intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nâng cao kĩ năng nói cho học sinh THPT thông qua tiết dạy thực hành nói nghe trong chương trình Ngữ văn 10

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:63

9
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nhằm trang bị cho các em những kiến thức cơ bản để diễn đạt, trình bày bằng ngôn ngữ một cách rõ ràng, tự tin, có khả năng hiểu đúng, biết tôn trọng người nói người nghe, có thái đọ phù hợp trong trao đổi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nâng cao kĩ năng nói cho học sinh THPT thông qua tiết dạy thực hành nói nghe trong chương trình Ngữ văn 10

  1. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGHÊ AN TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 4 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA TIẾT DẠY THỰC HÀNH NÓI NGHE TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 (BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG) LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Năm học: 2022 - 2023 1
  2. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGHÊ AN TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 4 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA TIẾT DẠY THỰC HÀNH NÓI NGHE TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 (BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG) Lĩnh vực nghiên cứu: NGỮ VĂN TÁC GIẢ Nguyễn Thị Hồng Mận - Giáo viên Ngữ văn Điện thoại: 0942 790 819 Năm học: 2022 - 2023 2
  3. MỤC LỤC MỤC LỤC.............................................................................................................................................................................3 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ.....................................................................................................................................................6 1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................6 2. Mục tiêu, ýnghĩa..............................................................................................6 2.1. Mục tiêu.......................................................................................................6 Thông qua việc áp dụng đề tài nhằm trang bị cho các em những kiến thức cơ bản để diễn đạt, trình bày bằng ngôn ngữ một cách rõ ràng, tự tin, có khả năng hiểu đúng, biết tôn trọng người nói người nghe, có thái đọ phù hợp trong trao đổi. ......................................................................................................................6 Từ thực tế nghiên cứu, tìm hiểu và giảng dạy, mỗi GV xây dựng được cho mình một số biện pháp trong dạy học tiết nói và nghemang tính ứng dụng, sáng tạokhông chỉ phát triển năng lực giao tiếp mà còn giáo dục phát triển năng lực, phẩm chất của HS................................................................................................6 4. Tínhmới........................................................................................................... 7 Đây là đề tài mới, thực sự cần thiết trong dạy học Ngữ văn hiện nay vừa đảm bảo tính khoa học vừa mang tính ứng dụng cao vừa đáp ứng đòi hỏi mang tính cập nhật của chương trình GDPT mới.................................................................7 Từ việc nâng cao kĩ năng nói giúp HS trang bị, hình thành, phát triển ngôn ngữ giao tiếp trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, đề tài còn là một kênh hữu ích cho GV dạy học Ngữ văn 10 tham khảo để lựa chọn các biện pháp nâng cao kĩ năng nói cho học sinh trong tiết dạy nói và nghe phù hợp với đối tượng HS.....7 5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................7 6.Thời gian thực hiện...........................................................................................7 PHẦN II. NỘI DUNG.........................................................................................8 1. Cơ sở lí luận.................................................................................................... 8 1.1. Mục tiêu của môn Ngữ văn theo chương trình 2018....................................8 1.2. Lí luận về dạy học phát triển năng lực, phẩm chất học sinh........................ 9 1.3. Lí thuyết về kĩ năng nói..............................................................................11 2. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................11 2.1.Thực trạng việc phát triển năng lực nói của HS tại địa phương .................11 2.2. Thực tiễn về thiết kế dạy học tiết“ Nói và nghe” ở các trường THPT hiện nay..................................................................................................................... 13 2.3. Sự cần thiết của việc nâng cao kĩ năng nói cho học sinh hiện nay.............14 3. Một số biện pháp nâng cao kĩ năng nói cho học sinh THPT thông qua tiết dạy thực hành nói nghe trong chương trình Ngữ văn 10...................................15 3
  4. 3.1.Phương pháp rèn luyện nói theo mẫu. ........................................................15 3.2. Phát huy hiệu quả tối đa của hình thức “lớp học đảo ngược” trong tiết thực hành nói nghe.................................................................................................... 17 3.3. Thiết kế những giờ học đối thoại khi tổ chức hoạt động nói nghe .......20 3. 5.Đa dạng hóa hình thức, môi trường rèn luyện kĩ năng nói ........................30 4. Giáo án thể nghiệm (Hình ảnh tiết dạy kèm theo phụ lục 1).........................37 5. Kết quả và ứng dụng......................................................................................47 5.1. Kết quả ...................................................................................................... 47 Một số minh chứng sau khi thực hiện sáng kiến ( Phụ lục 3)............................................................................51 PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ............................................................................................................................52 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................55 PHỤ LỤC..........................................................................................................56 4
  5. DANH MỤC VIẾT TẮT HS: Học sinh GV: Giáo viên THPT: Trung học phổ thông XH: xã hội TPVH: Tác phẩm văn học SGK: Sách giáo khoa GDPT: Giáo dục phổ thông 5
  6. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, thay thế cho chương trình hiện hành được ban hành năm 2006. Chương trình 2018 được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, trong đó phải kể đến năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Tuy nhiên, cho đến nay, dạy học theo định hướng phát triển năng lực nói chung, năng lực văn học nói riêng vẫn là một thử thách đối với giáo viên Ngữ văn ở trường phổ thông. Vì thế, việc tìm ra những biện pháp hướng dẫn giáo viên dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực người học, trong đó có năng lực văn học, đáp ứng yêu cầu của chương trình 2018 là điều vô cùng cần thiết. Kĩ năng nói là một trong những yêu cầu đặc biệt quan trọng trong giao tiếp. Tuy nhiên quá trình dạy học văn ở nhà trường phổ thông lâu nay đang bị bất cân xứng về việc hình thành kĩ năng này cho học sinh. Học sinh chủ yếu được rèn luyện nhiều ở mặt đọc và viết. Vì thế “nghe” và đặc biệt kĩ năng “nói” của HS còn nhiều khiếm khuyết. Hầu hết các em yếu về kĩ năng nói, thuyết trình và tranh luận. Cho nên, nhiều em trong lớp thụ động, rụt rè; ra ngoài xã hội thì khép nép thu mình vì sợ nói, sợ sai. Dạy học văn bị cho thiếu thực tiễn là vì thế. Việc phát triển kĩ năng nói là một yêu cầu quan trọng của đổi mới giáo dục môn Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất của người học trong chương trình giáo dục 2018. Tuy nhiên, thực tế trong quá trình thực hiện hoạt động nói trong dạy học Ngữ văn 10 tại trường THPT chưa thực sự đạt hiệu quả. Nhìn chung khi đối diện với chương trình dạy học mới đa số GV đều có sự băn khoăn, bỡ ngỡ nhất định khi tổ chức dạy học đặc biệt các tiết dạy nói và nghe. Về phía HS các em khá thụ động khi tiếp cận hoạt động này, hầu hết chỉ chú trọng vào đối phó hoặc mang tính hình thức mà chưa đi vào thực chất. Xuất phát từ những thực tế trên tôi lựa chọn giải pháp “Một số biện pháp nâng cao kĩ năng nói cho học sinh THPT thông qua tiết dạy thực hành nói nghe trong chương trình Ngữ văn 10”để nghiên cứu và thực hiện trong quá trình giảng dạy. 2. Mục tiêu, ýnghĩa 2.1. Mục tiêu Thông qua việc áp dụng đề tài nhằm trang bị cho các em những kiến thức cơ bản để diễn đạt, trình bày bằng ngôn ngữ một cách rõ ràng, tự tin, có khả năng hiểu đúng, biết tôn trọng người nói người nghe, có thái đọ phù hợp trong trao đổi. Từ thực tế nghiên cứu, tìm hiểu và giảng dạy, mỗi GV xây dựng được cho mình một số biện pháp trong dạy học tiết nói và nghemang tính ứng dụng, sáng tạokhông chỉ phát triển năng lực giao tiếp mà còn giáo dục phát triển năng lực, phẩm chất của HS. 6
  7. 2.2. Ýnghĩa Quá trình nghiên cứu, thực nghiệm đề tài,để đề xuất các biện pháp trong dạy học các tiết nói và nghe theo hướng phát triển năng lực trong dạy học môn Ngữ văn 10. Các biện pháp đề xuất trong đề tài là một trong kinh nghiệm hữu ích cho bản thân cũng như đồng nghiệp trong quá trình tiếp cận giảng dạy chương trình mới cụ thể là các tiết thực hành Nói và nghe. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Học sinh khối 10 tại trường THPT Nghi Lộc 4. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Một số biện pháp nâng cao năng lực nói khi dạy học các tiết Nói và Nghe trong chương trình Ngữ văn 10 THPT ( Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống) 4. Tínhmới Đây là đề tài mới, thực sự cần thiết trong dạy học Ngữ văn hiện nay vừa đảm bảo tính khoa học vừa mang tính ứng dụng cao vừa đáp ứng đòi hỏi mang tính cập nhật của chương trình GDPT mới. Từ việc nâng cao kĩ năng nói giúp HS trang bị, hình thành, phát triển ngôn ngữ giao tiếp trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, đề tài còn là một kênh hữu ích cho GV dạy học Ngữ văn 10 tham khảo để lựa chọn các biện pháp nâng cao kĩ năng nói cho học sinh trong tiết dạy nói và nghe phù hợp với đối tượng HS. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp khảo sát và thu thập, thống kêthông tin - Phương pháp phân tích, phân loại áp dụng trong việc giải quyết các tình huống sư phạm. - Phương pháp thể nghiệm. - Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ sự tiến bộ. 6.Thời gian thực hiện Thời gian thực hiện đề tài năm học 2022 - 2023. 7
  8. PHẦN II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 1.1. Mục tiêu của môn Ngữ văn theo chương trình 2018 Chương trình GDPT 2018 chuyển hướng hoàn toàn từ chương trình coi trọng truyền đạt kiến thức sang chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực, lấy các kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết làm trục chính. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình dạy học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp học. Ở cấp THPT, Chương trình định hướng người dạy tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở cấp trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: Nói và nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp… Chương trình GDPT 2018 quy định cụ thể về các kĩ năng cần đạt trong học tập nói và nghe ở cấp phổ thông như sau: Kĩ năng nói yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục, cách diễn đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện hỗ trợ khi nói,...; Kĩ năng nghe yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,… Đề cao mục tiêu hình thành và phát triển năng lực ngữ văn, mà trước hết là năng lực giao tiếp với việc sử dụng thành thạo 4 kỹ năng cơ bản: đọc, viết, nghe, nói. Sau đó mới là các kỹ năng khác… Môn Ngữ văn vừa là môn khoa học, vừa là môn công cụ nên việc xác đinh phương pháp dạy học gắn với đặc trưng bộ môn và đạt được mục tiêu của môn học là việc làm hết sức cần thiết. Dạy học Ngữ văn theo quan điểm giao tiếp là một trong những định hướng quan trọng. Hiện nay nhiều nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người đọc. Nếu như nghe và đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin thì nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin. Cả bốn kĩ năng năng này đều cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Đặc biệt, với việc dạy học gắn liền với quan điểm giao tiếp 3 như vừa nêu trên thì việc rèn luyện kĩ năng nói và viết càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen nói trong những môi trường giao tiếp khác nhau. Trong chương trình Ngữ văn THPT, nói và nghe được thực hiện một cách hệ thống, theo những chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (lời văn, liên kết, quy tắc hội thoại, cử chỉ, điệu bộ, âm lượng...). Nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp hữu hiệu trong cuộc sống. Trong chương trình ngữ văn THPT, bên cạnh việc rèn luyện cho học sinh văn viết, vấn đề song song cùng tồn tại là rèn luyện cho học sinh văn nói. Trong thao tác tư duy của con 8
  9. người, có nói chuẩn, dùng từ chuẩn, câu chuẩn thì mới dẫn tới viết chuẩn, viết đúng và viết hay. Như vậy, từ nói đến viết là quá trình phải được thực hiện một cách nhuần nhuyễn. Có những học sinh mặc dù viết tốt song khi đứng trước đám đông lại nói năng lúng túng, vấn đề rời rạc, tư thế tác phong không đĩnh đạc. Xã hội càng phát triển, nhu cầu nói, thuyết trình trước một đám đông càng được chú ý. Như vậy có thể đặt ra vấn đề ở đây là cần rèn tốt cho học sinh khâu luyện nói trên lớp để tiến tới viết văn thành công. 1.2. Lí luận về dạy học phát triển năng lực, phẩm chất học sinh Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo của Đảng (tháng 9/2013) đã mở ra một thời kì mới cho việc dạy – học trong trường phổ thông ở nước ta: nhấn mạnh đến việc phát triển năng lực của người học hơn là cung cấp tri thức cho họ. Một trong năm quan điểm xây dựng chương trình môn học Ngữ văn theo định hướng năng lực được xác định là “lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học. Ngữ văn là môn học được tích hợp từ ba phân môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn, gồm hai phần ngữ và văn gắn bó với nhau, bởi "ngôn ngữ là chất liệu làm nên văn học và văn học chính là nghệ thuật của ngôn ngữ". Là môn học tích hợp, nhưng về cơ bản nó vẫn là môn học nghệ thuật (Văn vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất), đồng thời nó lại là môn học thực hành (Tập làm văn được học bài bản và hệ thống). Trên đại thể, có thể xem Ngữ văn là môn học về Cái Đẹp với hai khâu liên hoàn: cảm thụ Cái Đẹp trong văn chương (Văn), ngôn ngữ (Tiếng Việt) để tạo lập ra Cái Đẹp trong văn bản nói và viết (Tập làm văn). Đó chính là sợi dây liên kết gắn bó giữa môn học nghệ thuật và môn học thực hành trong môn Ngữ văn với hai hoạt động chủ yếu: đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Như vậy, với những đặc trưng trên đây, môn Ngữ văn sẽ hình thành và phát triển hai năng lực quan trọng cho thế hệ trẻ: năng lực thẩm mĩ và năng lực ngôn ngữ. Năng lực thẩm mĩ là năng lực khám phá cái đẹp trong văn chương và trong tiếng Việt để thưởng thức chúng; còn năng lực ngôn ngữ là năng lực làm chủ được tiếng Việt, biết sử dụng tiếng Việt một cách thuần thục để tạo lập văn bản (nói và viết) giúp cho việc diễn đạt, giao tiếp đạt hiệu quả. Hai năng lực này không tách rời nhau, mà có mối quan hệ gắn bó, tương hỗ để cùng phát triển… Năng lực ngôn ngữ của học sinh trung học gồm ba năng lực chủ yếu sau đây: năng lực làm chủ ngôn ngữ (tiếng Việt); năng lực sử dụng ngôn ngữ (tiếng Việt) để giao tiếp; năng lực sử dụng ngôn ngữ (tiếng Việt) để tạo lập văn bản. Năng lực làm chủ ngôn ngữ đòi hỏi học sinh phải có một vốn từ ngữ nhất định, hiểu và cảm nhận được sự giàu đẹp của tiếng Việt, nắm được các quy tắc về từ ngữ, ngữ pháp, chính tả để sử dụng tốt tiếng Việt. Năng lực giao tiếp ngôn ngữ đòi hỏi học sinh phải biết sử dụng thuần thục tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) để giao tiếp trong nhiều tình huống khác nhau với những đối tượng khác nhau trong gia đình, nhà trường và xã hội. Năng lực sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản là một năng lực đặc trưng rất quan trọng của năng lực ngôn ngữ học sinh trong nhà 9
  10. trường. 10
  11. 1.3. Lí thuyết về kĩ năng nói Kĩ năng nói là kĩ năng dùng âm thanh để diễn tả ý nghĩ, ý kiến, lời nói của mình nhằm mục đích bày tỏ ý kiến, trò chuyện, giao tiếp với người nghe. Thông qua cuộc trò chuyện người nói với người nghe trao đổi thông tin lẫn nhau. Theo Florez, nói là một quá trình tương tác mà người học sản sinh thông tin và tiếp nhận thông tin để tạo ra ý nghĩa. Theo Thornbury, nói bằng ngôn ngữ thứ hai khác với nói bằng ngôn ngữ mẹ đẻ do người học thiếu vốn từ vựng và kiến thức ngữ pháp; quá trình sắp xếp ngữ pháp và các từ không tự động trong việc tạo ra ngôn ngữ thứ hai. Harmer đã nói rằng nói có nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm hai loại chính, cụ thể là tính chính xác và lưu loát. Độ chính xác là sự tương ứng giữa lời nói của người học và những gì họ thực sự nói khi sử dụng ngôn ngữ đích và việc sử dụng chính xác từ vựng, ngữ pháp, cách phát âm được thực hiện thông qua các hoạt động có hướng dẫn. Lưu loát là khả năng duy trì nói một cách tự tin, ít có sự do dự hay tạm dừng không tự nhiên, hoặc phải tìm kiếm từ (Bailey). Vì vậy năng lực nói sẽ xảy ra khi người nói có khả năng giao tiếp bằng cách trao đổi thông tin một cách chính xác và trôi chảy với cách lựa chọn và sử dụng từ vựng và cấu trúc phù hợp. Nói là khả năng thể hiện một điều gì đó bằng cách sắp xếp ý tưởng thành lời để mọi người hiểu được thông điệp được truyền tải; là khả năng thực hiện kiến thức ngôn ngữ trong giao tiếp thực tế để thể hiện ý tưởng, cảm giác, suy nghĩ và nhu cầu của một người. Trong bất kỳ thời đại nào, xã hội nào nói chuyện vẫn luôn là một kỹ năng rất quan trọng giúp mọi người có được thành công và tạo các mối quan hệ tốt trong công việc cũng như cuộc sống. Kĩ năng giao tiếp là một tổng thể gồm có: lời nói; các cử chỉ, hành động như: ánh mắt, nụ cười; khả năng thuyết trình, cách đặt câu hỏi và lắng nghe người khác nói chuyện,...Kỹ năng nói là một trong những điểm quan trọng nhất trong quá trình nói chuyện, những câu từ, giọng điệu cách ngắt nghỉ,...sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc giao tiếp. Vai trò của kỹ năng nói trong giao tiếp: Rèn luyện kỹ năng nói giúp bạn đảm bảo người nghe sẽ hiểu đúng nội dung mình truyền tải, không gây hiểu lầm hay căng thẳng cho cuộc trò chuyện. Kỹ năng nói cho phép người nói truyền tải được thông điệp của mình thuyết phục nhất dễ dàng thuyết phục đối phương,tạo sự hấp dẫn với đối tượng nghe truyền tải một cách ngắn gọn xúc tích,... Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là việc làm thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng trong dạy học Ngữ văn nói riêng trong việc hình thành phong cách cho học sinh nói chung. Vì thế việc rèn luyện kĩ năng nói là việc làm cần thiết để các em mạnh dạn trước tập thể, có kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1.Thực trạng việc phát triển năng lực nói của HS tại địa phương 2.1.1. Một số điểm mạnh trong phát triển năng lực nói Mục tiêu của chương trình giáo dục mới: Việc phát triển kĩ năng nói cho HS 11
  12. không còn là vấn đề tự phát liên quan đến kinh nghiệm và nguyên tắc dạy học của mỗi giáo viên. Nếu như trước đây mỗi GV chỉ quan tâm đến việc viết hoặc việc đọc của HS và xem đó là yêu cầu chính, thì nay ngoài phát triển kĩ năng đó thì một trong những yêu cầu mục tiêu của chương trình giáo dục mới quan tâm và đưa vào xây dựng thành mục tiêu của môn học là phát triển kĩ năng nói và nghe cho HS. Với điểm mới trong chương trình này, việc dạy học sẽ tạo được một sự thống nhất trong việc rèn luyện kĩ năng nói cho HS. Sự hưởng ứng của giáo viên và học sinh: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, mỗi GV đều trăn trở về nội dung, phương pháp của mình để bắt nhịp với yêu cầu của thời đại. Vì thế việc phát triển kĩ năng nói được mỗi GV môn Ngữ văn hưởng ứng. Trên cơ sở khảo sát thực tế tại địa phương, cơ sở giảng dạy cho thấy không chỉ GV hưởng ứng mà còn có sự đồng tình về của cả HS và phụ huynh. Xưa nay, việc dạy học môn Văn chỉ nghiêng về kĩ năng viết, nên một số học sinh dù viết, cảm nhận rất tốt song vẫn không thể tự diễn đạt một cách rõ ràng trước đám đông và không thể khẳng định tiếng nói, vị trí của mình trong xã hội. Đa số các em đều muốn thể hiện suy nghĩ, nhận thức và cảm nhận của riêng mình. Tuy nhiên nói như thế nào, làm sao có thể nói, cách bắt đầu, triển khai và cần có điều gì trong khi nói để thuyết phục người khác là điều các em chưa thể nắm bắt. Vì thế rèn luyện kĩ năng nói là nhu cầu tha thiết của học sinh ngay trên ghế nhà trường. Việc phát triển kĩ năng và năng lực cho HS là vấn đề quan trọng đầu tiên tại các trường học, vì thế ngoài việc đảm bảo yêu cầu về kiến thức các trường phổ thông tăng cường các hoạt trải nghiệm được tổ chức thường xuyên. Việc phát triển các hoạt động này làm tăng cơ hội giao lưu, học hỏi và đặc biệt là năng lực giao tiếp. Trong chuỗi các hoạt động sôi nổi, bổ ích vừa phát triển các kĩ năng mềm cho HS đồng thời tăng cường cơ hội để rèn luyện kĩ năng nói, giao tiếp cho HS. 2.1.2. Những khó khăn và hạn chế Những hạn chế của phương ngữ Nghi Lộc mà đặc biệt là học sinh các vùng trong trường đã gây không ít khó khăn trở ngại khi giao tiếp. Xuất phát từ vị trí địa lí của trường xây dựng, hầu hết HS thuộc vùng ven biển của vùng Nghi Lộc, các em chịu ảnh hưởng của việc sử dụng từ, cách phát âm địa phương, trong đó phải kế đến HS các xã như Nghi Quang, Nghi Ân, Nghi Long...Ngôn ngữ các em nhiều khi không phân biệt thanh sắc và thanh ngang, thanh hỏi; trong khi thanh ngã và thanh nặng lại rất giống nhau. Thậm chí nhiều địa phương lại có ngữ điệu phát âm rất nặng, rất cao, rất lạ gây nhiều bỡ ngỡ, tò mò cho người nghe. Cách phát âm còn bị lẫn lộn giữa dấu câu, vần trở thành một hạn chế khiến các em dè dặt trong giao tiếp và đặc biệt là nói, thuyết trình. Năng lực nói không đồng đều ở các nhóm học sinh. Một thực tế cho thấy ngay trong mỗi lớp học, nhóm HS khả năng nói hoàn toàn khác nhau. Theo thống kê khảo sát thực tế từ các lớp dạy cho thấy, một số nhỏ các em có nói tốt, tự tin và còn có khả năng thuyết trình trong mọi tình huống. Nhưng Đa số các em còn chưa tự tin, rụt rè, e ngại không dám nói, thậm chí không thể nói trước tập thể, trước 12
  13. đám đông. Một thực tế gây nhiều khó khăn trong việc dạy học nói nghe cho GV là việc tồn tại nhiều học sinh còn rụt rè, tự ti không dám thể hiện trước đám đông. Việc kiểm tra đánh giá đối với môn học xưa nay là kiểm tra viết, hầu hết các em đều vượt qua kể cả đối với những học sinh giao tiếp yếu. Tuy nhiên khi đưa nói và nghe vào chương trình thực sự là một thử thách đối với những em này. Không tự tin, không dám nói đã gây cán trở lớn đối với những HS này. Đặc biệt trong quá trình giảng dạy bản thân tôi nhận thấy có những trường hợp hi hữu đó là những học sinh không nói được ý nào khi được chỉ định phát biểu quan điểm của bản thân. Hạn chế này nguyên nhân thuộc cả về kiến thức thức lẫn kĩ năng. Về kiến thức rõ ràng đây là những trường hợp chưa nắm được nội dung chủ đề cần trình bày. Về kĩ năng hạn chế này còn thuộc về cách dùng từ, diễn đạt tâm lí cũng như những phán ứng thuộc về giao tiếp thường ngày. 2.2. Thực tiễn về thiết kế dạy học tiết“ Nói và nghe” ở các trường THPT hiện nay 2.2.1. Thuận lợi Việc phát triển nói nghe cho học sinh là một trong mục tiêu của dạy học, vì thế phát triển kĩ năng nói được mỗi giáo viên xác định là yêu cầu trọng tâm trong dạy học. Tất cả giáo viên đều được tập huấn chương trình mới. Trong quá trình triển khai được sự quan tâm chia sẻ của ban chuyên môn cũng như đồng nghiệp qua các buổi sinh hoạt chuyên đề của tổ chuyên môn, sinh hoạt chuyên môn của các trường trong cụm. Một trong những thuận lợi phải kể đến đó là nội dung chương trình. Các chủ đề nói và nghe đều là các chủ đề nói thiết thực, gắn liền với các vấn đề của đời sống và văn học tạo được hứng thú từ phía người dạy lẫn người học. Đây là những chủ đề thiết thực huy động được những hiểu biết, năng lực cũng như sự thích thú của HS. 2.2.2. Khó khăn Dạy học nói và nghe là một trong những nội dung mới lần đầu tiên đưa vào chương trình Ngữ văn THPT khiến cho giáo viên không tránh khỏi bỡ ngỡ và gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và tiến hành tổ chức tiết dạy. Nhiều giáo viên có chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh song còn lúng túng trong khâu soạn giảng cũng như qui trình các hoạt động lên lớp. Trong lúc đó tài liệu nghiên cứu, các bài giảng để tham khảo hầu như không có. Về phía học sinh, hầu hết các em mới chỉ được rèn luyện phần viết là chủ yếu, vì thế có nhiều em chưa có kiến thức tối thiếu trong khi trình bày trước đám đông. Vốn kĩ năng trang bị để nói của học sinh còn rất hạn chế. Cùng với đó là những hạn chế của phương ngữ địa phương trở thành một trở ngại lớn trong quá trình giao 13
  14. tiếp. Về thời lượng chương trình, mỗi bài được bố trí một tiết nói nghe, thời lượng để rèn luyện cho cả lớp mới chỉ đáp ứng được những vấn đề cơ bản, chưa có thời gian để rèn luyện chuyên sâu cho mỗi cá nhân. Về cách tổ chức GV lúng túng về phương pháp và cách thức tổ chức cho HS luyện kĩ năng nghe-nói. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và kĩ năng nghe – nói của HS chưa tốt. Đa số GV không quan tâm nhiều đến vấn đề luyện kĩ năng nghe – nói cho HS. GV thường bị phụ thuộc vào những câu hỏi gợi ý trong SGK và yêu cầu HS tự chuẩn bị trước. Bên cạnh đó, GV có tâm lí ngại chuẩn bị đồ dùng học tập, chưa chủ động sử dụng phương pháp dạy học tích cực hóa vai trò của học sinh trong hoạt động, chưa hấp dẫn được sự chú ý của HS đầu cấp tiểu học 2.2.3. Nguyên nhân Mỗi giáo viên đều được tập huấn, song thời lượng là không nhiều trong lúc kiến thức đưa vào là hoàn toàn mới. Kinh nghiệm cho việc giảng dạy chương trình hầu như là không có, vì thế mỗi giáo viên đều tự tìm tòi để triển khai. Thực tế giảng dạy tại đơn vị cơ sở tôi nhận thấy chất lượng học sinh không đồng đều. Trong một lớp học đại trà, số học sinh học khá, giỏi môn, tích cực tham giavào các hoạt động học tập còn chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn. Bên cạnh đó, còn nhiều học sinh thiếu cố gắng trong học tập, thụ động trong việc tiếp thu kiến thức, hạn chế cả kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Các em rất ngại nói trong giờ học, có tâm lý ngượng ngùng, dè dặt, sợ mình nói sai về khả năng diễn đạt, thậm chí có những học sinh thuộc vào diện “không hợp tác” trong các tiết học. Bên cạnh đó hạn chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến học sinh thiếu sự đa dạng, linh hoạt trongviệc thực hiện các chủ đề, hình thức nói năng. Cùng với sự phát triển của thời đại công nghệ, nhiều HS bị cuốn hút vào các trò chơi hiện đại như game, chat,... khiến vốn từ vựng không được bổ sung. Lối sống hiện đại, công việc tất bật... khiến nhiều phụ huynh không có thời gian giao tiếp, chuyện trò với con em mình nên tạo điều kiện cho các em dần dần khép kín, ngại nói năng, giao tiếp, có thái độ tự kỷ. Quy mô mỗi lớp học đông nên giáo viên ít có thời gian rèn luyện kĩ năng nói cho từng HS. Một bộ phận giáo viên chú trọng rèn luyện kỹ năng viết, chưa có phương pháp linh hoạt, sáng tạo để động viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho HS luyện nói hiệu quả. Chương trình Ngữ văn THPT hiện hành đã chú ý đến việc rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, nhưng thời lượng quá ít, lại không yêu cầu kiểm tra đánh giá rèn luyện kĩ năng nói… 2.3. Sự cần thiết của việc nâng cao kĩ năng nói cho học sinh hiện nay Nhà tỷ phú người Mỹ đã nói rằng: “Với một số người nó là tài sản quý giá,nhưng với những ai không có khả năng thì nó là một gánh nặng thực sự. Khả năng diễn thuyết tốt trước mọi người có thể giúp công việc của bạn phát triển tới 14
  15. 50 hay 60 năm”.Xuất phát từ thực tế nhu cầu phát triển của đời sống. Trong gia đình cũng như trong xã hội, mọi cá nhân cũng cần trang bị cho mình bộ kỹ năng giao tiếp. Trong giao tiếp để hiệu quả đòi hỏi mỗi người phải biết lắng nghe tốt, biết truyền tải thông điệp đến với nhau mới đảm bảo cuộc sống vui vẻ hạnh phúc. Con cái cần kỹ năng giao tiếp để thấu hiểu tâm lý và có thể giao tiếp cởi mở, dễ dàng chia sẻ cảm xúc với ông bà cha mẹ. Ngược lại người lớn cũng phải có kỹ năng giao tiếp để có thể lắng nghe con cái, chia sẻ những suy nghĩ của thế hệ trẻ. Trong cuộc sống cũng còn có nhiều người cảm thấy lạc lõng giữa những mối quan hệ, cảm thấy khó khăn khi mở đầu câu chuyện, hay bế tắc khi tìm hướng triển khai cho cuộc trò chuyện bị ngắt quãng. Đó là vì bạn chưa nắm được những bí quyết trong kỹ năng giao tiếp hằng ngày. Có người hướng nội, có người hướng ngoại, nhưng có một điều người hướng nội chưa chắc giao tiếp kém và người hướng ngoại cũng không hẳn là người giao tiếp giỏi. Người giao tiếp hiệu quả và thành công là những người sử dụng và thực hành kỹ năng giao tiếp một cách thuần thục nhất. Vì thế phát triển kĩ năng nói trở thành nhu cầu rất cấp thiết của con người nói chung và HS nói riêng đời sống hiện nay. Thực tế cho thấy nhu cầu phát triển năng lực nói ở học sinh tại vùng miền của là rất lớn . Bên cạnh nhu cầu học tập nâng cao kiến thức, học sinh cũng có nhu cầu bộc lộ bản thân. Theo khảo sát điều tra cho thấy các em HS đều trả lời, việc phát triển kĩ năng nói là biện phát rất cấp thiết. Có thể thấy đó là mong muốn được thể hiện mình trước thầy cô và bạn bè, muốn chứng minh khả năng, sự tiến bộ của mình. Như vậy, nhu cầu bộc lộ làm tiền đề cho khát vọng thể hiện bản thân của học sinh là cơ sở quan trọng để phát huy hết khả năng học tập. Với HS tại địa bàn Nghi Lộc, để hạn chế các yếu tố phương ngữ địa phương, để tự tin và thuyết phục trong giao tiếp thì việc trang bị, nâng cao kĩ năng nói trở thành nhu cầu nội tại cần thiết của mỗi HS. 3. Một số biện pháp nâng cao kĩ năng nói cho học sinh THPT thông qua tiết dạy thực hành nói nghe trong chương trình Ngữ văn 10 3.1.Phương pháp rèn luyện nói theo mẫu. 3.1.1. Các nguyên tắc khi áp dụng phương pháp rèn luyện nói theo mẫu Rèn luyện theo mẫu là một phương pháp được áp dụng rộng rãi trong giáo dục ngôn ngữ nói chung và dạy học tiếng Việt nói riêng. Thực chất của quá trình học tiếng là một quá trình bắt chước có ý thức nên phương pháp này được áp dụng tốt cho việc rèn luyện kĩ năng nói. Mẫu ngôn ngữ là những sản phẩm ngôn ngữ đạt đến trình độ chuẩn mực có thể làm mẫu cho người kháchọc tập, mô phỏng, bắt chước nói theo. Trong quá trình phát triển kĩ năng nói cho HS, việc rèn luện theo mẫu là một trong những biện pháp quan trọng. Mẫu nói phải đảm bảo các yêu cầu về chuẩn Tiếng Việt, từ phát âm, ngữ điệu đến cách dùng từ, đặt câu phù hợp. Mẫu phải đúng với đặc trưng ngôn ngữ cũng 15
  16. như vấn đề đang bàn luận. Mẫu phải đạt được sự phối hợp của các yếu tố phi ngôn ngữ tham gia giao tiếp như tác phong, cử chỉ, ánh mắt, điệu bộ... 3.1.2. Một số nội dung rèn luyện nói theo mẫu Hình thức thứ nhất: Giáo viên trình bày mẫu Ngôn ngữ là công cụ chung của người giáo viên. Tuy nhiên, đối với giáo viên Ngữ văn, tiếng Việt không chỉ là phương tiện dạy học, mà còn là tri thức cần nắm vững và vận dụng linh hoạt, sáng tạo. Nó cho thấy, năng lực ngôn ngữ phải là năng lực đặc thù của người giáo viên Ngữ văn. Năng lực này thể niện ở khả năng nói, đối thoại và tổ chức đối thoại. Một trong những “công cụ” chủ yếu của giáo viên là lời nói. Công cụ này có sắc bén thì dạy học mới có hiệu quả, đặc biệt là đối với môn Ngữ văn. Dù lấy học sinh làm chủ thể, dù coi trọng tính tích cực, chủ động của học sinh đến đâu cũng không thể hình dung một giờ dạy học lại có thể thiếu sự điều hành của giáo viên thông qua phương tiện ngôn ngữ. Giáo viên cần ý thức được khả năng nói của mình để có hướng tự học tập, bồi dưỡng. Mỗi lời nói của GV không chỉ cần đến chuẩn mực trong nội dung, trong cách trình bày, giới thiệu mà cần chuẩn mực trong âm lượng, nhịp điệu lời nói. Tất cả phải phù hợp với từng kiểu bài học, lời nói có sức thu hút, giàu tính biểu cảm, khắc phục tình trạng dùng đặc thổ âm, phương ngữ để đáp ứng những chuẩn mực của ngôn ngữ văn hóa trong dạy học... Để làm mẫu cho hoạt động nói của mình yêu cầu mỗi GV phải có sự chuẩn bị chu đáo từ nội dung chủ đề. Chẳng hạn khi dạy tiết nói nghe thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen, GV cần chọn một thói quen gần gũi mà HS thường làm như ăn quà vặt trong lớp học. Để bắt đầu GV cần có sự giới thiệu bằng các hình ảnh, video, để thuyết phục HS, GV cần có sự đánh giá đa chiều. Không chỉ sử dụng hình ảnh GV cần chú ý đến ngữ điệu, ánh mắt, quan sát kể cả thay đổi sắc điệu trong lời nói của mình... Hình thức thứ hai: Sử dụng Video thuyết trình (nói) mẫu, qua ghi âm, phim ảnh, thông tin mạng,... Thuyết trình được sử dụng: “Mọi lúc, mọi nơi, suốt đời, cho mọi người, cho chính mình”. Vì thế các cuộc thi, những sự kiện quan trọng đều đặc biệt chú ý đến phần thuyết trình, tất cả đều được lưu lại được lan truyền qua các kênh video, tư liệu hình ảnh khác nhau. Việc sử dụng video làm công cụ hỗtrợ trong việc rèn luyện kĩ năng nói là một hình thức vừa khả quan, tiện ích và phù hợp với hầu hết các trường học. Ngoài ra trong quá trình trình chiếu GV có thể phân tích trên mẫu nói cụ thể từ ngôn từ, giọng điệu đến yếu tố phi ngôn ngữ. Đặc biệt hơn đối với video mẫu HS vẫn có thể tiếp tục theo dõi thêm ở nhà. Một số hình thức thuyết trình GV có thể sử dụng để làm mẫu trong khi luyện nói cho HS như: Bài thuyết trình của các diễn giả, bài thuyết trình trong các cuộc thi, phần nói của hướng dẫn viên du lịch, lời dẫn chương trình của các phát thanh viên hay MC nổi tiếng.... 16
  17. Những lưu ý khi sử dụng video, ghi âm hay phim ảnh: Nội dung cần trong sáng lành mạnh, phù hợp với chủ đề và lứa tuổi, có thời gian hợp lí. Hình thức thứ ba: Học sinh trình bày mẫu Việc HS trình bày mẫu là một yêu cầu khó khăn nhưng mang lại hiệu quả thực hành cao và đặc biệt phát huy được năng lực của HS. Đây là hình thức GV cử một vài HS có khả năng nói tốt, có kĩ năng thuyết trình để trình bày trước lớp. Việc làm này đòi hỏi HS phải có sự chuẩn bị chu đáo không chỉ về kĩ năng diễn đạt, về phong thái, giọng điệu mà còn có các yếu tố phụ trợ để làm tăng sức thuyết phục cho lời nói của mình. Công việc này đòi hỏi GV phải chọn lựa được những HS có tố chất, năng lực và có kĩ năng trình bày. 3.1.3. Các bước tiến hành rèn luyện nói theo mẫu - Bước 1: Lựa chọn và trình bày bài nói mẫu mẫu theo chủ đề bài nói nghe - Bước 2: Phân tích yêu cầu đặc điểm của bài nói - Bước 3: Thực hành mô phỏng sáng tạo từ mẫu để tạo ra lời nói của chính bản thân mình - Bước 4: Kiểm tra, đánh giá và rút kinh nghiệm 3.1.4. Những lưu ý khi nói theo mẫu - Mẫu đưa ra phải đúng chuẩn: Về ngôn ngữ, nội dung và hình thức trình bày. - Phải đặt ra thời gian cho việc thực hiện mẫu để dành thời gian cho việc thực hành theo mẫu - Khuyến khích sự sáng tạo của mỗi cá nhân, tránh rập khuôn cứng nhắc khi thực hiện và đánh giá. 3.2. Phát huy hiệu quả tối đa của hình thức “lớp học đảo ngược” trong tiết thực hành nói nghe 3.2.1. Những ưu điểm của hình thức “Lớp học đảo ngược” trong việc hình thành kĩ năng nói cho học sinh. Lớp học đảo ngược là chiến lược giảng dạy và đồng thời là một kiểu học kết hợp giữa dạy học trực tiếp và dạy học trực tuyến. Mô hình lớp học này trái ngược hoàn toàn với môi trường giảng dạy truyền thống do nội dung giảng dạy thường được diễn ra trực tuyến và bên ngoài lớp học. Khác với cách giảng dạy truyền thống khi mà bài tập được tiến hành tại nhà, lớp học đảo ngược lại đem bài tập vào trong lớp học. Với mô hình lớp học truyền thống, người học được nghe giảng bài, sau đó làm các bài tập thực hành tại lớp hoặc tại nhà để xử lý thông tin và lĩnh hội tri thức. Ngược lại, đối với lớp học đảo ngược, người học sẽ phải tự làm việc với bài giảng trước thông qua đọc tài liệu, xem các video, nghe giảng thông qua các phương tiện hỗ trợ như băng hình, trình chiếu PowperPoint và khai thác tài nguyên trên mạng. 17
  18. Thời gian tại lớp sẽ dành cho các hoạt động giải bài tập, ứng dụng lí thuyết bài giảng vào giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm để xây dựng. Với tiết học rèn luyện kĩ năng nói phần chú trọng hơn chính là phần thực hành. Thông qua phần thực hành mỗi học sinh có cơ hội để nói, để thảo luận, để thuyết trình phần chuẩn bị của mình. Vì thế việc áp dụng hình thức lớp học đảo ngược trong việc rèn luyện kĩ năng nói trong tiết dạy “nói và nghe” có ưu điểm rất lớn. Đây là phương pháp tối ưu nhất rèn luyện kĩ năng nói cho đối tượng học sinh còn rụt rè, chưa mạnh dạn cũng như khả năng nói trước đám đông còn hạn chế. Với mô hình lớp học đảo ngược, giáo viên tạo điều kiện cho các hoạt động hợp tác theo nhóm như: Thiết lập dự án, tăng thời gian tương tác giữa những người học làm cho học sinh sáng tạo hơn và hợp tác hơn. Thông qua các hoạt động tương tác, khả năng giao tiếp của học sinh sẽ được cải thiện theo thời gian bởi việc học cần có sự thẩm thấu và trải nghiệm để thấm. Lớp học đảo ngược cho phép thực hành các hoạt động mang tính sáng tạo, hoạt động viết, so sánh và đánh giá, nhất là các hoạt động biểu đạt bằng lời nói khi cùng làm việc nhóm và nhờ thế khả năng giao tiếp được cải thiện. Những học sinh còn rụt rè, chưa mạnh dạn nói trước tập thể thì thông qua việc nắm kiến thức, chuẩn bị nội dung chủ đề đã chọn mỗi em có thể tự quay lại bài nói của mình trước khi đến lớp. Mô hình lớp học đảo ngược tạo ra môi trường học tập linh hoạt học sinh được lựa chọn cách thức, thời gian, địa điểm học tập phù hợp với mình, giáo viên linh hoạt trong đánh giá, đánh giá quá trình và đánh giá kết quả. Thời gian dành cho học sinh nhiều hơn trong lớp nên có thể sử dụng nhiều phương pháp tích cực hóa hoạt động người học như hoạt động nhóm, giải quyết vấn đề, trải nghiệm, tương tác, cá nhân hóa… để nghiên cứu vấn đề sâu sắc hơn. Nội dung dạy học được giáo viên thiết kế có định hướng nhằm giúp học sinh có thể tự nghiên cứu trong thời gian ngoài lớp học một cách cụ thể, rõ ràng. Học sinh hứng thú tham gia học tập theo mô hình lớp học đảo ngược. Đặc biệt giai đoạn trong giờ học học sinh tích cực trình bày ý kiến cá nhân của mình, tranh luận, tương tác với giáo viên và học sinh để tìm ra tri thức cho bản thân. Với mô hình này nhờ vào phương tiện lưu trữ bằng công nghệ thông tin, bài giảng có thể tái sử dụng dễ dàng, đặc biệt học sinh có thể nghe, xem nhiều lần cho đến khi hiểu bài. Vì vậy, mô hình này tạo cơ hội bình đẳng về tiếp nhận thông tin kiến thức. Những học sinh tiếp thu chậm có nhiều cơ hội để tiêu hóa kiến thức. Học sinh không phải lo lắng về áp lực phải hoàn thành bài tập vì họ có nhiều thời gian để thảo luận và làm bài trên lớp. Đây cũng là cơ hội để mỗi cá nhân có thời quan trình bày quan điểm cũng như tranh luận, bảo vệ quan điểm của mình trước tập thể. Chính điều này tăng phát triển kĩ năng nói cho học sinh nhiều hơn. 3.2.2. Một số hình thức tổ chức của giáo viên trong việc phát triển kĩ năng nói Trong quá trình thực hiện tiết dạy nói và nghe mang lại hiệu quả cao, chúng ta có thể sử dụng một số hình thức sau để tăng cường thời gian rèn luyện kĩ năng nói. Hình thức thứ 1: Lớp học đảo ngược thông thường 18
  19. Lớp học đảo ngược căn bản: Học sinh được giao “bài tập về nhà” là xem video các giờ giảng và đọc bất cứ tài liệu nào liên quan đến buổi học ngày hôm sau. Đối với các tiết thực hành Nói và ngheGV gửi nội dung bài học phần lí thuyết bao gồm những yêu cầu về việc chuẩn bị thảo luận, chuẩn bị nói, nghe, cách thảo luận cũng như các cách đánh giá...để HS tìm hiểu trước ở nhà. Ngoài ra để tiết thực hành hiệu quả GV giao trước chủ đề để HS tìm hiểu, chuẩn bị trước ở nhà. Hình thức này vừa giúp các em nắm được lí thuyết vừa giúp giáo viên được giải phóng, dành thời gian cho việc hỗ trợ thêm từng cá nhân trong quá trình thực hành nói. Hình thức thứ 2: Lớp học đảo ngược chú trọng vào thảo luận Lớp học đảo ngược chú trọng vào thảo luận: Giáo viên giao các video bài giảng, cũng như các video hay tài liệu tham khảo khác liên quan đến chủ đề nói hôm đó - ví dụ như những chương trình: TED Talks, YouTube videos và kể cả các video chính HS thể hiện bài nói của nhóm, cá nhân mình. Khi đó, thời gian trên lớp học được dành cho thảo luận, đánh giá, góp ý và tìm hiểu, khám phá thêm về chủ đề được giao tìm hiểu. Đây là cách tiếp cận tăng tương tác thảo luận của HS với nhaunhằm tăng hiệu quả cho việc phát triển kĩ năng nói. Hình thức thứ 3: Lớp học đảo ngược chú trọng vào việc thể hiện trình diễn. Đây là dạng lớp học đặc biệt phù hợp đối với những môn học đòi hỏi học sinh phải ghi nhớ và lặp lại các hoạt động một cách chính xác. Trong mô hình này, giáo viên sử dụng phần mềm ghi lại màn hình (screen recording software) để trình diễn hoạt động theo cách cho phép học sinh học theo tốc độ của chính các em.Với mô hình này GV chuyển cho HS những mẫu nói, từ đó HS nghiên cứu kĩ từ cách phát âm, lời nói đến cả cách thể hiện làm sao thuyết phục người khác. 3.2.3. Cách thức tiến hành tổ chức “Lớp học đảo ngược” trong việc hình thành kĩ năng nói cho học sinh. - Bước 1: Chuẩn bị + GV cần xác định đơn vị kiến thức áp dụng mô hình lớp học đảo ngược: GV cần lựa chọn những đơn vị kiến thức phù hợp. Đơn vị kiến thức được lựa chọn là những nội dung chứa đựng những vấn đề cần được đưa ra đề bàn bạc, trao đổi, thảo luận, + Thiết kế giáo án:Trước tiên,GV phải xác định mục tiêu rõ ràng, vì mục tiêu định hướng cho việc thiết kế nội dung quay video, ghi âm, ghi hình và triển khai các hoạt động ởtrên lớp;sau đó bắt đầu thiết kếgiáo án cho việc quay video và xây dựng vấn đềthảo luận. Nội dung thảo luận, tình huống/câu hỏi có vấn đề phải phù hợp với mục tiêu của bài học. Chủ đề thảo luận cũng có thể bắt đầu từ các luận điểm, tình huống, những vấn đề thu hút được sự quan tâm của HS trong thảo luận. + Xác định hình thức các hoạt động trên lớp:Tùy thuộc vào nội dung kiến thức mà GV có thể lựa chọn các hoạt động sao cho phù hợp với đặc điểm lớp học. Khi tiến hành triển khai các hoạt động trên lớp, GV nên xem xét các yếu tố sau: số 19
  20. lượng HS; mục tiêu cần đạt; cơ sởvật chất... Với quy mô lớp học lớn, phòng học không có nhiều không gian, bàn ghế cố định thảo luận nhóm được xem là cách thức làm việc tương đối hiệu quả. + Phương tiện dạy học, trang thiết bịcần thiết:Đối với các hoạt động thảo luận trên lớp, GV có thể sử dụng các thiết bị đầu ra như: máy tính, máy chiếu, loa, đài, micro...;các nguồn tư liệu khác để giờ học thêm sôi nổi, hứng thú hơn như: bài hát, đoạn phim, tranh ảnh, clip được lấy từ trên mạng hoặc do chính GV tự làm. - Bước 2: Tổ chức thực hiện + Trước giờ học: GV tiến hành đăng tải video, tài liệu tham khảo (nếu có) và bài tập/ nhiệm vụ lên các công cụ hỗ trợ. HS xem video, nghiên cứu tài liệu và làm bài tập cá nhân ở nhà. + Trong giờ học: GV tổchức các hoạt động tại lớp học. Với tính chất phức tạp của các vấn đề đặt ra, GV nên lựa chọn thảo luận nhóm để giải quyết các vấn đề đặt ra. Ở bước này, trước hết GV cần phải nêu rõ vấn đề thảo luận; quy định thời gian thảo luận và thời gian trình bày của mỗi nhóm; giao phương tiện, công cụ cho từng nhóm. * GV tổ chức điều khiển và dẫn dắt thảo luận. GV phải thể hiện được khả năng tổ chức và kiểm soát được lớp học của mình. . * Trình bày kết quả thảo luận của các nhóm, tranh luận phản biện trong cả lớp. * GV nhận xét, đánh giá và chốt lại các vấn đề quan trọng của bài học - Bước 3: Kiểm tra, đánh giá Hoạt động kiểm tra, đánh giá là bước không thể thiếu trong hoạt động dạy và học. Kiểm tra để đánh giá mức độ hoàn thành của HS đối với mục tiêu ban đầu mà GV đặt ra. Vì vậy, để có cơ sở vững chắc, rõ ràng cho việc kiểm tra, đánh giá, bắt buộc GV phải đặt mục tiêu bài học rõ ràng, cụ thể, tránh đặt mục tiêu chung chung, khó đo lường. Mục tiêu được viết theo định hướng phát triển năng lực, dạy và học theo định hướng phát triển năng lực nên kiểm tra,đánh giá cũng vậy. 3.3. Thiết kế những giờ học đối thoại khi tổ chức hoạt động nói nghe 3.3.1. Tạo không khí dân chủ trong khi nói. Hiện nay, một trong những luận điểm cơ bản của quá trình đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường là đề cao vai trò chủ động, tích cực của HS, coi “HS là bạn đọc sáng tạo”. Với luận điểm này, quá trình dạy học văn sẽ là những cuộc đối thoại bình đẳng, phong phú và sinh động giữa những người đọc văn trong một không khí học tập cởi mở, có định hướng. Mối quan hệ giao tiếp thật sự giữa các chủ thể tiếp nhận văn học được xác lập, tất cả để hướng đến mục tiêu cao nhất là trong những giờ học văn, HS được trở thành người đọc văn đích thực, được nói lên tiếng nói cảm nhận, rung động nghệ thuật của mình; và hiệu quả tiếp nhận văn 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2