Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trung học phổ thông
lượt xem 1
download
Sáng kiến "Một số biện pháp giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trung học phổ thông" được hoàn thành với mục tiêu nhằm khảo sát và đánh giá thực trạng EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) của học sinh trung học phổ thông Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An. Đề xuất một số kinh nghiệm giúp phát triển giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trung học phổ thông.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trung học phổ thông
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN ---------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC EQ (EMOTIONAL QUOTIENT – TRÍ TUỆ CẢM XÚC) GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG” LĨNH VỰC: GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG Tác giả: Nguyễn Bá Hùng – THPT Đô Lương 4 – ĐT: 0946406777 Trần Thị Nga - THPT Đô Lương 4 - ĐT: 0889787968 Lê Thị Hoa –THPT Đô Lương 4 – ĐT: 0383754212 Năm học 2023 – 2024
- PHẦN I - MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Daniel Goleman nhà tâm lý học nổi tiếng nhất, tác giả của cuốn sách Trí tuệ cảm xúc viết: “Nếu khả năng cảm xúc của bạn không có trong tay, nếu bạn không có nhận thức về bản thân, nếu bạn không thể quản lý cảm xúc đau khổ của mình, nếu bạn không thể có sự đồng cảm và có những mối quan hệ hiệu quả, thì dù bạn có thông minh đến đâu ... bạn sẽ không đi được rất xa”. Nội dung của câu nói chính là khẳng định vai trò của kỹ năng quản lý cảm xúc. Kỹ năng quản lý cảm xúc được ví như thuyền trưởng tuyệt vời giúp con người biết cách giải quyết vấn đề, biết cách vượt qua, biết cách xác định lợi thế và nắm bắt nó. Giữa bộn bề, ngổn ngang của đời sống thường nhật, chúng ta thường đánh giá thấp sức mạnh của một cái chạm, một nụ cười, một lời nói tử tế, một đôi tai lắng nghe, một lời khen chân thành, hay một hành động quan tâm nhỏ nhất…Và rồi mỗi ngày chỉ vừa mở mắt ra để đối mặt với thế giới chúng ta đã bị tra tấn bởi rất nhiều những tin xấu, những vụ bê bối và thảm họa, bạo loạn ... chúng ta cứ liên tục phải đương đầu với những nguồn cơn của sự tiêu cực, đối mặt với lời chỉ trích, định kiến, sợ hãi kéo theo cảm giác bất an, lo âu choán hết trong lòng. Liều thuốc nào giải tỏa nguồn cơn này, cách thức nào điều chỉnh cảm xúc lẫn hành vi cho ta hướng về những điều tích cực. Một giải pháp hữu hiệu nhất chính là điều chỉnh, kiểm soát cảm xúc, suy nghĩ của bản thân, đó chính là trí tuệ cảm xúc gọi tắt là EQ (Emotional Quotient). EQ là viết tắt tiếng anh của Emotional Quotient, được hiểu theo nghĩa là khả năng xác định, kiểm soát cảm xúc, suy nghĩ của bản thân và người xung quanh. Vì vậy EQ là chỉ số đo lường trí tuệ về cảm xúc của con người và là yếu tố quyết định hành vi của người đó. Nó định hình sự tương tác của chúng ta với những người khác và sự hiểu biết của chúng ta về bản thân. Nó xác định cách thức và những gì chúng ta học được, nó cho phép chúng ta thiết lập các ưu tiên, nó quyết định phần lớn các hành động hàng ngày của chúng ta. Nghiên cứu cho thấy nó chịu trách nhiệm tới 80% thành công trong cuộc sống. Vậy nên giáo dục EQ cho trò là vô cùng cần thiết để giúp trò có kỹ năng sống, hình thành phẩm chất, năng lực cân bằng cảm xúc cả lúc bão giông, tự quản bản thân, sống biết ơn, suy nghĩ tích cực lạc quan và thành công, hạnh phúc. Để làm được điều đó, ngoài sự giáo dục của gia đình, xã hội thì người giáo viên đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục EQ để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, hình thành phẩm chất năng lực học sinh. J.A.Coomenxki - một nhà giáo dục học vĩ đại, đại biểu suất sắc của chủ nghĩa nhân văn đã gọi giáo viên là “người chuyển giao của ngọn đuốc nền văn minh”. Đó cũng là một cách vinh danh vị thế cao cả của người thầy, người cô trong quá trình thắp lửa, khơi nguồn và định hướng tương lai cho các thế hệ học trò. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Một số biện 1
- pháp giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trung học phổ thông”. Với mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm của mình cho các đồng nghiệp và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, hình thành và phát triển những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Đề xuất một số kinh nghiệm giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trung học phổ thông. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận về EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc), vai trò của EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) giúp phát triển phẩm chất năng lực cho học sinh trung học phổ thông. - Khảo sát và đánh giá thực trạng EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) của học sinh trung học phổ thông Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An. - Đề xuất một số kinh nghiệm giúp phát triển giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trung học phổ thông. - Khảo nghiệm tính khả thi của các giải pháp. 3. Giới hạn nghiên cứu - Giới hạn nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số kinh nghiệm giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, phát triển phẩm chất năng lực của học sinh THPT. - Địa bàn nghiên cứu: Học sinh trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An. - Thời gian nghiên cứu: Trong 2 năm học: 2022 – 2023 và 2023 – 2024. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý luận về EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, phát triển phẩm chất năng lực cho học sinh THPT để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp điều tra: Dùng phiếu điều tra bằng bảng hỏi (Ankét) và trắc nghiệm tâm lý (trắc nghiệm khả năng giao tiếp của V.P Dakharốp) để khảo sát thu thập thông tin và đánh giá các kĩ năng của học sinh THPT. - Phương pháp quan sát: Quan sát HS trong các giờ học trên lớp, trong các hoạt động ngoại khóa, trong giao tiếp với bạn bè và các Thầy, Cô giáo để nắm bắt các biểu hiện cụ thể bản thân học sinh. 4.3. Các phương pháp thống kê toán học 2
- Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để thu thập số liệu, xử lý số liệu định lượng kết quả nghiên cứu xây dựng cơ sở thực tiễn, từ đó đề xuất các biện pháp giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) của học sinh THPT. 5. Đóng góp của đề tài - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc), vai trò giá trị EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) của học sinh THPT. - Làm sáng tỏ thực trạng của học sinh THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An. - Đề xuất được một số kinh nghiệm giúp phát triển giáo dục đạo đức học sinh thông qua giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc). - Kết quả nghiên cứu đề tài trở thành tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục trong các trường phổ thông. PHẦN II: NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài 1. Cơ sở lý luận 1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài 1.1.1. EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) là gì? EQ là thuật ngữ được viết tắt từ một tên tiếng anh đầy đủ là Emotional Quotient, tức chỉ số trí tuệ cảm xúc. Thuật ngữ trí tuệ cảm xúc hay trí thông minh cảm xúc (EI – emotional intelligence) do hai nhà tâm lí học Mĩ là Peter Salovey và John Mayer sử dụng năm 1990. Theo Peter Salovey (1990), trí thông minh cảm xúc được nhận diện như là năng lực làm chủ, điều khiển, kiểm soát tình cảm, xúc cảm của mình và của người khác để tách biệt các phạm trù này khỏi khái niệm trí thông minh chung, các nét nhân cách và để sử dụng thông tin này trong định hướng cách suy nghĩ và cách hành động của một cá nhân. Theo Salovey và Mayer (1997) trí thông minh cảm xúc được nhận diện như là năng lực nhận biết và bày tỏ xúc cảm hòa xúc cảm vào suy nghĩ, để hiểu, suy luận về xúc cảm và để điều khiển, kiểm soát xúc cảm của mình và của người khác. Theo Daniel Goleman, Tâm lý gia người Mỹ, có năm yếu tố để xác định trí tuệ cảm xúc: Hiểu rõ bản thân; kiểm soát bản thân; giàu nhiệt huyết, biết cảm thông và cuối cùng là kỹ năng giao tiếp. 3
- Như vậy, EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) là khả năng nhận biết cảm xúc của bản thân, hiểu những gì người khác nói với mình, và hiểu được cảm xúc của mình ảnh hưởng đến người xung quanh như thế nào. Trí tuệ cảm xúc còn liên quan đến nhận thức của bản thân về người khác: khi hiểu cảm xúc của họ, phân biệt được chúng và sử dụng được chúng để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của bản thân. Hình 1. Khái niệm EQ - Trí tuệ cảm xúc 1.1.2. Các cấp độ EQ (emoional quotient – trí tuệ cảm xúc) Các nhà nghiên cứu cho rằng có bốn cấp độ khác nhau của trí tuệ cảm xúc: - Nhận thức cảm xúc: Bước đầu tiên để hiểu cảm xúc là nhận thức chúng một cách chính xác. Trong nhiều trường hợp, điều này có thể liên quan đến việc hiểu các tín hiệu phi ngôn ngữ như ngôn ngữ cơ thể và nét mặt. - Lý luận bằng cảm xúc: Bước tiếp theo liên quan đến việc sử dụng cảm xúc để thúc đẩy hoạt động tư duy và nhận thức. Cảm xúc giúp ưu tiên những gì chúng ta chú ý và phản ứng; chúng ta phản ứng một cách cảm tính với những thứ thu hút sự chú ý của chúng ta. - Hiểu về cảm xúc: Những cảm xúc mà chúng ta nhận thức có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Nếu ai đó đang bộc lộ cảm xúc tức giận, người quan sát phải giải thích nguyên nhân gây ra sự tức giận của người đó và ý nghĩa của nó. Ví dụ, nếu sếp của bạn tỏ ra tức giận, điều đó có thể có nghĩa là họ không hài lòng với công việc của bạn, hoặc có thể là do họ bị phạt quá tốc độ trên đường đi làm vào sáng hôm đó hoặc họ đã gây gổ với đối tác của mình. - Quản lý cảm xúc: Khả năng quản lý cảm xúc hiệu quả là một phần quan trọng của trí thông minh cảm xúc và mức độ cao nhất. Điều tiết cảm xúc và phản ứng một cách thích hợp cũng như đáp lại cảm xúc của người khác là tất cả các khía cạnh quan trọng của quản lý cảm xúc. 4
- Bốn nhánh của mô hình này được sắp xếp theo độ phức tạp với các quy trình cơ bản hơn ở cấp thấp hơn và quy trình nâng cao hơn ở cấp cao hơn. Ví dụ, các cấp độ thấp nhất liên quan đến nhận thức và thể hiện cảm xúc, trong khi các cấp độ cao hơn đòi hỏi sự tham gia có ý thức nhiều hơn và liên quan đến việc điều chỉnh cảm xúc. tham gia có ý thức nhiều hơn và liên quan đến việc điều chỉnh cảm xúc. Hình 2. Mô hình bốn cấp độ của trí tuệ cảm xúc 1.1.3. Các yếu tố cấu thành EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) Có năm yếu tố cấu thành trí tuệ cảm xúc, bao gồm: Tự nhận thức (Self-awareness): Khả năng nhận biết và định danh các cảm xúc của chính mình một cách chính xác. Khi có khả năng tự nhận thức, chúng ta có thể hiểu được tình trạng cảm xúc của bản thân và từ đó điều chỉnh hành động của mình. Tự điều chỉnh (Self-regulation): Khả năng điều chỉnh và kiểm soát cảm xúc của mình để đạt được một mục tiêu hay giải quyết vấn đề. Khi có khả năng tự điều chỉnh, chúng ta có thể tránh được việc quá phản ứng hoặc hành động sai lầm trong tình huống khó khăn. Động lực (Motivation): Khả năng sử dụng cảm xúc của mình để thúc đẩy bản thân, tạo động lực và đạt được mục tiêu của mình. Khi có khả năng động lực, chúng ta có thể tránh được tình trạng lười biếng hay mất động lực. Sự thấu cảm (Empathy): Khả năng hiểu và cảm thông với cảm xúc của người khác. Khi có khả năng thấu cảm, chúng ta có thể xây dựng mối quan hệ tốt với người khác, tăng cường sự đồng tình và giảm thiểu sự xung đột. 5
- Kỹ năng xã hội (Social skills): Khả năng tương tác và giao tiếp tốt với người khác. Hình 3. Năm yếu tố cấu thành trí tuệ cảm xúc 1.1.4. Vai trò của EQ - trí tuệ cảm xúc đến học tập và đời sống Trí tuệ cảm xúc có ảnh hưởng rất lớn đến học tập và đời sống của con người, bao gồm: Học tập: Trí tuệ cảm xúc giúp cho học sinh có khả năng tự kiểm soát cảm xúc, tăng khả năng chịu đựng và đối mặt với áp lực học tập. HS cũng có khả năng giao tiếp và tương tác xã hội tốt hơn, làm việc nhóm hiệu quả hơn và có thể đón nhận phản hồi và học từ những sai lầm. Ngoài ra, trí tuệ cảm xúc còn giúp học sinh phát triển khả năng giải quyết vấn đề và ra quyết định thông minh hơn. Công việc: Trí tuệ cảm xúc giúp cho nhân viên trong công việc có khả năng tự kiểm soát cảm xúc, giúp tạo ra một môi trường làm việc tích cực và tăng cường sự hợp tác và thông tin giữa các nhân viên. Họ cũng có khả năng đưa ra quyết định thông minh hơn và giải quyết các vấn đề một cách nhanh chóng và hiệu quả. Quan hệ giữa con người: Trí tuệ cảm xúc giúp con người có khả năng quản lý stress và tình huống khó khăn, tăng khả năng thích nghi và sáng tạo trong cuộc sống. Nó cũng giúp con người có khả năng tạo ra các mối quan hệ tốt hơn với người khác, giúp tăng cường sự tôn trọng và đồng cảm. Họ có khả năng cảm thấy và hiểu được cảm xúc của người khác, giúp tạo ra một môi trường xã hội tích cực và hỗ trợ. Sức khỏe tâm lý: Trí tuệ cảm xúc cũng có ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý của con người. Nó giúp con người có khả năng kiểm soát cảm xúc tiêu cực, giảm stress và tăng cường sự hạnh phúc và sự hài lòng trong cuộc sống. Vì vậy, trí tuệ cảm xúc là một khía cạnh quan trọng trong việc phát triển bản thân và cần được đào tạo và phát triển từ thời điểm sớm nhất để có thể đạt được thành công trong học tập và đời sống. “Với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với 6
- EQ, người ta đề bạt bạn”. Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. 1.1.5. Phẩm chất, năng lực học sinh 1.1.5.1. Giới thuyết về Phẩm chất Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: Phẩm chất là cái làm nên giá trị của người hay vật [7, 760]. Hoặc: Phẩm chất là những yếu tố đạo đức, hành vi ứng xử, niềm tin, tình cảm, giá trị cuộc sống; ý thức pháp luật của con người được hình thành sau một quá trình giáo dục. 5 phẩm chất chủ yếu cần hình thành, phát triển ở học sinh là: Yêu nước; Nhân ái (Yêu quý mọi người, tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người); Chăm chỉ (Ham học, chăm làm); Trung thực; Trách nhiệm (Có trách nhiệm với bản thân; Có trách nhiệm với gia đình; Có trách nhiệm với nhà trường và xã hội; Có trách nhiệm với môi trường sống). 1.1.5.2. Giới thuyết về Năng lực Phạm trù năng lực thường được hiểu theo những cách khác nhau và mỗi cách hiểu có những thuật ngữ tương ứng: (1) Năng lực (Capacity/Ability) hiểu theo nghĩa chung nhất là khả năng (hoặc tiềm năng) mà cá nhân thể hiện khi tham gia một hoạt động nào đó ở một thời điểm nhất định; (2) Năng lực (Compentence) thường gọi là năng lực hành động: là khả năng thực hiện hiệu quả một nhiệm vụ/ một hành động cụ thể, liên quan đến một lĩnh vực nhất định dựa trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và sự sẵn sàng hành động. Từ các cách hiểu trên, có nhiều định nghĩa khác nhau về Năng lực. Ví dụ: Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể” (OECD, 2002). Năng lực được xây dựng trên cơ sở tri thức, thiết lập qua giá trị, cấu trúc như là các khả năng, hình thành qua trải nghiệm/củng cố qua kinh nghiệm, hiện thực hóa qua ý chí (John Erpenbeck 1998). Năng lực là các khả năng và kỹ năng nhận thức vốn có ở cá nhân hay có thể học được…để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực cũng hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách thành công và có trách nhiệm các giải pháp… trong những tình huống thay đổi (Weinert, 2001). Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (1992), năng lực được giải thích với hai nghĩa: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một loạt hành động nào đó; Năng lực là: Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao [7, tr.656]. Năng lực của HS là một cấu trúc động (trừu tượng), có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chứa trong nó không chỉ là kiến thức, kỹ năng, ... mà cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội... thể hiện ở tính sẵn sàng hành động của các em 7
- trong môi trường học tập phổ thông và những điều kiện thực tế đang thay đổi của xã hội. Năng lực của học sinh là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái độ... phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc sống.Từ định nghĩa này, có ba dấu hiệu quan trọng cần được giáo viên, phụ huynh lưu ý: Năng lực của học sinh phổ thông không chỉ là khả năng tái hiện tri thức, thông hiểu tri thức, kỹ năng học được...mà quan trọng là khả năng hành động, ứng dụng/vận dụng tri thức, kỹ năng học được để giải quyết những vấn đề của cuộc sống đang đặt ra với chính các em. Năng lực của học sinh không chỉ là vốn kiến thức, kỹ năng, thái độ sống phù hợp với lứa tuổi mà là sự kết hợp hài hòa của cả 3 yếu tố này thể hiện ở khả năng hành động (thực hiện) hiệu quả, muốn hành động và sẵn sàng hành động đạt mục đích đề ra (gồm động cơ, ý chí, tự tin, trách nhiệm xã hội...). - Năng lực của học sinh được hình thành, phát triển trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trong lớp học và ngoài lớp học. Nhà trường được coi là môi trường giáo dục chính thống giúp học sinh hình thành những năng lực chung, năng lực chuyên biệt phù hợp với lứa tuổi, song đó không phải là nơi duy nhất. Những môi trường khác như: gia đình, cộng đồng,..cùng góp phần bổ sung và hoàn thiện các năng lực của các em. Người ta chia ra thành hai loại năng lực: Năng lực chung: là năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được hình thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Vì thế có nước gọi là năng lực xuyên chương trình. Mỗi năng lực chung cần: a) Góp phần tạo nên kết quả có giá trị cho xã hội và cộng đồng; b) Giúp cho các cá nhân đáp ứng được những đòi hỏi của một bối cảnh rộng lớn và phức tạp; c) Chúng có thể không quan trọng với các chuyên gia, nhưng rất quan trọng với tất cả mọi người. Năng lực chuyên biệt: là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động như toán học, âm nhạc, mĩ thuật, thể thao...Đó là những năng lực chuyên môn được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học, hoạt động giáo dục nhất định, bao gồm: Năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất,.. Những năng lực này nhằm mục đích xây dựng “chân dung” mới của người học: “Trên cơ sở đó, các em tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân. Các em được rèn luyện thói quen và 8
- khả năng tự học, phát huy tiềm năng và kiến thức, kỹ năng đã tích luỹ được để phát triển” (GS. Nguyễn Minh Thuyết). 1.1.6. Giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) hướng đến phát triển phẩm chất năng lực cho học sinh THPT 1.1.6.1. Kĩ năng nhận diện cảm xúc bản thân Nhận diện cảm xúc là nhận ra được các dạng cảm xúc hiện thời của bản thân. Thông qua các biểu hiện trên khuôn mặt, điệu bộ và sắc thái biểu cảm của cơ thể, cá nhân có thể phán đoán được các trạng thái cơ bản của cảm xúc của mình hay của người khác. Gồm 5 KN sau: - KN tự nhận thức: Để nhận diện được cảm xúc của bản thân trước hết phải tự nhận thức, tự phân tích và nhìn nhận mình, hiểu được mình là ai, nhận thức được những tiềm năng, tình cảm, những mặt mạnh, mặt yếu của mình. Nhận thức được cảm xúc của mình hiện tại như thế nào, đặt câu hỏi: Có nên để cảm xúc điều khiển hành động của chúng ta không?... - KN nhận biết cảm xúc của bản thân và người khác: Trong quá trình nhận diện cảm xúc, trước hết phải nhận biết được cảm xúc của bản thân nhằm định hướng cho hành động, đây là thành phần tâm lí đầu tiên của KN tiết chế cảm xúc, ngoài ra, còn nhận biết được cảm xúc của người khác. Việc nhận biết cảm xúc của người khác không chỉ qua lời nói, mà cả những biểu hiện qua hành động phi ngôn ngữ, từ phong cách ăn mặc, điệu bộ như: Cách bắt tay, tư thế đi, đứng, ngồi, cách sử dụng ánh mắt, nụ cười, nét mặt, cử chỉ… đều thể hiện cảm xúc của mỗi người. Mỗi cá nhân đều có những tố chất khác nhau, nhu cầu và mong muốn khác nhau và cách thể hiện cảm xúc cũng khác nhau. Nói cách khác, KN nhận biết cảm xúc bản thân là khả năng cảm nhận cảm xúc của chính mình, hiểu được những gì người khác nói với mình và cách mà cảm xúc của mình ảnh hưởng đến những người xung quanh. - KN bình luận, phán đoán, đánh giá cảm xúc của mình và người khác: Khi đã nhận biết được cảm xúc của bản thân và người khác, cần xem xét cảm xúc được biểu hiện với mức độ, cường độ, trường độ như thế nào, phán đoán được các trạng thái cơ bản của cảm xúc. - KN gọi tên cảm xúc và mô tả các dấu hiệu đặc trưng: Việc gọi tên cảm xúc và mô tả được các dấu hiệu đặc trưng của cảm xúc giúp bản thân biết, hiểu được cảm xúc hiện tại của mình và người khác là cảm xúc gì, có những dấu hiệu đặc trưng như thế nào để định hướng cho bước tiếp theo được phù hợp, hiệu quả. Theo Carroll. E. Izard [1992] có 10 cảm xúc cơ bản của cá nhân: 1) Hứng thú hồi hộp; 2) Vui sướng; 3) Ngạc nhiên; 4) Đau khổ, đau xót; 5) Căm giận; 6) Ghê tởm; 7) Khinh bỉ; 8) Khiếp sợ; 9) Xấu hổ; 10) Tội lỗi. - KN nhìn nhận vấn đề một cách khái quát: Trong nhận diện cảm xúc bản thân, nhìn nhận vấn đề một cách khái quát giúp chủ thể có cái nhìn tổng thể, 9
- nhiều chiều. Cảm xúc trong các hoàn cảnh khác nhau là khác nhau, do đó nhìn nhận vấn đề một cách khái quát giúp cá nhân trong mỗi hoàn cảnh tự định ra cảm xúc của bản thân. 1.1.6.2. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc bản thân KN kiểm soát cảm xúc bản thân giúp cá nhân luôn bình tĩnh, kiên định trước những biến động của cảm xúc khi có những tác động tức thời. “KN kiểm soát cảm xúc thực chất là sự “dõi theo” của ý thức đối với dòng chảy cảm xúc của cá nhân; Cố gắng hình dung được hậu quả sức mạnh tác động của cảm xúc nếu được tự do phát động, từ đó cá nhân có thể dùng sức mạnh của ý thức hay ý chí để kìm nén cảm xúc đó, bằng các động tác mang tính phong tỏa hay giải tỏa như im lặng, thở sâu, tập trung vào công việc khác ...”. Nhóm KN này gồm 6 KN sau: - KN chuẩn bị tâm thế đón nhận một cách bình thản: Khi gặp tình huống nảy sinh các kích thích cảm xúc, nếu cá nhân đón nhận với một tâm thế nóng vội hoặc kích động thì sẽ không giữ được bình tĩnh để tìm phương án giải quyết tốt nhất, KN này giúp con người có khả năng bình tĩnh trước mọi tình huống (cả tích cực và tiêu cực). - KN lắng nghe một cách tích cực: Để kiểm soát tốt cảm xúc của mình, sau khi đã chuẩn bị một tâm thế vững vàng trước hoạt cảnh, cá nhân phải biết lắng nghe ý kiến, cảm nhận của người khác trên tinh thần thiện chí, đồng cảm và tôn trọng lẫn nhau, không được cắt ngang ý kiến của người khác; thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến của người khác, biết phản hồi hợp lí cũng như biết cách trả lời một cách cầu thị, hài hòa trong quá trình giao tiếp. - KN suy nghĩ tích cực: Trong các tình huống gây căng thẳng, nếu cá nhân suy nghĩ theo chiều hướng tiêu cực thì không những không giải quyết được vấn đề mà còn đẩy vấn đề theo chiều hướng xấu hơn. Do đó, trong kiểm soát cảm xúc bản thân, KN suy nghĩ tích cực giúp bản thân nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng mới để tránh rơi vào trạng thái căng thẳng không cần thiết. Bằng cách đặt câu hỏi: Nếu cứ để cảm xúc tiêu cực chi phối mọi việc sẽ như thế nào? Bằng cách nào để cho những cảm xúc tiêu cực thoát ra và tan biến?... Khi căng thẳng, chúng ta thường có cảm xúc và suy nghĩ tiêu cực dẫn đến những việc làm không đúng, điều quan trọng là phải ý thức được chúng ta đang có cảm xúc đó và suy nghĩ một cách tích cực. - KN kiềm chế (kìm nén) cảm xúc: Đây là KN cơ bản của nhóm KN này, từ quá trình hiểu được cảm xúc, nguyên nhân gây ra cảm xúc cũng như gọi tên và tìm ra các dấu hiệu đặc trưng của cảm xúc, cá nhân hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và người khác như thế nào, từ đó có khả năng kìm nén những cảm xúc và sự bộc phát khi có những kích thích tương ứng (tích cực hoặc tiêu cực), tránh được những phản ứng hồ đồ, không cho phép mình trở nên quá giận dữ, đố kị vì khi để cảm xúc tiêu cực kiểm soát bản thân, lí trí sẽ bị che mờ, 10
- làm giảm khả năng ứng xử khôn ngoan trong giao tiếp, dẫn đến có những lời nói, hành động không hợp lí. - KN kiên định: KN kiên định là khả năng con người nhận thức được những gì mình muốn và lí do dẫn đến sự mong muốn đó. Kiên định còn là khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được những gì mình muốn trong những hoàn cảnh cụ thể, dung hòa được giữa quyền, nhu cầu của mình với quyền, nhu cầu của người khác. - KN giám sát: Việc kiểm soát cảm xúc không chỉ là KN kìm nén cảm xúc mà còn là KN giám sát thúc đẩy của cảm xúc đối với một hành động nào đó của cá nhân. Sự giám sát này giúp cá nhân làm chủ được cảm xúc của mình trong các tình huống khác nhau, nhất là trong các tình huống đòi hỏi phải có các phản ứng với sự tỉnh táo, bình tĩnh của cá nhân. 1.1.6.3. Kĩ năng điều khiển cảm xúc Giúp cá nhân giữ được bình tĩnh trong nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử trước những kích thích có thể gây ra những cảm xúc với cường độ cao và không bị những cảm xúc đó làm biến dạng, đồng thời tìm cách kết nối cảm xúc cũng như điều chỉnh những cảm xúc của mình phù hợp với tình huống. - KN duy trì cảm xúc ở mức cân bằng: Trong khi điều khiển cảm xúc, cá nhân phải luôn duy trì được cảm xúc ở mức cân bằng, tránh sự đẩy cảm xúc lên cao hoặc xuống thấp khi gặp tình huống có kích thích, việc kìm chế được cảm xúc ở một mức nhất định là tiền đề giúp cá nhân duy trì cảm xúc cũng như điều khiển, điều chỉnh cảm xúc một cách phù hợp. - KN điều khiển cảm xúc của bản thân: KN này giúp cá nhân luôn giữ được bình tĩnh trong nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử, trước những kích thích có thể gây ra những cảm xúc với cường độ cao và không bị những cảm xúc đó làm biến dạng. Để điều khiển được cảm xúc bản thân, cá nhân một mặt phải nhận dạng được các loại cảm xúc nền tảng, sự tác động của chúng đối với nhận thức, thái độ, hành vi ứng xử của mình, mặt khác phải có KN kiểm soát được cảm xúc thực khi xuất hiện, đồng thời phải biết sử dụng các phương tiện biểu cảm để bộc lộ cảm xúc đó trong tình huống cụ thể [8]. - KN kiểm soát được các cảm xúc thực: KN này hỗ trợ KN duy trì cảm xúc ở mức cân bằng vì chỉ khi kiểm soát được các cảm xúc thực cá nhân mới có khả năng duy trì cũng như điểu khiển, điều chuyển được cảm xúc của mình, việc kiểm soát cảm xúc thực giúp cá nhân thấu hiểu các cảm xúc phức tạp và sự chuyển hóa từ một cảm xúc này đến một cảm xúc khác như thế nào, đồng thời giúp cho việc lựa chọn, hình thành những cảm xúc phù hợp hoàn cảnh được dễ dàng, hiệu quả. - KN kết nối cảm xúc: Điều khiển cảm xúc không có nghĩa là dập tắt tức thời cảm xúc tiêu cực để chuyển sang cảm xúc tích cực vì khi chúng ta tắt cảm xúc tiêu cực như giận dữ, buồn bã hay sợ hãi thì chúng ta cũng bị tắt khả năng trải 11
- nghiệm cảm xúc tích cực như niềm vui, tình yêu và hạnh phúc, hay nói cách khác, việc ngắt kết nối với những cảm xúc mà chúng ta không thích - cảm xúc mà chúng ta thấy không thoải mái hoặc bị áp đảo, đó là khi chúng ta đã tự động tắt, xa lìa những cảm xúc mạnh mẽ, tích cực, những cảm xúc giúp chúng ta duy trì trong thời điểm khó khăn và đầy thách thức của cuộc sống. - KN quản lí sự thay đổi: Quản lí sự thay đổi là một quá trình giúp cá nhân hạn chế được những biến động xấu nói chung trong thời gian diễn ra sự thay đổi về cảm xúc bản thân, đồng thời đảm bảo việc thay đổi đạt được kết quả tốt nhất. - KN quản lí thời gian: Trong điều khiển cảm xúc, quản lí thời gian giúp cá nhân thực hiện kiểm soát có ý thức về số lượng thời gian dành cho hoạt động cụ thể, đặc biệt để tăng hiệu quả hoặc năng suất. Kiểm soát tốt hơn cách chúng ta sử dụng thời gian trong điều khiển cảm xúc và đưa ra những quyết định sáng suốt về cách sử dụng nó. 1.1.6.4. Kĩ năng sử dụng cảm xúc Nhóm KN này là thành phần quan trọng trong cấu trúc tâm lí của quá trình tự chủ cảm xúc của cá nhân. Nhóm KN này được hình thành qua các hoạt động trải nghiệm trong công việc, học tập và cuộc sống hằng ngày bởi sử dụng cảm xúc không chỉ như các nhóm KN trên có thể dùng tri thức, ý thức, ý chí để thực hiện, sử dụng cảm xúc biết cách tạo cảm xúc và thể hiện cảm xúc đó đạt mục đích đặt ra. - KN lựa chọn cách ứng phó: Cùng một tình huống gây cảm xúc tiêu cực/gây căng thẳng nhưng ở hoàn cảnh khác nhau, đối tượng khác nhau thì có cách ứng phó khác nhau. Việc lựa chọn cách ứng phó phù hợp phụ thuộc vào nhận thức, kinh nghiệm sống, nhân cách, điều kiện của mỗi người. - KN sử dụng các phương tiện để biểu lộ cảm xúc và sử dụng các biểu cảm tương ứng với cảm xúc: KN này giúp chủ thể có khả năng sử dụng các phương tiện giao tiếp (ngôn ngữ, phi ngôn ngữ) và các biểu hiện bằng nét mặt, cử chỉ, hành động... để thể hiện cảm xúc một cách phù hợp. - KN tạo ra những cảm xúc phù hợp hoàn cảnh: Đây là một KN quan trọng trong nhóm KN này, việc tạo ra cảm xúc phù hợp hoàn cảnh giúp cá nhân chủ động trong kiểm soát cũng như điều khiển cảm xúc, đồng thời giúp cá nhân biết sử dụng các biểu cảm tương ứng với mỗi loại cảm xúc để thể hiện ra “cảm xúc của mình” để người khác biết. 1.1.7. Vai trò của giáo viên – kỹ sư tâm hồn trong việc phát triển kỹ năng cho học sinh THPT thông qua việc giáo dục EQ (emotional quotient - trí tuệ cảm xúc) Quá trình hoạt động sư phạm ở trường phổ thông được tiến hành đồng thời cả hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục. Cả hai hoạt động này bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình phát triển toàn diện của học sinh. Trong bản thân của cả hai 12
- hoạt động trên, ngoài việc hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức khoa học một cách có hệ thống thì công tác giáo dục có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển các kỹ năng cho học sinh, góp phần rất lớn vào sự thành công trong việc giáo dục toàn diện. Dưới đây là một số vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh: Điều hành môi trường học tập tích cực: Giáo viên chủ nhiệm lớp có thể tạo ra một môi trường học tập tích cực, nơi mà học sinh cảm thấy an toàn và thoải mái để thảo luận và chia sẻ về các vấn đề cảm xúc của mình. Khi học sinh cảm thấy được tôn trọng và được đối xử công bằng, các em có thể phát triển trí tuệ cảm xúc của mình. Khuyến khích và hướng dẫn các hoạt động trí tuệ cảm xúc: Giáo viên chủ nhiệm lớp có thể khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động trí tuệ cảm xúc, chẳng hạn như các hoạt động đánh giá cảm xúc, viết nhật ký cảm xúc, hoặc thảo luận về các vấn đề cảm xúc. GVCN cũng có thể hướng dẫn học sinh cách quản lý cảm xúc của mình và giúp HS phát triển kỹ năng giải quyết xung đột. Tạo ra một môi trường học tập đa dạng: Giáo viên chủ nhiệm lớp có thể tạo ra một môi trường học tập đa dạng, nơi mà học sinh có thể học hỏi và tương tác với những người có nền văn hóa và lối sống khác nhau. Điều này giúp học sinh phát triển khả năng đồng cảm và tôn trọng đa dạng văn hóa. Cầu nối giữa phụ huynh học sinh - giáo viên, phụ huynh - các con: Giáo viên chủ nhiệm lớp có thể thực hiện các cuộc họp cha mẹ - giáo viên để trao đổi về các vấn đề cảm xúc của học sinh, giúp phụ huynh hiểu rõ hơn về tình trạng cảm xúc của con cái và hỗ trợ HS phát triển trí tuệ cảm xúc. Như vậy, bằng các hoạt động trên, giáo viên chủ nhiệm lớp sẽ tạo được môi trường học tập an toàn, lành mạnh, giúp HS phát triển toàn diện cả trí tuệ và cảm xúc, hạn chế được nạn bạo lực học đường, góp phần xây dựng mô hình “lớp học hạnh phúc”. 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu 13
- - Trường THPT Đô Lương 4 thành lập năm 2006, đóng trên địa bàn xã Hiến Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Học sinh chủ yếu là con em xã Hiến Sơn, Trù Sơn, Đại Sơn, Mỹ Sơn. - Trường hiện tại có 23 lớp với tổng học sinh là 1.010 học sinh. - Đội ngũ giáo viên 100% chính quy sư phạm. - Cơ sở vật chất của trường đảm bảo mức tối thiểu cho việc dạy học và đang từng bước cố gắng đảm bảo tốt hơn. - Nội quy giáo dục học sinh cụ thể, rõ ràng, đúng theo pháp luật. - Tháng 11/ 2024 trường đạt chuẩn quốc gia cấp độ 1. - Đoàn thanh niên hoạt động tích cực và có hiệu quả giáo dục cao. - Học sinh cơ bản ngoan nhưng kỹ năng sống còn hạn chế: nhút nhát, ngại giao tiếp, tính cầu tiến, vượt đói, vượt nghèo chưa cao, ảnh hưởng tiêu cực của đô thị hóa nhiều như học đòi, sa ngã ... Đặc biệt có nhiều luồng tư tưởng, mục tiêu khá phức hợp. Trường THPT Đô Lương 4 tuổi nghề còn khiêm tốn, khó khăn nhiều mặt nhưng đội ngũ giáo viên đã nỗ lực không ngừng trong học tập, giảng dạy và giáo dục học sinh. Các khóa học của học sinh sau ba năm học tập và rèn luyện dưới mái trường THPT Đô Lương 4 đều trưởng thành và lớn lên nhiều mặt: có lý tưởng sống, có khát vọng, đậu đạt cao, ..Chất lượng đại trà được khẳng định, chất lượng mũi nhọn có nhiều đột phá: đậu tốt nghiệp 100% nhiều năm liền; đã có học sinh đậu thủ khoa kỳ thi THPT quốc gia, kết quả thi học sinh giỏi tỉnh đứng vị thứ cao trên toàn tỉnh (13, 18, ...). Hiện nay trường đã trở thành một địa chỉ được nhân dân và các cấp chính quyền tin tưởng. 2.2. Thực trạng giáo dục EQ (emotional quotient) cho học sinh trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An 2.2.1. Những mặt làm được Cùng với những bước chuyển mình của xã hội hiện đại, của thời kỳ công nghệ 4.0, lĩnh vực giáo dục Việt Nam đã có những bước tiến dài. Đặc biệt, chúng ta đã có những bước đi đúng đắn khi chú trọng việc dạy chữ song hành với việc dạy người. Cùng với đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá, ngành giáo dục cũng đã có nhiều đổi mới về công tác giáo dục học sinh. Đội ngũ GV nhìn chung đã nhận thức được đúng đắn vai trò của người thầy đối với quá trình giáo dục, hình thành nhân cách của HS. Họ có khả năng nắm bắt được mục tiêu, kiến thức giáo dục, dạy tốt lớp phụ trách, lập được kế hoạch giáo dục. Ban Giám hiệu đã quan tâm đến công tác giáo dục học sinh thông qua các việc: Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch giáo dục, giao chất lượng giáo dục học sinh cho giáo viên, định ra các tiêu chí thi đua cho các lớp và cho giáo viên, khen thưởng cho giáo viên đạt thành tích lao động tiên tiến, lao động xuất sắc, lớp tiên tiến, lớp xuất sắc, học sinh đạt các thành tích trong năm học. Đồng thời nhà trường đã luôn chú ý kết hợp với các tổ chức đoàn thể trong trường để tổ chức 14
- cho các em tham gia các phong trào do các cấp, các ngành tổ chức cũng như các hoạt động tập thể như quyên góp ủng hộ, làm kế hoạch nhỏ, chăm sóc đài tưởng niệm xã Hiến Sơn, góp sức xây dựng khu vui chơi cho trẻ trên địa bàn trường ... giúp HS dần nhận thức được ý nghĩa các hoạt động, thông qua các hoạt động góp phần hình thành và phát triển nhiều phẩm chất, năng lực tích cực, nhất là năng lực tự quản bản thân. 2.2.2. Những mặt hạn chế Bên cạnh những mặt làm được thì vẫn còn tồn tại những lỗ khuyết trong hành trình giáo dục học sinh. Giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh chỉ mới lồng ghép trong một số hoạt động chung chứ chưa được chú trọng, tạo lập nội dung bài học một cách bài bản. Đặc biệt giáo dục việc thực hành trí tuệ cảm xúc chỉ ở góc độ lý thuyết mà chưa giúp học sinh qua các trải nghiệm thực tiễn. Vì thế có những hiện tượng xảy ra. - Thời gian gần đây nhất trên địa bàn giáo dục Nghệ An liên tục xảy ra vụ việc đau thương làm nhức lòng các bậc làm cha làm mẹ cũng như các nhà giáo dục. Nữ sinh trường chuyên đại học Vinh tự vấn mình nhân lúc bố mẹ đi vắng. Nữ sinh trường THPT Tân Kỳ tự nhảy giếng tự tử, nữ sinh H.T.H.A THCS Nghi Long, Nghi Lộc tự tử tại nhà trong lúc mẹ đi làm đồng. Thông tin mới nhất vào ngày 8/4/2024 em nữ sinh Yên Thành, Nghệ An, cô giáo gọi điện cho mẹ, mẹ nạt con, con ức chế tự tử đập nước gần nhà. Vu việc diễn ra không có cơ hội sửa sai, hay làm lại mà là hồi chuông cảnh báo cho trách nhiệm gia đình và giáo dục, giáo dục kỹ năng sống, giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh trước tình huống cuộc sống vốn vô vàn hình trạng. - Năm học 2020 - 2021, tôi tiếp nhận học sinh em Chu Thị Th lưu ban khóa học 2019 - 2020 vì lý do không đảm bảo sức khỏe theo học năm đó. Giấy lưu ban lý do là vậy, nhưng tìm hiểu tôi mới biết rõ cụ thể nguyên nhân. Em Th vì không chấp nhận sự quản thúc của bố mẹ quá khắt khe mà Th đã có ý định rời bỏ bố mẹ nhiều lần, cuối cùng thì em cũng thực hiện, em uống thuốc trừ sâu để tự vấn. Rất may mắn là gia đình phát hiện và đưa đi viện kịp thời, giữ được mạng sống những sức khỏe thì ảnh hưởng rất lớn. Th đã phải nghỉ học gần năm trời mới có thể quay lại trường. Em quay lại trường trong tình trạng rất yếu, thường xuyên bị ngất không kiểm soát, hay mủi lòng khóc và thần thái buồn buồn. - Tháng 7 năm 2021, em Võ Thị M học sinh lớp 10A6 trường THPT Đô Lương 4 (em M là con thứ 3 trong gia đình …, M có chút thiệt thòi về ngoại hình so với chị em trong nhà cũng như bạn bè cùng trang lứa. M rất thập và nhỏ, chiều cao khoảng 1,1m, nặng khoảng 35kg. Còn về sức khỏe và trí tuệ cũng bình thường). Kỳ nghỉ hè tại quê nhà, cũng chỉ là một số chuyện nhỏ nhặt không đầu không cuối của cuộc sống nhà quê với những đứa trẻ thời 4.0. Chơi điện thoại, việc nhà bỏ bê, bố la mắng, trong sự bất hòa ấy M giắc xe ra đi, giữa đường gặp mẹ, mẹ gọi M cũng không quay lại, nghĩ M vùng vằng đi đâu đó chút xíu rồi về nên cũng thôi kệ nó. Đến lúc đã hơn 10 giờ tối chưa thấy M về cả nhà mới hối 15
- hoảng đi tìm, nhờ loa xóm thông báo, nhờ mọi người cùng tìm hộ. Cái kết cay đắng, tìm được một chiếc dép em nổi ở bờ hồ, lần mò tiếp thì đó là xe và khi đưa em vào bờ thì tất cả đã quá muộn. Cha mẹ, thầy cô, bạn bè, anh em, hàng xóm ngậm ngùi buồn đau. - Bạo lực học đường ở học sinh diễn ra khá phức tạp, mâu thuẫn dai dẳng, âm ỉ. Đó là mâu thuẫn về tình cảm, những dèm pha trực tiếp gián tiếp qua mạng xã hội, ghen tị, nói xấu nhau, kéo bè kết cách… dẫn đến đánh nhau, đánh hội đồng. Những sự việc thực sự đau đớn. Nghiên cứu sâu về đời sống tâm lý chúng ta sẽ nhận ra rằng khi trẻ có ý nghĩ tự tử thực ra không phải chỉ là một phút nông nổi, bồng bột của trẻ. Mà thực sự đã có một khoảng thời gian trẻ đã nghĩ tới và đấu tranh, và đôi lúc trẻ có buông ra những lời nói buồn chán, tiêu cực thậm chí là nói đến từ chết. Chỉ là người lớn chúng ta không để ý nên không hay biết những phút con ta cô đơn, đơn độc trong khó khăn một mình. Sự việc xảy ra có phần trách nhiệm từ phía giáo dục trong đó có trách nhiệm của giáo viên chúng tôi. Một phần chúng tôi nghĩ giáo dục nhưng cái cao xa của những phát minh, phát kiến mà có chút nhẹ xem những chuyện tủn mủn đời thường như là ăn mặc, trang phục, lời nói, nét mặt trò mỗi sáng tới trường …để hiểu để giáo dục các em trí tuế cảm xúc giúp các em tiết chế cảm xúc trước mọi biến động của cuộc sống. 2.2.3. Nguyên nhân Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nói chung và giáo dục trí tuệ cảm xúc HS nói riêng luôn cần có sự tỉ mỉ để các em có thể nhận được sự giáo dục tốt nhất. Tuy nhiên việc giáo dục trí tuệ cảm xúc cho HS hiện nay chưa đạt được hiệu quả cao. Nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt trí tuệ cảm xúc của học sinh là: * Về học sinh: - Ảnh hưởng tiêu cực của xã hội thời hiện đại, đời sống mạng và vấn đề an ninh mạng các em chưa hiểu đúng bản chất, lãng phí thời gian vào facebook, zalo … sống đời sống ảo. Học sinh kỹ năng sống chưa tốt, rụt rè ngại giao tiếp đám đông, thiếu tự tin… - Chưa được giáo dục EQ (Trí tuệ cảm xúc - khả năng xác định, kiểm soát cảm xúc, suy nghĩ của bản thân và người xung quanh). Các em không có khả năng chịu được áp lực, thiếu bình tĩnh trước mọi tình huống, không tiết chế cảm xúc và thiếu thông cảm với người khác. Vì thế xảy ra nhiều vụ việc đáng tiếc khiến cho người thân và dư luận xã hội không khỏi xót xa: Trường hợp Nguyễn Thị Th uống thuốc sâu tự tử được gia đình phát hiện và cấp cứu kịp thời; trường hợp đau lòng không có cơ hội sửa là em Nguyễn Thị M giận dỗi bố lao mình xuống đập Me tự tử. - Cuộc sống thời 4.0 thực sự không hệ giản đơn, nhiều hiện đại cũng kéo theo nhiều hệ lụy. Mạng xã hội là kênh giao lưu nhưng với lứa tuổi học sinh vừa 16
- mất thời gian quá nhiều và mọi mâu thuẫn cũng từ đây mà ra. Xích mích vì một câu bình luận ban đầu là đùa sau đó thì quá đà, ghen tuông chuyện nam nữ… - Đời sống nông thôn đang dần bị đô thị hóa dẫn đến sự phân biệt giàu nghèo khá rõ, từ sinh hoạt, trang phục, đi lại, đồ dùng …cũng dẫn đến sự đố kỵ ghen ghét, dễ kéo bè kéo cánh, mất đoàn kết, hiện tượng học sinh bị bắt nạt diễn ra nhiều hình thức. Các em gây hấn, đánh nhau; chửi bới, lăng mạ nhau một cách thiếu kiềm chế. Điều đáng nói là nếu như trước đây, hiện tượng này thường xảy ra ở nam sinh thì bây giờ lại là hiện tượng phổ biến ở cả nữ sinh. Có khi các em còn đưa những video bạo hành này lên mạng xã hội một cách “hồn nhiên”, để lại những hậu quả đáng tiếc. Hàng loạt những con số thống kê cho thấy tình hình tội phạm, bạo lực trong nhà trường ngày càng nghiêm trọng và có xu hướng tăng nhanh với những biểu hiện ngày càng đa dạng. Đồng thời, ý thức đạo đức của một bộ phận học sinh trong nhà trường ngày càng đi xuống. Với việc tiếp xúc rộng rãi với mạng internet, sự phát triển của các trang mạng xã hội, một số bộ phận học sinh dần “lệch chuẩn” trong suy nghĩ và hành động. Các em sẵn sàng bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ tiêu cực của mình mọi lúc mọi nơi, với tất cả mọi đối tượng: bạn bè, gia đình, thầy cô. - Cuộc sống thời hiện đại, đủ đầy nhiều thứ nhưng lại thấy thiếu thốn đủ thứ vì tâm lý không thỏa mãn và không bằng lòng vì đố kỵ, ghen tị có những biểu hiện tiêu cực, không đồng cảm bố mẹ mà trách cứ bố mẹ rồi sinh ra những biểu hiện trầm cảm. Trầm cảm nhẹ thì hay hờn hay giỗi, nặng thì có suy nghĩ tiêu cực như muốn chết, muốn bỏ đi … Điều tôi muốn nói là hiện tượng đó xuất phát từ nguyên nhân nào và làm thế nào để không còn những hiện tượng như thế? Theo tôi, nguyên nhân sâu xa vẫn là ở sự thiếu kiềm chế cảm xúc của những người trong cuộc. Ở góc độ học sinh, nếu có trí tuệ cảm xúc cao, biết cân bằng cảm xúc theo hướng tích cực thì hẳn sẽ không có những lời nói, những hành động mất kiểm soát như vậy. Các em có thể sẽ tìm được hướng giải quyết tích cực cho những điều bức xúc hay không hài lòng về giáo viên, bạn bè, bố mẹ. Bên cạnh đó, những hiện tượng trầm cảm, mất cân bằng tâm lý ngày càng phổ biến hơn, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Khi đối mặt với những khó khăn hay vướng mắc nào đó trong học tập hay cuộc sống gia đình, các em không biết cách tự điều chỉnh cảm xúc theo hướng tiêu cực, dẫn đến trầm cảm, thậm chí nhiều em đã tìm đến cái chết như một giải thoát. * Về phụ huynh: - Gia đình bố mẹ hầu hết lao vào làm kinh tế, bỏ mặc việc giáo dục con cái cho nhà trường với suy nghĩ làm cho có kinh tế theo đòi xã hội và chu cấp cho con đủ đầy vật chất. Mặt khác hầu hết các bậc làm cha làm mẹ chúng ta ngày nay đều nuôi con, thương con, giáo dục con theo bản năng, thiếu kiến thức khoa học về tâm sinh lý vị thành niên… 17
- - Đặc biệt là do áp lực từ nhiều phía mà bậc làm cha làm mẹ cho con nhiều thứ nhưng cũng làm tổn thương con nhiều khi cáu gắt, khi đặt áp lực, khi đòi hỏi, khi từ bỏ …làm cho những tâm hồn mong manh của trẻ dễ vỡ. Mặt khác trẻ có một vài biểu hiện của sự trầm cảm nhưng hầu hết phụ huynh không phát hiện được mà thường cho rằng con mình nhút nhát, ngại giao tiếp, không thích đi chỗ đông người mà không hay biết con đang cô đơn một mình đối mặt với mặc cảm tự ti, hay bì bắt nạt … * Về giáo viên: - Công tác giáo dục trí tuệ cảm xúc học sinh ở nhà trường còn mang tính hình thức và chiêu lệ. Có kế hoạch, có chương trình nhưng lại chưa có hành động hoặc nếu có thì cũng chỉ “qua loa” và hiệu quả giáo dục chưa cao. - Chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, ít quan tâm đến kỹ năng sống, nhà trường chủ yếu tập trung dạy học sinh kĩ năng học tập, các kỹ năng khác chưa được quan tâm nhiều trong đó có giáo dục trí tuệ cảm xúc. - Về phía giáo viên do áp lực về công tác chuyên môn quá lớn, cho nên chỉ chủ yếu tập trung thời gian, công sức để làm tốt công tác chuyên môn, ít có thời gian để tìm hiểu, sưu tầm tài liệu về kỹ năng sống, tìm hiểu đời sống tâm lý để tư vấn, tham vấn… - Cuộc sống thời thị trường quay như chong chóng, đời sống giáo viên có lúc cũng phải chạy đua, nên có nhiều giáo viên chân trong chân ngoài việc đến lớp theo số tiết quy định xem như đã hoàn thành, ít khi quan tâm sắc thái trò, tâm lý, cảm xúc trò. Đặc biệt do áp lực cuộc sống, công việc, bản năng nóng giận của chính những nhà sư phạm vẫn vi phạm: la mắc trò, chỉ trích trò, phân biệt trò, lạm quyền,.. Trước những thực trạng chung đó khi bàn về giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc), chúng tôi nhận thấy một thực trạng trong nhận thức, tư tưởng đến hành động của nữ sinh, gia đình và giáo viên còn thiếu sự quan tâm dẫn đến sự sa sút trong cuộc sống. * Khảo sát thực trạng giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) (Chúng tôi tiến hành khảo sát: Bảng khảo sát - Phụ lục 1A, 1B) Từ tính cấp bách của nó, trong năm học 2023 - 2024, để tìm hiểu thực trạng giáo dục EQ (emotional quotient – trí tuệ cảm xúc) của học sinh THPT, đề tài đã thực hiện khảo sát với 179 bảng hỏi, trong đó có 117 bảng hỏi có giá trị sử dụng. Đối tượng trả lời phỏng vấn là 69 hoc sinh khối 10 (58,9%) và 48 hoc sinh khối 11 (41,1%). Nội dung khảo sát trong trắc nghiệm tâm lý của Dakharov và của bảng hỏi đều được thiết kế theo 3 phương án lựa chọn (trả lời) (xem phụ lục 1,2,3 ) + Đúng (thường xuyên); 18
- + Không hoàn toàn, còn tùy người, còn tùy lúc không tin tưởng lắm (đôi khi); + Không (không bao giờ). - Cách tính điểm cho các phần trả lời như sau: + Đối với các Item có nội dung tích cực: Đúng (thường xuyên): 3 điểm; không hoàn toàn (đôi khi): 2 điểm; không (không bao giờ): 1 điểm. + Đối với các Item có nội dung tiêu cực. Đánh giá điểm ngược lại với phương án trên: Đúng (thường xuyên): 1 điểm; không hoàn toàn (đôi khi): 2 điểm; Không (không bao giờ): 3 điểm. - Dựa trên phương án trả lời tính điểm trung bình chung cho tất cả các nội dung, quy ước: - Kỹ năng biểu hiện ở mức độ thấp: X < 2,0 - Kỹ năng biểu hiện ở mức độ trung bình: 2 X 2,499 - Kỹ năng biểu hiện ở mức độ khá: 2,5 X 2,749 - Kỹ năng biểu hiện ở mức độ tốt: 2,75 X 3 Kết quả thu được sau khi xử lý số liệu như sau: Bảng 1: Đánh giá chung của học sinh về kỹ năng rèn EQ (trí tuệ cảm xúc) Các kĩ năng Điểm trung bình 1 Kĩ năng nhận diện cảm xúc bản thân 2.42 2 Kĩ năng kiểm soát cảm xúc bản thân 2.13 3 Kĩ năng điều khiển cảm xúc 2.35 4 Kĩ năng sử dụng cảm xúc 2.31 (Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra) 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 276 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 177 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p | 41 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 24 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 38 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 35 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p | 42 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p | 71 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn