intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp góp phần phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh ở trường THPT Diễn Châu 4

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:55

11
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm nghiên cứu về năng lực lựa định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT nói chung 2 và học sinh THPT Diễn Châu 4 nói riêng; Đưa ra một một số biện pháp góp phần phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp (PTNLĐHNN) cho các em, nâng cao nhận thức để các em chọn nghề phù hợp với năng lực và sở trường của bản thân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp góp phần phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh ở trường THPT Diễn Châu 4

  1. PHẦN I. ÐẶT VẤN ÐỀ 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Chúng ta đang sống trong thời kỳ của cách mạng công nghiệp 4.0, thời đại số hóa, rất nhiều ngành nghề bị đào thải và nhiều ngành nghề mới sẽ xuất hiện. Theo dự đoán của diễn đàn kinh tế thế giới, đến năm 2025 con người chỉ chiếm khoảng 48% lực lượng lao động, còn máy móc và thuật toán chiếm đến 52%. Cho nên việc giáo dục đơn thuần chỉ tập trung vào truyền đạt kiến thức không còn phù hợp. Để đào tạo ra nguồn nhân lực phù hợp và chủ động thích nghi với những biến đổi của thế giới mới, giáo dục cần có những thay đổi rõ rệt và hiệu quả hơn để tạo ra nguồn nhân lực sẵn sàng thích nghi trước mọi sự thay đổi. Vì thế giáo dục lựa chọn nghề nghiệp phù hợp năng lực của công dân tương lai là vô cùng cần thiết. Theo đánh giá của Tổng cục thống kê, dù đã có những dấu hiệu phục hồi nhưng thị trường lao động nước ta vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19. Các con số cụ thể như 31,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch bệnh bao gồm người mất việc, nghỉ giãn việc, giảm giờ làm…Tỷ lệ thất nghiệp của giai đoạn này cũng được xem là cao nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây. Chính vì những lí do trên mà các bậc phụ huynh và các em học sinh cần phải lựa chọn đúng nghề nghiệp trong tương lai để có cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp mà vẫn dự phòng trường hợp dịch bệnh có những chuyển biến xấu hơn. Một thực trạng đang diễn ra hiện nay là đa phần học sinh đang lựa chọn nghề nghiệp theo cảm tính, thời vụ, theo phong trào, theo bạn bè rủ rê mà không biết và không quan tâm tới đặc thù nghề nghiệp, sự phù hợp của bản thân với nghề lựa chọn cũng như triển vọng công việc sau khi ra trường. Hiện tại hết học kì 1, nhưng nhiều em 2k5 chưa hiểu rõ về năng lực, khả năng bản thân thích nghề gì, chưa dành nhiều thời gian tìm hiểu về ngành nghề mình lựa chọn. Nhiều phụ huynh không định hướng nghề nghiệp cho con hoặc không dựa vào năng lực, sở trường mà dựa vào “sở thích” gia đình hoặc không quan tâm, do bận hoặc không hiểu biết. Hệ lụy của sự không hiểu biết này có thể là chọn sai nghề, lãng phí thời gian để chọn lại, hoặc làm trái nghề, học những nghề mà sau khi ra trường nhu cầu xã hội không cần đến… Vì vậy, bản thân chúng tôi là một giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm nhiều năm, chúng tôi nhận thấy cần phải có trách nhiệm trong quá trình định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT hiện nay.Với mong muốn góp thêm một số ý tưởng và biện pháp mới trong việc phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông, chúng tôi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp góp phần phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh ở trường THPT Diễn Châu 4 ” làm đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm năm nay. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. - Nghiên cứu về năng lực lựa định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT nói chung 1
  2. và học sinh THPT Diễn Châu 4 nói riêng. - Đưa ra một một số biện pháp góp phần phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp (PTNLĐHNN) cho các em, nâng cao nhận thức để các em chọn nghề phù hợp với năng lực và sở trường của bản thân. - Hướng dẫn và bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp phù hợp cho từng đối tượng học sinh, góp phần thực hiện kế hoạch, định hướng phân luồng học sinh tại các trường THPT. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU. - Nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lực định hướng nghề nghiệp và năng lực nghề nghiệp, tầm quan trọng của việc chọn nghề phù hợp cho bản thân. - Khảo sát và đánh giá thực trạng về năng lực định hướng nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông Diễn Châu 4. - Đề xuất các giải pháp cụ thể phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh nhằm định hướng, tư vấn hướng nghiệp cho các em chọn nghề một cách phù hợp nhất với năng lực sở trường của mình. 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU. + Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và các biện pháp phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh. + Phạm vi, địa bàn nghiên cứu: - Phạm vi, địa bàn nghiên cứu: Học sinh trường THPT Diễn Châu 4, tỉnh Nghệ An. - Thời gian nghiên cứu: Trong năm học: 2020-2021; 2021-2022; 2022-2023 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý luận về năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực nghề nghiệp cho học sinh THPT để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. - Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học sinh. - Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi trực tiếp với học sinh, giáo viên bộ môn, các tổ chức đoàn thể,... - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên đi trước, tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hướng nghiệp hàng năm. - Phương pháp thử nghiệm: Thử áp dụng các giải pháp vào công tác tư vấn hướng nghiệp, công tác chủ nhiệm, lồng ghép qua bộ môn, sinh hoạt các câu lạc bộ, hoạt động trải nghiệm. 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI - Đề tài về tư vấn hướng nghiệp và định hướng nghề nghiệp thì đề cập khá nhiều nhưng phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp thì chưa có đề tài nào đề cập. - Giúp học sinh THPT phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp, từ đó phân luồng năng lực nghề nghiệp học sinh theo từng nhóm dựa vào khảo sát năng lực, sở trường, nguyện vọng học sinh sau tốt nghiệp THPT. - Cung cấp thêm nguồn tư liệu giúp giáo viên chủ nhiệm và giáo viên phụ trách dạy 2
  3. hướng nghiệp định hướng đúng đắn năng lực nghề nghiệp cho học sinh THPT. - Đề xuất biện pháp khả thi góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hướng nghiệp đáp ứng nhu cầu về tư vấn, định hướng, phân luồng nghề nghiệp, cho học sinh các trường THPT khác theo yêu cầu phát triên nguồn nhân lực trên địa bàn. 7. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN TT Thời gian Nội dung công việc 1 Tháng 8/2022 - Tìm hiểu thực trạng và chọn đề tài, viết đề cương nghiên cứu Tháng 9/2022 - Nghiên cứu phần lí luận của đề tài biện pháp phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh 2 - Khảo sát thực trạng dạy học stem đối với bộ môn, tổng hợp số liệu. -Trao đổi với đồng nghiệp và đề xuất sáng kiến kinh nghiệm 3 Tháng 10;11 /2022 - Viết sơ lược sáng kiến - Xin ý kiến của đồng nghiệp Tháng 12/2022; - Tiến hành thực nghiệm 1/2023 4 - Hoàn thành sáng kiến 5 Tháng 2;3/2023 - Chỉnh sửa, bổ sung sáng kiến kinh nghiệm sau khi chấm cấp trường 3
  4. PHẦN II: NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN. 1.1.Một số khái niệm liên quan. 1.1.1.Năng lực. Theo từ điển Tiếng Việt: Năng lực là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành công một loại công việc trong một bối cảnh nhất định. Còn theo từ điển tâm lý học, năng lực là tập hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất định. Năng lực được chia thành 2 nhóm: Năng lực chung phần chìm: Chiếm khoảng 80- 90% bao gồm những loại như năng lực tư duy, phán xét, khái quát vấn đề, tưởng tượng…Những yếu tố tiềm ẩn, cần được khai thác và phát huy trong quá trình làm việc hay chịu sự tác động của môi trường xung quanh, điều kiện, tình huống cụ thể để bộc lộ. Năng lực chuyên môn: Phần nổi: Chiếm 10% – 20%, là loại năng lực cụ thể cho một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống, có thể là kinh doanh, bán hàng, tổ chức, âm nhạc, hội họa… Như vậy có thể hiểu năng lực là một đặc tính có thể đo lường được của một người về kiến thức, kỹ năng, thái độ... cũng như các phẩm chất cần thiết để hoàn thành được nhiệm vụ. Năng lực là yếu tố giúp một cá nhân làm việc hiệu quả hơn so với những người khác, cũng là một trong những thước đo để đánh giá các cá nhân với nhau. 1.1.2.Phát triển năng lực. Phát triển năng lực là phát triển những khả năng hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, phát triển nhân cách, trong đó tính tích cực hoạt động và giao lưu của cá nhân đóng vai trò quyết định. Phát triển sự kiên trì học tập, rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm của bản thân trong hoạt động thực tiễn. Phát triển khả năng thực hiện thành công hoạt động trong bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng, hứng thú, niềm tin, ý chí… Phát triển các năng lực chung cũng như năng lực đặc thù của học sinh. Phát triển phẩm chất và năng lực là hai thành phần chủ yếu cấu thành nhân cách con người. Do vậy có thể xem quá trình hình thành và phát triển nhân cách gắn liền với quá trình tích tụ, phát triển các yếu tố của phẩm chất và năng lực. Mặt khác, nhân cách được xem là một chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực (đức và tài). Vì thế, quá trình phát triển năng lực phải có sự cân đối và tương thích theo xu hướng đức và tài hài hòa nhau “tài đức vẹn toàn”. Đức và tài không cân xứng nhau sẽ cho ra một nhân cách chưa hoàn thiện. Tóm lại, phát triển phẩm chất, năng lực vừa là mục tiêu giáo dục, vừa là một nội dung giáo dục, đồng thời cũng là một phương pháp giáo dục. Điều quan trọng hơn cả là nếu so sánh với các quan niệm dạy học trước đây, việc dạy học phát triển năng 4
  5. lực sẽ làm cho việc dạy và việc học được tiếp cận gần hơn, sát hơn với mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách con người. 1.1.3. Năng lực định hướng nghề nghiệp. Năng lực định hướng nghề nghiệp là khả năng của một cá nhân để tự nhận biết và hiểu rõ về bản thân, các kỹ năng, sở trường và điểm mạnh của mình, từ đó có thể tìm ra được lĩnh vực nghề nghiệp phù hợp nhất với bản thân. Đây là một kỹ năng quan trọng trong việc xác định hướng đi cho sự nghiệp của một người. Khi có khả năng định hướng nghề nghiệp tốt, người ta sẽ dễ dàng chọn được công việc phù hợp và phát triển bản thân trong lĩnh vực đó. Có rất nhiều loại năng lực định hướng nghề nghiệp khác nhau, và mỗi loại năng lực này có thể phù hợp với các ngành nghề khác nhau như: Năng lực giao tiếp: Có khả năng giao tiếp tốt, thuyết phục, truyền đạt thông điệp một cách hiệu quả. Năng lực sáng tạo: Có khả năng sáng tạo, tư duy độc đáo, tìm kiếm giải pháp mới cho các vấn đề khó khăn. Năng lực quản lý: Có khả năng tổ chức công việc, quản lý thời gian và tài nguyên hiệu quả…Điều quan trọng là tìm ra loại năng lực phù hợp với bản thân và áp dụng để phát triển nghề nghiệp thành công. Năng lực định hướng nghề nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nghề nghiệp thành công. Những năng lực này giúp cho một người có thể tự nhận ra được ưu điểm và hạn chế bản thân, từ đó xác định được những mục tiêu nghề nghiệp cụ thể và phù hợp với khả năng của mình. Như vậy, năng lực định hướng nghề nghiệp còn giúp cho người lao động có thể tạo ra một hành trang kỹ năng và kiến thức phù hợp để vượt qua các thử thách trong nghề nghiệp, vươn lên trong sự nghiệp và đóng góp tích cực vào sự phát triển của xã hội và đất nước. 1.1.4. Năng lực nghề nghiệp. Năng lực nghề nghiệp là khả năng làm chủ công việc của mỗi cá nhân, thể hiện mức độ kiến thức người đó sở hữu. Năng lực nghề nghiệp càng cao thì khả năng giải quyết công việc càng nhanh chóng, thuận lợi và dễ dàng hơn. Ở các môi trường làm việc khác nhau, năng lực nghề nghiệp của mỗi người sẽ được phát huy không giống nhau. Năng lực nghề nghiệp là yếu tố có vai trò rất quan trọng đối với bất cứ lao động làm ở bất kỳ lĩnh vực nào. Năng lực nghề nghiệp của một cá nhân chính là khả năng làm chủ công việc, tốc độ nhận thức và những kỹ năng vượt trội của họ. Năng lực của các cá nhân trong một tập thể sẽ không đồng nhất, có người sở hữu năng lực yếu kém nhưng lại có người sở hữu năng lực vượt trội hơn hẳn những người khác. Năng lực nghề nghiệp được chia làm 4 nhóm cơ bản: Năng lực nhận thức; Năng lực kỹ thuật, chuyên môn; Năng lực lãnh đạo, giao tiếp; Năng lực tổ chức, quản lý. Tóm lại, năng lực nghề nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến quy trình đào tạo mà nó còn là thước đo để đánh giá tốc độ nhận thức và năng lực của học sinh của mọi người. 5
  6. Khi đã hiểu rõ cách rèn luyện năng lực nghề nghiệp chúng ta sẽ có những hành động thiết thực để trau dồi kiến thức, tích lũy kinh nghiệm. Đây chính là hành trình đầu tiên hướng học sinh đến gần hơn với công việc mình yêu thích, những công việc phù hợp với năng lực bản thân. 1.2.Cơ sở để xây dựng các biện pháp. Một trong những động cơ chủ đạo trong học tập của học sinh THPT là động cơ học vì nghề nghiệp tương lai, hướng đến những yêu cầu của nghề và của việc học nghề. Vì vậy, chọn nghề luôn là mối quan tâm thường trực của HS trong suốt thời kì học THPT. Nhiều công trình nghiên cứu cơ sở để xây dựng biện pháp, góp phần định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT và sinh viên thường trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn 1: Bắt đầu từ 13 hoặc 14 tuổi (cuối trung học cơ sở, đầu thpt). Giai đoạn này ở học sinh xuất hiện những biểu tượng ban đầu về nghề nghiệp và giá trị của các nghề. Đặc điểm chung của giai đoạn này là các em đã hướng đến một số nghề nhất định sẽ theo đuổi trong tương lai. Tuy nhiên, các em thường đánh giá cao bản thân mình và lí tưởng hoá lĩnh vực nghề nghiệp sẽ chọn. Định hướng ban đầu về nghề của trẻ em trong giai đoạn này chưa ổn định, thường xuyên thay đổi theo mức độ nhận thức của các em qua các năm học. Giai đoạn 2: Bắt đầu từ 16-18 tuổi (cuối thpt): Giai đoạn cụ thể hoá. Trong giai đoạn này học sinh THPT rất tích cực tìm hiểu đặc điểm các nghề trong xã hội, thường xuyên so sánh, cân nhắc các giá trị cũng như các yêu cầu của từng nghề và thường xuyên đối chiếu với khả năng và điều kiện của bản thân. Các em đã rất tích cực học tập các môn học liên quan trực tiếp tới việc tuyển chọn một vài nghề dự định sẽ theo đuổi. Đến năm cuối của THPT hầu hết HS đã lựa chọn cho mình một vài nghề và trường học nghề tương ứng. Đồng thời cũng đã chuẩn kiến thức và tâm thế cho việc tuyển chọn và học nghề đã lựa chọn. Giai đoạn 3: Bắt đầu từ 19 - 20 tuổi (tuổi sinh viên học nghề): Giai đoạn thực hiện. Trong giai đoạn này sinh viên trực tiếp tham gia vào việc học nghề và trải nghiệm các công việc cụ thể của nghề. Đây là giai đoạn cá nhân tích lũy kiến thức, hình thành kĩ năng và các yếu tố tâm lí phù hợp với các công việc của nghề trong tương lai. Mặc dù vậy giai đoạn này tâm lí nghề của cá nhân thường chưa ổn định, hay dao động. Vì thế, việc tiếp tục hướng nghiệp cho sinh viên là rất cần thiết để tạo ra sự ổn định tâm lí và tâm thế tích cực cho việc chuẩn bị bước vào guồng máy sản xuất của xã hội. Chọn cho mình một nghề nghĩa là chọn cho mình một tương lai. Việc chọn nghề thực sự quan trọng và vô cùng cần thiết đối với bậc THPT. Chọn nghề đúng có một tương lai sáng lạng, chọn nghề sai nghĩa là đặt cho mình một tương lai không thực sự an toàn và vững chắc. Sau đây là cơ sở giúp HS đưa ra những quyết định lựa chọn nghề nghiệp phù hợp nhất: 6
  7. Thứ nhất: Cần phải vượt qua sự tác động của những tư tưởng và quan điểm chưa thực sự đúng đắn và hợp lý khi chọn nghề như: Chọn nghề theo sự áp đặt của người thân trong gia đình; Chọn nghề theo chuẩn của nhóm, của bạn bè và của người yêu; Chọn nghề may rủi; Chọn nghề theo “mác”, theo “nhãn”…Chọn nghề không nghĩ đến những điều kiện có liên quan như: Điều kiện kinh tế cá nhân hoặc gia đình, thời gian học nghề, tuổi thọ của nghề, đầu ra của nghề,… Thứ hai: Tìm hiểu nhiều nhất có thể có về những ngành nghề trong xã hội. Trong mỗi ngành nghề, ít nhất là phải biết yêu cầu về nghề, triển vọng nghề nghiệp, mức lương, thị trường lao động,… Ngoài ra, phải tìm hiểu cả môi trường làm việc, những thách thức nghề nghiệp, những khó khăn và thuận lợi trong nghề nghiệp; Nội dung và tính chất lao động của nghề; Những điều kiện cần thiết để tham gia lao động trong nghề; Những chống chỉ định y học; Những điều kiện đảm bảo cho người lao động khi làm nghề…. Thứ ba: Tìm hiểu về chính bản thân mình để hướng đến việc tìm nghề phù hợp. Phải trả lời thật chính xác những câu hỏi cơ bản nhất về chính mình cũng như những vấn đề tâm lý có liên quan: Tôi là ai, tôi cần gì và muốn gì, hạnh phúc với tôi là gì,… Tất cả những câu hỏi này được thực hiện một cách nghiêm túc nhằm bước đầu định hướng cho việc tìm hiểu bản thân và để xác lập định hướng cuộc sống của chính mình. Thứ tư: Khảo sát đáng tin cậy về tính cách và năng lực bản thân để có cái nhìn rõ hơn về chính mình. Một trong những bài trắc nghiệm khá nổi tiếng trên thế giới hiện nay là trắc nghiệm tính cách MBTI, trắc nghiệm nghề nghiệp Holland,… giúp học sinh định hình thiên hướng công việc phù hợp sau này. Thứ năm: Tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp? Đừng chỉ học từ kiến thức trong sách vở mà hãy để bản thân được trực tiếp trải nghiệm thực tế qua các cơ hội có được. Quá trình đó sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về tính chất cụ thể của công việc và nhận ra liệu bản thân có thật sự phù hợp hay không. Có thể chính những mối quan hệ với trải nghiệm xung quanh sẽ dẫn lối cho bạn đến nhiều cơ hội nghề nghiệp tốt sau này. Thứ sáu: Hãy xác định mục tiêu nghề nghiệp của bản thân? Mục tiêu cụ thể muốn đạt tới trong nghề nghiệp và bắt đầu một kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó. Đặt mục tiêu nghề nghiệp sẽ giúp HS có động lực, khuôn khổ để đạt được mơ ước. Nói cách khác, vai trò của mục tiêu nghề nghiệp là một đỉnh núi HS cần vượt qua và thúc đẩy bạn không ngừng tiến về phía thành công. 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN. 2.1. Thực trạng của hoạt động tư vấn, phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT Diễn Châu 4. 2.1.1. Thuận lợi. Xác định rõ PTNLĐHNN là “chiếc cầu nối” giúp HS tháo gỡ những băn khoăn, vướng mắc trong việc lựa chọn nghề nghiệp, tạo ra những bước đi tự tin hơn cho các em khi đứng trước ngưỡng cửa cuộc sống tự lập nên Trường THPT Diễn Châu 4 đã 7
  8. cố gắng tận dụng mọi cơ hội, mọi hình thức, khai thác tối đa quỹ thời gian để thực hiện nội dung tư vấn hướng nghiệp. Qua quá trình công tác tại nhà trường, bản thân chúng tôi đã nhận thấy sự nỗ lực của Ban giám hiệu cũng như tập thể hội đồng sư phạm nhà trường trong việc PTNLĐHNN. Trong các năm học, việc PTNLĐHNN cho học sinh có được nhà trường quan tâm, chỉ đạo thực hiện với nhiều hình thức đa dạng thu hút nhiều đối tượng HS tham gia. Ngay từ đầu năm học, nhà trường khảo sát nguyện vọng của các em HS để tiến hành phân ban, xếp lớp theo đúng nguyện vọng và sở thích, thế mạnh của HS. Nội dung hướng nghiệp được nhà trường chỉ đạo lồng ghép trong các môn học chính khoá. Nhà trường thành lập ban tư vấn hướng nghiệp với thành phần chủ yếu là Ban giám hiệu, đại diện Đoàn trường và các GV chủ nhiệm để triển khai các chuyên đề, nội dung liên quan đến công tác hướng nghiệp đến tận các lớp. Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi điều kiện để các trường đại học, các công ty du học, xuất khẩu lao động tranh thủ các giờ sinh hoạt 15 phút triển khai giới thiệu về các trường học, các ngành học và các ngành nghề cho học sinh cuối khoá. Tổ chức tốt công tác tư vấn PTNLĐHNN cho học sinh khối 12 từ đầu năm học, một lần nữa các em chọn nghề nghiệp và ngành học phù hợp với năng lực sở trường của bản thân. Nhà trường triển khai tốt công tác dạy và học Nghề phổ thông cho học sinh khối 11 theo các ngành nghề tự chọn. Nhà trường chỉ đạo tổ chức Đoàn thanh niên tuyên truyền, PTNLĐHNN trong các buổi ngoại khoá, chuyên đề, các giờ sinh hoạt dưới cờ đầu tuần… 2.1.2. Khó khăn. Bên cạnh những thuận lợi trên chúng tôi cũng nhận thấy công tác phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp tại đơn vị mình còn một số khó khăn: Thứ nhất, nhà trường chủ yếu chú trọng PTNLĐHNN ở HS khối 12 mà ít để ý đến HS khối 10, 11. Theo chúng tôi, nếu chỉ tập trung tư vấn cho HS cuối cấp thì chưa hợp lí về mặt thời gian. Các chuyên gia giáo dục cho rằng, thời điểm tốt nhất để hướng nghiệp cho học sinh là cuối lớp 9, đầu lớp 10. Như vậy, trong môi trường THPT công tác này phải được thực hiện sớm hơn. Thứ hai, đội ngũ GVCN, GV bộ môn được giao lồng ghép nội dung PTNLĐHNN vào bài giảng còn chưa có đủ kiến thức chuyên môn để thực hiện công việc. Thứ ba, là một trường THPT đóng trên địa bàn ven biển, có nhiều xã nằm vùng bải ngang (Đặc biệt khó khăn) nên cơ sở vật chất của nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu của việc dạy học để phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho các em. Thứ tư, việc tổ chức dạy học Nghề phổ thông cho HS khối 11 tuy đã được quan tâm nhưng chưa đa dạng các hình thức ngành nghề, HS được đăng kí theo nguyện vọng nhưng còn bị chi phối bởi cơ sở vật chất của nhà trường và chuyên môn của 8
  9. người đứng lớp, do vậy, các em chủ yếu được lựa chọn nghề làm vườn, nghề điện dân dụng và nghề tin học. Thứ năm, công tác tư vấn hướng nghiệp cho HS khối 12 còn nặng về giới thiệu các trường đại học, cao đẳng trong khi nhu cầu theo học của các em không cao, hình thức giới thiệu đơn điệu nên HS chưa hứng thú. 2.2. Khảo sát thực trạng năng lực định hướng nghề nghiệp của học sinh và giáo viên ở trường THPT Diễn Châu 4. 2.2.1. Khảo sát thực trạng năng lực định hướng nghề nghiệp của học sinh. Qua khảo sát, đánh giá thực trạng PTNLĐHNN và chọn ngành nghề của HS tại trường THPT Diễn Châu 4 với 2 phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phương pháp trắc nghiệm tâm lý, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 400 học sinh đang theo học lớp 12 và 225 học sinh khối 10 tại trường, và kết quả về thực trạng lựa chọn nghề của học sinh cuối bậc THPT tại Trường Diễn Châu 4 như sau: Bảng hoạt động tìm hiểu thông tin trong năng lực nghề nghiệp của học sinh. Tìm hiểu Mới tìm Chưa tìm Stt Nội dung tìm hiểu rất kỹ (%) hiểu (%) hiểu (%) 1 Các loại nghề nghiệp khác nhau 16.25 28.5 56.25 2 Nhu cầu thị trường lao động nói chung 6.5 34.5 61.0 3 Những yêu cẩu của nghề mình định lựa chọn 19.25 7.5 64.25 4 Những thuận lợi và khó khăn gặp phải khi làm nghề 19.25 15.25 75.5 Thu nhập và cơ hội việc làm của nghề mình định 30.75 22.25 44.0 5 lựa chọn 6 Địa chỉ đào tạo nghề mình định lựa chọn 43.25 26.75 30.0 7 Năng lực học tập bản thân 55.25 22.25 17.5 8 Tính cách, khí chất của bản thân 17.25 9.5 76.25 9 Năng khiếu, thiên hướng của bản thân 26.0 30.25 37.75 10 Xu hướng nguyện vọng nghề nghiệp của bản thân 35,25 25,25 35,5 100 80 60 40 20 0 STT 1 STT 2 STT 3 STT 4 STT 5 STT 6 STT 7 STT 8 STT 9 STT 10 Tìm hiểu rất kỹ Mới tìm hiểu Chưa tìm hiểu Biểu đồ khảo sát tìm hiểu thông tin trong năng lực nghề nghiệp cùa học sinh. 9
  10. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tuy thời điểm các em học sinh chuẩn bị ra trường sắp cận kề (cuộc điều tra được tiến hành vào tháng 12 năm 2022) nhưng dường như phần đông các em chưa có sự chuẩn bị một cách chu đáo đối với viêc chọn nghề của mình. Điều này thể hiện ở việc học sinh chưa tích cực tìm hiểu những thông tin có liên quan đến ngành, nghề để làm căn cứ lựa chọn nghề phù hợp. Số liệu thu được cho thấy chỉ có 16.25% học sinh có tìm hiểu kỹ về các loại nghề nghiệp khác nhau, 21.5% mới tìm hiểu và có đến 56.25% không thực hiện hoạt động này. Ngay cả đối với những nghề mà các em đã quyết định lựa chọn thi có đến 76.25% học sinh chưa tìm hiểu về những yêu cầu khách quan của nghề đòi hỏi người làm nghề phải đáp ứng. 41% học sinh đã chọn nghề nhưng chưa tìm hiểu xem cơ hội việc làm và thu nhập của nghề ra sao. 65.5% chưa tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn mình sẽ gặp phải khi làm nghề. Những con số nêu trên đã phản ánh một thực tế là dường như phần nhiều học sinh khi chọn nghề đã bỏ qua một khâu quan trọng là tìm hiểu kỹ về nghề mình chọn. Điều này làm cho các em dễ đưa ra những quyết định lựa chọn nghề một cách sai lầm...và kết quả là chán nghề và bỏ nghề trong các quá trình đào tạo và làm việc sau này. Cách ra quyết định lựa chọn nghề nghiệp của học sinh. Hoàn toàn Đúng 1 Không Stt Hoạt động đúng (%) phần (%) đúng (%) 1 So sánh đối chiếu giữa đòi hỏi của nghề, khả năng 34.5 15.25 50.25 bản thân và mong muốn nguyện vọng 2 So sánh đối chiếu lực học bản thân với điểm chuẩn 60.25 10.75 29 vào trường 3 Việc chọn nghề đã được quyết định, nên không 7.6 15.75 76.25 nhất thiết phải làm việc này Biểu đồ cách ra quyết định lựa chọn nghề nghiệp của học sinh 100 80 60 40 20 0 STT 1 STT 2 STT 3 Hoàn toàn đúng Đúng 1 phần Không đúng Qua bảng khảo sát cho thấy, những hiểu biết của học sinh về bản thân để ra quyết định lựa chọn nghề nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc hiểu biết về năng lực học tập của mình, và các em lấy đây là căn cứ chính để quyết định chọn nghề, trong khi đó những thông tin rất quan trọng như năng khiếu, năng lực, khí chất, tính cách.... lại ít được các em quan tâm. Bên cạnh đó, nhiều học sinh việc chọn ngành, nghề khi mới vào lớp 10 hoặc sau THPT chủ yếu phụ thuộc vào quyết định của cha, mẹ. 10
  11. Chính sự thiếu hụt những thông tin về bản thân là một nguyên nhân nữa làm cho việc lựa chọn nghề của học sinh hiện nay thiếu cơ sở khoa học nên việc định hướng học nghề học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Trên đây là những lý do dẫn đến vì sao phải PTNLĐHNN cho học sinh từ khi vào lớp 10, cần đưa ra nhiều biện pháp đa dạng để học sinh có cái nhìn tổng quan về các nghề, trong quá trình được giáo dục và trải nghiệm các em sẽ phát hiện ra được các năng lực, phẩm chất cần có đối với nghề cụ thể, đồng thời phát triển phẩm chất và năng lực cho bản thân từ đó đưa ra quyết định nghề. Từ những thực tế trên cùng với việc tổ chức các hoạt động để PTNLĐHNN cho HS ở trường chúng tôi và với tâm huyết của người GV đã trải nghiệm trong những năm qua tại trường THPT Diễn Châu 4, nhóm tác giả đưa ra những biện pháp góp phần PTNLĐHNN cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông mới. 2.2.2. Khảo sát thực trạng tư vấn phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp của giáo viên. Trường THPT Diễn Châu 4 là cơ sở giáo dục đặt trên địa bàn xã Diễn Mỹ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An từ khi thành lập cho đến nay, trường đã nhận được nhiều sự quan tâm của địa phương, sự nhiệt tình của Ban đại diện cha mẹ HS và các lực lượng xã hội trong công tác giáo dục cho HS nói chung và giáo dục hướng nghiệp, PTNLĐHNN nói riêng. Trường là đơn vị có tập thể cán bộ, GV đoàn kết nhất trí, có tinh thần trách nhiệm cao, GV đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và PTNLĐHNN cho HS tại trường, cùng với kinh nghiệm giảng dạy trong những năm qua chúng tôi nhận thấy thực tế việc áp dụng các giải pháp trước đây của bản thân và một số giáo viên còn tồn tại một số vấn đề sau: - Đối với giáo viên: Chúng tôi đã tiến hành điều tra khảo sát 50 GV tạ trường THPT Diễn Châu 4 theo các phiếu điều tra sau: Họ và tên giáo viên…………………………………………… Giảng dạy môn……………………Chủ nhiệm lớp………… Trường…........................................................................... Hãy trả lời câu hỏi dưới đây bằng cách khoanh vào đáp án có câu trả lời phù hợp với thầy /cô. Câu hỏi 1: Thầy (cô) quan tâm về phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh thông qua hoạt động dạy học không? (Đánh dấu X vào đáp án mà thầy/cô lựa chọn) A. Rất quan tâm B. Quan tâm C. Không quan tâm Câu hỏi 2: Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh lớp chủ nhiệm, thầy/cô có chú ý đến việc phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho HS không? (Đánh dấu X vào đáp án mà thầy/cô lựa chọn) A. Thường xuyên B.Thỉnh thoảng C.Không bao giờ 11
  12. Câu hỏi 3: Thầy cô đánh giá các hoạt động giáo dục để phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh có vai trò như thế nào? A . Rất quan trọng B. Không quan trọng Kết quả điều tra Câu hỏi 1 Câu hỏi 2 Câu hỏi 3 Tổng số GV Rất Không Không Rất Không điều tra quan Quan quan Thường Thỉnh bao qua quan tâm tâm tâm xuyên thoảng giờ trọng trọng 50 12 36 2 9 39 2 48 2 Tỉ lệ 24% 72% 4% 18% 78% 4% 96% 4% Khảo sát về việc quan tâm, tổ chức, đánh giá về việc PTNLĐHNN cho HS. 40 20 0 Câu hỏi 1 Rất quan tâm Quan tâm Không quan tâm Biểu đồ quan tâm về phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh thông qua hoạt động dạy học 50 40 30 20 10 0 Câu hỏi 2 Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ Biểu đồ khảo sát câu hỏi 2 60 40 20 0 Câu hỏi 3 Rất quan trọng Không quan trọng Biểu đồ khảo sát câu hỏi 3 12
  13. Thông qua bảng khảo sát chúng ta có thể thấy rằng: + Phần lớn GV quan tâm tới việc nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và PTNLĐHNN cho HS song vẫn còn một số GV chưa thực sự quan tâm tới việc đổi mới và áp dụng các giải pháp trong quá trình tổ chức hoạt động, giáo dục của mình. + Một số GV quan tâm tới việc nâng cao và PTNLĐHNN cho HS thì quá trình thực hiện lại chưa đồng đều, thực hiện qua loa, sơ sài, chiếu lệ. + Khi thực hiện áp dụng các giải pháp nâng cao PTNLĐHNN cho HS, một số GV còn ngại đổi mới, tiếp thu các phương pháp mới, do đó lặp đi lặp lại các phương pháp đã sử dụng dẫn đến hiệu quả chưa cao, HS không có hứng thú học tập. + Khi tổ chức các hoạt động phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp chưa thực sự cập nhật về nhu cầu thị trường việc làm, khả năng của học sinh. Như vậy có thể thấy việc PTNLĐHNN cho học sinh từ khi lớp 9 và đầu lớp 10 là rất cần thiết, phù hợp với chương trình giáo dục và được nhiều giáo viên quan tâm. Đây là một hoạt động giáo dục rất quan trọng vì giúp học sinh có khả năng thích ứng với các điều kiện sống, học tập và làm việc khác nhau; thích ứng với những thay đổi của xã hội hiện đại, có khả năng phát triển hứng thú nghề nghiệp và ra quyết định lựa chọn được nghề nghiệp tương lai. Trong quá trình tổ chức PTNLĐHNN cho học sinh, giáo viên đã kết hợp các phương pháp dạy học tích cực và nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, việc làm này chưa được diễn ra thường xuyên, trong quá trình thực hiện còn lúng túng, thiếu linh hoạt nên hiệu quả chưa cao. 2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến sai lầm khi lựa chọn nghề nghiệp. Cho rằng nghề thợ thì thấp kém hơn kỹ sư, giáo viên mầm non, tiểu học thì thua kém giáo viên THPT... vì thế mà chỉ định hướng vào những nghề có sự chuẩn bị ở bậc đại học. Thành kiến với một số nghề trong xã hội, chẳng hạn, coi lao động chân tay là nghề thấp kém, chê nhiều công việc dịch vụ là không “thanh lịch”. Đã là nghề được XH thừa nhận thì không thể nói đến sự cao sang hay thấp hèn được, đặc biệt là trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay. Dựa dẫm vào ý kiến của người khác, không độc lập quyết định việc chọn nghề. Vì thế đã có rất nhiều HS lựa chọn nghề theo ý muốn của cha mẹ, theo ý thích của người lớn hay theo lời rủ rê của bạn bè. Cách chọn nghề này đã dẫn đến nhiều trường hợp chán nghề vì không phù hợp. Bị hấp dẫn bởi vẻ bề ngoài của nghề, thiếu hiểu biết nội dung lao động của nghề đó. Cho rằng đạt thành tích cao trong việc học tập một môn văn hoá nào đó là làm được nghề cần đến tri thức của môn đó. Sai lầm ở đây là do không thấy rằng, năng lực đối với một số môn học chỉ là điều kiện cần, chứ chưa là điều kiện đủ. Không đánh giá đúng năng lực lao động của bản thân nên lúng túng trong khi chọn nghề. Do đó, có 2 tình trạng thường gặp: Hoặc đánh giá quá cao năng lực của 13
  14. mình, hoặc đánh giá không đúng mức và không tin vào bản thân. cả hai trường hợp đều dẫn đến hậu quả không hay. Thiếu sự hiểu biết về thể lực và sức khoẻ của bản thân lại không có đầy đủ thông tin vê những chống chỉ định y học trong các nghề. Khi không tìm hiểu đầy đủ thông tin về một nghề nghiệp, HS có thể đưa ra quyết định sai lầm. Tóm lại, như phân tích thì trên là một số nguyên nhân dẫn đến sai lầm khi lựa chọn nghề nghiệp, lựa chọn nghề nghiệp đúng đắn cần phải tìm hiểu đầy đủ thông tin, không chịu áp lực từ bên ngoài, phù hợp với tính cách, sở thích và khả năng của bản thân, tìm hiểu các xu hướng mới và có kế hoạch phát triển dài hạn. Qua tìm hiểu tổng quan về vấn đề nghiên cứu và tìm hiểu cơ sở lí luận của vấn đề, chúng tôi nhận thấy PTNLĐHNN cho học sinh đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giáo dục, là tiền đề tạo nguồn nhân lực lao động có chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay. 2.4. Vai trò của gia đình trong việc hỗ trợ, phát hiện và phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp của học sinh. Gia đình đóng vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ, phát hiện và PTNLĐHNN của HS. Đầu tiên, gia đình có thể giúp đỡ HS khám phá sở thích, tài năng và mục tiêu nghề nghiệp của mình bằng cách trò chuyện và thảo luận với con cái về những điều mà họ thích và muốn làm khi lớn lên. Cha mẹ phải luôn bên cạnh theo dõi, động viên và hỗ trợ cả về vật chất lẫn tinh thần, từng bước giúp cho các em phát hiện ra năng khiếu, sở trường nghề nghiệp của mình. Thứ hai, gia đình có thể hỗ trợ học sinh bằng cách cung cấp cho họ các tài liệu liên quan đến nghề nghiệp, cũng như đưa ra những lời khuyên và thông tin về các khoá học, trường đại học hoặc các chương trình đào tạo liên quan đến lĩnh vực mà các em quan tâm. Để các em tự tưởng tượng ra công việc của mình chọn trong tương lai. Thứ ba, gia đình có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giúp học sinh xây dựng kỹ năng và khả năng mềm cần thiết để thành công trong nghề nghiệp của mình. Các kỹ năng này bao gồm việc giao tiếp, quản lý thời gian, làm việc nhóm và giải quyết vấn đề. Thứ tư, trong quá trình PTNLĐHNN, phụ huynh cần thường xuyên khích lệ tinh thần phấn đấu vươn lên trong học tập của các em. Bằng việc nêu điển hình những tấm gương từ thực tiễn trong cuộc sống thông qua sự chịu khó trong học tập để công việc tốt như hiện tại. Tuy nhiên, việc PTNLĐHNN cần tùy theo điều kiện kinh tế gia đình và khả năng học tập của các em để chọn trường cho thích hợp. Trong trường hợp này, phụ huynh cần phối hợp với con để đưa ra quyết định phù hợp nhất. Tóm lại, ở mỗi con người chúng ta, gia đình có sức ảnh hưởng rất lớn đối với sự thành công trong nghề nghiệp tương lai. Do đó, các bậc phụ huynh cần nhận thức 14
  15. hết trách nhiệm của mình trong việc PTNLĐHNN cho con cái, tạo nền tảng để các em có một công việc thích hợp sau này. 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT DIỄN CHÂU 4. 3.1. Phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp thông qua tiết sinh hoạt lớp của giáo viên chủ nhiệm. Tiết sinh hoạt lớp là một trong những cơ hội tuyệt vời để giáo viên chủ nhiệm(GVCN)giúp học sinh PTNLĐHNN của mình. Trong quá tiết sinh hoạt lớp, việc hướng cho các em có một dự định nghề nghiệp tương lai là một nhiệm vụ quan trọng. Do đó, việc giúp các em phát hiện năng lực nghề nghiệp tương lai của mình cho thầy, cô giáo, cha mẹ biết là rất cần thiết để giúp các em chọn được nghề phù hợp. Chính vì vậy, GVCN cần quan tâm tới những dự định nghề nghiệp của học sinh nhắm phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp cho các em thông qua các tiết sinh hoạt lớp. Dưới đây là một số cách mà chúng tôi đã tổ chức cho các em hoạt động trong tiết sinh hoạt lớp: 3.1.1. GVCN tìm hiểu sở thích và xu hướng năng lực nghề nghiệp của HS qua các phiếu điều tra. GVCN có thể khảo sát ý kiến của học sinh về các nghề nghiệp mà họ quan tâm, các lĩnh vực của sở thích và điểm mạnh, yếu của các em trong việc phát triển kỹ năng để định hướng nghề nghiệp. Phiếu khảo sát nghề nghiệp là một công cụ hữu ích để giáo viên chủ nhiệm hoặc nhà trường có thể sử dụng để khảo sát ý kiến và quan điểm của học sinh về các nghề nghiệp mà các em quan tâm. Dưới đây là một số câu hỏi mà bạn có thể quan tâm trong phiếu khảo sát này: Em hãy đọc, suy nghĩ và trả lời những câu hỏi dưới đây: 1.Hãy kể tên những nghề mà em biết: 1. 4. 2. 5. 3. 6... 2.Trong những nghề đó, em thích nhất nghề nào ? Tại sao ? …………………………………………………………………………………… 3. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, em chọn cho mình hướng đi nào trong các hướng sau: Thi vào đại học; Vừa học, vừa là; Học nghề, du học; Đi làm ngay để giúp gia đình; Tại sao em chọn hướng đi đó? 4. Nếu phải xin ý kiến về chọn nghề tương lai, em sẽ hỏi ai trong số những người dưới đây ? Cha, mẹ; Bạn thân; Giáo viên chủ nhiệm; Anh, chị… 15
  16. 5. Bạn nghĩ những kỹ năng nào quan trọng nhất cho các nghề nghiệp mà bạn quan tâm? …………………………………………………………………………………… 6. Em có biết về các nghề nghiệp liên quan đến sở thích của mình không? …………………………………………………………………………………… 7.Nếu em có được cơ hội, bạn muốn thực tập ở một nơi nào đó liên quan đến nghề nghiệp mà bạn quan tâm không? …………………………………………………………………………………… 8.Em có biết các khoá học, trường đại học hoặc các chương trình đào tạo liên quan đến nghề nghiệp mà bạn quan tâm? …………………………………………………………………………………… Thông qua những câu hỏi này giúp GVCN có thể hiểu rõ hơn về quan điểm và mong muốn của học sinh về năng lực nghề nghiệp của họ. GVCN tiến hành tìm hiểu, khảo sát năng lực nghề nghiệp của HS trong lớp chủ nhiệm qua việc tìm hiểu sở thích, nguyện vọng, nhu cầu, động cơ và lí tưởng nghề nghiệp của các em ở lớp 10, lớp 11, lớp 12 vào đầu năm học, giữa, cuối học kì 1 và giữa học kì 2 (trước khi các em làm hồ sơ đăng kí tuyển sinh ĐH, CĐ, THCN,…). GVCN cần khảo sát nhiều lần trong một năm học vì qua sự tìm hiểu của các em về nghề nghiệp mà mình yêu thích và sự tư vấn nghề nghiệp của GVCN cùng với những yêu cầu mới của thị trường lao động, các em sẽ có những thay đổi trong xu hướng chọn nghề. Khi HS có những thay đổi trong xu hướng chọn nghề, GVCN có thể kịp thời nắm bắt, để tư vấn hướng nghiệp cho các em. 3.1.2. Xác định năng lực, sở trường nghề nghiệp của HS trong lớp chủ nhiệm. *Xác định sở thích phù hợp với năng lực nghề nghiệp. Vậy làm thế nào để biết sở thích nghề nghiệp của bản thân có phù hợp với các nghề – ngành mà bạn thích hay không? Có nhiều phương pháp để phát hiện sở thích, kỹ năng, tính cách, năng khiếu… của từng cá nhân, như trắc nghiệm tự khám phá sở thích nghề nghiệp, trắc nghiệm về màu sắc. Theo lý thuyết của Holland, bất kỳ ai cũng thuộc một trong sáu nhóm sở thích nghề nghiệp đặc trưng sau: Realistic – tạm dịch là thực tế (R); Investigate – tìm tòi (I); Artistic – nghệ thuật (A); Social – xã hội (S); Enterprising – dám làm (E) và cuối cùng là Conventional – quy củ (C). Ứng với mỗi nhóm sẽ có những lĩnh vực nghề nghiệp phù hợp. Trắc nghiệm tự khám phá sở thích nghề nghiệp theo lý thuyết của Holland được thực hiện qua việc HS tự trả lời các câu hỏi về những công việc thích làm, những công việc có thể làm tốt, những nghề nghiệp quan tâm, những kỹ năng cá nhân về máy móc, nghiên cứu khoa học, mỹ thuật, giảng dạy, kinh doanh, hành chính. *Xác định các lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng. Người có năng lực về kỹ thuật, công nghệ, hệ thống; ưa thích làm việc với đồ vật, máy móc, động thực vật; thích làm các công việc ngoài trời là người thuộc nhóm sở thích nghề nghiệp R, phù hợp với các ngành về kiến trúc, an toàn lao động, nghề 16
  17. mộc, xây dựng, thủy sản, kỹ thuật, máy tàu thủy, lái xe, huấn luyện viên, nông – lâm nghiệp…, cơ khí (chế tạo máy, bảo trì và sửa chữa thiết bị, luyện kim, cơ khí ứng dụng, tự động…), điện – điện tử, địa lý – địa chất (đo đạc, vẽ bản đồ địa chính), dầu khí, hải dương học, quản lý công nghiệp… Người có khả năng về quan sát, khám phá, phân tích đánh giá và giải quyết các vấn đề thuộc nhóm sở thích I, phù hợp với các ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên (toán, lý, hóa, địa lý, địa chất, thống kê…); khoa học xã hội (nhân học, tâm lý, địa lý…); y – dược (bác sĩ gây mê, hồi sức, bác sĩ phẫu thuật, nha sĩ…); khoa học công nghệ (công nghệ thông tin, môi trường, điện, vật lý kỹ thuật, xây dựng…), nông – lâm (nông học, thú y…). Người có khả năng về nghệ thuật, khả năng về trực giác, khả năng tưởng tượng cao, thích làm việc trong các môi trường mang tính ngẫu hứng, không khuôn mẫu, thuộc nhóm sở thích A phù hợp với các ngành về văn chương; báo chí (bình luận viên, dẫn chương trình…); điện ảnh; sân khấu; mỹ thuật; ca nhạc; múa; kiến trúc; thời trang, hội họa, giáo viên dạy sử/tiếng Anh, bảo tàng, bảo tồn… Người có khả năng về kinh doanh, dám nghĩ dám làm, có thể gây ảnh hưởng, thuyết phục người khác, có khả năng quản lý, thuộc nhóm sở thích E phù hợp với các ngành nghề về quản trị kinh doanh (quản lý khách sạn, quản trị nhân sự…), thương mại, marketing, kế toán – tài chính, luật sư, dịch vụ khách hàng, tiếp viên hàng không, thông dịch viên, pha chế rượu, kỹ sư công nghiệp, bác sĩ cấp cứu, quy hoạch đô thị… *Xác lập phiếu điều tra về năng lực nghề nghiệp. Muốn trả lời câu hỏi “Tôi có thể làm nghề gì?”, nhất thiết phải nói đến vấn đề năng lực, và chúng ta đã biết sự thành công của bất cứ một nghề nào cũng là sự kết hợp hài hòa giữa năng lực chung và năng lực chuyên biệt, đồng thời phát huy cao độ những yếu tố tạo thành năng lực nghề nghiệp. GVCN lập phiếu điều tra về năng lực nghề nghiệp của HS qua một số câu hỏi sau: 1.Trong năm học vừa qua, học lực của em được xếp loại nào ? ( giỏi, khá, trung bình, yếu) ……………………………………………………………………………………… 2. Trong các môn học ở trường, em thích học môn học nào nhất ? ( kể tên 3 môn) Môn 1……………………………………………………………………………… Môn 2……………………………………………………………………………… Môn 3……………………………………………………………………………… 3. Ngoài thời gian ở trường, em có sở thích gì? ……………………………………………………………………………………… 4. Em hãy tự đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của bản thân (về học lực, sức khỏe, khéo tay, năng khiếu về âm nhạc, hội họa, hoàn cảnh gia đình, nghề truyền thống gia đình…). -Những điểm mạnh: ……………………………………………………………………………………… 17
  18. -Điểm yếu: ……………………………………………………………………………………… -Hoàn cảnh gia đình: ……………………………………………………………………………………… Người ta thường nói: “ Không có người bất tài, chỉ có người không tìm ra đúng sở trường của mình”. Thật vậy, dù làm bất cứ một nghề gì cũng đòi hỏi người làm nghề đó phải có những phẩm chất tâm-sinh lí đáp ứng những yêu cầu của nghề. Muốn thành công trong nghề phải phấn đấu tìm ra được sự phù hợp tối đa giữa yêu cầu của nghề với năng lực của bản thân. GVCN lập phiếu điều tra về năng lực nghề nghiệp của HS vào đầu và cuối mỗi năm học, để HS xác định đúng năng lực, và sở trường của mình phù hợp với nghề nghiệp mà mình đã chọn, tránh trường hợp chọn sai nghề. 3.1.3.GVCN xác định cho HS về sự liên hệ các nhóm nghề và khối thi. Trong kế hoạch giáo dục của Việt Nam, trước đây các nhóm nghề được phân thành 4 nhóm nghề cơ bản: Nhóm nghề tự động hóa; Nhóm nghề điện - điện tử - viễn thông; Nhóm nghề CNTT; Nhóm nghề cơ khí. Các khối thi cũng được phân ra là Khối A, Khối A1, Khối A2, Khối B, Khối C, Khối D… Hiện nay do tác động nhiều yếu tố, đặc biệt sự tác động cuả CNTT, các nhóm nghề đa dạng hơn, khối thi phong phú hơn. Tuy nhiên, các liên hệ này không hoàn toàn chặt chẽ và có thể thay đổi tùy theo từng trường và ngành học cụ thể. Quá trình tìm hiểu và chọn lọc thông tin, chúng tôi tổng hợp cho học sinh tham khảo những nhóm nghề sau: STT Nhóm nghề Khối thi Đa số là khối thi: 1 Nhóm Kĩ thuật A0, A1 và B, V, H, T 2 Nhóm Nghiệp vụ Khối A0, A1,B, D 3 Nhóm Quản lí Có khối A0, A1,D, C 4 Nhóm Xã hội Khối A0, A1, B,C, D. 5 Nhóm Nghiên cứu Khối A0, A1,B,C, D 6 Nhóm Nghệ thuật Khối C và Khối năng khiếu là chính, Khối H, S, R Như vậy, GVCN đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nhóm nghề phù hợp để học sinh tham khảo, có thể giúp học sinh tìm hiểu về các ngành nghề khác nhau và hướng dẫn học sinh phát triển kỹ năng cần thiết để thành công trong từng lĩnh vực nghề nghiêp. Ngoài ra, GVCN cũng có thể tư vấn cho học sinh về việc chọn nghề, chọn trường học hoặc đại học phù hợp với mục tiêu nghề nghiệp của họ. Bằng cách đưa ra các thông tin về các chương trình đào tạo và yêu cầu của các ngành nghề khác nhau, 18
  19. giáo viên chủ nhiệm có thể giúp HS hiểu rõ hơn về các lựa chọn nghề nghiệp và hướng dẫn họ phát triển kỹ năng cần thiết để đạt được mục tiêu nghề nghiệp của mình. 3.1.4.GVCN cho HS xác minh những thông tin nghề nghiệp mà mình đã chọn. GVCN cho HS về nhà tự nghiên cứu và điền những thông tin cụ thể vào phiếu khảo sát nêu sau, để GV có những thông tin cần thiết trong việc tư vấn nghề nghiệp cho các em. Em biết gì về nghề nghiệp mà mình đã chọn Thời Họ Nghề Chỉ gian đào STT tên nghiệp đã Khối Nghành tiêu tạo và Địa chỉ của HS chọn thi học tuyển hình thức trường, Địa chỉ tuyển sinh sinh website Có thể khẳng định, việc xác minh thông tin nghề nghiệp cho học sinh đóng vai trò rất quan trọng. Nắm rỏ thông tin nghề nghiệp của HS một cách chính xác thì mới hướng dẫn, tư vấn cho các em PTNLĐHNN của mình một cách đúng đắn. Khi học sinh đưa ra ý định hoặc mong muốn của mình về nghề nghiệp, GVCN có thể giúp học sinh xác định được khả năng, ưu điểm và nhược điểm của bản thân để có thể chọn được con đường phù hợp nhất. Ngoài ra, GVCN còn có thể tìm kiếm thông tin, tư vấn với các chuyên gia, đối tác nghề nghiệp để có thể cung cấp cho học sinh những thông tin chính xác và đầy đủ nhất về những ngành nghề mà học sinh quan tâm thông qua thông tin nghề nghiệp mà các em cung cấp. Đồng thời, GVCN cũng có thể giúp học sinh chuẩn bị các tài liệu, hồ sơ và thực tập để có thể hiện thực hóa ước mơ nghề nghiệp của mình. Qua đó, GVCN sẽ giúp học sinh xác định được mục tiêu nghề nghiệp của mình và phát triển kỹ năng, năng lực cần thiết để có thể đạt được mục tiêu này. Tóm lại biện pháp PTNLĐHNN qua tiết sinh hoạt lớp của GVCN có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình chọn nghề của học sinh, thông qua các buổi sinh hoạt lớp, GVCN có thể giúp HS tìm hiểu bản thân mình, khám phá sở thích và năng lực của mình và từ đó định hướng cho học sinh những nghề nghiệp phù hợp với năng lực nghề nghiệp. Ngoài ra, GVCN cũng có thể giới thiệu cho học sinh các thông tin về các ngành nghề, công việc, nơi làm việc và yêu cầu của các nghề nghiệp khác nhau để học sinh có thể tự do lựa chọn con đường phát triển sự nghiệp sau này. Việc PTNLĐHNN qua tiết sinh hoạt lớp của GVCN giúp HS có được cái nhìn toàn diện về các lĩnh vực nghề nghiệp, đồng thời giúp học sinh có được sự chuẩn bị tốt nhất cho việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. 19
  20. 3.2. Phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp thông qua hình thức tổ chức sự kiện. Tổ chức sự kiện trong trường THPT là một hoạt động tạo cơ hội cho học sinh được thể hiện những ý tưởng, khả năng sáng tạo của mình, thể hiện năng lực tổ chức hoạt động, thực hiện và tổ chức kiểm tra giám sát hoạt động. Thông qua hoạt động này, học sinh được rèn luyện tính tỉ mỉ, chi tiết, đầu óc tổ chức, tính năng động, nhanh nhẹn, kiên nhẫn, có khả năng thiết lập mối quan hệ tốt, làm việc theo nhóm, có sức khỏe và niềm đam mê. Khi tham gia tổ chức hoạt động sự kiện, học sinh thể hiện được sức bền cũng như khả năng chịu được áp lực cao của mình. Ngoài ra các em còn biết cách xoay xở và ứng phó trong mọi tình huống bất kỳ xảy ra. Từ đó giúp học sinh , hình thành được kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp. Những học sinh có năng khiếu tổ chức sự kiện có thể phù hợp với ngành nghề sau: Quản lý sự kiện: Đây là ngành nghề tập trung vào việc tổ chức, thiết kế và triển khai các sự kiện, từ hội nghị cho đến concert, từ sản phẩm đến dịch vụ. Người làm trong lĩnh vực này cần có khả năng lãnh đạo, kỹ năng quản lý thời gian và tiền bạc, cũng như khả năng tạo ra các ý tưởng sáng tạo để thu hút khách hàng. Marketing: Những học sinh có đầu óc tổ chức sự kiên có thể phù hợp lĩnh vực marketing cũng đòi hỏi kỹ năng tổ chức và quản lý. Nhân viên marketing phải biết cách quảng bá sản phẩm hoặc dịch vụ của công ty thông qua các chiến lược truyền thông và sự kiện. Phù hợp với ngành giáo dục: Các trường đại học, trung tâm giáo dục và tổ chức phi lợi nhuận đều có nhu cầu tuyển dụng những người có khả năng tổ chức sự kiện để thực hiện các hoạt động quảng bá, kết nối cộng đồng và tuyển sinh. Có thể thích hợp với ngành quản lý khách sạn: Lĩnh vực này liên quan đến việc quản lý các hoạt động của một khách sạn hoặc khu nghỉ dưỡng. Những người làm việc trong lĩnh vực này cần có kỹ năng tổ chức sự kiện để có thể phục vụ các sự kiện do khách hàng tổ chức. Các sự kiện học sinh có tham gia tổ chức được trong trường THPT như: Lễ khai mạc, lễ nhập học, lễ tốt nghiệp, lễ tri ân, lễ kỹ niệm, lễ chúc mừng, các buổi giao lưu nghề nghiệp, các buổi nói chuyện, các buổi triển lãm, buổi giới thiệu, hội diễn nghệ thuật… Một số sự kiện đã được tổ chức tại trường THPT Diễn Châu 4: -Sự kiện lễ tri ân thầy cô 20/11. -Sự kiện chào mừng, kỹ niệm ngày thành lập đoàn, ngày 20/10, ngày 26/3. -Sự kiện lễ tri ân thầy cô cuối khóa cho học sinh lớp 12. -Tổ chức các buổi nói chuyện và giới thiệu nghề nghiệp. -Tổ chức buổi thảo luận với các chuyên gia và người thành công. Quy trình cơ bản thực hiện tổ chức sự kiện như sau: -Lập kế hoạch tổ chức sự kiện: Mục đích; thời gian; địa điểm; số lượng người tham 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1