intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:45

7
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm khảo sát và đánh giá thực trạng nhận thức về sức khoẻ sinh sản cho học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An; Đề xuất một số phương pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh nữ ở trường THPT Đô Lương 2.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An

  1. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông (THPT) là một giai đoạn đặc biệt của sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tâm sinh lí, tâm hồn, nhân sinh quan và các mối quan hệ. Chính vì vậy, đây là giai đoạn quan trọng ảnh hưởng đến cuộc đời mỗi con người. Trong đó, vấn đề sức khỏe sinh sản (SKSS) đối với học sinh nữ có một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển bản thân từng cá nhân, gia đình và toàn xã hội vì vậy chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc. Trong xã hội phát triển ngày nay, học sinh ảnh hưởng nhiều yếu tố khác nhau như chế độ dinh dưỡng, các chất kích thích trong đồ ăn thức uống, cùng với những hình ảnh, video... về giới tính và tình dục tràn lan trên mạng nên nhiều em dậy thì rất sớm. Với đặc điểm của lứa tuổi này rất hay tò mò và hay làm thử nên nhiều học sinh bắt đầu quan hệ tình dục trong khi chưa hiểu biết đúng đắn về SKSS. Do thiếu hiểu biết về kiến thức, lại thiếu sự quan tâm giáo dục từ gia đình, nhà trường nên hiện nay lứa tuổi vị thành niên có hành vi quan hệ tình dục thiếu trách nhiệm, hệ lụy là tình trạng mang thai sớm, tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên ngày một tăng. Hàng năm trên thế giới có khoảng 15 triệu trẻ em gái từ 15-19 sinh con, chiếm 10% tổng số trẻ em sinh ra toàn thế giới. Việt Nam hiện nay cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến nguy cơ về sức khoẻ sinh sản vị thành niên. Là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ 5 trên thế giới, mỗi năm Việt Nam có khoảng 300.000 ca nạo hút thai ở độ tuổi 15 – 19 (Hội thảo “Sức khoẻ sinh sản vị thành niên, thanh niên” 14/12/2021). Tại các trường THPT, có tới 1/3 các bạn học sinh chưa được tiếp cận với các biện pháp tránh thai an toàn, đặc biệt chưa biết cách xử lý khi mang thai ngoài ý muốn có đến 90% biết nguy cơ mang thai ngoài ý muốn nhưng có tới 80% các em không dùng biện pháp tránh thai. Ở những vùng nông thôn miền núi, do chất lượng cuộc sống còn thấp, nhận thức còn hạn chế, sự giáo dục tuyên truyền về sức khoẻ sinh sản còn chưa được quan tâm đúng mức, nên tỉ lệ mang thai sớm và nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên còn cao. Trường THPT Đô lương 2 là một ngôi trường đóng tại địa bàn xã Lam Sơn huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An, học sinh của trường chủ yếu ở các xã miền núi huyện Đô Lương. Nhận thức của học sinh ở đây về hậu quả của quan hệ tình dục không an toàn vẫn chưa cao nên mức độ vận dụng để có tình dục an toàn còn ở mức thấp. Học sinh có biết về quá trình thụ thai nhưng lại chưa nắm được thời điểm mang thai. Các biện pháp tránh thai nằm ở mức độ “chưa biết”, chỉ có một vài biện pháp ở mức độ “biết chút ít” như biện pháp bao cao su, thuốc tránh thai. Khảo sát về sức khoẻ sinh sản tại trường năm 2022 cho thấy mỗi năm có khoảng hơn 20 học sinh bỏ học, trong đó có khoảng 6 học sinh nữ bỏ học vì mang thai ngoài ý muốn. Điều đó không 1
  2. chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, cuộc sống, khả năng học tập, tương lai của chính các em mà còn tác động lớn đến chất lượng dân số của toàn xã hội. Có một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng nhận thức của HS nữ THPT về vấn đề SKSS. Đó là các nguyên nhân về phía chủ quan của các em và một số nguyên nhân khách quan: các em HS khi nói đến những vấn đề liên quan đến giới tính còn khá dè dặt, các em chưa mạnh dạn, chủ động trong quá trình tìm hiểu hay tiếp thu những kiến thức SKSS, thiếu nguồn thông tin, thiếu sự quan tâm của gia đình… Bên cạnh đó, trong chương trình đào tạo của Việt Nam, vấn đề giáo dục giới tính cho HS chưa được quan tâm đúng mức. Chưa hề có môn giáo dục giới tính được đưa vào nội dung giảng dạy. Giáo dục giới tính và SKSS được lồng ghép vào một số nội dung trong môn Sinh học, Giáo dục công dân, Hướng nghiệp... Tuy nhiên, những nội dung đó vẫn còn chung chung, chưa đáp ứng được nhu cầu hiểu biết và sự cần thiết phải nắm vững các kiến thức về giới tính của các em HS. Hơn nữa, đội ngũ giáo viên giảng dạy các bộ môn khi đề cập đến những kiến thức về giới tính - SKSS còn ngượng ngại, không tự tin phân tích cho các em… Như vậy, việc giáo dục giới tính và SKSS cho học sinh nữ THPT là vấn đề cần thiết và cấp bách. Chính vì những lí do đó mà chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An” với mong muốn góp phần nâng cao nhận thức để có những định hướng và biện pháp chăm sóc sức khỏe sinh sản khoa học và hiệu quả hơn. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu - Đề xuất một số biện pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận về sức khỏe sinh sản và tâm lí lứa tuổi vị thành niên. - Khảo sát và đánh giá thực trạng nhận thức về sức khoẻ sinh sản cho học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An. - Đề xuất một số phương pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh nữ ở trường THPT Đô Lương 2. - Khảo nghiệm tính khả thi của các giải pháp. 3. Giới hạn nghiên cứu - Giới hạn nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu thực trạng, nhận thức về sức khoẻ sinh sản của học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An và một số phương pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho các em. 2
  3. - Địa bàn nghiên cứu: Học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2, tỉnh Nghệ An. - Thời gian nghiên cứu: Trong 2 năm học: 2021- 2022 và 2022 - 2023 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý luận nhận thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp dùng phiếu điều tra bằng bảng hỏi (Ankét): Khảo sát thu thập thông tin và đánh giá về thực trạng, nhận thức về sức khoẻ sinh sản của học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An. - Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân: Phương pháp này được thực hiện để thu thập những thông tin định tính, nhằm làm phong phú thêm cho những thông tin định An. - Các phương pháp đối chiếu so sánh: Sử dụng các phương pháp đối chiếu so sánh các số liệu, kết quả thống kê giữa nhóm thử nghiệm và đối chứng để có được những đánh giá khách quan, chính xác, khoa học. lượng nhằm thu thập chi tiết thực trạng và các giải pháp nâng cao nhận thức về SKSS của học sinh. 4.3. Phương pháp xử lý số liệu - Các phương pháp thống kê toán học: Sử dụng các công thức toán thống kê như: số trung bình cộng, số trung bình, hệ số tương quan…để thu thập, xử lý số liệu định lượng kết quả nghiên cứu từ đó đề xuất một số phương pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản của học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 huyện Đô Lương tỉnh Nghệ 5. Đóng góp của đề tài 5. 1. Tính mới của đề tài - Về lý luận: Sáng kiến đóng góp những phương pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản của học sinh nữ trường THPT. - Về thực tiễn: Đi sâu vào các giải pháp cụ thể, có tính khả thi cao để nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản của học sinh nữ trường THPT. 5.2. Những đóng góp của đề tài - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về những kiến thức, kỹ năng sống đầy đủ về giới tính, sức khỏe sinh sản đối với học sinh nữ THPT - Làm sáng tỏ thực trạng, nhận thức về sức khỏe sinh sản của học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2, tỉnh Nghệ An. - Đề xuất được một số phương pháp nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản của học sinh nữ trường THPT nhằm cung cấp cho các em những kiến thức, kỹ năng 3
  4. sống đầy đủ về giới tính, sức khỏe sinh sản để các em chủ động, tích cực bảo vệ cho chính mình góp phần to lớn, quan trọng trong việc phát triển thể lực, trí tuệ, giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh nữ từ đó thích ứng tốt trong thời đại hiện nay. - Kết quả nghiên cứu đề tài trở thành tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục kĩ năng sống trong các trường phổ thông. 6. Cấu trúc của đề tài Phần I. Đặt vấn đề Phần II. Nội dung đề tài Phần III. Một số kết luận và khuyến nghị 4
  5. PHẦN II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Một số khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm về nhận thức Để có thể sống và hoạt động con người phải nhận thức, tỏ thái độ (tình cảm), và hành động đối với thế giới khách quan. Như vậy, nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người (nhận thức, tình cảm và hành động). Nhận thức có quan hệ chặt chẽ với tình cảm và hành động cũng như với các hiện tượng tâm lý khác của con người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: “Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người trên cơ sở thực tiễn” [35, tr.249] Trong Tâm lý học, nhận thức được coi là một qúa trình tâm lý, có nghĩa là có khởi đầu, diễn biến, kết thúc. Ở con người, quá trình này thường gắn với mục đích nhất định nên nhận thức của con người là một hoạt động. Đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực khách quan. Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều qúa trình khác nhau, thể hiện những mức độ phản ánh hiện thực khác nhau (cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng...) và mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan (khái niệm, hình ảnh, biểu tượng) a. Các mức độ của nhận thức Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia hoạt động nhận thức thành hai mức độ: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. - Nhận thức cảm tính: Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu, sơ đẳng trong toàn bộ hoạt động nhận thức của con người. Đặc điểm chủ yếu của nhận thức cảm tính là chỉ phản ánh những thuộc tính bề ngoài, cụ thể của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con người. Nhận thức cảm tính gồm có 2 mức độ : Cảm giác và tri giác. + Cảm giác: Là một qúa trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan. [37, tr 82] + Tri giác: Là một qúa trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta. [37, tr 83] -. Nhận thức lý tính: Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của nhận thức cảm tính. Nhận thức lý tính phản ánh những mối liên hệ bản chất của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà con người chưa biết. Do vậy mà nhận thức lý tính có vai trò rất quan trọng trong việc hiểu bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng tạo điều kiện để con người làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình. Nhận thức lý tính bao gồm hai mức độ : Tư duy và tưởng tượng 5
  6. + Tư duy: Là một quá trình phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết. [37, tr 92] + Tưởng tượng: Là một qúa trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có. [37, tr 104] Trong hoạt động nhận thức của con người nhận thú cảm tính và nhận thức lý tính có quan hệ chặt chẽ với nhau, bỏ sung, hỗ trợ cho nhau. Lênin cũng đã tổng kết mối quan hệ này thành quy luật của hoạt động nhận thức “ từ trực quan sinh động đến tư dy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” [12, tr.98] Như vậy, hoạt động nhận thức giúp con người nhận biết được những thuộc tính bề ngoài và những thuộc tính bên trong của sự vật hiện tượng. Nói cách khác hoạt động nhận thức giúp con người hiểu biết về các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Sự hiểu biết ấy có thể diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau như đã nêu trên. Tuy nhiên, trong nghiên cứu đánh giá nhận thức của người học người ta thường vận dụng thang đo mức độ nhận thức của Benjamin S.Bloom. b. Các mức độ của nhận thức theo tác giả Benjamin S.Bloom Theo S.Bloom có 6 cấp độ trong nhận thức, đó là: nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá. Tuy nhiên, trong đánh giá nhận thức của học sinh, người ta thường chỉ đánh giá 3 mức độ: biết, hiểu và vận dụng. Cụ thể: `- Mức độ 1(biết): Là mức độ nhận thức ở bậc thấp, chỉ nắm được những dấu hiệu bên ngoài của khái niệm, chưa có được khả năng liên hệ những dấu hiệu bên ngoài với bản chất bên trong, chưa có khả năng vận dụng để giải quyết những tình huống, những hiện tượng. Hiểu biết ở mức độ này được biểu hiện bằng các dấu hiệu sau : nhận ra vấn đề, nhận biết được hình thức bên ngoài, nhận biết được một số biểu hiện cụ thể. - Mức độ 2 (hiểu): Nắm được một số thuộc tính bản chất, nắm được mối liên hệ giữa những thuộc tính bản chất với những dấu hiệu bên ngoài, nắm được khái niệm nhưng có thể chưa biết vận dụng tốt những thuộc tính đó để giải quyết vấn đề. - Mức độ 3 (vận dụng): Nắm vững các thuộc tính bản chất, nắm vững khái niệm và có thể dùng khái niệm để giải quyết các vấn đề, các tình huống. Trong đề tài nghiên cứu của mình, người nghiên cứu khảo sát nhận thức của sinh viên hệ cao đẳng trường Đại học Đồng Nai về vấn đề sức khoẻ sinh sản ở 3 mức độ: biết, hiểu và vận dụng như đã nêu trên. 1.1.1.2. Sức khỏe sinh sản a. Khái niệm về sức khỏe sinh sản Theo tổ chức y tê thế giới (WHO), SKSS “là trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên quan đến hoạt động và chức năng 6
  7. của bộ máy sinh sản chứ không chỉ đơn thuần là không có bệnh tật hay khuyết tật gì” [30, tr 114]. Đây là định nghĩa về SKSS đã được chấp nhận và chính thức hóa trong phạm vị toàn thế giới kể từ nghị quốc tế lần thứ tư về dân số và phát triển, họp tại Cairo, thủ đô Ai Cập vào tháng 9/1994. Trước đây, khi nói đến khái niệm SKSS, người ta thường nghĩ rằng đó chỉ đơn thuần là những vấn đề như kế hoạch hóa gia đình, vấn đề sinh sản và sức khỏe của phụ nữ [18, tr 24]. Tuy nhiên theo định nghĩa về SKSS như trên của tổ chức y tế thế giới thì SKSS bao gồm cả yếu tố thể chất, và đặc biệt cả yếu tố tinh thần, xã hội có liên quan đến bộ máy sinh sản. Trong đề tài nghiên cứu của mình chúng tôi cũng đồng tình và theo quan điểm về SKSS trên của tổ chức ý tế thế giới. “Sức khỏe sinh sản hàm ý cho con người có thể có một cuộc sống tình dục an toàn, thỏa mãn và có quyền sinh sản và tự do quyết định sinh sản” Như vậy, khái niệm SKSS còn ngụ ý đó là sức khỏe tình dục, đảm bảo con người có thể có cuộc sống tình dục khỏe mạnh - trước, trong và sau khi sinh hoạt tình dục, có thể mang thai và sinh nở nếu họ muốn hoặc có thể chỉ sinh hoạt tình dục đơn thuần không vì mục đích sinh con. Cũng theo tổ chức y tế thế giới, khi bàn đến sức khỏe sinh sản cũng phải nói đến quyền của nam giới và phụ nữ được thông tin và tiếp cận các biện pháp kế hoạch hóa gia đình an toàn, hiệu quả đủ khả năng chấp nhận được, cũng như các biện pháp khác họ tự chọn để điều hòa sinh sản mà không trái với pháp luật, quyền được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thích hợp, giúp người phụ nữ được an toàn từ lúc mang thai đến khi sinh nở và đem lại cho các cặp vợ chồng điều may mắn là sinh được những đứa con khỏe mạnh. Như vậy: khái niệm SKSS bao hàm trong nó các vấn đề có liên quan đến sinh sản: thể chất, tinh thần, xã hội. Tất cả các yếu tố này đảm bảo cho một đời sồng tình dục và sinh sản khỏe mạnh, lành mạnh góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. b. Nội dung cơ bản của vấn đề sức khỏe sinh sản SKSS là một vấn đề của giới tính, nó lại có quan hệ mật thiết với vấn đề dân số, giáo dục dân số, vì vậy các nội dung của SKSS đã được trình bày trong các tài liệu về giới tính và giáo dục dân số cũng như các tài liệu về SKSS. Vấn đề SKSS là vấn đề có nội dung khá phong phú, có nhiều cách hiểu khác nhau, nhiều quan điểm khác nhau. Theo Quỹ dân số Liên hợp quốc vấn đề này gồm 6 nội dung chính: tình dục, kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe phụ nữ và làm mẹ an toàn, nhiễm khuẩn sinh sản và bệnh lây truyền qua đường tình dục, phá thai, vô sinh. Theo tác giả Đào Xuân Dũng, vấn đề SKSS bao gồm một số vấn đề cụ thể sau: - Hành vi sinh sản và tình dục có trách nhiệm - Dịch vụ KHHGĐ rộng rãi và thuận tiện. - Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và đảm bảo thai nghén và sinh nở an toàn. 7
  8. - Kiểm soát có hiệu quả các bệnh nhiễm khuẫn đường sinh sản. - Phòng và điều trị vô sinh. - Loại trừ phá thai không an toàn. - Phòng và điều trị các bệnh ác tính ở cơ quan sinh sản. Ngoài ra SKSS còn có ảnh hưởng qua lại với nhiều khía cạnh khác của sức khỏe, đặc biệt HIV/AIDS, sức khỏe trẻ em, sức khỏe vị thành niên, tình dục, lối sống và môi trường Còn tác giả Bùi Ngọc Oánh lại cho rằng nội dung cơ bản của vấn đề SKSS bao gồm: - Tình trạng sức khỏe của hệ cơ quan sinh dục nam và nữ … - Sự dậy thì và sự chín muồi giới tính, sự nảy sinh xuất hiện những nhu cầu của đời sống tình dục. - Những biểu hiện của đời sống tình dục và những chức năng khác trong hoạt động của các cơ quan sinh dục. - Đời sống tình dục trong đó có sức khỏe tình dục. - Sự thụ thai và các vấn đề phòng tránh, chữa trị trong sinh nở nuôi con … + Vấn đề KHHGĐ. - Những kiến thức về bệnh lý liên quan đến đường tình dục. - Ý thức và trách nhiệm trong quan hệ yêu đương, quan hệ tình dục. - Ý thức tôn trọng phụ nữ, tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ Tuy có nhiều quan điểm khác nhau song tựu trung lại các tác giả đều đồng ý rằng vấn đề SKSS bao gồm một số nội dung cơ bản sau: - Cấu tạo, chức năng, hoạt động của cơ quan sinh dục - Các vấn đề về mang thai và làm mẹ an toàn - Vấn đề tình dục, tình dục lành mạnh, an toàn và có trách nhiệm - Kế hoạch hóa gia đình - Nạo phá thai - Các bệnh VNĐSS và bệnh LTQĐTD - Vô sinh - Phát hiện và điều trị ung thư vú và ung thư đường sinh dục - Giáo dục SKSS vị thành niên - Vấn đề bình đẳng giới trong chăm sóc SKSS - Chăm sóc sức khỏe của phụ nữ và trẻ em. Từ những nội dung cơ bản nêu trên, đối với từng lứa tuổi người ta lại nhấn mạnh đến một số nội dung trọng tâm khác nhau và yêu cầu hiểu biết ở mức độ khác 8
  9. nhau. 1.1.1.3. Chăm sóc SKSS Chăm sóc SKSS “là việc thực hiện hệ thống các biện pháp kỹ thuật và dịch vụ góp phần nâng cao chất lượng SKSS bằng cách phòng ngừa và giải quyết các vấn đề về SKSS, bao gồm cả sức khỏe tình dục với mục đích là nâng cao chất lượng cuộc sống trong các mối quan hệ riêng tư, chứ không chỉ là việc tư vấn và chăm sóc liên quan đến sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục” Theo Quỹ dân số Liên hợp quốc chăm sóc SKSS bao gồm có 6 nội dung chính: tình dục, kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe phụ nữ và làm mẹ an toàn, nhiễm khuẩn sinh sản và bệnh lây truyền qua đường tình dục, phá thai, vô sinh. Trên cơ sở 6 nội dung chính đó, mỗi quốc gia lại có những vấn đề ưu tiên riêng. 1.1.1.4. Giáo dục SKSS Trên thực tế các nội dung của SKSS không phải chỉ thể hiện trong một môn gọi là “Giáo dục SKSS”. Thông thường các nội dung của SKSS được thể hiện phong phú, đa dạng trong các môn học, chuyên đề khác nhau như: “Giáo dục giới tính”, “Giáo dục dân số”. Giáo dục SKSS là một bộ phận của “Giáo dục giới tính” và giáo dục SKSS cũng có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với “giáo dục dân số” Theo tác giả Bùi Ngọc Oánh, giáo dục SKSS là “hoạt động giáo dục trang bị cho con người tri thức và những kỹ năng gìn giữ, đảm bào cho SKSS ở tình trạng tốt, giúp cho con người có sức khỏe, có đời sống tình dục an toàn, yêu đương lành mạnh, gia đình hạnh phúc, có tri thức đầy đủ về SKSS, bảo đảm được sự sinh nở bình thường, nuôi con khỏe mạnh, thông minh và phát triển” Mục tiêu cơ bản của giáo dục SKSS là gây tác động đến vấn đề sức khỏe, cụ thể bao gồm các vấn đề có liên quan đến hệ sinh sản và các vấn đề sức khỏe có liên quan đến giống nòi. Ở Việt Nam, vấn đề SKSS chủ yếu đặt ra đối với lứa tuổi thanh thiếu niên đó là: tình trạng mang thai ngoài ý muốn, các bệnh LTQĐTD, vấn đề nạo phá thai và các vấn đề khác có liên quan như sự phân biệt, trọng nam khinh nữ, vấn đề bạo lực đối với phụ nữ. Việc giáo dục SKSS phải làm cho thanh thiếu niên có hiểu biết và có những quyết định và thái độ đúng đắn hơn đối với những vấn đề này. 1.1.1.5. Học sinh Trung học phổ thông a. Khái niệm học sinh THPT Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về học sinh: Theo từ điển tiếng Việt: “học sinh là người học ở bậc phổ thông”, tức là giới hạn đối tượng là những người đang học ở bậc phổ thông (tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông) Theo từ điển Giáo dục học: Học sinh bậc trung học phổ thông thuộc lứa tuổi đầu thanh niên từ 14-15 tuổi đến 17-18 tuổi. Như vậy học sinh Trung học phổ thông nằm trong độ tuổi từ 14-15 tuổi đến 17-18 tuổi, là những người đang theo học các trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân. 9
  10. b. Đặc điểm tâm, sinh lí của HS THPT Tuổi đầu thanh niên (14 – 18 tuổi) là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát triển cơ thể của người lớn. Lứa tuổi này là sự chuyển tiếp từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Sự khác biệt cơ bản của lứa tuổi VTN với các em ở lứa tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối giữa các mặt: cơ thể, trí tuệ, tâm sinh lí. Thời kì VTN được đặc trưng bởi sự phát triển rất nhanh cả về trí và thể lực, thời kì này không dài nhưng lại có nhiều biến động về tâm lí và sinh lí. Các hiện tượng tâm lí trong giai đoạn này có đặc điểm biến động nhanh, mạnh, có tình trạng mất cân đối của hiện tượng tâm lí. Tuổi VTN thường có những hành vi, những thử nghiệm biểu hiện sự hào phóng, có khi có nguy cơ gây hại cho bản thân và xã hội. Mặt khác, ở độ tuổi này VTN chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về SKSS, làm mẹ an toàn nên có nhiều tai biến sản khoa trong quá trình sinh đẻ vì vậy nếu mang thai và sinh con ở độ tuổi này sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển theo quy luật tự nhiên và ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người mẹ. Vì vậy cần có sự nỗ lực của bản thân VTN, sự quan tâm, định hướng của nhà trường, gia đình và xã hội để VTN phát triển nhân cách đúng hướng, tránh các sai lệch không đáng có. Cần có giáo dục về SKSS, về hôn nhân gia đình…tạo điều kiện cho các em vượt qua giai đoạn khủng hoảng của tuổi dậy thì để trở thành người lớn với đúng nghĩa của nó. 1.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức về SKSS Các yêu tố ảnh hưởng đến nhận thức về SKSS có thể phân chia thành các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan. 1.1.2.1. Một số yếu tố chủ quan Những yếu tố thuộc về thể chất như: sự hoàn thiện về cơ thể, sự trưởng thành về mặt sinh dục có ảnh hưởng quan trọng đến nhận thức của sinh viên về SKSS. Những yếu tố tâm lý có thể kể đến như tính tích cực nhận thức, sự quan tâm, nhu cầu, hứng thú… của chính học sinh đối với vấn đề SKSS. 1.1.2.2. Một số yếu tố khách quan Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến nhận thức của học sinh về vấn đề SKSS rất phong phú và đa dạng. Bao gồm: - Các yếu tố giáo dục: giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường, các tổ chức khác tham gia vào giáo dục SKSS (đoàn thanh niên, hội phụ nữ, các đơn vị y tế…), sách báo và các phương tiện truyền thông khác Giáo dục có ảnh hưởng một cách tự giác, chủ động đến nhận thức của học sinh về SKSS. Giáo dục SKSS là một bộ phận của giáo dục nhân cách học sinh. Vấn đề giáo dục SKSS cho vị thành niên vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Một bộ phận không nhỏ (đặc biệt là các bậc cha mẹ) còn cho rằng giáo dục SKSS là “vẽ đường cho hươu chạy”, sẽ làm tăng hoạt động tình dục ở thanh thiếu niên. Một bộ phận lại 10
  11. cho rằng cần phải giáo dục SKSS cho thanh thiếu niên bởi tính cấp thiết của nó, hoạt động này không làm tăng hoạt động tình dục như nhều người vẫn thường nghĩ. Về mặt lý luận khi có nhận thức (hiểu biết) đầy đủ, đúng đắn thì sẽ có thái độ và hành vi phù hợp. Cho nên nếu có hiểu biết đầy đủ về SKSS thì học sinh sẽ dè dặt hơn khi bước vào đời sống tình dục sớm (tức hạn chế được hành vi tình dục) và nếu có bước vào đời sống tình dục ở tuổi học sinh thì cũng biết cách để lựa chọn tình dục an toàn, biết cách tránh thai và phòng tránh các bệnh VNĐSS và bệnh LQĐTD. - Các yếu tố khác: yếu tố kinh tế xã hội, dư luận xã hội Trong các nhóm yếu tố trên, nhóm yếu tố giáo dục có vị trí quan trọng nhất ảnh hưởng đến nhận thức của học sinh về SKSS. 1.1.2.3. Ý nghĩa của việc giáo dục SKSS vị thành niên cho HS lớp chủ nhiệm Từ cơ sở lý thuyết nêu trên, có thể khẳng định rằng, giáo dục giới tính - SKSS cho HS vừa là chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của GVCN trước nhà trường và cha mẹ học sinh, vừa là mục đích và phương tiện để giáo dục nhân cách từng HS. Mỗi người GVCN nếu giáo dục SKSS cho HS lớp chủ nhiệm sẽ mang lại hiệu quả giáo dục vô cùng ý nghĩa: - Nhân cách của mỗi thành viên HS trong lớp ngày càng được hoàn thiện tốt đẹp với sự hòa quyện giữa phẩm chất chung của người học sinh trong mục tiêu giáo dục của nhà trường và mục tiêu giáo dục của lớp chủ nhiệm. - Lớp học sẽ trở thành nơi để mỗi thành viên HS đều được bày tỏ suy nghĩ, trao đổi tâm tư tình cảm và giải tỏa những thắc mắc trong học tập, trong quan hệ bạn bè và những vấn đề về SKSS vị thành niên. - Từ đó sẽ hỗ trợ HS rèn luyện kỹ năng sống, tăng cường ý chí, niềm tin, bản lĩnh, thái độ ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ xã hội, rèn luyện sức khỏe thể chất và tinh thần, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách - Góp phần ổn định đời sống tâm hồn, tình cảm và giúp HS thực hiện được nguyện vọng và ước mơ của mình. 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 2.1. Khái quát về địa bàn khảo sát Trường THPT Đô lương 2 là một ngôi trường đóng tại địa bàn xã Lam Sơn huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An, học sinh của trường chủ yếu ở các xã Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bài Sơn, Giang Sơn (Giang sơn Đông, Giang sơn Tây), Hồng Sơn, Nam Sơn đây là những xã có điều kiện kinh tế còn khó khăn, trình độ dân trí thấp. Nhận thức của học sinh ở đây về hậu quả của quan hệ tình dục không an toàn vẫn chưa cao nên mức độ vận dụng để có tình dục an toàn còn ở mức thấp. Học sinh có biết về quá trình thụ thai nhưng lại chưa nắm được thời điểm mang thai. Các biện pháp tránh thai nằm ở mức độ “chưa biết”, chỉ có một vài biện pháp ở mức độ “biết chút ít” như biện pháp bao cao su, thuốc tránh thai. Khảo sát về sức khoẻ sinh sản tại trường năm 2022 11
  12. cho thấy mỗi năm có khoảng hơn 20 học sinh bỏ học, trong đó có khoảng 6 học sinh nữ bỏ học vì mang thai ngoài ý muốn. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, cuộc sống, khả năng học tập, tương lai của chính các em mà còn tác động lớn đến chất lượng dân số của toàn xã hội. 2.2. Kết quả khảo sát GV về giáo dục SKSS HS nữ ở trường THPT Đô Lương 2 Kết quả hỏi ý kiến giáo viên ở trường THPT Đô Lương 2 (link khảo sát) https://forms.gle/EGyjvURnCDGvx1if6 có 38 giáo viên trả lời trong đó có các câu hỏi đem lại kết quả đáng chú ý là: Khi được hỏi về sự cần thiết của việc giáo dục nâng cao nhận thức về SKSS của HS nữ trường THPT Đô Lương 2 thì có đến 78,9 % giáo viên cho là rất cần thiết, 21,1 % giáo viên cho là cần thiết và không có giáo viên nào cho là không cần thiết 0%. Khi được hỏi về việc Thầy cô đã giáo dục sức khỏe sinh sản cho HS nữ ở trường THPT Đô Lương 2 chưa thì có đến 71,1% trả lời có nhưng ít, 21,1% thường xuyên và 7,9 % là chưa từng. 12
  13. Khi được hỏi về việc Thầy cô có tổ chức giáo dục SKSS cho HS nữ lớp mình chủ nhiệm ở trường THPT Đô Lương 2 thì có đến 73,7 % giáo viên trả lời là có nhưng ít, 18,4 % giáo viên trả lời là thường xuyên và 7,9 % giáo viên trả lời là chưa từng. 2.3. Kết quả khảo sát nhận thức về SKSS của HS nữ THPT Đô Lương 2 Nghệ An. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát học sinh nữ ở 3 khối 10,11,12 trường THPT Đô Lương 2 với 611 em HS thực hiện bằng hệ thống câu hỏi thông qua phiếu khảo sát (link khảo sát) https://forms.gle/3dAGeGBSdK128SiMA kết hợp với phỏng vấn sâu chúng tôi thu được kết quả như sau: Chúng tôi đã tiến hành khảo sát với tổng số điều tra là 611 lượt học sinh nữ của 3 khối với độ tuổi 15, 16, 17 và 18 tuổi có kết quả như sau: 13
  14. Ở độ tuổi 15 chỉ có 44 HS tham gia chiếm 7,2%, độ tuổi 16 có 191 HS tham gia chiếm 31,3%, độ tuổi 17 có 206 HS tham gia chiếm 33,7% và 18 tuổi 134 HS tham gia chiếm 21,9%. 2.3.1 Nhận thức của học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 đối với các nội dung SKSS Để tìm hiểu nhận thức của các bạn về một số nội dung của SKSS, chúng tôi đã để cho các em HS tự đánh giá về mức độ hiểu biết của mình đối với từng nội dung cụ thể của SKSS. 2.3.2. Kết quả chung Biểu đồ 1: Mức độ biết của HS nữ Trường THPT Đô Lương 2 về nội dung SKSS Khi được hỏi về sự hiểu biết của mình về SKSS thì các em học sinh nữ trường THPT Đô Lương 2 đã có kết quả trả lời như sau: Về cấu tạo, chức năng cơ quan sinh dục ở mức biết rất rõ hơn 250 HS, biết rõ hơn 200 HS, biết 100 HS, chưa biết gần 30 HS và hoàn toàn không biết là không. Về tình dục an toàn ở mức biết rất rõ gần 200 HS, biết rõ gần 300 HS, biết 100 HS, chưa biết gần 50 HS và hoàn toàn không biết là không. Vấn đề mang thai và sinh đẻ ở mức biết rất rõ gần 200 HS, biết rõ gần 250 HS, biết gần 150 HS, chưa biết gần 50 HS và hoàn toàn không biết là không. Nạo phá thai mức biết rất rõ gần 200 HS, biết rõ hơn 250 HS, biết hơn 100 HS, chưa biết gần 50 HS và hoàn toàn không biết có 1 vài HS. Các biện pháp tránh thai biết rất rõ 200 HS, biết rõ hơn 200 HS, biết hơn 100 HS, chưa biết gần 50 HS và hoàn toàn không biết có 1 vài HS. Các bệnh VNĐSS và bệnh LQĐTD mức biết rất rõ 200 HS, biết rõ gần 250 HS, biết hơn 100 HS, chưa biết khoảng 50 HS và hoàn toàn không biết không. Vô sinh biết rất rõ gần 200 HS, biết rõ hơn 250 HS, biết 100 HS, chưa biết gần 50 HS và hoàn toàn không biết có 1 vài HS 14
  15. 2.3.3 Nhận thức về tình dục an toàn Trong đề tài chúng tôi đã khảo sát nhận thức của các em HS về TDAT, cụ thể tìm hiểu xem các em hiểu như thế nào về khái niệm tình dục an toàn, hậu quả của QHTD không an toàn, cần phải làm gì để có QHTD an toàn. Biểu đồ 2: Mức hiểu biết về tình dục an toàn Kết quả ở biểu đồ 2 cho thấy trên 45,6% học sinh đã chỉ ra một cách chính xác, đầy đủ về khái niệm tình dục an toàn (tức đạt mức hiểu về khái niệm). Có 26,9% học sinh đã nhận ra được một số dấu hiệu cơ bản của khái niệm tình dục an toàn, nhưng chưa đầy đủ (xếp vào mức biết), 20,5% chưa có hiểu biết gì về khái niệm này. Như vậy, phần lớn các bạn đã nhận biết được các dấu hiệu cơ bản của khái niệm tình dục an toàn, trong đó hơn một nửa số học sinh đã nhận thức đầy đủ các dấu hiệu cơ bản của khái niệm (tức hiểu về khái niệm tình dục an toàn). Có thể đánh giá mức hiểu về khái niệm tình dục an toàn vẫn chưa cao. Học sinh nữ THPT độ tuổi 17 đạt mức hiểu cao hơn so với học sinh nữ THPT độ tuổi 16 và độ tuổi 15. Học sinh nữ THPT ở độ tuổi 16 và 15 chủ yếu đạt mức biết, số học sinh nữ không biết về khái niệm tình dục an toàn tập trung cao ở độ tuổi 15. 2.3.4. Nhận thức về hậu quả của QHTD không an toàn Trong đề tài chúng tôi đưa ra 5 hậu quả của QHTD không an toàn. Kết quả ở biểu đồ 3 cho thấy phần lớn HS đã biết đến một số hậu quả của QHTD không an toàn, số HS nữ chưa biết về hậu quả của QHTD không an toàn chiếm tỷ lệ (3,8%). Trong 5 hậu quả mà chúng tôi đưa ra thì hậu quả bị nhiễm HIV và các bệnh lây qua đường tình dục được các bạn học sinh nữ biết đến nhiều nhất với 81.4%; vô sinh là hậu quả mà các bạn biết đến ít nhất (14,8%), nó là hậu quả kéo theo của việc bị nhiễm các VNĐSS và bệnh LQĐTD. Chúng tôi đã phỏng vấn các bạn và các thầy cô giáo về lý do HS nữ THPT là đối tượng dễ có QHTD không an toàn thì được biết là: “do lứa tuổi này dễ rung động trước người bạn khác giới, xúc cảm yêu đương phát triển nhanh và mạnh; chưa ý thức được hậu quả từ hành vi tình dục của mình”. 15
  16. Biểu đồ 3: Mức độ nhận thức hậu quả QHTD không an toàn 2.3.5. Nhận thức về các biện pháp QHTD an toàn Để tìm hiểu khả năng vận dụng tri thức về tình dục an toàn vào trong thực tế cuộc sống chúng em đã đặt ra câu hỏi “Để thực hiện tình dục an toàn cần phải làm gì” và điều tra mở một tình huống nhằm thăm dò thái độ của các bạn về việc mang theo bao cao su khi đi chơi với người yêu. Kết quả nhận thức đối với từng biện pháp như sau: Biểu đồ 4. Nhận thức của HS về biện pháp để có tình dục an toàn Kết quả ở biểu đồ 4 cho thấy trên 67,4% học sinh đã chỉ ra một cách chính xác, đầy đủ về khái niệm tình dục an toàn (tức đạt mức hiểu về khái niệm). Có 27,2% học sinh đã nhận ra được một số dấu hiệu cơ bản của khái niệm tình dục an toàn, nhưng chưa đầy đủ (xếp vào mức biết), 5,4% chưa có hiểu biết gì về khái niệm này. 16
  17. Như vậy, phần lớn các bạn đã nhận biết được các dấu hiệu cơ bản của khái niệm tình dục an toàn, trong đó hơn một nửa số học sinh đã nhận thức đầy đủ các dấu hiệu cơ bản của khái niệm (tức hiểu về khái niệm tình dục an toàn). Có thể đánh giá mức hiểu về khái niệm tình dục an toàn vẫn chưa cao. Học sinh nữ THPT độ tuổi 17, 18 đạt mức hiểu cao hơn so với học sinh nữ THPT độ tuổi 16 và độ tuổi 15. Học sinh nữ THPT ở độ tuổi 16 và 15 chủ yếu đạt mức biết, số học sinh nữ không biết về khái niệm tình dục an toàn tập trung cao ở độ tuổi 15. 2.3.6 Nhận thức của học sinh nữ về quá trình thụ thai, thời điểm mang thai, biện pháp tránh thai và hậu quả của nạo phá thai. 2.2.3.1. Hiểu biết của học sinh về quá trình thụ thai Khảo sát ý kiến của học sinh về mức độ hiểu biết về quá trình thụ thai chúng tôi đã đưa ra một số câu hỏi: “Theo bạn, câu nào sau đây miêu tả chính xác nhất về quá trình thụ thai” với bốn câu gợi ý, câu chính xác nhất là câu thứ (2) (dựa theo sách giáo khoa bộ môn Sinh học). Kết quả khảo sát thu được thể hiện ở biểu đồ 5 dưới đây: Biểu đồ 5: Cách hiểu của học sinh về quá trình thụ thai 2.3.7 Hiểu biết của học sinh về thời điểm mang thai Cùng nằm trong nội dung này, chúng tôi đã khảo sát hiểu biết của học sinh về sự rụng trứng và khả năng mang thai trong chu kì kinh nguyệt: “Trong chu kì kinh nguyệt (28 ngày), sự rụng trứng thường xảy ra vào ngày nào? Ngày thứ 10 (1), ngày thứ 14 (2), ngày thứ 20 (3), ngày thứ 25 (4). Đáp án đúng theo chương trình Sinh học sgk lớp 11 là đáp án (2). Có 69,8% số học sinh nữ lựa chọn đúng, vẫn còn 30,2% học sinh nữ xác định sai, dù đã được học ở chương trình sinh học nhưng các bạn vẫn không nắm được chu kì rụng trứng. Tiếp tục với câu hỏi về sự thụ thai. Trong chu kì kinh nguyệt (28 ngày) những ngày nào khi giao hợp thì sẽ mang thai? Chúng em đã đưa ra 4 lựa chọn: Ngày rụng trứng (ngày thứ 14), ngày hành kinh (ngày thứ 1,2,3), ngày thứ 4 đến thứ 9, ngày 17
  18. thứ 20 đến 28. Đáp án đúng theo chương trình sinh học 11 là ngày rụng trứng (ngày thứ 14). Kết quả khảo sát được thể hiện qua biểu đồ sau: Biểu đồ 6: Biểu đồ kết quả khảo sát về thời điểm mang thai Từ biểu đồ trên ta thấy có 34,4% nữ học sinh xác định được đúng vào ngày rụng trứng giao hợp thì sẽ mang thai, vẫn còn 65,6% học sinh chưa xác định được. Cụ thể, có đến 25% học sinh còn cho là vào ngày hành kinh nếu giao hợp thì sẽ mang thai, 13,1% học sinh xác định vào ngày thứ 20 – 28 và 27,5% học sinh vào ngày thứ 4 - 9. Như vậy, các bạn có hiểu biết về quá trình thụ thai và kiến thức cụ thể về chu kì kinh nguyệt nhưng các bạn còn nắm chưa rõ ở thời điểm nào nếu QHTD sẽ có thai. Trong thực tế, những trường hợp khi cơ thể có hưng phấn cao, nhất là ở tuổi VTN khi có QHTD thì tỉ lệ có thai rất cao. Đặc biệt là các bạn nữ không biết rõ được nguyên nhân và thời điểm có thai sẽ vô cùng khó khăn trong việc phòng tránh thai. 2.3.8 Hiểu biết của học sinh về các biện pháp tránh thai Chúng tôi đã chia mức độ hiểu biết của các bạn về các BPTT thành các mức: Biểu đồ 7. Mức độ hiểu biết về các biện pháp tránh thai (BPTT) 18
  19. Biểu đồ 8. Mức độ hiểu biết về các biện pháp tránh thai (BPTT) Biểu đồ 9. Mức độ hiểu biết về các biện pháp tránh thai (BPTT) Biểu đồ 10. Mức độ hiểu biết về các biện pháp tránh thai (BPTT) 19
  20. - Xét riêng đối với từng biện pháp có sự chênh lệch về ĐTB, chúng tôi sắp xếp theo thứ bâc từ cao xuống thấp như sau: + Mức biết chút ít: Biện pháp dùng bao cao su có ĐTB cao nhất, tiếp đến là biện pháp thuốc tránh thai thông thường, biện pháp đặt vòng tránh thai và biện pháp thuốc tránh thai khẩn cấp. Bốn biện pháp này được xếp thứ hạng cao nhưng cũng chỉ nằm trong mức độ “biết chút ít”. + Mức chưa biết: Các BPTT còn lại có ĐTB dao động từ 0.5 đến 1.02, tức vẫn nằm trong mức “chưa biết”. Biện pháp có ĐTB thấp nhất là biện pháp tính vòng kinh, tiêm cấy thuốc tránh thai và dùng màng ngăn âm đạo. Khảo sát nhận thức của các bạn về cơ chế của từng biện pháp tránh thai kết quả cho thấy hầu hết học sinh đã trả lời “không biết”, hoặc hiểu sai, ngoại trừ biện pháp số 1 (dùng bao cao su). Biện pháp dùng bao cao su được hiểu về cơ chế tránh thai cao nhất khi có tới 65% HS chỉ đúng cơ chế là “ngăn không cho tinh trùng gặp trứng”. Mức độ hiểu đúng về biện pháp số 3 (xuất tinh ngoài âm đạo) được xếp thứ 2 nhưng cũng chỉ có 38.2% học sinh chỉ đúng cơ chế của biện pháp này. Các biện pháp tính vòng kinh và màng ngăn âm đạo có tỷ lệ HS chỉ đúng cơ chế rất thấp (dưới 20%), trong đó biện pháp tính vòng kinh 19.2%, màng ngăn âm đạo 17.7% Các phương pháp đặt vòng, triệt sản, thuốc tránh thai khẩn cấp, thuốc tránh thai thông thường có tỷ lệ hiểu về cơ chế của nó cực kỳ thấp (dưới 10%). Như vậy, học sinh nữ THPT Đô Lương 2 chủ yếu vẫn chưa hiểu đúng về cơ chế của các BPTT. 2.3.9 Nguyên nhân của thực trạng nhận thức về SKSS của học sinh nữ Trường THPT Đô Lương 2 Để có cái nhìn đa chiều về các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhận thức của học sinh nữ THPT về vấn đề SKSS chưa cao, chúng em đã khảo sát về các nguyên nhân cụ thể. Kết quả khảo sát được thể hiện ở bảng sau: Biểu đồ 11: Nguyên nhân thực trạng nhận thức về SKSS 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0