intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự quản bản thân cho nữ sinh trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:78

9
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm khảo sát và đánh giá thực trạng kỹ năng tự quản lý bản thân của nữ sinh trung học phổ thông Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An; Đề xuất một số kinh nghiệm giúp phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân cho nữ sinh trung học phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự quản bản thân cho nữ sinh trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN SÁNG KIẾN Tên đề tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ QUẢN BẢN THÂN CHO NỮ SINH TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 4, TỈNH NGHỆ AN” LĨNH VỰC: GD KỸ NĂNG SỐNG Tháng 4/2023
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 4 SÁNG KIẾN Tên đề tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ QUẢN BẢN THÂN CHO NỮ SINH TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 4, TỈNH NGHỆ AN” LĨNH VỰC: GD KỸ NĂNG SỐNG Tác giả: Trần Thị Nga – ĐT 0889.78.79.68 Nguyễn Thị Nguyệt Nga – ĐT 0978.665.012 Tháng 4/2023 1
  3. MỤC LỤC NỘI DUNG Trang PHẦN I – ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 2 5. Đóng góp của đề tài 2 PHẦN II – NỘI DUNG 3 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 3 I. Cơ sở lý luận của đề tài 3 1. Các khái niệm cơ bản của đề tài 3 2. Đặc điểm về hoạt động học tập và giao tiếp của học sinh THPT 4 3. Biểu hiện của kĩ năng tự quản lý bản thân 7 4. Cách thức phát triển kĩ năng tự quản lý bản thân 8 5.Vai trò của giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm trong việc phát triển 9 kỹ năng tự quản lý bản thân cho nữ sinh THPT. II. Cơ sở thực tiễn của đề tài 10 1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu 10 2. Thực trạng kĩ năng tự quản lý bản thân của học sinh THPT Đô Lương 11 4, tỉnh Nghệ An 3. Nguyên nhân thực trạng công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT Đô 16 Lương 4 Chương 2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG TỰ QUẢN BẢN 16 THÂN CHO NỮ SINH THPT ĐÔ LƯƠNG 4. 1. Nguyên tắc đề xuất giải pháp 16 2. Một số giải pháp cụ thể đã được áp dụng 17 2.1. Giải pháp 1: Tổ chức bài tập trắc nghiệm bản thân 18
  4. 2.2. Giải pháp 2: Tổ chức các buổi học/tiết học ngoại khóa theo chủ đề: 18 Giáo dục kỹ năng tự quản bản thân cho nữ sinh THPT. 2.3: Giải pháp 3: Tổ chức hoạt động trải nghiệm để nâng cao phát triển 18 năng lực tự quản bản thân 2. 4. Giải pháp 4: Đa dạng hóa hình thức giao tiếp, tư vấn mọi vấn đề liên 25 quan đến nữ sinh. 2.5. Giải pháp 5: Kết hợp với phụ huynh học sinh để giáo dục kỹ năng tự 37 quản của nữ sinh 2.2. Thử nghiệm các biện pháp tác động 40 2.2.1. Chọn nhóm thử nghiệm và đối chứng 42 2.2.2. Kết quả thử nghiệm 43 2.3. Kết luận thử nghiệm 44 PHẦN III – KẾT LUẬN 45 1. Quá trình nghiên cứu đề tài 45 2. Kiến nghị 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO 50 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU TRONG SÁNG KIẾN Nội dung Trang Bảng 1.1: Đánh giá chung của nữ sinh về kĩ năng tự quản lý bản thân 15 Bảng 2.1. Kết quả đo trước về kĩ năng tự quản lý bản thân của nữ sinh 15 THPT Bảng 2.2: Kết quả sau thử nghiệm về kĩ năng tự quản lý bản thân của nữ 15 sinh THPT Biểu đồ 1.1: Thực trạng chung về kĩ năng tự quản lý bản thân của nữ sinh 15 trường THPT Đô Lương 4 Biểu đồ 2.2. Tần suất ĐTB của nhóm thử nghiệm và nhóm đối chứng 42
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN Nội dung Viết tắt Trung Học Phổ Thông THPT Học Sinh HS Nữ sinh NS Giáo viên GV Giáo viên chủ nhiệm GVCN
  6. PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Helen Keller - nữ văn sĩ, nhà hoạt động xã hội, diễn giả “đặc biệt” nổi tiếng người Mỹ, đã từng nói “Thành công và hạnh phúc nằm trong bạn. Quyết tâm hạnh phúc và niềm vui sẽ đi cùng bạn để hình thành đạo quân bất khả chiến bại chống lại nghịch cảnh”. Câu nói trên đã hướng tới vấn đề làm chủ bản thân trong cuộc sống. Mỗi con người cần phải biết tự quản lý bản thân, làm chủ bản thân trước cuộc sống, cuộc đời. Trong cơ chế thị trường hiện nay với sự phát triển, thay đổi như vũ bão của nền kinh tế, sự chuyển mình liên tục của đời sống xã hội đã đặt ra nhiều cơ hội lẫn thách thức đòi hỏi mỗi cá nhân phải tự biết làm chủ mình. Trước những khó khăn, thách thức trong cuộc sống, những tác động tiêu cực của các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma tuý, các loại hình văn hóa ảo có hại như game online…Đại đa số học sinh còn “ngơ ngác” trước những vấn đề bất ngờ xảy ra trong cuộc sống mà mình chưa từng trải qua. Đây chính là kỹ năng vào đời, kỹ năng tự quản lý bản thân trong cuộc sống mà mỗi chúng ta đều phải học, đặc biệt là học sinh THPT, trong đó đối tượng nữ sinh - đối tượng đặc thù chúng ta cần đặc biệt quan tâm và có những định hướng giáo dục phù hợp. Không như nam giới, quá trình học tập và thực hiện quyền lợi giáo dục của nữ giới luôn ít nhiều gặp phải những khó khăn. Đó có thể là các chuẩn mực xã hội, định kiến về giới tính cho đến rào cản tài chính và các tập quán cổ hủ, những rập khuôn của một dạng “định kiến ngọt ngào” kìm hãm sự phát triển của nữ giới. Mặt khác ngay bản thân nữ về tâm lý, cảm xúc, cách ứng xử … cũng có nhiều vấn đề cần lưu tâm. Trên thực tế những vụ việc liên quan đến bạo lực học đường, đối tượng lại là nữ nhiều, đánh nhau vì những khúc mắc nhỏ, yêu đương cùng đối tượng, ghen tuông đố kỵ dẫn đến đánh nhau tập thể. Không chỉ bỏ học mà còn chơi bời lêu lổng quá đà, mang thai ngoài ý muốn và bắt buộc phải dừng tiến độ học tập. Nhiều nữ sinh bị xâm phạm tình dục, bị đuối nước, bị tai nạn … Do đó, cần hiểu được tầm quan trọng của giáo dục dành cho nữ giới. Đặc biệt là giáo dục những kỹ năng sống mà một trong những kỹ năng quan trọng đó là “kỹ năng tự quản lý bản thân”. Đó là biết cách giao tiếp, ứng xử, phải biết tự đánh giá bản thân, biết xác định giá trị để đạt mục tiêu cho từng giai đoạn của cuộc sống, có chính kiến để đưa ra những quyết định phù hợp và kiên định mục tiêu đã đặt ra. Do vậy phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân cho nữ sinh sẽ giúp các em ứng phó với những thách thức của cuộc sống, giúp các em tự tin để hoàn thiện bản thân mình. Để làm được điều đó, ngoài sự giáo dục của gia đình, xã hội thì người giáo viên có thể tạo ra một môi trường khuyến khích sự học tập, đổi mới và sáng tạo đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành, phát triển kỹ năng sống, đặc biệt là kỹ năng tự quản lý bản thân của nữ sinh. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã thực hiện đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự quản bản thân cho nữ sinh trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An” với mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm của mình cho các đồng nghiệp và 1
  7. góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, hình thành và phát triển những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu - Đề xuất một số giải pháp giúp phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân cho nữ sinh trung học phổ thông. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận về phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân cho nữ sinh trung học phổ thông. - Khảo sát và đánh giá thực trạng kỹ năng tự quản lý bản thân của nữ sinh trung học phổ thông Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An. - Đề xuất một số kinh nghiệm giúp phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân cho nữ sinh trung học phổ thông. - Khảo nghiệm tính khả thi của các giải pháp. 3. Giới hạn nghiên cứu - Giới hạn nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp để phát triển kĩ năng tự quản lý bản thân nữ sinh THPT. - Địa bàn nghiên cứu: Học sinh trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An. - Thời gian nghiên cứu: Trong 2 năm học: 2021 – 2022 và 2022 - 2023 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết - Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý luận về phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân cho nữ sinh THPT để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp điều tra: Dùng phiếu điều tra bằng bảng hỏi (Ankét) và trắc nghiệm tâm lý (trắc nghiệm khả năng giao tiếp của V.P Dakharốp) để khảo sát thu thập thông tin và đánh giá các kĩ năng tự quản lý bản thân của học sinh THPT. - Phương pháp quan sát: Quan sát HS trong các giờ học trên lớp, trong các hoạt động ngoại khóa, trong giao tiếp với bạn bè và các Thầy, Cô giáo để nắm bắt các biểu hiện cụ thể về kỹ năng tự quản lý bản thân. 4.3. Các phương pháp thống kê toán học Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để thu thập số liệu, xử lý số liệu định lượng kết quả nghiên cứu xây dựng cơ sở thực tiễn, từ đó đề xuất các biện pháp phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân của học sinh THPT. 5. Đóng góp của đề tài - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về kỹ năng tự quản lý bản thân của học sinh THPT - Làm sáng tỏ thực trạng kỹ năng tự quản lý bản thân của học sinh THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An. - Đề xuất được một số kinh nghiệm giúp phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân học sinh THPT. - Kết quả nghiên cứu đề tài trở thành tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục trong các trường phổ thông. 2
  8. PHẦN II: NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI I. Cơ sở lý luận 1. Các khái niệm cơ bản đề tài 1.1. Khái niệm về kỹ năng Hiện nay ở trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều khái niệm về kỹ năng từ các quan niệm khác nhau của các nhà khoa học, có thể khái quát quan niệm về kỹ năng theo 3 hướng sau: Thứ nhất, kỹ năng trước hết được thể hiện thông qua các thao tác, mặt kỹ thuật của hành động/ hoạt động. Không có kĩ năng chung chung, trừu tượng tách rời khỏi hoạt động. Chủ thể có kỹ năng hành động đồng nghĩa với hành động có kỹ năng. Thứ hai, kỹ năng là sự vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có vào từng trường hợp cụ thể, phù hợp với mục đích và điều kiện của hoạt động. Thứ ba, hành động có kỹ năng tức là hành động phải đem lại một hiệu quả nhất định, nói cách khác kỹ năng phải được thể hiện ở tính đúng đắn, mức độ thành thạo, sáng tạo, linh hoạt... Từ những nội hàm cơ bản này có thể hiểu kĩ năng là khả năng thực hiện có hiệu quả hành động hoạt động cụ thể phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xác định trên cơ sở vận dụng tri thức kinh nghiệm của cá nhân. 1.2. Khái niệm kỹ năng tự quản lý bản thân - “Quản lý” là “trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định” hoặc “tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”. (Theo từ điển Tiếng Việt - 2002). - “Tự” là “từ dùng để chỉ bản thân chủ thể nhằm biểu thị chủ thể đồng thời cũng chính là khách thể chịu sự chi phối của hành động, hoạt động do mình làm hoặc gây ra”. - Từ khái niệm “tự” và “quản lý” nêu trên, có thể hiểu khái niệm “tự quản lý bản thân” như sau: Tự quản lý bản thân là tự điều khiển, điều chỉnh hoạt động của bản thân nhằm đạt được các mục đích đề ra. Dựa trên khái niệm “kỹ năng” và “tự quản lý bản thân” đã nêu ở trên có thể hiểu khái niệm kỹ năng tự quản lý bản thân là khả năng tự quản lý bản thân (tự điều khiển, điều chỉnh hành động, hoạt động của bản thân mình) dựa trên việc vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã có sao cho phù hợp với các yêu cầu của đời sống thực tiễn. 1.3. Khái niệm phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân Trên cơ sở khái niệm “phát triển” và “kĩ năng tự quản lý bản thân” có thể hiểu phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân là phát triển khả năng tự quản lý bản thân (nhận thức, xúc cảm, hành vi của bản thân) cho phù hợp nhằm giúp cho bản thân phát triển và đóng góp cho sự phát triển xã hội. Phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân là hoạt động nhằm nâng cao khả năng tự nhận biết về mình, từ đó điều chỉnh 3
  9. mục đích hành vi cho phù hợp, lường trước được thuận lợi khó khăn mà tìm được giải pháp khắc phục. 2. Đặc điểm về tâm lý, hoạt động học tập và giao tiếp của nữ sinh THPT Nhà giáo dục vĩ đại Nga Usinxki nói rằng: “muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt” vì vậy: - Nếu hiểu học sinh thì có thể chọn lựa được những tác động thích hợp. Nếu không hiểu học sinh thì không thể tìm được những phương pháp giáo dục phù hợp với đối tượng. Kể cả việc lựa chọn nội dung và các hình thức giáo dục cũng cần căn cứ vào đặc điểm đối tượng. Chú ý đặc điểm đối tượng là nguyên tắc quan trọng của giáo dục học. Tìm hiểu học sinh và tập thể học sinh vừa là điều kiện vừa là một nội dung quan trọng trong công tác giáo dục. - Giáo viên cần tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý, tính cách, năng lực, sức khỏe, năng lực phát triển trí tuệ, sở thích, nguyện vọng, năng khiếu, phẩm chất đạo đức của học sinh. Về hoàn cảnh sống, mối quan hệ với tập thể, bạn bè. Qua đó để thấy mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh, của tập thể lớp để phát huy và khắc phục. Trên cơ sở đó phát hiện những yếu tố mới, những nhân tố tích cực để làm nòng cốt cho phong trào chung. Để tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục, Giáo viên vận dụng những cách thu thập thông tin và tìm hiểu bản chất cụ thể sau: 2.1. Đặc điểm tâm lý học sinh THPT (thế mạnh và tồn tại) Tuổi học sinh THPT là lứa tuổi tiếp sau tuổi học sinh THCS, học sinh THPT thuộc lứa tuổi thanh niên. Có nhiều quan niệm khác nhau về tuổi thanh niên. - Các nhà lý luận sinh học xác định tuổi thanh niên dựa trên sự trưởng thành của cơ thể. Tiêu biểu như các nhà phân tâm học, họ cho rằng tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển tình dục. - Các nhà lý luận về xã hội lại coi tuổi thanh niên là thời kỳ chuyển tiếp từ thơ ấu sang tuổi người lớn. - Các nhà tâm lý học cho rằng: Cần phải nghiên cứu tuổi thanh niên một cách phức hợp, kết hợp cả quan điểm xã hội và quan điểm sinh học. Từ nhiều quan niệm nhìn nhận các biểu hiện của lứa tuổi ta có thể sơ lược sự phát triển tâm sinh lý của tuổi vị thành niên như sau: - Về thể chất: sự thay đổi về kích thước và những đặc tính - Về nhận thức: sự thay đổi trong khả năng suy nghĩ. Có hiểu biết tốt hơn về mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả, có khả năng lớn hơn để thiết lập mục tiêu, bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống. - Về xúc cảm, tình cảm: sự thay đổi trong những trải nghiệm và thể hiện những cảm xúc. Có sự mâu thuẫn giữa sự mong đợi tự cao với sự tự nhận thức còn kém. Phát triển cảm xúc của tình yêu và niềm đam mê. 4
  10. - Về xã hội: thay đổi trong các mối quan hệ với mọi người. Nhận ra người lớn không hoàn hảo, khao khát phát triển sự độc lập. Những ảnh hưởng của bạn cùng trang lứa trở nên quan trọng, tin tưởng nhiều hơn vào sự cổ vũ của bạn bè. Có khoảng cách với cha mẹ. Như vậy tuổi THPT được miêu tả như một giai đoạn khó khăn, tiêu cực trải qua nhiều giông bão và sự căng thẳng để có thể sống sót và trưởng thành. Trên thực tế đây là một giai đoạn phát triển có nhiều sự thay đổi lớn lao về cả tâm lý và sinh lý, là giai đoạn chuyển giao rất dài về mặt thời gian từ trẻ nhỏ thành người trưởng thành. Vì thế, đây là giai đoạn cần được sự hỗ trợ, giúp đỡ một cách đặc biệt từ thầy cô giáo, cha mẹ, bạn bè và cả cộng đồng để các em có thể phát huy được mặt mạnh của sự phát triển về thể chất và tâm lý đồng thời hạn chế được những điểm yếu của sự phát triển trong giai đoạn này. Qua phần này chúng ta hiểu được rằng vì sao học sinh THPT giáo viên không thể áp đặt, yêu cầu, ra mệnh lệnh, nói nhiều như học sinh tiểu học, trung học cơ sở, bởi các em đã có nhận thức bản thân rõ nét hơn, lòng tự trọng các em cao hơn. Giáo viên chủ nhiệm phải nắm rõ tâm sinh lý học sinh lứa tuổi mới lớn các em thích gì, ngại ngùng điều gì, cần gì, mới mở đường cho cách giáo dục học sinh có hiệu quả. 2.2. Đặc điểm tâm lý học sinh nữ THPT Nữ sinh THPT giống như vào một đêm xuân, mầm non đội đất nhú lên, các em gái bước vào tuổi thanh xuân, bắt đầu trở thành người lớn. Thế nhưng, giống như con nhộng vừa thoát ra khỏi kén, các em gái ở tuổi này cũng phải trải qua những khó khăn, phiền phức, dằn vặt, dần dần thoát khỏi sự hồn nhiên, ngây thơ, những đặc trưng của thiếu nữ dần dần xuất hiện; cùng với đó, trong tâm lý của các em cũng có sự thay đổi cực kỳ rõ rệt. Do những thay đổi trên cơ thể, các em có những bí mật nho nhỏ của riêng mình, không muốn chia sẻ với cha mẹ như khi còn nhỏ. ý thức độc lập dần trỗi dậy mãnh liệt trong tâm lý, các em khát khao được tự do hành động như người lớn, thế nhưng do cơ thể chưa thực sự phát triển đầy đủ còn nhiều khiếm khuyết về phẩm chất và năng lực khiến các em rời vào trạng thái hụt hẫng, hoang mang. Việc hình thành mâu thuẫn giữa sự trưởng thành về sinh lý và sự yếu đuối về tâm lý, kéo theo đó là các mâu thuẫn giữa tính độc lập và tính ỷ lại, giữa cảm xúc của người lớn và sự ngây thơ của trẻ con, giữa sự cởi mở và sự khép kín, giữa khả năng kiềm chế và sự bột phát, giữa lý tưởng và hiện thực. Tất cả những mâu thuẫn đó nếu như không kịp thời được hóa giải sẽ tạo nên vấn đề tâm lý nghiêm trọng cản trở sự phát triển lành mạnh của các em gái. Cụ thể: * Trưởng thành và tự lập hơn trong suy nghĩ Bước vào tuổi dậy thì các con nghĩ rằng mình đã trở thành người lớn nên thường muốn được độc lập, không thích sống trong khuôn khổ mà cha mẹ đề ra, thường miễn cưỡng hoặc chống lại những lời cha mẹ nói. Sự độc lập của trẻ dậy thì còn thể hiện ở mặt con luôn mong muốn được thể hiện chính mình, chứng minh cho mọi người thấy bản thân đã là người lớn, không còn là trẻ con. * Tính cách tâm lý con gái ở tuổi dậy thì – hay né tránh cha mẹ 5
  11. Trong khi đó, các bé gái lúc này lại rất muốn được cha mẹ tôn trọng quyền riêng tư, không can thiệp quá sâu vào việc suy nghĩ, học tập hay bất cứ việc nào khác của mình. Con cũng có xu hướng ít nói chuyện với cha mẹ hơn, thường xuyên ở trong phòng 1 mình thay vì ra ngoài trò chuyện cười đùa với gia đình như trước. Một số trẻ có xu hướng nổi loạn hơn, nếu không được như ý muốn sẽ cãi lại cha mẹ hay không thèm trả lời cha mẹ. Những xung đột nhỏ dần hình thành một khoảng cách vô hình giữa con cái và cha mẹ. Việc cha mẹ càng la mắng, giảng dạy con lại càng khiến bé nổi loạn hơn, không muốn nghe bởi chính lúc này con cũng chưa hiểu hết được việc mình nói hay giá trị của sự răn dạy của cha mẹ mà chỉ nghĩ rằng gia đình muốn kiểm soát, hay kìm kẹp mình. Bởi thế cha mẹ phải thật khéo léo với con ở giai đoạn này. * Tính khí thay đổi thất thường Tính cách tâm lý con gái ở tuổi dậy thì trở nên nhạy cảm hơn, bướng bỉnh hơn, dễ khóc hơn nói chung cảm xúc của con thay đổi rất thất thường. Đôi khi những trách cứ rất nhẹ nhàng của cha mẹ cũng khiến con cảm thấy tủi thân và bật khóc. Cũng có những lúc con trở nên cực kỳ kích động, sẵn sàng tranh cãi bằng được với cha mẹ mặc dù trước đó con hoàn toàn không phải một người như thế. * Tính cách tâm lý con gái ở tuổi dậy thì – bắt đầu chăm chút bản thân hơn Ở tuổi này, nữ sinh bắt đầu quan tâm đến bản thân rất nhiều, nhận thức được mình đã trở thành một thiếu nữ nên điệu đà và chăm chút cho bản thân hơn rất nhiều. Biết cách làm dáng, muốn mặc đồ đẹp, tìm hiểu về trang điểm, muốn nhịn ăn để giảm cân và bắt đầu tìm hiểu về cơ thể mình hoặc so sánh với các bạn. Việc giáo dục nữ sinh lúc này nếu cấm cản con làm đẹp sẽ dễ làm xa cách hơn, thay vào đó hãy là một người bạn để tư vấn giúp nữ sinh theo phong cách nào, trang điểm như thế nào sẽ hợp lý hơn. * Đời sống tình cảm, muốn mở rộng mối quan hệ, biết cảm nhận những tình cảm khác lạ trong trái tim Ở tuổi dậy thì, các em sẽ thích chơi thành các nhóm bạn, thích mặc đồ nhóm, thích sử dụng các đồ giống nhau. Đồng thời, một trong những tính cách tâm lý con gái ở tuổi dậy thì chính là bắt đầu để ý đến những người bạn khác giới. Các em dần cảm nhận được những bất thường nào đó khi có một bạn nam nào đó chẳng hạn như tim đập nhanh hơn, đỏ mặt, ngại ngùng xấu hổ khi đứng gần bạn nhưng lại thấy rất vui vẻ. Nữ sinh bắt đầu có những rung động đầu đời vô cùng trong sáng và dễ thương. * Những rung cảm đầu đời cũng dần xuất hiện Bên cạnh những rung động đầu đời thì ở tuổi này các em cũng bắt đầu có những thử nghiệm về hẹn hò, nếu giận hờn nhau cũng thể hiện rất rõ ra bên ngoài. Đặc biệt như đã nói, hiện nay có xu hướng dậy thì sớm, hiểu biết nhiều hơn dưới thông qua sự phát triển của internet. Bởi thế dù với chỉ trong 16, 17 tuổi không ít trẻ đã quan hệ tình dục. Gia đình và nhà trường cần là công tác về giáo dục giới tính từ sớm để phòng tránh những trường hợp đáng tiếc xảy ra do không biết bảo vệ bản thân. 2.3. Hoạt động học tập của nữ sinh 6
  12. Nữ sinh trung học phổ thông, hoạt động học tập có những điểm khác biệt cơ bản, ý thức rõ hơn về động cơ học tập của bản thân. Ngoài ra, có thể bị ảnh hưởng từ môi trường xung quanh, và chi phối của đời sống tình cảm. Những cám dỗ có thể khiến cho một số học sinh trốn học, bỏ học sa vào các mối quan hệ tình cảm, tệ nạn xã hội, yêu đương vượt quá giới hạn, … 2.4. Hoạt động giao tiếp của nữ sinh Nữ sinh THPT muốn khẳng định theo hướng tự quyết, tự chịu trách nhiệm, ở một mức độ nhất định không muốn phụ thuộc muốn tự lập. Tính tự lập của học sinh thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập về tình cảm và tự lập về đạo đức giá trị. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Chính điều đó làm cho học sinh phải suy nghĩ và điều chỉnh nhân cách và kỹ năng giao tiếp. Nữ sinh THPT xuất hiện tình yêu nam nữ, nhưng các em thường che giấu tình cảm của mình, cũng có học sinh phân tán tư tưởng trong tình cảm này mà ảnh hưởng tới việc học tập. Tình yêu tuổi học đường đôi lúc cũng tạo ra những cảm xúc căng thẳng vì thiếu kinh nghiệm, vì sợ bị từ chối hoặc quá vui vẻ khi nhận được quan tâm chăm sóc. Tình yêu tuổi học đường lành mạnh trong sáng nhưng cũng là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có kỹ năng điều khiển cảm xúc hành vi cho phù hợp, hơn hết nữ sinh cần có kỹ năng tự quản bản thân. 3. Biểu hiện và cách thức phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân Kỹ năng tự quản lý bản thân bao gồm các kĩ năng cụ thể như: 3.1. Kỹ năng tự chủ cảm xúc hành vi Kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành vi là khả năng làm chủ được trạng thái xúc cảm, hành vi của bản thân, biết tự kiềm chế, che dấu được tâm trạng của bản thân khi cần thiết; Biết tạo ra hứng thú, xúc cảm tích cực cho bản thân mình; Biết điều khiển, điều chỉnh các diễn biến tâm lý của mình và các phương pháp tiến hành giao tiếp sao cho phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng mà vẫn đạt được mục đích giao tiếp. 3.2. Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân là khả năng cá nhân tự nhận biết và đánh giá được những đặc điểm tâm, sinh lý, những phẩm chất, năng lực của bản thân mình cũng như vị trí và các mối quan hệ của bản thân trong xã hội.. Sự tự nhận thức và đánh giá bản thân ở mỗi cá nhân có thể diễn ra theo 2 khuynh hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Khuynh hướng tích cực diễn ra khi cá nhân tự nhận thức và đánh giá chính xác về bản thân mình, có biểu tượng đúng đắn về bản thân mình trong cuộc sống. Khuynh hướng tiêu cực gắn liền với hai trường hợp: tự cao (đánh giá quá cao về bản thân) và tự ti (đánh giá thấp về bản thân). 3.3. Kỹ năng xây dựng kế hoạch đường đời Kỹ năng xây dựng kế hoạch đường đời là khả năng biết xác định những mục tiêu cần đạt được, nhiệm vụ cần phải hoàn thành (về học tập, nghề nghiệp, sự phát triển bản thân…) và cách thức, phương tiện, con đường để đạt được những mục tiêu, 7
  13. nhiệm vụ đó. Nói cách khác, đó là khả năng biết vạch ra lộ trình tương lai cho chính mình. Kĩ năng này biểu hiện ở việc xác định cụ thể, rõ ràng các mục tiêu cần đạt trong tương lai; Xác định cụ thể con đường, cách thức cùng quyết tâm, nghị lực để đạt được những mục tiêu đã định. 3.4. Kỹ năng tự quản lý thời gian Kỹ năng tự quản lý thời gian là khả năng phân chia, sử dụng quỹ thời gian một cách khoa học, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, yêu cầu của hoạt động, nhu cầu của cá nhân, giúp cá nhân vừa đảm bảo sức khỏe, tâm lý, sinh lý, vừa hoàn thành tốt các nhiệm vụ đặt ra. 4. Cách thức phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân 4.1. Kỹ năng tự chủ cảm xúc hành vi - Để có kỹ năng tự chủ cảm xúc hành vi, cần chú ý những yêu cầu sau: + Nhận biết được những biểu hiện của sự căng thẳng, một số tình huống tạo nên căng thẳng, tác động của nó đối với cuộc sống và nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành vi của bản thân. + Có thái độ tích cực đối với những tình huống gây căng thẳng, tìm ra những cách ứng phó tích cực trong tình huống gây căng thẳng giữa giáo viên và học sinh. + Biết cách giải tỏa cảm xúc và kiểm soát, làm chủ cảm xúc, hành vi của bản thân. + Có thể vận dụng được kỹ thuật kiểm soát/ làm chủ cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống thực tiễn để tránh làm tổn thương đối tượng giao tiếp với mình. 4.2. Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân - Để rèn được kĩ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân cần chú ý những điểm sau: + Cá nhân cần có thái độ khách quan, trung thực khi nhìn nhận về bản thân mình. Đây chính là cơ sở để cá nhân có được biểu tượng đúng đắn về bản thân. + Cùng với việc tự nhận thức về đặc điểm tâm lý, sinh lý, vị trí xã hội và các mối quan hệ xã hội của bản thân, cá nhân cần xác định rõ những yêu cầu, chuẩn mực của cuộc sống, những nhiệm vụ cần phải hoàn thành, trên cơ sở đó đối chiếu với những đặc điểm đã được tự nhận thức để tự đánh giá một cách khách quan. + Trong quá trình tự đánh giá, cá nhân cần có sự quan tâm đến dư luận xung quanh, đến phương thức kiểm tra, đánh giá của tổ chức, đoàn thể…,từ đó hình thành biểu tượng khách quan về bản thân, tránh sự tự đánh giá lệch lạc, phiến diện, ngộ nhận… + Trên cơ sở tự đánh giá về mình, cá nhân sẽ xác định mục đích phấn đấu, lựa chọn các phương thức hành động để đạt đến mục đích. 4.3. Kỹ năng xây dựng kế hoạch đường đời 8
  14. - Để rèn luyện kỹ năng xây dựng kế hoạch đường đời, cần chú ý các yêu cầu sau: + Cá nhân cần có tư duy khái quát, biện chứng trong quá trình xây dựng kế hoạch. + Xác định rõ ràng các mục tiêu cần đạt được (một công việc cụ thể, một nghề nghiệp xác định, một mẫu hình lý tưởng …). + Cá nhân xác định một hệ thống các nhiệm vụ cần phải hoàn thành. + Cần xác định rõ điều kiện khách quan, điều kiện chủ quan + Tùy thuộc vào tính chất ngắn hạn hay dài hạn của bản kế hoạch, tùy thuộc vào từng chặng đường phát triển của bản thân mà cá nhân có thể xác định mục tiêu, phương thức hành động tương ứng. Theo đó, cá nhân sẽ có các loại kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch ngắn hạn… + Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đặt ra, việc tự kiểm tra để đánh giá kết quả đạt được là điều kiện cần thiết đối với cá nhân. Bởi lẽ, kết quả tự kiểm tra và đánh giá là căn cứ để cá nhân tự điều chỉnh phương thức hành động, đồng thời bổ sung những điều kiện cần thiết (tri thức, kinh nghiệm sống…) để đạt được mục tiêu. 4.4. Kỹ năng tự quản lý thời gian Để rèn luyện kĩ năng tự quản lý thời gian cần chú ý: + Cần căn cứ vào bản kế hoạch đã xây dựng, trên cơ sở đó xác định quỹ thời gian chung dành cho toàn bộ quá trình phấn đấu và quỹ thời gian dành cho từng hoạt động, nhiệm vụ cụ thể. + Cá nhân cần xác định rõ hai loại thời gian: thời gian dành cho công việc, học tập… và thời gian rỗi dành cho nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí. + Cá nhân cần xác định rõ khối lượng công việc cần phải hoàn thành, thời hạn thực thi nhiệm vụ, công việc theo yêu cầu khách quan, điều kiện chủ quan của bản thân, từ đó ước lượng thời gian phù hợp cho mỗi công việc hoặc mỗi nhiệm vụ học tập. + Để sử dụng quỹ thời gian rỗi một cách hữu ích, cá nhân cần chủ động lập kế hoạch cho chính quỹ thời gian này. 5. Vai trò của giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm trong việc phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân cho nữ sinh THPT. Quá trình hoạt động sư phạm ở trường phổ thông được tiến hành đồng thời cả hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục. Cả hai hoạt động này bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình phát triển toàn diện của học sinh. Trong bản thân của cả hai hoạt động trên, ngoài việc hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức khoa học một cách có hệ thống thì công tác giáo dục có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kỹ năng sống, kỹ năng tự quản bản thân cho nữ sinh, góp phần rất lớn vào sự thành công trong việc giáo dục toàn diện. Mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử đều có những yêu cầu nhất định đối với con người với tư cách là thành viên trong xã hội. Theo đó, học sinh không chỉ cần trau dồi về mặt trí thức mà còn phải rèn luyện, phát triển hệ thống kỹ năng để trở thành 9
  15. thế hệ công dân tích cực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng nhanh chóng và kịp thời với bước đi của thời đại, phù hợp với bối cảnh xã hội rộng lớn và phức tạp. Giáo dục do đó cũng cần phải chuyển trọng tâm sang chú trọng bồi dưỡng các phẩm chất năng lực đó cho mỗi người học sinh. Rèn luyện, phát triển kỹ năng cho học sinh chính là một nội dung quan trọng trong định hướng đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện ở nước ta hiện nay, cũng đồng thời phù hợp với xu hướng quốc tế trong cải cách phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông. Phát triển năng lực cho học sinh còn nhằm hướng tới mục tiêu phát triển nhân cách con người toàn diện trong thế kỉ XXI. Đặc biết xu hướng bình đẳng giới, việc quan tâm đến nữ giới cần được ưu tiên và quan tâm, giáo dục kỹ năng tự quản bản thân cho nữ sinh trong nhà trường là nền tảng để phát triển vấn đề vì sự tiến bộ của xã hội. II. Cơ sở thực tiễn 1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu – Trường THPT Đô Lương 4 - Trường THPT Đô Lương 4 thành lập năm 2006, đóng trên địa bàn xã Hiến Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Học sinh chủ yếu là con em xã Hiến Sơn, Trù Sơn, Đại Sơn, Mỹ Sơn. - Trường hiện tại có 22 lớp với tổng học sinh là 928 học sinh - Đội ngũ giáo viên 100% chính quy sư phạm - Cơ sở vật chất của trường đảm bảo mức tối thiểu cho việc dạy học và đang từng bước cố gắng đảm bảo tốt hơn. - Nội quy giáo dục học sinh cụ thể, rõ ràng, đúng theo pháp luật - Đoàn thanh niên hoạt động tích cực và có hiệu quả giáo dục cao - Học sinh cơ bản ngoan nhưng kỹ năng sống còn hạn chế: nhút nhát, ngại giao tiếp, tính cầu tiến, vượt đói, vượt nghèo chưa cao, ảnh hưởng tiêu cực của đô thị hóa nhiều như học đòi, sa ngã ... Đặc biệt có nhiều luồng tư tưởng, mục tiêu khá phức hợp. Trường THPT Đô Lương 4 tuổi nghề còn khiêm tốn, khó khăn nhiều mặt nhưng đội ngũ giáo viên đã nỗ lực không ngừng trong học tập, giảng dạy và giáo dục học sinh. Các khóa học của học sinh sau ba năm học tập và rèn luyện dưới mái trường THPT Đô lương 4 đều trưởng thành và lớn lên nhiều mặt: có lý tưởng sống, có khát vọng, đậu đạt cao,... Chất lượng đại trà được khẳng định, chất lượng mũi nhọn có nhiều đột phá: đậu tốt nghiệp 100% nhiều năm liền; đã có học sinh đậu thủ khoa kỳ thi THPT quốc gia, kết quả thi học sinh giỏi tỉnh đứng vị thứ cao trên toàn tỉnh (13, 19, ...). Hiện nay trường đã trở thành một địa chỉ được nhân dân và các cấp chính quyền tin tưởng. 2. Thực trạng kỹ năng tự quản lý bản thân của nữ sinh trung học phổ thông Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An 2.1. Những mặt làm được 10
  16. Cùng với những bước chuyển mình của xã hội hiện đại, của thời kỳ công nghệ 4.0, lĩnh vực giáo dục Việt Nam đã có những bước tiến dài. Đặc biệt, chúng ta đã có những bước đi đúng đắn khi chú trọng việc dạy chữ song hành với việc dạy người. Cùng với đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá, ngành giáo dục cũng đã có nhiều đổi mới về công tác giáo dục học sinh. Đội ngũ GV nhìn chung đã nhận thức được đúng đắn vai trò của người thầy đối với quá trình giáo dục, hình thành nhân cách của HS. Họ có khả năng nắm bắt được mục tiêu, kiến thức giáo dục, dạy tốt lớp phụ trách, lập được kế hoạch giáo dục. Ban Giám hiệu đã quan tâm đến công tác giáo dục học sinh nữ thông qua các việc: Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch giáo dục, giao chất lượng giáo dục học sinh nữ cho giáo viên, định ra các tiêu chí thi đua cho các lớp và cho giáo viên, khen thưởng cho giáo viên đạt thành tích lao động tiên tiến, lao động xuất sắc, lớp tiên tiến, lớp xuất sắc, học sinh đạt các thành tích trong năm học. Đồng thời nhà trường đã luôn chú ý kết hợp với các tổ chức đoàn thể trong trường để tổ chức cho các em tham gia các phong trào do các cấp, các ngành tổ chức cũng như các hoạt động tập thể như quyên góp ủng hộ, làm kế hoạch nhỏ, chăm sóc đài tưởng niệm xã Hiến Sơn, góp sức xây dựng khu vui chơi cho trẻ trên địa bàn trường ... giúp HS dần nhận thức được ý nghĩa các hoạt động, thông qua các hoạt động góp phần hình thành và phát triển nhiều phẩm chất, năng lực tích cực, nhất là năng lực tự quản bản thân. 2.2. Những mặt hạn chế Bên cạnh những mặt làm được thì vẫn còn tồn tại những lỗ khuyết trong hành trình giáo dục học sinh. Giáo dục kỹ năng tự quản bản thân cho học sinh nữ chỉ mới lồng ghép trong một số hoạt động chung chứ chưa được chú trọng, tạo lập nội dung bài học một cách bài bản. Đặc biệt giáo dục việc thực hành kỹ năng tự quản bản thân chủ yếu chỉ ở góc độ lý thuyết mà chưa giúp học sinh qua các trải nghiệm thực tiễn. Vì thế có những hiện tượng xảy ra. - Thời gian gần đây nhất trên địa bàn giáo dục Nghệ An liên tục xảy ra vụ việc đau thương làm nhức lòng các bậc làm cha làm mẹ cũng như các nhà giáo dục. Nữ sinh trường chuyên đại học Vinh tự vấn mình nhân lúc bố mẹ đi vắng. Nữ sinh trường THPT Tân Kỳ tự nhảy giếng tự tử, nữ sinh H.T.H.A THCS Nghi Long, Nghi Lộc tự tử tại nhà trong lúc mẹ đi làm đồng. Vu việc diễn ra không có cơ hội sửa sai, hay làm lại mà là hồi chuông cảnh báo cho trách nhiệm gia đình và giáo dục, giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng tự quản bản thân cho nữ sinh trước tình huống cuộc sống vốn vô vàn hình trạng. - Năm học 2020 – 2021, tôi tiếp nhận học sinh em Chu Thị Th lưu ban khóa học 2019 – 2020 vì lý do không đảm bảo sức khỏe theo học năm đó. Giấy lưu ban lý do là vậy, nhưng tìm hiểu tôi mới biết rõ cụ thể nguyên nhân. Em Thân vì không chấp nhận sự quản thúc của bố mẹ quá khắt khe mà Thân đã có ý định rời bỏ bố mẹ nhiều lần, cuối cùng thì em cũng thực hiện, em uống thuốc trừ sâu để tự vấn. Rất may mắn là gia đình phát hiện và đưa đi viện kịp thời, giữ được mạng sống những sức khỏe thì ảnh hưởng rất lớn. Thân đã phải nghỉ học gần năm trời mới có thể quay lại trường. Em quay lại trường trong tình trạng rất yếu, thường xuyên bị ngất không kiểm soát, hay mủi lòng khóc và thần thái buồn buồn. 11
  17. - Tháng 7 năm 2021, em Võ Thị M học sinh lớp 10A6 trường THPT Đô Lương 4 (em Mơ là con thứ 3 trong gia đình ……., M có chút thiệt thòi về ngoại hình so với chị em trong nhà cũng như bạn bè cùng trang lứa. M rất thập và nhỏ, chiều cao khoảng 1,1m, nặng khoảng 35kg. Còn về sức khỏe và trí tuệ cũng bình thường). Kỳ nghỉ hè tại quê nhà, cũng chỉ là một số chuyện nhỏ nhặt không đầu không cuối của cuộc sống nhà quê với những đứa trẻ thời 4.0. Chơi điện thoại, việc nhà bỏ bê, bố la mắng, trong sự bất hòa ấy M giắc xe ra đi, giữa đường gặp mẹ, mẹ gọi M cũng không quay lại, nghĩ M vùng vằng đi đâu đó chút xíu rồi về nên cũng thôi kệ nó. Đến lúc đã hơn 10 giờ tối chưa thấy M về cả nhà mới hối hoảng đi tìm, nhờ loa xóm thông báo, nhờ mọi người cùng tìm hộ. Cái kết cay đắng, tìm được một chiếc dép em nổi ở bờ hồ, lần mò tiếp thì đó là xe và khi đưa em vào bờ thì tất cả đã quá muộn. Cha mẹ, thầy cô, bạn bè, anh em, hàng xóm ngậm ngùi buồn đau. - Năm học 2021, em Trần Phương L học sinh lớp 11B nghỉ học giữa mùa dịch lí do là mang thai ngoài ý muốn - Bạo lực học đường ở nữ giới diễn ra khá phức tạp, mâu thuẫn dai dẳng, âm ỉ. Đó là mâu thuẫn về tình cảm, những dèm pha trực tiếp gián tiếp qua mạng xã hội, ghen tị, nói xấu nhau, kéo bè kết cách… dẫn đến đánh nhau, đánh hội đồng. Những sự việc thực sự đau đớn. Nghiên cứu sâu về đời sống tâm lý chúng ta sẽ nhận ra rằng khi trẻ có ý nghĩ tự tử thực ra không phải chỉ là một phút nông nổi, bồng bột của trẻ. Mà thực sự đã có một khoảng thời gian trẻ đã nghĩ tới và đấu tranh, và đôi lúc trẻ có buông ra những lời nói buồn chán, tiêu cực thậm chí là nói đến từ chết. Chỉ là người lớn chúng ta không để ý nên không hay biết những phút con ta cô đơn, đơn độc trong khó khăn một mình. Sự việc xảy ra có phần trách nhiệm từ phía giáo dục trong đó có trách nhiệm của giáo viên chúng tôi. Một phần chúng tôi nghĩ giáo dục nhưng cái cao xa của những phát minh, phát kiến mà có chút nhẹ xem những chuyện tủn mủn đời thường như là ăn mặc, trang phục, lời nói, nét mặt trò mỗi sáng tới trường …để hiểu để giáo dục các em kỹ năng tự quản bản thân trước mọi biến động của cuộc sống. 2.3. Nguyên nhân * Về học sinh: - Ảnh hưởng tiêu cực của xã hội thời hiện đại, đời sống mạng và vấn đề an ninh mạng các em chưa hiểu đúng bản chất, lãng phí thời gian vào fb, zalo … sống đời sống ảo. Nữ sinh kỹ năng sống chưa tốt, rụt rè ngại giao tiếp đám đông, thiếu tự tin… - Chưa có kỷ luật, sống nuông chiều bản thân, thích thì làm không thích là bỏ - Chưa được giáo dục EQ (Trí tuệ cảm xúc - khả năng xác định, kiểm soát cảm xúc, suy nghĩ của bản thân và người xung quanh). Các em không có khả năng chịu được áp lực, thiếu bình tĩnh trước mọi tình huống, không tiết chế cảm xúc và thiếu thông cảm với người khác. Vì thế xảy ra nhiều vụ việc đáng tiếc khiến cho người thân và dư luận xã hội không khỏi xót xa: Trường hợp Nguyễn Thị T uống thuốc sâu tự tử được gia đình phát hiện và cấp cứu kịp thời; trường hợp đau lòng 12
  18. không có cơ hội sửa là em Nguyễn Thị M giận dỗi bố lao mình xuống đập Me tự tử. - Không hiểu biết về sức khỏe sinh sản vị thành niên, lại không được gia đình quan tâm và ít được tư vấn dẫn đến quan hệ tình dục ở ngay lứa tuổi học đường, có thai ngoài ý muốn bắt buộc phải dừng tiến độ học tập như em Trần Phương L. - Cuộc sống thời 4.0 thực sự không hệ giản đơn, nhiều hiện đại cũng kéo theo nhiều hệ lụy. Mạng xã hội là kênh giao lưu nhưng với lứa tuổi học sinh vừa mất thời gian quá nhiều và mọi mâu thuẫn cũng từ đây mà ra. Xích mích vì một câu bình luận ban đầu là đùa sau đó thì quá đà, ghen tuông chuyện nam nữ, … - Đời sống nông thôn đang dần bị đô thị hóa dẫn đến sự phân biệt giàu nghèo khá rõ, từ sinh hoạt, trang phục, đi lại, đồ dùng … cũng dẫn đến sự đỗ kỵ ghen ghét trong tâm lý nữ, dễ kéo bè kéo cách, mất đoàn kết, hiện tượng học sinh bị bắt nạt diễn ra nhiều hình thức. - Cuộc sống thời hiện đại, đủ đầy nhiều thứ nhưng lại thấy thiếu thốn đủ thứ vì tâm lý không thỏa mãn và không bằng lòng vì đố kỵ, ghen ti nên nữ sinh có những biểu hiện tiêu cực, không đồng cảm bố mẹ mà trách cứ bố mẹ rồi sinh ra những biểu hiện trầm cảm. Trầm cảm nhẹ thì hay hờn hay giỗi, nặng thì có suy nghĩ tiêu cực như muốn chết, muốn bỏ đi …. * Về phụ huynh: - Gia đình bố mẹ hầu hết lao vào làm kinh tế, bỏ mặc việc giáo dục con cái cho nhà trường với suy nghĩ làm cho có kinh tế theo đòi xã hội và chu cấp cho con đủ đầy vật chất. Mặt khác hầu hết các bậc làm cha làm mẹ chúng ta ngày nay đều nuôi con, thương con, giáo dục con theo bản năng, thiếu kiến thức khoa học về tâm sinh lý vị thành niên, không phân biệt được sự biệt lập trong giáo dục nam và nữ - Tâm lý trọng nam khinh nữ không nặng nề như xưa nhưng vẫn còn, nên trong gia đình vấn đề bình đẳng giới vẫn ít nhiều tồn tại như chiều con trai hơn con gái, con trai cho học ngành nghề, con gái học xong đi công ty … - Đặc biệt là do áp lực từ nhiều phía mà bậc làm cha làm mẹ cho con nhiều thứ nhưng cũng làm tổn thương con nhiều khi cáu gắt, khi đặt áp lực, khi đòi hỏi, khi từ bỏ … làm cho những tâm hồn mong manh của trẻ dễ vỡ. Mặt khác trẻ có một vài biểu hiện của sự trầm cảm nhưng hầu hết phụ huynh không phát hiện được mà thường cho rằng con mình nhút nhát, ngại giao tiếp, không thích đi chỗ đông người mà không hay biết con đang cô đơn một mình đối mặt với mặc cảm tự ti, hay bì bắt nạt … * Về giáo viên: - Giáo viên chỉ quan tâm đến hoạt động dạy học, còn hoạt động giáo dục giới tính, tham vấn, tư vấn tâm lý học đường rất mờ nhạt, thờ ơ trước những biến động tâm lý của HS. Điều đó đã có tác động trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh, đến an ninh trật tự xã hội. - Cuộc sống thời thị trường quay như chong chóng, đời sống giáo viên có lúc cũng phải chạy đua, nên có nhiều giáo viên chân trong chân ngoài việc đến lớp theo 13
  19. số tiết quy định xem như đã hoàn thành, ít khi quan tâm sắc thái trò, tâm lý, cảm xúc trò. - Đặc biệt là thực trạng giáo viên đồng nhất phương pháp giáo dục theo lứa tuổi chứ chưa quan tâm đến điểm khác biệt giữa học sinh nam và học sinh nữ. Trước những thực trạng chung đó khi bàn về giáo dục nữ giới kỹ năng tự quản bản thân, bản thân tôi nhận thấy một thực trạng trong nhận thức, tư tưởng đến hành động của nữ sinh, gia đình và giáo viên còn thiếu sự quan tâm dẫn đến sự sa sút trong cuộc sống. (Chúng tôi tiến hành khảo sát: Bảng khảo sát - Phụ lục 1) Từ tính cấp bách của nó, trong năm học 2022 – 2023, để tìm hiểu thực trạng kỹ năng tự quản lý bản thân của học sinh nữ THPT, đề tài đã thực hiện khảo sát với 179 bảng hỏi, trong đó có 117 bảng hỏi có giá trị sử dụng. Đối tượng trả lời phỏng vấn là 69 nữ khối 11 (58,9%) và 48 nữ khối 12 (41,1%). Nội dung khảo sát trong trắc nghiệm tâm lý của Dakharov và của bảng hỏi đều được thiết kế theo 3 phương án lựa chọn (trả lời) (xem phụ lục 1A – 1B) + Đúng (thường xuyên); + Không hoàn toàn, còn tùy người, còn tùy lúc không tin tưởng lắm (đôi khi); + Không (không bao giờ). - Cách tính điểm cho các phần trả lời như sau: + Đối với các Item có nội dung tích cực: Đúng (thường xuyên): 3 điểm; không hoàn toàn (đôi khi): 2 điểm; không (không bao giờ): 1 điểm. + Đối với các Item có nội dung tiêu cực. Đánh giá điểm ngược lại với phương án trên: Đúng (thường xuyên): 1 điểm; không hoàn toàn (đôi khi): 2 điểm; Không (không bao giờ): 3 điểm. - Dựa trên phương án trả lời tính điểm trung bình chung cho tất cả các nội dung, quy ước: - Kỹ năng biểu hiện ở mức độ thấp: X < 2,0 - Kỹ năng biểu hiện ở mức độ trung bình: 2  X  2,499 - Kỹ năng biểu hiện ở mức độ khá: 2,5  X  2,749 - Kỹ năng biểu hiện ở mức độ tốt: 2,75  X  3 Kết quả thu được sau khi xử lý số liệu như sau: Bảng 1: Đánh giá chung của học sinh nữ về kỹ năng tự quản lý bản thân TT Các kĩ năng Điểm trung bình 1 Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân 2.42 2 Kỹ năng xây dựng kế hoạch đường đời 2.13 14
  20. 3 Kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành vi 2.35 4 Kỹ năng tự quản lý thời gian 2.31 (Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra) ( Nguồn 2.45 2.4 : Kết 2.35 quả xử 2.3 lí 2.25 phiếu 2.2 điều 2.15 tra) 2.1 2.05 2 1.95 Kĩ năng tự Kĩ năng xây Kĩ năng tự Kĩ năng tự nhận thức và dựng kế chủ cảm xúc, quản lý thời đánh giá bản hoạch đường hành vi gian thân đời Điểm trung bình Biểu đồ 1: Thực trạng chung về kỹ năng tự quản lý bản thân của học sinh nữ trường THPT Đô Lương 4 Về kỹ năng tự quản lý bản thân của nữ sinh trường trung học phổ thông Đô Lương 4 được đánh giá ở mức độ trung bình thể hiện điểm trung bình của các kỹ năng giao động 2,13  X  2,42 (min =1; max=3). Các biểu hiện kỹ năng tự quản lý bản thân của nữ sinh trung học phổ thông không đồng đều nhau mà xếp theo thứ bậc: 1) Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân; 2) Kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành vi; 3) Kỹ năng tự quản lý thời gian; 4) Kỹ năng xây dựng kế hoạch đường đời. Như vậy trong các kĩ năng tự quản lý bản thân học sinh nữ của trường THPT Đô Lương 4 không có học sinh nào đạt mức khá và tốt, đa số đều ở mức trung bình. Kết quả phỏng vấn nữ sinh cũng cho thấy các em bước đầu hình thành những quan niệm cơ bản về kỹ năng tự quản lý bản thân. Tuy nhiên, đa số mới dừng ở việc nhận thức, vẫn chưa tiếp cận được những biện pháp rèn luyện để hình thành và phát triển kỹ năng này. 3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nói chung và phát triển kỹ năng tự quản lý bản thân HS nữ nói riêng luôn cần có sự tỉ mỉ để các em có thể nhận được sự giáo dục tốt nhất. Tuy nhiên việc giáo dục kĩ năng sống cho HS nữ hiện nay chưa đạt 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2