn đạt sao cho thật dễ hiểu đối với HS. Chính vì vậy, việc tích hợp kiến thức liên môn, phân môn đặc biệt là kiến thức về thể loại là hết sức cần thiết. Kết quả khảo sát học sinh: Đối tượng khảo sát: 350 HS trường THPT Lê Lợi, gồm 8 lớp khối 12 Hình thức khảo sát: Dùng phiếu thăm dò ý kiến của HS Số lƣợng STT Nội dung khảo sát Tỉ lệ % trả lời Em có học bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp 350 100% không? 1 Thường xuyên 95 27,1% Thỉnh thoảng 106 30% Không 150 42,9% Em có hứng thú với tác phẩm Người lái đò sông 350 100% Đà không? 2 Mức độ cao 75 21,4% Mức độ trung bình 95 27,2% Mức độ thấp 180 51,4% Việc giáo viên sử dụng các biện pháp dạy học truyền thống trong những giờ dạy- học Ngữ văn có 350 100% giúp em nắm rõ hơn nội dung của bài học không? 3 Nắm rõ nội dung 100 28,6 % Còn mơ hồ 220 62,8% Chưa định hướng được 30 8,6% Em có thích GV sử dụng PPDHTH trong những 350 100% giờ dạy học môn ngữ văn không? 4 Có 288 82,2% Không 52 17,8% 9
- Kết quả khảo sát này cho thấy hầu hết HS đều không hứng thú với tác phẩm Người lái dò sông Đà và đều mong muốn GV sử dụng phương pháp dạy học tích hợp trong các giờ dạy học văn. Đây chính là vấn đề mà GV luôn trăn trở trong các giờ lên lớp. 2.3. Thực trạng kiểm tra, đánh giá, thi cử Nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy lần nào thi hoặc có đề kiểm tra liên quan đến tác phẩm Người lái đò sông Đà thì HS lại gặp khó khăn, thậm chí điểm bài làm sẽ thấp hơn so với các đề bài liên quan đến tác phẩm khác. Khi tôi ra đề bài kiểm tra: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân (SGK 12 tập 1 trang 125), có em viết như sau: “Sông Đà quả là dũng cảm khi dám đương đầu với loài người. Nó không biết rằng con người thật ghê gớm có thể nuốt chửng sông Đà trong phút chốc”. Hay có em lại cho rằng sông Đà là một kiệt tác của con người… Lí do các em có những bài viết như vậy bởi các em không hứng thú với tác phẩm này, không thể nhớ nổi một đặc điểm, dẫn chứng nào liên quan. Do đó khi làm bài các em chủ yếu là “chém gió” không căn cứ. Từ những thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu và mạnh dạn đề ra một số biện pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy – học tác phẩm Người lái đò sông Đà để biến tiết học trở thành một giờ khám phá thú vị cũng như giúp HS hiểu hơn về tài năng độc đáo của Nguyễn Tuân ở thể loại kí. II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1. Vài nét về Nguyễn Tuân và vị trí của tác phẩm Người lái đò sông Đà 1.1. Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn có một phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo. Ông tiếp cận với thiên nhiên và con người chủ yếu ở phương diện văn hóa nghệ thuật, phương diện tài hoa nghệ sĩ. Bởi thế, Nguyễn Tuân được mệnh danh là nhà văn “duy mĩ”, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông là người có cá tính mạnh mẽ, có lối sống tự do phóng túng và sự ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như một điều tất yếu với một cá tính “Ngông” độc đáo. Văn nhân còn là một cây bút tài hoa và uyên bác trong việc dựng người, dựng cảnh, trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, trong những so sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ với những hình ảnh đẹp đầy gợi cảm. Ông uyên bác trong việc vận dụng những kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để làm phong phú thêm khả năng diễn tả của nghệ thuật văn chương. Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại, là “phù thủy ngôn từ”. Ông có một kho từ vựng phong phú, có khả năng tổ chức câu văn xuôi giàu giá trị tạo hình, có nhạc điệu và biết “co duỗi nhịp nhàng”. Nguyễn Tuân là nhà văn có giọng điệu riêng. Giọng văn của Nguyễn Tuân vừa trang nhã, cổ kính, vừa sắc sảo, hiện đại, đầy góc cạnh. 10
- Với gần năm mươi năm hoạt động văn học liên tục, bằng ngòi bút đầy tài năng của mình, Nguyễn Tuân đã có những đóng góp to lớn, có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi văn Việt Nam hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo. "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa" (Nguyễn Minh Châu). Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một "huyền sử" - huyền sử của một người ưu lối chơi "độc tấu". 1.2. “Người lái đò sông Đà” – một đỉnh cao nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám 1945 Người lái đò sông Đà là tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Tùy bút Sông Đà năm 1960. Đó là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hứng của Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 – 1960, chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khát khao xê dịch mà chủ yếu để tìm kiếm “chất vàng mười” trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ “vàng mười đã qua thử lửa” của tâm hồn con người Tây Bắc trong cuộc sống hằng ngày của họ. Tác phẩm đã thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Đó là một công trình khảo cứu công phu nhưng cũng là một áng văn giàu tính thẩm mĩ. Viết về Sông Đà nhà văn muốn đề thơ, phổ nhạc vào sông nước quê hương. Cảm hứng sông Đà đã thành nghệ thuật, “thành một gợi cảm mênh mang” về sông quê, về con người Việt Nam. Và ông cũng là một “Đà giang độc bắc lưu” trên bình diện nghệ thuật. Ta thấy đây là sự đồng điệu trong tâm hồn những người nghệ sĩ lớn bởi Maxim Gorky nói "cái bình thường là cõi chết của nghệ thuật". Nam Cao trong "Đời thừa" cũng từng viết: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Và Nguyễn Tuân chính là một cái Tôi riêng không thể lẫn lộn trong “Người lái đò sông Đà”. 2. Yêu cầu khi tích hợp trong giờ dạy – học môn Ngữ văn Để tích hợp tốt, GV cần xác định mục đích tích hợp là hướng tới việc rèn luyện các kỹ năng nghe – nói – đọc – viết cho học sinh tốt hơn. Khi đưa việc tích hợp vào bài giảng, đòi hỏi GV phải bao quát về các tiết dạy học trong chương trình dạy học Ngữ văn trung phổ thông . Tiếp đến, tiến hành xác định nội dung tích hợp cho phù hợp nghĩa là không gò bó, gượng ép cứng nhắc. Lúc này lựa chọn các nội dung tích hợp phù hợp, không cầu kỳ ôm đồm dẫn đến lan man, làm mất đi đặc thù phân môn là điều rất quan trọng. Mức độ tích hợp vừa phải, chọn bài học có nội dung tích hợp và chọn thời điểm tích hợp đúng chỗ, đúng mức và đúng lúc. Chọn 11
- cách thức tích hợp là con đường, biện pháp, phương pháp tích hợp. Điều này phụ thuộc năng lực sư phạm của GV dạy Ngữ văn. GV phải biết lồng ghép kiến thức phân môn, nhiều môn để tạo sự phong phú cho bài dạy. Ở bộ môn Ngữ văn chủ yếu vận dụng hai hình thức là tích hợp phân môn (trong nội bộ môn học) và tích hợp liên môn (các môn học có liên quan) để giảng dạy và nâng cao hiệu quả của giờ dạy học. 3. Một số biện pháp tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy- học tác phẩm Người lái đò sông Đà 3.1. Tích hợp trong hoạt động khởi động * Tích hợp với kiến thức âm nhạc Trong quá trình giảng dạy, hoạt động khởi động tuy chỉ chiếm một thời gian ngắn khoảng 2 – 5 phút nhưng lại giữ vai trò rất quan trọng trong việc giúp GV vào bài giảng một cách chủ động, tích cực hơn; tạo tâm thế, sự hứng khởi và thích thú cho các em HS. Đối với tác phẩm Người lái đò sông Đà, khi khởi động tôi cho HS nghe bài hát Tiếng gọi sông Đà của nhạc sĩ Trần Chung. Sau khi HS phát hiện được vấn đề tôi trình chiếu các hình ảnh về sông Đà để vào bài mới. 3.2. Tích hợp trong hoạt động hình thành kiến thức Để giúp HS có một hành trình khám phá văn bản đầy thú vị, tôi đã áp dụng một số biện pháp cụ thể như sau: 3.2.1. Biện pháp thứ nhất: Tích hợp với kiến thức phân môn * Tích hợp với Lý luận văn học để cung cấp cho học sinh những kiến thức lý luận cơ bản về thể loại kí. (Tích hợp trong phần tìm hiểu chung) Hành trình tiếp nhận “đứa con tinh thần” của mỗi nhà văn là một hành trình khám phá thú vị nhưng cũng đòi hỏi người đọc có những định hướng tiếp nhận phù hợp dựa vào đặc trưng thể loại của tác phẩm. Để giúp HS dễ hiểu hơn và hứng thú hơn trong quá trình khám phá tác phẩm Người lái đò sông Đà, tôi sẽ vận dụng các kiến thức từ phân môn lý luận văn học để cung cấp cho các em những kiến thức lý luận chung nhất nhằm tạo “bước đệm” trước khi tìm hiểu tác phẩm. - Khái niệm: Kí là tên gọi cho một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa văn học và cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại), chủ yếu là văn xuôi tự sự. Do nội dung và cách ghi chép mà các nhà lý luận chia ra ba loại kí: Kí tự sự, kí trữ tình, kí chính luận. Các yếu tố của các thể loại khác nhau luôn đan xen trong một tác phẩm. - Phân loại: Trong thể kí lại bao gồm nhiều tiểu loại: 12
- Tiêu chí Ký tự sự Ký trữ tình Ký chính luận Kí sự, phóng sự, Nhật kí, bút kí, tùy bút. Tiểu phẩm văn học, Tiểu truyện kí, hồi kí, du tạp văn, tạp kỹ… loại kí, tản văn. Kí tự sự chủ yếu ghi Đối với loại kí trữ tình Ở thể kí chính luận, lại những diễn biến nghiêng về phần ghi có sự kết hợp chặt khách quan của cuộc nhận những cảm xúc và chẽ giữa tư duy hình sống và con người suy nghĩ của nhà văn tượng của người thông qua những sự trước hiện thực khách nghệ sĩ với tư duy Đặc kiện. Người viết kí có quan, hoặc xen kẽ kết chính luận. Qua kí điểm quyền bình luận, hợp giữa bình luận, suy chính luận nhà văn phân tích nhưng chủ tưởng, miêu tả và kể đặt ra nhiều vấn đề yếu vẫn là tiếng nói chuyện. Chất cảm xúc để giới thiệu, bình của sự sống đang vận trữ tình chiếm một vị trí luận, chứng minh. động, phát triển. quan trọng. - GV cũng cần chỉ ra cho HS thấy sự khác biệt giữa truyện và kí để các em không bị nhầm lẫn về thể loại. Tiêu chí Truyện Kí Thường phản ánh vấn đề sự Kí thường hướng đến các vấn đề hình thành tính cách của cá như kinh tế, xã hội, chính trị, và văn Đề tài nhân trong tương quan với hóa, đạo đức của chính môi trường hoàn cảnh. xã hội hoặc vẻ đẹp thiên nhiên. Cốt truyện Truyện có cốt truyện rõ ràng. Kí thường không có cốt truyện. Truyện dài, truyện vừa, - Kí tự sự Thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết… - Kí trữ tình; kí chính luận Tác phẩm truyện có một Tác phẩm kí không có một xung đột Nghệ xung đột thống nhất và phát thống nhất, phần khai triển của tác thuật triển lôgic với các phần: mở phẩm chủ yếu mang tính miêu tả, đầu- thắt nút- mở nút. tường thuật. - Để giúp HS hiểu thêm về tùy bút, GV phải giúp HS phân biệt giữa tùy bút, bút ký và kí sự để tránh những cách hiểu chung chung mơ màng về tiểu loại bút kí. 13
- Tiêu Tùy bút Bút kí Kí sự chí Tiểu Kí trữ tình Kí trữ tình Kí tự sự loại Tùy bút ghi lại những suy Bút kí thiên về ghi lại Ghi lại những nghĩ, cảm xúc, hồi tưởng một cảnh vật nhà văn người và việc có của nhà văn về bất cứ mắt thấy tai nghe trong thật của đời sống, vấn đề gì không theo một các chuyến đi. Nó tái không thêm một khuôn khổ nhất định hay hiện con người và sự chút gì thuộc chủ Nội một hệ thống chặt chẽ mà việc một cách sinh quan người viết. dung tuỳ theo dòng cảm xúc, động qua đó biểu hiện dòng suy nghĩ nhất thời, trực tiếp khuynh để ngòi bút đưa đi từ liên hướng cảm thụ của tác tưởng này sang liên giả và mang màu sắc tưởng khác. trữ tình. Ngôn ngữ giàu tính chất Kết hợp linh hoạt các Hình ảnh chân trữ tình, nặng về những ý phương thức nghị luận, thực, khách quan. Nghệ nghĩ riêng tư sâu sắc, tự sự, trữ tình. Thể loại Ngôn từ mang tính thuật thâm trầm và lôi cuốn văn học này là thể loại kể, tả nhiều hơn là người đọc. Lời văn cũng trung gian giữa tùy bút bộc lộ cảm xúc. phóng khoáng, thoải mái. và kí sự. 3.2.2. Biện pháp thứ hai: Tích hợp kiến thức liên môn để thấy được vẻ đẹp phong phú, đa dạng của dòng Đà giang và vẻ đẹp của ông lái đò. * Tích hợp với kiến thức địa lí để hiểu thêm về đặc điểm tự nhiên của dòng sông Đà. (Tích hợp khi tìm hiểu về vẻ đẹp của sông Đà) Khi giảng dạy tác phẩm, để giúp HS hình dung rõ nét hơn về thủy trình của sông Đà, GV nên sử dụng bản đồ sông Đà từ nhiều góc độ và hình ảnh của một số địa danh được nhắc đến trong tác phẩm. Bản đồ sông Đà dưới dạng vẽ đồ họa Bản đồ sông Đà từ vệ tinh 14
- Tình yêu cuộc sống, lòng ham hiểu biết về con sông, cây cầu của non sông đất nước cũng như ý thích đi lại hoạt động…đã tạo cho mỗi trang viết của Nguyễn Tuân ngồn ngộn kiến thức, thể hiện một sự hiểu biết tường tận từng chi tiết được nói tới trong văn mình. Dòng sông Đà có thể được tái hiện rất trữ tình, thơ mộng nhưng cũng có lúc khúc Đà giang vĩ đại hiện lên chính xác trong từng con số. Nguyễn Tuân thoắt trở thành nhà địa lí khi đưa ta về với thượng nguồn sông Đà ở Cảnh Đông tỉnh Vân Nam sau đó chan hòa vào sông Hồng, chảy trên đất Việt hơn 500 cây số trong tổng chiều dài hơn 800 nghìn thước mét, khi kể ra rất chính xác, cụ thể về “những cái thác, những cái ga nước trên sông Đà từ Vạn Yên về xuôi”. Ông cũng cho thấy sự am hiểu về sông ngòi Việt Nam khi khám phá những dòng nước dữ dội cuộn xoáy tít đáy hay những thạch trận đá khắp sông Đà là thách thức lớn với những người qua sông. Việc vận dụng kiến thức Địa lí còn giúp HS hiểu địa hình Việt Nam, các dòng sông hầu hết ở thượng nguồn đều là vùng núi cao, nhiều vực thẳm, rừng già khiến cho nước chảy xiết dữ dội. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành “Mặt sông quãng ấy lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời”, “vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu” thật chính xác. Ông quan sát hình dung: khoảng cách nhẹ nhàng tưởng như đứng từ bờ này ném nhẹ hòn đá sang bờ bên kia. Đó là “thác nước” với âm thanh dữ dội, đầy những tiếng réo gào. Tiếng thác được ví như tiếng rống của “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa”. Con sông luôn hung hăng, ưa gây sự luôn chờ đợi người lái đò sông Đà để giáng tai họa vào cho họ. Hình ảnh “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió… Những động từ mạnh, lặp lại nói đến sự tiếp diễn của hành động “xô” được diễn ra trên một không gian dài như con sông và hành động đó dữ dội không chỉ ở trong lòng mà cả trên mặt sông: “Cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ xuýt…”. * Tích hợp với kiến thức lịch sử để hiểu thêm về vẻ đẹp và lịch sử của dòng sông Đà. (Tích hợp khi tìm hiểu về vẻ đẹp trữ tình của sông Đà) Quả thật, khi miêu tả dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã đứng trong vai trò của nhiều nhà khoa học: một người chuyên nghiên cứu lịch sử biết dòng sông dưới thời Pháp thuộc có một “cái tên Tây lếu láo” do chúng tự đặt là “sông Đen”; một nhà chính trị khi biết “châu Quỳnh Nhai được giải phóng trước tiên ở Tây Bắc”, trở thành “cơ sở bàn đạp ở Tây Bắc” xuyên vào lòng địch... Nguyễn Tuân hiểu rõ các thời kì lịch sử khác nhau gắn với Sông Đà từ thời tiền sử, thời Hùng Vương, thời vua chúa phong kiến, thời kháng chiến, thời xây dựng chủ nghĩa xã hội… Sông Đà từ đời Lí, đời Trần đến đời Lê vẫn cứ lặng tờ như thế hai bên bờ sông. “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”; rồi cũng lại từ cái tĩnh lặng của hiện tại mà hướng đến tương lai với “tiếng còi xúp–lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”. 15
- * Tích hợp với kiến thức văn hóa để giúp học sinh hiểu rõ vẻ đẹp tâm hồn và đời sống sinh hoạt của con người bên dòng sông Đà. (Tích hợp khi hướng dẫn HS tìm hiểu về hình tượng ông đò sau cuộc vượt thác) Đó là những cảnh sinh hoạt của ông lái đò sau khi vượt qua thác đá sông Đà. Đó là hình ảnh ông đò đốt lửa trong hang đá sưởi ấm, nướng ống cơm lam – một loại cơm được nướng trong ống nứa thơm ngon của đồng bào Tây Bắc. Ông thư thái ngồi thưởng ngoạn vẻ đẹp của sông Đà và bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh – những loài cá quý hiếm trên sông Đà. Đó là đời sống tinh thần phong phú, tự do tự tại của người lao động vùng Tây Bắc. Những khó khăn hiểm nguy của cuộc mưu sinh không khiến họ trở nên chai sạn đi mà ngược lại họ vẫn mang một tâm hồn “tao nhân mặc khách”, tâm hồn tinh tế của một thi sĩ. Vẻ đẹp của ông lái đò – vừa dũng cảm phi thường, vừa tài hoa nghệ sĩ chính là vẻ đẹp của con người nơi đây – “chất vàng mười Tây Bắc” đã qua thử lửa được Nguyễn Tuân khám phá và tái hiện trên trang viết. * Tích hợp với kiến thức âm nhạc để thấy được chất nhạc của sông Đà. (tích hợp trong phần khởi động; phần tìm hiểu về nước và vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ) Nguyễn Tuân đã vận dụng các kỹ thuật thanh nhạc để hòa tấu nên bản nhạc mang tên “sông Đà”. Đó là bản hợp âm dữ dội của thác đá: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”… Những cách ví von mới lạ, độc đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và nhịp điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục đẩy âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã qua đi, người ta có cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh bình”. Nếu như vẽ một cái biểu đồ tần số âm thanh sông Đà thì ta đã có một đường lên rất cao rồi đột ngột trở về với thanh ngang ghi âm của biểu đồ. Sau đó, ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân lại giúp ta vẽ tiếp một đường đi xuống để diễn tả cái “lặng tờ” của cảnh vật ven sông Đà ở hạ lưu. Nguyễn Tuân, bằng tài nghệ và cá tính của mình đã lôi kéo tâm thức người đọc miên man theo rồi bất ngờ đánh thức họ bằng tiếng cá đập nước, âm thanh không phải dễ nghe thấy trong cuộc sống thường ngày. Chỉ có trong không gian tĩnh lặng này, nó mới có thể “đuổi mất đàn hươu vụt biến” và làm chúng ta choàng tỉnh. Tiếng động ấy đã khiến đường ghi âm nhích lên một chút, tạo một điểm nhấn thanh nhẹ rồi lại trả con sông ở hạ lưu về với vẻ “lặng tờ” vốn dĩ. * Tích hợp với hội họa để thấy được chất họa đậm nét qua ngôn từ của tác phẩm. (Tích hợp trong phần hướng dẫn HS tìm hiểu về vẻ đẹp của sông Đà ) 16
- Đối với Nguyễn Tuân những trang kí của ông không chỉ thấm đẫm chất thơ mà còn giàu chất hội họa. Qua ngòi bút tinh tế, sông Đà hiện hữu với những đường nét, màu sắc hài hòa đa dạng tạo nên một hình ảnh trọn vẹn về dòng sông đặc trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc. Để giúp HS hiểu thêm giá trị ấy, GV cần cung cấp các kiến thức hội họa cho HS. Đường nét và màu sắc là hai yếu tố chủ đạo trong hội họa. Hiểu được điều đó, nhà văn tái hiện vẻ đẹp sông Đà qua những đường nét khá phong phú. Nguyễn Tuân bằng những hiểu biết về những môn nghệ thuật gần gũi với văn chương như hội họa đã tạo hình sông Đà “tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, hay “ngoằn ngoèo như một cái dây thừng”; sử dụng nghệ thuật điêu khắc khi miêu tả “có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”... Vài nét vẽ mà thật giàu sức gợi! Nước đã dữ, đá thác còn khó ưa hơn. Sức tưởng tượng đã được Nguyễn Tuân phát huy để tạo dáng hình cho từng khuôn mặt đá: đá to đá nhỏ “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”, lại có “những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt” hay “tiu nghỉu cái mặt xanh lè”. Khắc xong lại tô vẽ. Nhà văn lôi hộp màu ngôn từ ra, mong truyền tải lại được một cách chân thực, sống động nhất vẻ đẹp con sông mà ông đã để tâm quan sát rất kĩ lưỡng. Nếu cái dữ dằn của đá khiến nó trở nên xấu xí, khó ưa thì cái dữ dằn của nước sông lại vô tình phát huy tác dụng của nắng khiến nó mang vẻ đẹp sang trọng, lấp lánh huyền ảo của một “Mặt sông trắng xóa”, “lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”, lại “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, hay “sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Chẳng hiểu sao đọc những dòng mô tả của Nguyễn Tuân, ta lại liên tưởng đến chiếc váy lộng lẫy của Nữ thần mặt trời trong sử thi “Đam Săn”. Và có lẽ lúc này, dòng sông cũng đẹp như thế! Một vẻ đẹp khiến ta trầm trồ ngưỡng mộ. Rồi, nó lại khiến ta thương thầm trong những sắc màu bình dị nhưng mặn mà, mỗi mùa mỗi khác: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà từ từ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Thảo nào Nguyễn Tuân không xót xa và phẫn nộ cho được khi “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”. Cách tạo hình của Nguyễn Tuân thật tài hoa với tuyệt phẩm sông Đà. Tác giả tinh tế phát hiện những cảnh sắc tươi non, thơ mộng ven sông Đà khi đã về đến hạ lưu: “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Còn cái so sánh này thì thật táo bạo, bất ngờ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Một bức tranh có hồn và đầy sức sống được dựng bởi ngòi bút văn chương tài hoa bậc thầy của Nguyễn Tuân. 17
- * Tích hợp với kiến thức của ngành sân khấu điện ảnh để thấy vẻ đẹp đa chiều của sông Đà. (Tích hợp trong phần tìm hiểu về nước trên sông Đà) Cái chúng ta đang chiêm ngưỡng không chỉ là tác phẩm âm nhạc, hội họa, điêu khắc mà còn là một tác phẩm điện ảnh. Nhà văn khi thì “Ngồi trong khoang đò” quay cảnh đá bờ sông, chẹt lòng sông, khi thì “ngồi tàu bay” chiếu ống kính xuống để bao quát toàn cảnh. Còn với những cảnh quá nguy hiểm, không thể quay trực tiếp được, nhà văn lại huy động đến trí tưởng tượng để “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy hút sông Đà” mà lia ngược ống kính lên để quay cận cảnh “một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. Ấy vậy mà đã truyền được cái hồn cốt của nó đến với độc giả. Điều này thật chỉ có “nhà quay phim” tài ba như Nguyễn Tuân mới làm nổi. * Tích hợp kiến thức của ngành quân sự, thể thao, võ thuật để thấy vốn hiểu biết phong phú và kỹ năng miêu tả bậc thầy của Nguyễn Tuân. (Tích hợp trong phần hướng dẫn HS tìm hiểu về thạch trận trên sông Đà và cuộc vượt thác của ông đò) Tác giả đã sử dụng đến tri thức về khoa học quân sự và võ thuật để miêu tả thạch trận và cuộc vượt thác đầy cam go của ông lái. Người đọc tưởng thấy trước mắt một “trùng vi thạch trận” được bày bố công phu bởi những “chiến binh đá” hung ác và lão luyện. Chúng biết dàn trận với “hàng tiền vệ” rồi “tuyến giữa”, “tuyến hai”…; thông thạo những chiến thuật đánh trận như “mai phục”, “dụ”, “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”…; đánh trận cũng rất xông xáo, dũng mãnh: “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”; lại còn ngạo mạn “hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi”, thách thức cái thuyền “có giỏi thì tiến gần vào”… Đó là chưa kể chúng còn có sự hợp sức của nước thác cũng hiếu chiến, hung dữ và ma mãnh không kém: “Mặt nước hò la vang dậy… ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình… liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền… đội cả thuyền lên… bám lấy thuyền như đô vật túm lấy thắt lưng ông lão… nước thanh la não bạt”… Thế này thì ông lái nguy mất! Người đọc không khỏi băn khoăn lo lắng. Nhưng chứng kiến trọn vẹn cảnh vượt thác mới thấy ông không phải dễ bị “bắt nạt”. Sức dẻo dai của cơ thể cùng cái đầu cứng cỏi, bình tĩnh, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở” đã giúp ông lái “xung trận” như một võ sĩ “trí dũng song toàn” lần lượt bẻ gãy các cuộc vây ráp, các đòn tấn công. Từng động tác của ông mới nhanh gọn, dứt khoát làm sao: “tránh”, “đè sấn”, “lái miết một đường chéo”, “phóng thẳng”… Ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, nhiều từ dùng mới mẻ cùng những ví von bất ngờ mà vô cùng chính xác đã được sử dụng để miêu tả thạch trận, đá thác, sóng thác, nước thác, bây giờ lại tiếp tục được vận dụng để tả những vận động không kém phần dữ dội, quyết liệt của ông lái “nắm chặt lấy được cái bờm sóng… ông đò ghì cương lái”, “thuyền như 18
- một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”… Có thể nói, với vốn hiểu biết phong phú về quân sự và võ thuật, thể thao, Nguyễn Tuân đã tái hiện trận chiến có một không hai giữa con sông tự nhiên với con người nhỏ bé từ đó khẳng định sự xảo quyệt hung bạo của sông Đà và ngợi ca vẻ đẹp trí dũng của người lái đò sông Đà. * Tích hợp với công nghệ thông tin để làm phong phú bài dạy. (trình chiếu các video, hình ảnh, giáo án điện tử) Trong quá trình giảng dạy việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp giáo viên giảng dạy một cách chủ động tích cực hơn và cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo hứng thú cho học sinh. Đối với tác phẩm Người lái đò sông Đà, khi giảng dạy ta có thể đưa các loại hình ảnh, video sau: - Hình ảnh: Đưa hình ảnh Nguyễn Tuân, bản đồ Sông Đà và Tây Bắc, hình ảnh bìa các tác phẩm của Nguyễn Tuân, các hình ảnh được nhắc đến trong tác phẩm. - Video: Video giới thiệu về sông Đà. - Giáo án điện tử: Thiết kế giáo án điện tử ở dạng dễ hiểu nhất cho học sinh nhưng vẫn đầy đủ ý. Từ việc được nghe giảng, được xem các hình ảnh sẽ giúp học sinh hứng thú hơn trong tiếp nhận nhằm khắc phục trạng thái “ngại học” ở các em. Nguyễn Tuân và tuyển tập Thạch trận trên sông Đà Hút nước trên sông Đà 19
- Sông Đà ngắm nhìn trên cao Sông Đà ngắm nhìn từ trên thuyền Ông đò trong cuộc vượt thác 3.3. Tích hợp trong hoạt động luyện tập, vận dụng 3.3.1. Tích hợp với môn Giáo dục công dân Tích hợp với môn giáo dục công dân để giáo dục cho HS những bài học đạo đức, nhân cách và ý thức trách nhiệm đối với đất nước. Từ tác phẩm Người lái đò sông Đà, GV phải lồng vào phần liên hệ mang tính giáo dục, nhắc nhở các em lòng yêu quê hương, đất nước, trách nhiệm xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Từ chỗ giúp HS thấy được vẻ đẹp của sông Đà, của thiên nhiên Tây Bắc để giúp học trò nhận thức được cần phải trân trọng, gìn giữ những vẻ đẹp của non sông gấm vóc. Mặt khác, qua bài học ta cũng cần giáo dục các em ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường, đặc biệt là giữ gìn những dòng sông xanh – sạch – đẹp. Vì đó là vẻ đẹp của thiên nhiên 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 276 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 177 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p | 43 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 24 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 38 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 35 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p | 42 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p | 72 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn