intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp hình thành và phát triển kĩ năng mềm cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:53

58
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Vai trò của người giáo viên chủ nhiệm trong việc nâng cao kĩ năng sống và cải thiện kĩ năng mềm cho học sinh ở trường THPT" đề ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng của việc giáo dục Kĩ năng sống và Kĩ năng mềm cho học sinh ở giáo viên chủ nhiệm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp hình thành và phát triển kĩ năng mềm cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG MỀM CHO HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG THPT ====================================== LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM 1
  2. SỞ GD-ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG ======================== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài “Một số biện pháp hình thành và phát triển kĩ năng mềm cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT” LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM Tác giả: VÕ THỊ MINH HẠNH (Giáo viên tổ Toán- Tin) PHẠM THỊ VIỆT DUNG (Giáo viên tổ Văn- Ngoại ngữ) 2
  3. Năm học 2020 - 2021 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam chúng ta đã và đang bước vào một giai đoạn phát triển và hội nhập mới. Với Đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu đưa giáo dục Kĩ năng sống vào trường học cùng với các môn học và các hoạt động giáo dục. Các em học sinh ngày càng chủ động tích cực và linh hoạt hơn trong mọi hoạt động của nhà trường và xã hội. Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận được một thực trạng đó là bạo lực học đường ngày càng gia tăng, không ít bộ phận học sinh thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân, vi phạm pháp luật, đạo đức, gây bức xúc cho nhà trường, gia đình và xã hội. Ngày càng nhiều học sinh vô cảm trước cái xấu. Hiện tượng học sinh vô cảm trước bạo lực học đường, thậm chí không can ngăn mà còn reo hò, cổ vũ khi chứng kiến bạn mình đánh nhau… là điều khiến nhiều chúng ta thấy đáng lo ngại. Tình trạng đánh nhau ở học sinh trong thời gian gần đây đang gia tăng trở lại, đặc biệt là sau đợt nghỉ học do COVID-19. Trong thời gian dài nghỉ học, ở nhà học online, các em lướt mạng, chơi game, chịu áp lực từ các vấn đề học tập, gia đình có khó khăn về việc làm, kinh tế sa sút... là một trong số nguyên nhân khiến một bộ phận nhóm trẻ có những căng thẳng, bức xúc, “giận cá chém thớt”, dễ dẫn đến các tình huống bạo lực. Ngoài ra, sự khác biệt của học sinh trong lớp, trong trường như học giỏi, xinh đẹp, ngoại hình nổi bật... hoặc những học sinh quá khép kín (trầm tính, ít nói, không có nhiều bạn bè...) có thể là nguyên nhân khiến các em dễ bị bắt nạt, bị đánh. “Một lý do khác thường thấy bắt nguồn từ những hiểu lầm đơn giản như “nhìn đểu”, “nói đểu”. Yêu đương cũng là nguyên nhân phổ biến khiến nhiều học sinh đánh nhau. Việc đăng đàn, bình luận những lời lẽ khiếm nhã, khiêu khích lên mạng khiến các em nổi nóng, muốn đánh nhau để “dằn mặt” Nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu hụt về kỹ năng sống. Kỹ năng mềm càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của lứa tuổi HS THPT. Giáo dục Kỹ năng mềm tại các trường THPT hiện nay đang được chú trọng và tạo điều kiện thực hiện. Trong đó, được tập trung ở những buổi ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ 3
  4. hay các tổ chức các câu lạc bộ chuyên đề giúp các em có cơ hội được tiếp cận và trải nghiệm thực tế trong việc rèn luyện Kỹ năng mềm. Xã hội đã giao phó và đòi hỏi người dạy học phải góp phần “xuất lò” những học sinh “chính mác thế kỉ XXI”, nghĩa là những lớp người không chỉ toàn tài mà còn phải vẹn đức – có óc thông minh, nhạy bén, có tư duy sáng tạo, năng động, có kỹ năng sống thích hợp, có nhân cách tốt đẹp, có đầy đủ những ý thức và hành vi công dân,… Từ đó góp phần thúc đẩy mối quan hệ tích cực giữa học sinh với giáo viên, đem đến hứng thú học tập, giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tích cực với mọi người xung quanh, sống lành mạnh, chủ động trong cuộc sống. Một người thành công ngoài xã hội thì kiến thức không thôi chưa đủ mà cần có những Kỹ năng mềm cần thiết. Học sinh độ tuổi THPT là giai đoạn chuẩn bị bước ra cuộc đời nên là thời điểm quan trọng để giáo dục các em những Kỹ năng mềm. Đó là sự cần thiết để các em có đủ hành trang bước vào đời và thành công trong tương lai sau này. Làm công tác chủ nhiệm lớp, gắn bó với các em học sinh nhiều hơn qua các hoạt động giảng dạy và công tác lớp, chúng tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, với bản chất là hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người chung quanh, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống phức tạp, muôn hình, muôn vẻ của cuộc sống là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, do đặc thù của thi cử theo khối nên ở trường đã có phân lớp theo các khối thi của học sinh. Điều này cũng tạo ra sự chênh lệch về giới tính trong các lớp. Như các lớp khối A , A1 thì số lượng học sinh nam thường đông hơn học sinh nữ. Và trong các lớp khối D thì số lượng học sinh nữ chiếm ưu thế hoặc có khi là toàn bộ sĩ số của một lớp. Do đó việc giáo dục học sinh cũng có những nét đặc thù riêng mà người làm công tác chủ nhiệm phải linh hoạt, và có lúc cần kết hợp với nhau để tìm hiểu rõ hơn về học sinh của mình. Bởi vì vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh là vô cùng quan trọng. GVCN lớp là cầu nối giữa nhà trường với học sinh, với cha mẹ học sinh và các đoàn thể mà các em sinh hoạt, học tập. Trên cơ sở cả hai chúng tôi là giáo viên dạy cùng một trường THPT, đối tượng học sinh và các điều kiện trong nhà trường là gần như tương đồng. Trong đó, cô Võ Thị Minh Hạnh là giáo viên dạy Toán và chủ nhiệm các lớp khối A; cô Phạm Thị Việt Dung là giáo viên dạy tiếng Anh và thường xuyên được phân công chủ nhiệm lớp khối D. Nếu kết hợp kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm sẽ có sự hiểu biết cặn kẽ 4
  5. hơn các đối tượng học sinh của mình và có những giải pháp đề xuất phù hợp hơn, tốt hơn. Chính vì vậy chúng tôi đã quyết định thực hiện chung đề tài : “Vai trò của người giáo viên chủ nhiệm trong việc nâng cao kĩ năng sống và cải thiện kĩ năng mềm cho học sinh ở trường THPT” 2. Mục đích nghiên cứu Đề ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng của việc giáo dục Kĩ năng sống và Kĩ năng mềm cho học sinh ở giáo viên chủ nhiệm. 3. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục Kĩ năng sống ở học sinh THPT Đánh giá thực trạng về công tác giáo dục Kĩ năng sống ở học sinh THPT nói chung và học sinh THPT Huỳnh Thúc Kháng nói riêng. Đề xuất một số giải pháp trong thực hiện giáo dục Kĩ năng sống và cải thiện kỹ năng mềm ở học sinh THPT. 4. Phạm vi nghiên cứu - Địa điểm: Tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng – Vinh – Nghệ an. - Thời gian: Năm học 2019-2020 và Học kỳ 1 Năm học 2020-2021 - Chủ thể: Học sinh lớp 10 D1 K100 và lớp 11 A 2 K99 5. Tính mới của sáng kiến Linh hoạt trong việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình giảng dạy và lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh . Áp dụng nhiều hình thức, địa điểm, áp dụng nhiều kiến thức các môn học khác nhau để giáo dục học sinh. Sử dụng mạng xã hội, và các thiết bị điện tử như một công cụ hỗ trợ nhanh nhất và thuận tiện nhất trong quá trình làm công tác chủ nhiệm. 6. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp cơ bản nhất là: - Quan sát, phỏng vấn, nghiên cứu sản phẩm, so sánh giữa các số liệu thu được. Và nghiên cứu các tài liệu, thu thập thông tin lí lịch liên quan. - Phương pháp khảo sát: Chúng tôi tiến hành khảo sát tâm lí học sinh, khảo sát các phương pháp, cách thức tiến hành, khảo sát kết quả đã đạt được... 5
  6. - Phương pháp thống kê số liệu trong quá trình khảo sát - Phương pháp phân tích, phân loại: phân tích những nguyên nhân và những kết quả đạt được trong hoạt động giáo dục. - Phương pháp so sánh trong thực trạng vấn đề và so sánh kết quả thu được sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. - Sử dụng mạng xã hội và các ứng dụng lấy ý kiến trên các apps PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lí luận 1.1. Khái niệm Kĩ năng mềm Kỹ năng là khả năng thực hiện một công việc nhất định, trong một hoàn cảnh, điều kiện nhất định, đạt được một chỉ tiêu nhất định. Các kỹ năng có thể là kỹ năng sống, kỹ năng mềm và kỹ năng nghề nghiệp. Kỹ năng mềm (Soft skills) là một thuật ngữ xã hội học chỉ những kỹ năng có liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng hòa nhập xã hội, thái độ và hành vi ứng xử áp dụng vào việc giao tiếp giữa người với người. Chúng quyết định bạn là ai, làm việc thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong công việc. Hiện nay, Kỹ năng sống và Kỹ năng mềm là hai thuật ngữ đều được quan tâm khá nhiều trong giáo dục nói riêng và xã hội nói chung. Thực trạng cho thấy, khi đề cập đến một vấn đề mà cá nhân không thích ứng hay giải quyết trong cuộc sống thì được đánh giá theo khía cạnh "thiếu Kỹ năng sống". Mặt khác, khi cá nhân không xin được việc làm, gặp thất bại trong công việc thì xã hội thường gán là "thiếu Kỹ năng mềm". Kỹ năng sống nằm trong phạm trù mang nghĩa phổ quát và rộng hơn nhiều so với Kỹ năng mềm. Kỹ năng sống bao hàm tất cả các kỹ năng thuộc về mặt tâm lý xã hội giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả các yêu cầu, thách thức đặt ra của cuộc sống và thích nghi với cuộc sống. Hay nói một cách đơn giản hơn đó là những kỹ năng giúp con người phản ứng hiệu quả trước những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Kỹ năng mềm trước hết liên quan đến mặt tương tác với người khác bằng những yếu tố liên quan đến mặt cảm xúc, ngôn ngữ, thái độ nhằm thiết lập ra những mối quan hệ xã hội tích cực để đạt được hiệu quả cao trong công việc. Kỹ năng mềm chỉ hỗ trợ đắc lực cho cá nhân đạt được hiệu quả cao trong công việc nhưng không hoàn toàn đầy đủ để giúp cá nhân thích ứng được với các vấn đề nảy sinh từ cuộc sống. Nếu căn cứ vào sự phân loại Kỹ năng sống, dựa vào khái niệm có thể nhận thấy Kỹ năng mềm là một bộ phận quan trọng của Kỹ năng sống. 6
  7. Theo quan niệm của WHO có 3 nhóm Kỹ năng sống gồm: • Nhóm 1: Nhóm kỹ năng nhận thức. • Nhóm 2: Nhóm kỹ năng liên quan đến cảm xúc. • Nhóm 3: Nhóm kỹ năng xã hội. Kỹ năng mềm thuộc nhóm thứ 3 - nhóm kỹ năng xã hội của Kỹ năng sống, tức là hệ thống những kỹ năng giúp cá nhân thiết lập và duy trì các mối quan hệ trong xã hội. Tuy nhiên, cách nhìn này vẫn chưa nhấn mạnh được ý nghĩa quan trọng của Kỹ năng mềm là thúc đẩy công việc và hỗ trợ công việc đạt được hiệu quả cao. Theo quan điểm của UNESCO Kỹ năng sống phải được phân chia dựa trên những kỹ năng nền tảng cơ bản cũng như những kỹ năng chuyên biệt trong đời sống cá nhân của con người ở những mối quan hệ khác nhau cũng như ở những lĩnh vực khác nhau. Như vậy, dưới góc độ phân loại này có thể nhận thấy Kỹ năng mềm thuộc trong nhóm kỹ năng chung mà cụ thể hơn là nhóm kỹ năng liên quan đến cảm xúc và các kỹ năng cơ bản về xã hội. Ở một góc nhìn khác, có thể nhận thấy rằng: Kỹ năng sống mang tính hệ thống và ổn định hơn so với Kỹ năng mềm. Kỹ năng sống mang tính hệ thống và có thể "ổn định" tương đối với nhiều người dù rằng họ có sự khác biệt về văn hóa, dân tộc, độ tuổi. Kỹ năng mềm sẽ rất "cơ động" và dù nó hướng đến vấn đề giúp con người thích nghi trong việc tương tác hiệu quả với người khác hay thúc đẩy công việc đạt hiệu quả cao nhưng bản thân nó lại phụ thuộc khá nhiều vào tính chất của nghề nghiệp mà đặc biệt là tính đối tượng của nghề nghiệp. Nói tóm lại, Kỹ năng mềm không đồng nhất với Kỹ năng sống nhưng không phải là một phạm trù tách biệt với Kỹ năng sống. Kỹ năng mềm là một bộ phận quan trọng của Kỹ năng sống. 1.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm ( GVCN) GVCN là nhà quản lí, nhà sư phạm đại diện cho Hiệu trưởng truyền đạt những chủ trương, yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường đến với HS và tập thể học sinh. Bằng phương pháp thuyết phục, sự gương mẫu, kinh nghiệm sư phạm và uy tín của mình, GVCN giúp cho mỗi học sinh và tập thể lớp có trách nhiệm tuân thủ và tự giác thực hiện nghiêm túc những yêu cầu này. Nói như PGS.TS Đặng Quốc Bảo - Học viện quản lý giáo dục thì: GVCN lớp là nhà quản lý không có dấu đỏ. Ngày nay, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn và sâu sắc về giáo dục, có thể coi GVCN như một nhà quản lý với các vai trò: Người 7
  8. lãnh đạo lớp học; người điều khiển lớp học; người làm công tác phát triển lớp học; người làm công tác tổ chức lớp học; người giúp hiệu trưởng bao quát lớp học; người giúp hiệu trưởng thực hiện việc kiểm tra sự tu dưỡng và rèn luyện của học sinh; người có trách nhiệm phản hồi tình hình lớp. Một người GVCN giỏi sẽ góp phần xây dựng nên một tập thể lớp giỏi, nhiều tập thể lớp giỏi sẽ xây dựng nên một nhà trường vững mạnh. GVCN là cầu nối giữa nhà trường - gia đình và xã hội. Nếu thực hiện thành công công tác chủ nhiệm sẽ góp phần giáo dục học sinh sau này trở thành thế hệ trẻ năng động, sáng tạo và tài năng. Để trở thành một GVCN chân chính thì người GV đó cần hội tụ đủ những yếu tố sau: Có hiểu biết rộng về văn hóa chung, có tri thức sâu sắc; vững vàng về môn học phụ trách ở lớp chủ nhiệm; có khả năng sáng tạo trong công tác giáo dục, dạy học; có khả năng thu thập tích lũy tri thức để ngày càng nâng cao hoặc mở rộng tầm hiểu biết của mình; có khả năng kích hoạt, gây hào hứng nhằm khơi dậy sự hứng thú và động cơ học tập, rèn luyện đạo đức ở học sinh; GVCN cần tự trang bị cho mình nhiều kĩ năng sư phạm như: giao tiếp sư phạm trước đám đông, biểu lộ và kiềm chế tình cảm, cảm xúc khi cần thiết, ứng xử các tình huống sư phạm linh hoạt,… Và trên hết, GVCN phải thực sự là một tấm gương sáng cho HS noi theo. Theo Điều lệ trường THCS, THPT và trường PT có nhiều cấp học, ban hành kèm theo Thông tư sổ 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo viên chủ nhiệm có những vai trò sau: Giáo viên chủ nhiệm thay mặt hiệu trưởng quản lí một lớp học Giáo viên chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng phân công và thay mặt hiệu trưởng để quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở một lớp học. Vai trò quản lí của giáo viên chủ nhiệm lớp thể hiện trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch giáo dục, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập và tu dưỡng của học sinh trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh trong lớp trước hiệu trưởng, trước Hội đồng sư phạm của nhà trường và trước phụ huynh học sinh của lớp khi tổng kết năm học. Giáo viên chủ nhiệm xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của lớp, bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, bằng sự gương mẫu và quan hệ tình cảm, giáo viên chủ nhiệm xây dựng khối đoàn kết trong tập thể, dìu dắt các em nhỏ như con em mình trưởng thành theo từng năm tháng. Học sinh kính yêu giáo viên chủ nhiệm như cha mẹ mình, đoàn kết thân ái với bạn bè như anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập thể vững mạnh. Tình cảm 8
  9. của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của giáo viên chủ nhiệm càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt. Rất nhiều giáo viên cùng giảng dạy trong một lớp, nhưng giáo viên chủ nhiệm bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc đối với từng học sinh trong suốt cuộc đời họ. Bởi vì, người giáo viên không chỉ dạy kiến thức mà còn dành nhiều thời gian, sức lúc, tình cảm cảm hóa, dạy học sinh. Họ kết gắn các thành viên trong lớp học thông qua những câu chuyện, những trò chơi, hoạt động. Giáo viên chủ nhiệm tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp Vai trò tổ chức của giáo viên chủ nhiệm thể hiện trong việc thành lập bộ máy tự quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, các tổ, nhóm, đồng thời tổ chức thực hiện các mặt hoạt động theo kế hoạch giáo dục được xây dựng hàng năm. Các hoạt động của lớp được tổ chức đa dạng và toàn diện, giáo viên chủ nhiệm lớp quán xuyến tất cả các hoạt động một cách cụ thể, chặt chẽ. Các phong trào thi đua học tập đi vào thực chất, các cuộc sinh hoạt các đoàn thể có nội dung hấp dẫn thanh, thiếu niên, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao được tiến hành thường xuyên… Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào trật tự, kỉ luật, vào tinh thần đoàn kết và truyền thống của tập thể lớp cũng như các hoạt động đa dạng của lớp. Giáo viên chủ nhiệm - Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững điều lệ, tôn chỉ mục đích, nghi thức và nội dung hoạt động của các đoàn thể. Với tinh thần trách nhiệm, với kinh nghiệm công tác của mình làm tham mưu cho chi Đoàn thanh niên của lớp lập kế hoạch công tác, bầu ra ban lãnh đạo chi đoàn, tổ chức các nội dung hoạt động và phối hợp với ban cán sự lớp để xây dựng tập thể, đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất. Giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, hoạt động có mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở khoa học, do vậy giáo viên chủ nhiệm phải là người chủ đạo trong điều phối các hoạt động giáo dục cùng với các lực lượng giáo dục đó một cách có hiệu quả nhất. Năng lực, uy tín chuyên môn, kinh nghiệm công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp là điều kiện quan trọng để tập hợp lực lượng, phối hợp thành công các hoạt động giáo dục cho học sinh trong lớp. Như vậy, GVCN là người đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục để hình 9
  10. thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, việc học hỏi và không ngừng trau bản thân là yếu tố tiên quyết của một GVCN. 1.3. Đặc điểm của học sinh THPT Học sinh THPT ở lứa tuổi khoảng từ 15-18 tuổi, đây là lứa tuổi có nhiều biến đổi về tâm sinh lí. Độ tuổi này tâm lí, tình cảm của các em đa dạng, phong phú và cũng rất phức tạp. Điểm nổi bật ở lứa tuổi này là dễ xúc động, dễ bị kích động, vui buồn chuyển hoá dễ dàng, tình cảm còn mang tính bồng bột. Nhiều khi do hoạt động hệ thần kinh không cân bằng, thường thì quá trình hưng phấn mạnh hơn quá trình ức chế, đã khiến các em không tự kiềm chế được. Học sinh THPT bước vào thời kỳ đầu của tuổi thanh niên về sinh học, cấu trúc não đã phát triển tương đối hoàn thiện, các khả năng tư duy, phân tích, đánh giá, cảm giác, tri giác,... cũng dần phát triển. Ở lứa tuổi này, các em thích khẳng định cái tôi bản ngã, muốn được đối xử như người lớn, được thoát ra khỏi sự ràng buộc của cha mẹ, thích được độc lập suy nghĩ và hành động. Bên cạnh đó, nhiều em cũng có biểu hiện lệch lạc về nhân cách, sống ích kỉ, thiếu đạo đức, bắt chước, đua đòi, sống bất cần,... Ở lứa tuổi này các em có nhiều thay đổi, khủng hoảng vì sự phát triển rõ rệt về cơ thể, thay đổi tâm sinh lý, tình cảm và các mối quan hệ xã hội. Một mặt, các em vẫn muốn níu kéo những ký ức của tuổi thơ, muốn được nâng niu chiều chuộng cùng với suy nghĩ và cách ứng xử vụng dại của thời thơ bé, mặt khác lại muốn khẳng định mình là người lớn. Vì thế bản thân các em có nhiều mâu thuẫn, nhiều suy nghĩ phức tạp trong nội tâm về các mối quan hệ xung quanh cần giải quyết. Do chưa có kỹ năng sống nên các em gặp nhiều khó khăn, răc rối, đôi khi phải gánh chịu những hậu quả không như mong muốn bởi chưa tìm ra phương hướng giải quyết đúng đắn và thông minh nhất. Về phương diện xã hội: các em bắt đầu có ý thức, nhận thức về cuộc sống, nhu cầu kết bạn phát triển mạnh, các mối quan hệ mở rộng, thích tham gia các hoạt động xã hội, thích đi đây đi đó để mở rộng tầm nhìn, thích khẳng định mình là người lớn. Trong lĩnh vực tình cảm: cường độ những rung động tình cảm ngày càng cao nhưng chưa có sự kiểm soát chặt chẽ của lý trí dễ rơi vào tình trạng cảm tính đơn thuần, cảm xúc tùy hứng nhất thời xuất hiện nhiều khó kiềm chế dễ dẫn đến sai lầm. Đây là độ tuổi muốn khẳng định “Cái tôi cá nhân” nên có nhu cầu tự khẳng định mình rất cao thể hiện ở chỗ: không muốn tham gia vào những sinh hoạt bó buộc của gia đình, muốn có quyền riêng tư, thích tranh luận và hay bình luận nhận xét đánh giá về người khác ... ngại tiếp xúc và chia sẻ với người lớn, người thân hay giấu kín những khó khăn, vấp ngã của bản thân mình. Thêm vào đó là nhu cầu phát triển các mối quan hệ xã hội, đây cũng là giai đoạn cuối cấp, các em phải chịu áp lực lớn trong 10
  11. thi cử dẫn đến dễ rơi vào trạng thái tiêu cực ảnh hưởng tới sức khỏe, tinh thần. Do vậy, rất cần sự quan tâm, định hướng từ phía gia đình và nhà trường, giúp các em có các kỹ năng để hoàn thiện mình hơn. * Một số đặc điểm tâm lý học sinh THPT - lứa tuổi vị thành niên Tuổi học sinh THPT là lứa tuổi tiếp sau tuổi học sinh THCS, học sinh THPT thuộc lứa tuổi thanh niên. Có nhiều quan niệm khác nhau về tuổi thanh niên. - Các nhà lý luận sinh học xác định tuổi thanh niên dựa trên sự trưởng thành của cơ thể. Tiêu biểu như các nhà phân tâm học, họ cho rằng tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển tình dục. - Các nhà lý luận về xã hội lại coi tuổi thanh niên là thời kỳ chuyển tiếp từ thơ ấu sang tuổi người lớn. - Các nhà tâm lý học cho rằng: Cần phải nghiên cứu tuổi thanh niên một cách phức hợp, kết hợp cả quan điểm xã hội và quan điểm sinh học. Từ nhiều quan niệm nhìn nhận các biểu hiện của lứa tuổi ta có thể sơ lược sự phát triển tâm sinh lý của tuổi vị thành niên như sau: - Về thể chất: sự thay đổi về kích thước và những đặc tính - Về nhận thức: sự thay đổi trong khả năng suy nghĩ. Có hiểu biết tốt hơn về mỗi quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả, có khả năng lớn hơn để thiết lập mục tiêu, bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống. - Về xúc cảm, tình cảm: sự thay đổi trong những trải nghiệm và thể hiện những cảm xúc. Có sự mâu thuẫn giữa sự mong đợi tự cao với sự tự nhận thức còn kém. Phát triển cảm xúc của tình yêu và niềm đam mê. - Về xã hội: thay đổi trong các mỗi quan hệ với mọi người. Nhận ra người lớn không hoàn hảo, khao khát phát triển sự độc lập. Những ảnh hưởng của bạn cùng trang lứa trở nên quan trọng, tin tưởng nhiều hơn vào sự cổ vũ của bạn bè. Có khoảng cách với cha mẹ. Như vậy tuổi THPT được miêu ta như một giai đoạn khó khăn, tiêu cực trải qua nhiều giông bão và sự căng thẳng để có thể sống sót và trưởng thành. Trên thực tế đây là một giai đoạn phát triển có nhiều sự thay đổi lớn lao về cả tâm lý và sinh lý, là giai đoạn chuyển giao rất dài về mặt thời gian từ trẻ nhỏ thành người trưởng thành. Vì thế, đây là giai đoạn cần được sự hỗ trợ, giúp đỡ một cách đặc biệt từ thầy cô giáo, cha mẹ, bạn bè và cả cộng đồng để các em có thể phát huy được mặt mạnh của sự phát triển về thể chất và tâm lý đồng thời hạn chế được những điểm yếu của sự phát triển trong giai đoạn này. * Những khó khăn tâm lý của học sinh THPT 11
  12. Học sinh THPT nhìn chung cả thể chất, giải phẩu, sinh lí và tâm lí, nhân cách đều phát triển theo hướng ổn định dần và đạt đến độ trưởng thành sau 18 tuổi. Tuy vậy trong quá trình phát triển, cũng gặp không ít khó khăn cần có sự quan tâm, chia sẻ và thấu hiểu thấu cảm của thầy cô, cha mẹ, bạn bè: - Khó khăn tâm lí trong quá trình học tập, rèn luyện - Khó khăn trong định hướng và chọn nghề, chọn trường học nghề - Khó khăn trong hình thành lí tưởng sống và xây dựng kế hoạch đường đời + Khó khăn trong hình thành hình ảnh bản thân trong mắt người khác + Khó khăn trong hành trình hình thành lí tưởng sống + Khó khăn trong xác định kế hoạch đường đời - Khó khăn trong quan hệ xã hội, quan hệ với bạn và bạn khác giới + Khó khăn trong giao tiếp xã hội, tương tác và kết giao xã hội + Khó khăn trong quan hệ với bạn khác giới, tình yêu, tình dục + Khó khăn trong các trải nghiệm tình yêu đầu đời. Những khó khăn trên ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm lý của học sinh. Tạo ra lực cản đối với các hoạt động, sinh hoạt và quan hệ xã hội của học sinh. Tác động trực tiếp tới sự phát triển thể chất và tâm lí, nhân cách của học sinh. Những khó khăn đó đẩy đến mức cao dễ dẫn đến sự khủng hoảng tâm lí, làm thay đổi chiều hướng phát triển tâm lí học sinh, tạo ra các ngã rẽ trong tiến trình phát triển tâm lí, nhân cách học sinh. Nắm vững những đặc điểm tâm sinh lý này sẽ giúp Giáo viên chủ nhiệm có cách thức giáo dục Kỹ năng mềm phù hợp. 1.4. Tính cấp thiết của giáo dục kĩ năng sống và cải thiện kĩ năng mềm của học sinh Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ngày càng trở nên bức thiết khi mà xã hội hiện đại đang tác động tới các em từ quá nhiều phía. Bên cạnh các kiến thức được học ở trường, có rất nhiều kỹ năng sống mà các em cần phải rèn luyện để hoàn thiện bản thân. HS Trung học phổ thông có các mối quan hệ đa chiều với bạn bè, với người yêu, với thầy cô, với người thân và bố mẹ … đặc biệt trong môi trường xã hội phức tạp xuất hiện nhiều tình huống khó xử, nhiều cám dỗ các em dễ rơi vào lúng túng, bế tắc, thất bại, dễ chán nản, mệt mỏi bi quan mất phương hướng, dẫn đến những suy nghĩ và hành động tiêu cực trong cuộc sống bởi tâm hồn các em nhạy cảm dễ tổn thương, dễ đổ vỡ do bất lực trong giải quyết các tình huống xảy ra với mình. 12
  13. Để giúp các em vượt qua, đứng vững trước những thay đổi phức tạp và nhiều thử thách trong giai đoạn này chúng ta cần trang bị cho các em kỹ năng sống. Một người thành công ngoài xã hội thì kiến thức không thôi chưa đủ mà cần có những Kỹ năng mềm cần thiết. Học sinh độ tuổi THPT là giai đoạn chuẩn bị bước ra cuộc đời nên là thời điểm quan trọng để giáo dục các em những Kỹ năng mềm. Đó là sự cần thiết để các em có đủ hành trang bước vào đời và thành công trong tương lai sau này. Những hoạt động giáo dục ngoài giờ giúp học sinh thấy được tầm quan trọng của các Kỹ năng mềm đối với lứa tuổi học sinh. Từ đó góp phần thúc đẩy mối quan hệ tích cực giữa học sinh với giáo viên, đem đến hứng thú học tập, giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tích cực với mọi người xung quanh, sống lành mạnh, chủ động trong cuộc sống. 2. Thực trạng của vấn đề 2.1. Thực trạng giáo dục Kĩ năng sống và Kĩ năng mềm cho học sinh phổ thông hiện nay Thông báo 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020, đã nêu một trong những hạn chế của giáo dục phổ thông như sau: “Giáo dục phổ thông mới chỉ quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến “dạy người”, kỹ năng sống và “dạy nghề” cho thanh thiếu niên”. Theo Điều 2 của Luật Giáo dục năm 2005, mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, nội dung và phương pháp giáo dục trong các nhà trường hiện nay là còn xem trọng việc dạy kỹ năng cứng (hard skills) – trí tuệ logic để chỉ trình độ chuyên môn, kiến thức chuyên môn hay bằng cấp và chứng chỉ chuyên môn. Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, giáo viên về giáo dục KNS cho học sinh phổ thông; hướng dẫn tích hợp giáo dục KNS vào các địa chỉ qua một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học phổ thông. Nhìn chung cán bộ quản lý và giáo viên trong các trường phổ thông đã bước đầu làm quen với thuật ngữ “kỹ năng sống”, mặc dù mức độ hiểu biết có khác nhau. 13
  14. Một số hoạt động giáo dục KNS đã được đa số các trường chú ý thực hiện trong khuôn khổ và yêu cầu của Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động. Giáo dục KNS từ nhà trường cũng như qua các phương tiện thông tin đại chúng đã thu hút được sự chú ý và hưởng ứng của xã hội, của phụ huynh học sinh. Hình thức tổ chức giáo dục KNS đã bước đầu được thực hiện trong một số môn học, thông qua hoạt động ngoại khoá và các hoạt động trải nghiệm với nội dung khá đa dạng. Ở trường Phổ thông, do còn tồn tại quan điểm “Thi gì học nấy “ nên các em học sinh thường tập trung vào việc học tập các môn học theo khối của mình. Cùng với sự động viên và định hướng từ phía gia đình, đại bộ phận các em quan niệm việc “ Học để thi” là chính. Kết quả học tập và điểm số thi cử thường được quan tâm nhiều hơn. Trong khi thực tế cho thấy người thành đạt chỉ có 25% là do những kiến thức chuyên môn, 75% còn lại được quyết định bởi những Kỹ năng mềm họ được trang bị. Người giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm cần giúp cho học sinh hiểu được “chìa khóa “dẫn đến thành công thực sự là các em phải biết kết hợp cả hai kỹ năng này một cách khéo léo. Khi xây dựng chương trình dạy học, nội dung dạy học trên lớp, giáo viên đều phải xây dựng 3 mục tiêu: cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ. Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong dạy học và giáo viên đều nhận thức sâu sắc yêu cầu này. Tuy nhiên, có thể nói rằng do phải chạy theo thời gian, phải chuyển tải nhiều nội dung trong khi thời gian có hạn, giáo viên có khuynh hướng tập trung cung cấp kiến thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh, nhất là kỹ năng ứng xử với xã hội, ứng phó và hòa nhập với cuộc sống. Thời gian gần đây, giáo dục KNS cho học sinh được quan tâm nhiều hơn. Giáo dục KNS cho học sinh phổ thông hiện nay không bố trí thành một môn học riêng trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông bởi KNS phải được giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi khi có điều kiện, cơ hội phù hợp. Do đó, giáo dục KNS phải thực hiện thông qua từng môn học và trong các hoạt động giáo dục. Vì vậy, cơ hội thực hiện giáo dục KNS rất nhiều và rất đa dạng. Có thể đề cập tới một số phương thức tổ chức sau: Thông qua dạy học các môn học; qua chủ đề tự chọn; qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp; qua hoạt động trải nghiệm. Sự phối hợp chặt chẽ giáo dục KNS với các hoạt động giáo dục vốn đã được lồng ghép vào chương trình giáo dục qua các môn học như: giáo dục công dân, ngữ văn, lịch sử,… từ nhiều năm nay như giáo dục bảo vệ môi trường, phòng chống ma tuý, giáo dục pháp luật, sức khỏe sinh sản vị thành niên, … tạo nhiều cơ hội và điều 14
  15. kiện để triển khai giáo dục KNS. giáo dục chăm sóc sức khỏe vị thành niên, kỹ năng giao tiếp, phòng cháy chữa cháy. Thời gian qua, dù giáo dục KNS có được quan tâm nhưng hiệu quả vẫn còn nhiều hạn chế thể hiện qua thực trạng về KNS của học sinh còn nhiều khiếm khuyết. Tình trạng học sinh thiếu KNS vẫn xảy ra, biểu hiện qua hành vi ứng xử không phù hợp trong xã hội, sự ứng phó hạn chế với các tình huống trong cuộc sống như: ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp nơi công cộng; thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi; chưa có ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh công cộng, gây phiền hà cho người khác khi sử dụng điện thoại di động, .... Khi thực hiện giáo dục KNS, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng (chưa có tài liệu cho giáo viên và học sinh, tiêu chí đánh giá chưa cụ thể,…). Tổ chức giáo dục KNS có những đặc thù riêng khác với các hoạt động giáo dục khác, nội dung giáo dục không chỉ diễn ra trong môn học mà còn thông qua một số hoạt động khác (hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,...) cho nên phải tính đến cơ sở vật chất, kinh phí để thực hiện. - Giáo viên quen với việc tập trung cung cấp kiến thức mà không hoặc ít quan tâm giáo dục KNS cho học sinh. 2.2. Thực trạng giáo dục Kĩ năng sống và Kĩ năng mềm cho học sinh trường THPT Huỳnh Thúc Kháng Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng nằm ở số 62, đường Lê Hồng Phong, TP Vinh. Đây là một mái trường có bề dày truyền thống về nề nếp và học tập, là địa chỉ tin cậy của phụ huynh học sinh trên địa bàn thành phố Vinh và một số địa phương trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Hiện nay trường có tổng số 43 lớp với gần hai nghìn học sinh trên địa bàn thành phố Vinh. Trải qua 100 năm xây dựng và phát triển, Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng luôn phát huy truyền thống dạy tốt - học tốt, luôn là ngọn cờ đầu trong các phong trào thi đua của Ngành giáo dục Nghệ An, và đặc biệt là trường THPT đầu tiên của tỉnh Nghệ An được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Cơ sở vật chất của trường khá tốt so với mặt bằng các trường phổ thông trong tỉnh và ngày càng được trang bị công nghệ tiên tiến hỗ trợ cho việc dạy học . Nội quy giáo dục học sinh cụ thể, rõ ràng, đúng theo pháp luật Học sinh học trường THPT Huỳnh Thúc Kháng chủ yếu có kết quả học lực khá- giỏi, hạnh kiểm khá- tốt ở trường THCS, vì thế phần lớn học sinh đều ngoan, có ý thức thực hiện nội quy trường lớp, có tinh thần trách nhiệm với tập thể, yêu trường lớp và thích hoạt động tập thể. Bên cạnh đó, nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ, có 15
  16. tâm huyết, yêu nghề và ý thức tốt trong hoạt động giáo dục. Cùng với những thuận lợi đó, phụ huynh HS của trường rất quan tâm, sát cánh cùng giáo viên trong việc giáo dục con em mình. Đoàn thanh niên và các tổ chức câu lạc bộ trong nhà trường hoạt động tích cực và có hiệu quả giáo dục cao. Các đội nhóm thanh niên phát huy được lợi thế của nhà trường và thúc đẩy các phong trào trong và ngoài nhà trường. Học sinh sống ở thành phố từ nhỏ đã tham gia nhiều các sân chơi và hoạt động tập thể nên kỹ năng sống khá tốt. Có nhiều tấm gương học tập nghiên cứu khoa học cũng như các lĩnh vực khác của đời sống như văn hóa nghệ thuật để các em noi theo và phấn đấu. có những gương mặt tiêu biểu , những người có ảnh hưởng nhiều tới đời sống tinh thần của các em. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn những khó khăn, hạn chế có tác động không nhỏ đến sự hình thành Kĩ năng mềm của học sinh. Vẫn còn một bộ phận học sinh hạn chế: nhút nhát, ngại giao tiếp, do điều kiện gia đình có kinh tế hoặc được bố mẹ bảo bọc từ nhỏ nên còn ỷ lại, thụ động và gặp khó khăn trong hòa nhập tập thể. Nhiều em còn đua đòi và theo xu hướng tiêu cực trên mạng xã hội. HS của trường đa phần được sự quan tâm của gia đình, tâm lí của của phụ huynh nói chung muốn dành cho con em mình những điều kiện tốt nhất để học tập, sinh hoạt. Phụ huynh thường “rải thảm” cho con em mình, không muốn con em mình vất vả. Bởi vậy, trong hoạt động lao động, vệ sinh trường lớp, chăm sóc khu di tích…theo chương trình của nhà trường, phụ huynh không muốn con em mình tham gia. Nếu buổi lao động, sinh hoạt tập thể trùng với lịch học thêm ngoài trường thì phụ huynh thường chủ động xin cho các cháu nghỉ, điều đó hình thành thói quen và tinh thần tập thể thiếu tích cực ở các em. Hệ quả sự “nuông chiều” của phụ huynh đã khiến nhiều học sinh sống ích kỉ, hẹp hòi, thích hưởng thụ, không biết quan tâm đến mọi người, kĩ năng giao tiếp, ứng xử tình huống kém…Hơn nữa, học sinh của trường trên địa bàn thành phố Vinh nói chung, trường THPT Huỳnh Thúc Kháng nói riêng còn tham gia học thêm ngoài trường quá nhiều, các em không có thời gian để tham gia nhiều các hoạt động xã hội khác. BẢNG KHẢO SÁT VIỆC HỌC THÊM VÀ THAM GIA CÁC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA CỦA HỌC SINH Học thêm trong và Tham gia các Câu Hoạt động rèn ngoài nhà trường lạc bộ, đội, nhóm luyện sức khỏe, kĩ hàng tuần năng hàng tuần Lớp Sĩ số Số lượng Số Số người Số Số người Số buổi hs CLB tham gia buổi tham gia 16
  17. 1 25 (55%) 1 18 ( 40%) A2 K99 45 8 91% 2 8 (17,8%) Từ 2 12 ( 26,7 %) Từ 3 3 (6,7 %) 0 15 (33,3 %) 1 20 ( 45,5%) 1 21 ( 47,7 %) D1 K100 44 7 95% 2 15 (34,1%) Từ 2 10 (22,1 %) Từ 3 5 ( 11,1%) 0 13 ( 30,2%) Thông quan Bảng khảo sát ta có thể thấy rõ các em học sinh dành phần lớn thời gian cho việc học thêm ngoài giờ học chính khóa. Và gần như cả lớp đều đi học thêm với tần suất cao. Trong khi đó, mặc dù số lượng các em tham gia vào các Câu lạc bộ trong và ngoài nhà trường ở cả hai lớp khá ổn định nhưng những hoạt động của cá nhân tham gia trải nghiệm rèn luyện sức khỏe và các kĩ năng trong cuộc sống thì lại rất thấp. Và cũng có không ít học sinh không có bất cứ thêm một hoạt động gì ngoài việc học văn hóa. 2.2.1. Từ phía BGH nhà trường Ban giám hiệu luôn đồng hành cùng giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên nhân viên trong nhà trường thống nhất quan điểm song hành giáo dục văn hóa và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Các hoạt động ngoại khóa và các tiết học ngoài giờ lên lớp cũng xen kẽ việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Xây dựng nhà trường có môi trường học đường thân thiện cởi mở và đoàn kết nhân ái. 2.2.2. Từ phía giáo viên Giáo viên trong trường luôn có sự ủng hộ động viên đối với các em học sinh tham gia vào các hoạt động ngoại khóa, các câu lạc bộ trong ngoài nhà trường nhằm giúp các em cải thiện tích cực những kĩ năng sống của bản thân. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cũng được lồng ghép trong quá trình giảng dạy tùy vào đặc thù của môn học. 2.2.3. Từ phía học sinh Các em học sinh luôn nhận được sự ủng hộ của Ban giám hiệu nhà trường cùng các thầy cô giáo nên các em tự tin thể hiện mình, mạnh dạn tổ chức thực hiện các hoạt 17
  18. động nhằm nâng cao kĩ năng sống cho bản thân và góp phần nâng cao vị thế của nhà trường. Có nhiều chương trình sự kiện được các em tổ chức thường niên, kết nối học sinh các khóa và giao lưu với học sinh trên địa bàn thành phố ví dụ như Radio 196X, Lễ Tri ân và trưởng thành, Giờ Trái đất 60+, chương trình “ Hòa nhịp con tim” ở trung tâm khuyết tật, Thắp nến tri ân các anh hùng liệt sĩ, chương trình “ Trung thu thắp sáng yêu thương” ở làng trẻ SOS, chương trình “ Xuân Yêu Thương” ở Bệnh viện Ung bướu, Thu gom sách vở tặng cho các bạn học sinh miền núi, Hành trình về nguồn, chương trình Tiếp sức mùa thi, Bước chân xanh bảo vệ môi trường… cùng nhiều hoạt động ngoại khóa khác. Stt Số lượng thành viên các Câu lạc bộ trong trường Huỳnh Thúc Kháng Câu lạc bộ Năm học 2019 - 2020 Năm học 2020 - 2021 1 Nhóm Bút HTK 80 94 2 Thanh niên tình nguyện 173 193 3 Đội xung kích 42 44 4 Đội nề nếp 42 43 5 BOC (CLB Nhảy) 30 36 6 HGC (CLB Đàn hát) 71 120 7 HCDC (CLB Múa) 21 40 8 HDC (CLB Tranh biện) 25 43 9 HBC (CLB Bóng rổ) 49 80 10 HEC (CLB Tiếng Anh) 105 231 11 HFC (CLB Bóng đá) 32 32 12 HMU (CLB Mô phỏng Đang trong quá trình Liên hợp Quốc) thử nghiệm 13 Đang trong quá trình HIGGS (CLB Khoa học) thử nghiệm 18
  19. Từ số liệu của bảng khảo sát có thể thấy sự gia tăng về mặt số lượng câu lạc bộ cũng như các thành viên trong đội nhóm. Tuy nhiên số lượng các em tham gia vào câu lạc bộ hay đội nhóm hoạt động bổ trợ cho kĩ năng trong cuộc sống còn rất ít so với tổng số gần hai nghìn học sinh trong nhà trường. 3. Đề xuất giải pháp 3.1. Chú trọng những kĩ năng cần rèn luyện đối với học sinh THPT Vì mối quan hệ giữa Kĩ năng sống và Kĩ năng mềm là sự bao hàm, đan xen và lồng ghép có tính tương hỗ, gắn bó khăng khít với nhau nên trong đề tài này chúng tôi không phân chia kĩ năng theo từng khái niệm mà đưa ra những kĩ năng cơ bản nhất cần rèn luyện cho học sinh phổ thông. 3.1.1. Kỹ năng thuyết phục, truyền đạt, tự tin trước đám đông Kỹ năng thuyết phục, truyền đạt là kỹ năng quan trọng bậc nhất trong các loại kỹ năng mềm. Học sinh có ý tưởng, có kiến thức nhưng nếu không thể nói cho người khác hiểu; không thể thuyết phục được người khác tin thì mọi điều là vô nghĩa. Không phải học sinh có kiến thức là truyền đạt tốt. Việc truyền đạt và thuyết phục cần vận dụng rất nhiều kiến thức và sự khổ công rèn luyện. Nói để người khác nghe, để người khác hiểu, và để người khác tin là câu chuyện hoàn toàn khác nhau. Ngữ cảnh, thông tin, luận cứ, luận chứng, tốc độ nói, cường độ nói, ngôn ngữ cơ thể… Quyết định đến kết quả cần đạt sau cùng. 3.1.2. Kỹ năng giao tiếp, điều chỉnh và quản lí cảm xúc Giao tiếp và truyền đạt là hai khái niệm khác nhau. Trong khi truyền đạt có tính một chiều, còn giao tiếp là sự tương tác qua lại. Truyền đạt có sự chuẩn bị từ trước, còn giao tiếp có tính phát sinh liên tục. Giao tiếp có người nói và có người nghe. Chính vì vậy bạn cần có kỹ năng lắng nghe, phân tích, đưa ra câu trả lời nhanh chóng và thuyết phục. Kỹ năng giao tiếp được vận dụng thường xuyên trong cuộc sống thường ngày. Nó giúp bạn xây dựng các mối quan hệ, giải quyết mâu thuẫn, tăng tính gắn kết. Từ câu chuyện đời thường, cho đến giao tiếp công việc với đồng nghiệp. Mọi việc bạn đều cần sử dụng từ ngữ một cách linh hoạt tạo ra ấn tượng qua lời nói và cử chỉ. Kỹ năng giao tiếp giữa các cá nhân trong nhà trường: giúp học sinh biết thiết lập tình bạn trong sáng với nhu cầu cần có nhiều bạn bè để chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, ước mơ khát vọng… trong thời học sinh. Tình bạn rất cần thiết để giúp mỗi người trở nên tốt hơn, nhưng cũng cần có thái độ dứt khoát khước từ kiểu tình bạn đưa chúng ta sa vào những cám dỗ, cạm bẫy không cần thiết hoặc tiềm ẩn sự nguy hiểm. 19
  20. Trong tình bạn cần sự thông cảm, biết đoàn kết, yêu thương và luôn biết coi hoàn cảnh của người khác như chính mình để giúp đỡ nhau, hỗ trợ nhau vượt qua những sự cố, hoàn cảnh rắc rối đang diễn ra trong cuộc sống. Cần phải đứng vững trước những lôi kéo của bạn bè, biết bảo vệ những giá trị và niềm tin của bản thân nếu phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc việc làm sai trái của bạn bè. Phải biết dừng lại, dứt khoát không chấp nhận đối với những sai lầm của bạn, biết bảo vệ quyết định của mình, đồng thời phân tích khuyên nhủ bạn bè hành động đúng, tích cực phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Trong tình yêu: Đối với học sinh phổ thông đây, thường là tình cảm đầu đời, đó là những rung động mãnh liệt của cảm tính, ít có sự tham gia của lý trí. Vì vậy cần phải giữ gìn tình yêu trong sáng, tình yêu phải trở thành động lực tiếp thêm sức mạnh trong việc học tập rèn luyện tu dưỡng để trở nên tốt hơn. Biết cách ngăn chặn, từ chối tình yêu ích kỷ, những biểu hiện khi yêu thì xa lánh bạn bè, trốn học đi chơi, bỏ bê việc học tập, không tham gia các hoạt động tập thể… đặc biệt kiên quyết chống lại việc đi quá xa, vượt quá giới hạn cho phép, kiểu sống thử… gây hậu quả xấu và những hệ lụy khôn lường trong cuộc sống. Trong học tập: đứng trước những căng thẳng, áp lực của việc học tập các em cần phải có bản lĩnh, có nghị lực, có ý chí vươn lên, tự nhận thức điểm mạnh điểm yếu của mình để khắc phục. Khi gặp các vấn đề khó khăn cần tham khảo sách vở, trao đổi với bạn bè, hỏi thầy cô để giải quyết. Trong quá trình học tập cần chủ động nắm vững 3 cấp độ: tái hiện, thông hiểu và vận dụng. Cần bố trí thời gian hợp lý, có kế hoạch học tập và thời gian vui chơi giải trí, sinh hoạt tập thể. Trong quan hệ ứng xử với thầy cô, bạn bè và những người xung quanh cần thể hiện là người có đạo đức, có văn hóa, có lòng tin và ý thức trách nhiệm với bản thân và tư thế của người học sinh. Khi có mâu thuẫn, va chạm, bất đồng cần phải bình tĩnh, biết kiềm chế hành vi để giải quyết những xung khắc bằng thương lượng, hòa giải tránh việc giải quyết bằng bạo lực. 3.1.3. Kỹ năng thoát hiểm, kỹ năng ứng phó, ứng biến: Khi gặp các tình huống nguy hiểm cần phải biết thoát ra khỏi nơi nguy hiểm một cách an toàn và hiệu quả, những tình huống như: hỏa hoạn, bão lụt, tai nạn xảy ra thương tích, bị xâm hại hay bị bắt cóc … nhiều tình huống chưa phải là nguy hiểm nhưng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cần phải biết cách ứng xử phù hợp để hạn chế thiệt hại cho bản thân. 3.1.4. Kỹ năng làm việc nhóm, hợp tác, và chia sẻ Đây là kĩ năng rất quan trọng đối với học sinh vì thực tế hiện nay ngay cả viêc học tập các em cũng thường xuyên được giao các nhiệm vụ theo nhóm. Mỗi cá nhân 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2