intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp phát triển năng lực vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn cho học sinh trong dạy học môn toán THPT

Chia sẻ: Behodethuonglam | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:57

25
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết đề xuất một số biện pháp cơ bản để phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn cho học sinh trong dạy học Toán ở THPT hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp phát triển năng lực vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn cho học sinh trong dạy học môn toán THPT

  1. MỤC LỤC Trang
  2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VẬN DỤNG KIẾN THỨC  TOÁN HỌC VÀO THỰC TIỂN CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC  MÔN TOÁN THPT Phần I. Mở đầu. Hiện nay, chương trình giáo dục Toán  ở  nước ta đã và đang chuyển biến theo   hướng gắn liền tri thức toán học với thực tiễn, quan tâm đến kỹ  năng sử  dụng các  kiến thức toán học  đã  được  học  của HS. Có thể  thấy  điều đó  qua  mục  tiêu của  chương trình GDPT môn Toán mới được Bộ  GD&ĐT ban hành ngày 26/12/2018. Cụ  thể, môn Toán hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất chủ yếu, năng lực   chung và năng lực toán học với các thành tố cốt lõi là năng lực tư duy và lập luận toán  học, năng lực mô hình hóa toán học, năng lực giải quyết vấn đề  toán học, năng lực   giao tiếp toán học, năng lực sử dụng các công cụ và phương tiện toán; phát triển kiến   thức, kỹ năng then chốt và tạo cơ hội để HS được trải nghiệm, áp dụng toán học vào  đời sống thực tiễn. Giáo dục toán học tạo dựng sự kết nối giữa các ý tưởng toán học,  giữa toán học với các môn khoa học khác và giữa toán học với đời sống thực tiễn.  1. Lý do chọn đề tài Trong xu thế  phát triển hội nhập của thời đại công nghiệp 4.0, việc đổi  mới  giáo dục phổ  thông  ở  nước ta hiện nay là hoàn toàn cần thiết. Chúng ta đang dịch   chuyển từ giáo dục chú trọng đến việc truyền thụ kiến thức và kỹ năng sang giáo dục  chú trọng phát triển năng lực cho học sinh  ở  tất cả  các môn học, trong đó có môn   Toán.  Người giáo viên dạy Toán  ở  các trường phổ  thông cũng phải tự  thay đổi để  thích nghi với sự đổi mới; tuy nhiên họ cũng gặp không ít khó khăn nhất định. Thứ nhất, quan niệm về dạy học Toán gắn với thực tiễn của giáo viên là khác  nhau; họ  không biết tình huống dạy Toán học gắn với thực tiễn là những tình huống   gắn với sự vật hiện tượng diễn ra trong thực tế hay chỉ trong nội bộ Toán học, hoặc  chỉ trong mối quan hệ giữa Toán học và các môn học khác  Thứ  hai, hầu hết giáo viên  đều dạy Toán theo đúng tinh thần của sách giáo  khoa, mà trong sách giáo khoa hiện hành thì số lượng bài toán chứa nội dung thực tiễn,  hay mô phỏng thực tiễn còn ít cả về số lượng cũng như không phủ hết nội dung kiến   thức.  Thứ ba, giáo viên ít nghiên cứu về lịch sử Toán nên thực sự họ cũng chưa thấy  được nguồn gốc của Toán học, chưa thấy được nhu cầu phát sinh, phát triển của Toán  học, chưa thấy được tư  tưởng của phương pháp luận Toán học, sự cần thiết  là dạy  học các mối liên hệ giữa các chương, mục khác nhau, xem xét mối liên hệ giữa Toán   học với các môn học khác và với thực tiễn. Hầu như giáo viên tiến hành soạn giảng  dựa trên kinh nghiệm giảng dạy và sách giáo khoa, sách tham khảo hiện hành. Điểm tồn tại thứ tư của một số giáo viên dạy Toán hiện nay là chưa chú trọng  đúng  mức đến việc nghiên cứu bài học; ít có hoạt động thảo luận, hợp tác giữa các giáo  viên về một vấn đề hoặc một tình huống dạy học cụ thể.  2
  3. Bảng thống kê kết quả bài kiểm tra cho 132 học sinh khi chưa áp dụng.  Thời gian Tỷ lệ HS đạt  Tỷ lệ HS đạt  Tỷ lệ HS đạt  Tỷ lệ HS đạt  mức tốt (%) mức khá (%) mức TB (%) mức không đạt  (%) Năm học  5,2 22,5 55.6 16.7 2017­ 2018 Năm học  5,36 23,4 54,7 16,54 2018­ 2019 Đa số học sinh còn yếu, chỉ một số ít học sinh có khả năng vận dụng kiến thức   vào thực tiễn.  Điều đó xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau: ­ Khi HS giải một bài toán có nội dung thực tiễn, do năng lực tư  duy kém nên  học sinh chọn sai mô hình, dẫn đến không giải quyết được bài toán. Mặt khác do HS   chưa có thói quen xây dưng và phân tích rõ ràng các mô hình toán học của bài toán thực   tiễn. ­ Trong nhưng năm gần đây việc ra đề thi THPTQG với định hướng gắn liền tri  thức toán học với thực tiễn, quan tâm đến kỹ năng sử dụng các kiến thức toán học đã   được học của HS nâng cao kỹ năng thực hành theo tinh thần đổi mới.  ­ Số lượng bài tập có nội dung thực tiễn SGK còn ít, nếu có thì nội dung chứa   đựng hướng ứng dụng thực tiễn chưa nhiều. Do đó học sinh chưa có nhiều cơ hội để  thực hành gải các bài toán có nội dung thực tiễn do đó cũng phần nào ảnh hưởng đến   khả năng vận dụng kiến thức toán học và thực tiễn.  Trong quá trình dạy học chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết giáo viên đều rất   mong muốn sử dụng tình huống thực tiễn trong dạy học Toán; tuy nhiên đều gặp khó  khăn trong quá trình dạy học. Những khó khăn mà giáo viên gặp phải trong quá trình  trải nghiệm, tìm tòi, xây dựng tình huống thực tiễn trong dạy học Toán. Do đây là một nội dung rất rộng gắn liền với rất nhiều lĩnh vực khoa học khác  cũng như  đối với thực tiễn cuộc sống. Do đó nội dung bài viết đề  xuất một số  biện   pháp cơ bản đó là đưa ra một số biện pháp theo hướng tiếp cận này nhằm phát triển   năng lực giải quyết vấn đề trong cuộc sống cho HS phù hợp với mục tiêu của dạy học  Toán ngoài việc phát triển năng lực toán học nói chung cần hướng tới việc phát triển  tư  duy, phát triển năng lực vận dụng Toán học vào giải quyết vấn đề  thực tiễn cho   HS trong dạy học Toán ở THPT đáp ứng phần nào yêu cầu dạy học hiện nay. Làm rõ  cách thức khai thác các chức năng của tình huống thực tiễn và tìm tòi được các ví dụ  minh họa chức năng của tình huống thực tiễn mang tính mới; Những vấn đề  nêu trên  là tiền đề để  định hướng chúng tôi thực hiện đề  tài: Một số biện pháp phát triển  năng lực vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn cho học sinh trong dạy   học môn toán THPT. Việc rèn luyện kĩ năng vận dụng Toán học cho HS không chỉ giúp HS hiểu sâu   3
  4. sắc hơn các kiến thức, củng cố  các kĩ năng Toán học mà các em còn thấy được ý   nghĩa, vai trò của môn Toán đối với các lĩnh vực khoa học khác cũng như đối với thực   tiễn cuộc sống. Việc rèn luyện kĩ năng vận dụng Toán học còn đặc biệt có ý nghĩa  trong việc rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề  và kĩ năng tư  duy cho HS những kĩ   năng rất quan trọng đối với HS của bất cứ quốc gia nào trong bối cảnh toàn cầu hóa   hiện nay. Hay Bùi Văn Nghị (2008) cùng các đồng tác giả của mình quan niệm: “Tình  huống dạy học là một bối cảnh trong đó diễn ra hoạt động dạy và hoạt động học của  một tiết hoặc một vài tiết học trên lớp được thiết kế bởi giáo viên nhằm đạt  được   một mục tiêu  dạy  học  nhất  định”. Theo  đó,  người  giáo  viên  đóng  vai  trò  quan  trọng  trong  việc  thiết kế,  ủy thác các nhiệm vụ  cụ  thể  cho học sinh. Học sinh xuất hiện   nhu cầu nhận thức, tự vận dụng tri thức, kinh nghiệm của mình để giải quyết vấn đề  đặt ra; thông qua hoạt động học mà học sinh được rèn luyện kỹ năng phán đoán, kiểm  nghiệm, điều ứng kiến thức vận dụng vào thực tiễn. Phần II. NỘI DUNG Để  học sinh thấy được chức năng, vai trò của tình huống thực tiễn như  chức  năng gợi động cơ tạo nhu cầu bên trong cho học sinh tiếp cận phát hiện tri thức, chức   năng phát hiện các quy luật tìm tòi quy tắc toán học, chức năng củng cố khắc sâu kiến  thức trong các khâu của hoạt động dạy học toán, chức năng giải thích mô phỏng các   hiện tượng thực tiễn khai thác các  ứng dụng khác nhau của toán học trong thực tế,  chức năng góp phần hình thành văn hóa toán học cho học  sinh. Do đó nội dung bài viết  bài viết đề xuất một số biện pháp cơ bản để phát triển năng lực vận dụng kiến thức  vào thực tiễn cho HS trong dạy học Toán ở THPT hiện nay.  Trong bài viết này, chúng tôi hiểu tình huống trong dạy học Toán là: những nội   dung Toán học cần thiết được người giáo viên thiết kế  biên soạn, lồng ghép các   nhiệm vụ học tập trong một đơn vị bài học, bài dạy cụ thể để học sinh thông qua việc   giải quyết các nhiệm vụ  đó, chiếm lĩnh tri thức Toán học. Đồng thời chúng tôi hiểu   tình huống thực tiễn trong dạy học toán là những tình huống xuất phát từ thực tiễn, có  mặt trong đời  sống hằng ngày,  ẩn chứa các nội dung hoặc mối quan hệ  toán học   được giáo viên quan sát, phát hiện hoặc thiết kế lại cho phù hợp với nhu cầu học tập   của học sinh 2.1 Năng lực vận dụng toán học vào thực tiễn Phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn cho học sinh (HS) sẽ làm  thay đổi cách dạy của giáo viên (GV) và cách học của HS theo hướng “học đi đôi với  hành”, lí  thuyết  gắn  với  thực tiễn,  nhà trường gắn với gia đình và xã hội. Thực trạng  dạy học ở  các trường phổ thông hiện nay, hầu hết GV mới chỉ tập trung vào việc hình  thành và phát triển kiến thức cho HS mà chưa chú trọng vào việc phát triển năng lực vận  dụng kiến thức vào thực tiễn cho HS. Do đó, quá trình dạy học hướng tới giúp HS có kỹ  năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn rất cần thiết, được xem như mục tiêu cốt lõi của  chương trình giáo dục phổ thông. 2.2.  Năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn Năng lực được hiểu theo các quan điểm khác nhau như: Năng lực là tổng hợp  những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trung của một  hoạt động nhất định nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả  tốt trong lĩnh vực  4
  5. hoạt động ấy. Có thể hiểu năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành và phát triển   nhờ  tố  chất có sẵn và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người thực hiện   thành công các hoạt động nhất định, đạt được kết quả  như  mong muốn trong những   điều kiện cụ thể. Năng lực vận dụng kiến thức vào vào thực tiễn là khả  năng của người học tự  giải quyết những vấn đề đặ ra một cách nhanh chóng và hiệu quả bằng cách áp dụng   các kiến thức đã lĩnh hội vào nhưng tình huống, hoạt động thực tiễn để  tìm hiểu thế  giới xung quanh và có khả  năng biến đổi nó. Năng lực vận dụng kiến thức vào thực  tiễn thể  hiện phẩm chất và nhân cách của con người trong quá trình hoạt động để  thỏa mãn nhu cầu chiếm lĩnh tri thức. Như vậy, có thể hiểu:  Năng lực vận dụng kiến   thức vào thực tiễn là khả  năng chủ  thể  phát hiện được vấn đề  thực tiễn, huy động   được các kiến thức liên quan nhằm giải quyết các vấn dề thực tiễn hiệu quả.      2.3.  Đề xuất một số biện pháp phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào thực   tiễn cho HS trong dạy học môn Toán ở THPT. Mối quan hệ biện chứng giữa Toán học và thực tiễn được xác định đó là Toán  học bắt nguồn từ thực tiễn và trở  về  phục vụ  thực tiễn. Thực tiễn là cơ  sở  để  nảy   sinh, phát triển các lý thuyết Toán học; Thực tiễn đặt ra những bài toán và Toán học  được xem là công cụ hữu hiệu để giải quyết rất nhiều các bài toán này. Mối quan hệ  biện chứng giữa Toán học và thực tiễn đó cũng thể hiện trong quy luật nhận  thức đã  được V.I.Lênin nêu lên: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy  trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng để nhận thức chân lý”. Khi DH   toán theo hướng phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn cho HS thì   chúng tôi tập trung một số đặc điểm sau: Thứ nhất, quá trình dạy học toán trước hết cần phải giúp HS nắm vững kiến  thức Toán học. Đây là điều kiện cần để huy động và sử dụng một cách đúng đắn kiến   thức cơ bản của Toán học vào các tình huống mới (trong học tập, trong đời sống). Nói   cách khác đây là điều kiện cần thiết cho việc vận dụng kiến thức Toán học vào thực  tiễn . Thứ  hai, phải tạo cơ  hội để  HS thể  hiện, phát triển khả  năng chuyển đổi từ  ngôn ngữ thực tiễn sang ngôn ngữ Toán học và ngược lại (trong những trường hợp cụ  thể nào đó). Nhằm đáp ứng các yêu cầu đã nêu, phần này sẽ đề xuất một số biện pháp  về  DH toán thông qua việc sử  dụng các bài toán có tình huống thực tiễn. Thông qua  các ví dụ  thực tiễn để  củng cố  khái niệm, công thức, quy tắc. Chỉ  ra khả  năng vận   dụng của kiến thức toán vào thực tiễn đời sống. Biện pháp 1: Sử dụng bài toán có tình huống thực tiễn trong tất cả các quá trình   dạy học môn Toán THPT. Mục đích và ý nghĩa của biện  pháp:  Trong DH toán GV không chỉ  chú ý đến  truyền thụ kiến thức Toán học mà hướng dẫn cho HS  liên hệ kiến thức toán học với  thực tiễn và  ứng dụng kiến thức vào thực tiễn. Đây là cơ sở quan trọng để  góp phần  nâng cao năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn và yêu cầu đó luôn luôn phải  được thể hiện trong tất cả các tiết học cũng như các khâu của mỗi tiết học. Nói cách  khác, để  góp phần phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn  cho HS thì  cần tạo cơ hội để HS thường xuyên tiếp xúc với các bài toán có tình huống thực tiễn  5
  6. để qua đó phát triển các thành tố của năng lực này. Cách thức thực hiện biện  pháp:  Xuất phát  từ  một  tình huống  thực tiễn  liên  quan trực tiếp tới kiến thức cần truyền thụ   để  đặt vấn đề  cho tiết  học. Tìm hình  ảnh, mô hình trong thực tiễn gắn chặt với kiến thức Toán học cần truyền thụ trong  quá trình dạy học. Giới thiệu các ứng dụng của kiến thức Toán học (cần truyền thụ)  trong thực tiễn. Tuy nhiên, cách giải quyết tốt nhất vẫn là chọn lựa và đưa ra một bài   toán thực tế. Việc sử dụng các bài toán thực tiễn trong dạy học  ở các khâu: mở  đầu,  luyện tập và củng cố, ôn tập vừa có mục đích giúp cho HS luôn có ý thức đúng đắn về  vai trò ứng dụng kiến thức của Toán học trong thực tiễn, song điều quan trọng hơn là   giúp phát triển năng lực vận dụng kiến thức Toán học để giải quyết vấn đề thực tiễn   một cách thường xuyên. Cần chú ý sử  dụng các nội dung thực tiễn trong cuộc sống   hằng ngày xung quanh HS, trong hoạt động xã hội, trong học tập các môn học khác;  trong kinh tế, kĩ thuật, quốc phòng,… 1) Sử dụng các bài toán thực tiễn trong hoạt động hình thành kiến thức. Hoạt động mở đầu tiết học có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả của tiết học  vì nó có ý nghĩa định hướng và làm sáng tỏ  mục đích hoạt động học tập trong chính   tiết học đó nói riêng, cũng có thể là của cả chủ đề. Việc mở đầu có nhiều phương án,   tùy theo sự  lựa chọn của GV, song nếu mở đầu bằng việc đưa ra một bài toán thực   tiễn thì ngoài việc  thể  hiện  được  ý  nghĩa  và  tác  dụng  của  nó  còn  có  khả  năng  gần  chắc chắn là tạo được sự chú ý, tạo được hứng thú cho HS. Cũng qua đó vấn đề phải  giải quyết đã được đặt ra. Ví dụ 1. Khi tổ chức dạy học khái niệm Hàm số bậc hai cho HS trong SGK Đại   số 10 trang 42. Hoạt động 1. Tiếp cận hàm số bậc hai Bài toán 1. Bố bạn An gửi 10 triệu vào ngân hàng với lãi suất x/tháng. Biết rằng nếu  không rút tiền ra khỏi ngân hàng thì cứ sau mỗi tháng, số tiền lãi sẽ là được nhập vào   vốn ban đầu để tính lãi cho tháng tiếp theo. Tính số tiền cả vốn lẫn lãi mà bố bạn An  có được khi gửi tiền tiết kiệm 1 tháng, 2 tháng. ­ Số tiền bố bạn An có được sau khi gửi 1 tháng là triệu đồng ­ Số tiền bố bạn An có được sau khi gửi 2 tháng là:  triệu đồng. Hoạt động 2. Hình thành kiến thức Bài toán 2. Trong biểu thức tính số tiền lãi và vốn có được sau 2 năm gửi  a) Tính số tiền bố bạn An có được sau 2 năm gửi nếu lãi suất ngân hàng là  b) Mỗi giá trị lãi suất cho tương ứng với bao nhiêu giá trị về số tiền? Tương ứng giữa  số tiền  và lãi suất  có phải là một hàm số không?   HS dự đoán được khái niệm hàm số bậc hai có dạng  6
  7. Hoạt động 3. Vận dụng hàm số bậc hai trong thực tiễn Khi một quả bóng được đá lên, nó sẽ  đạt tới độ  cao nào đó rồi rơi xuống. Biết rằng  quỹ đạo của quả bóng là một cung parabol trong mặt phẳng với hệ tọa độ  , trong đó   là thời gian (tính bằng giây) kể từ khi quả bóng được đá lên,  là độ cao (tính bằng mét  ()) của quả bóng. Giả sử rằng quả bóng được đá lên với độ cao . Sau khoảng thời gian  1 giây và 2 giây từ lúc quả bóng được đá lên thì nó đạt độ cao lần lượt là  và . Hãy tìm   hàm số bậc hai biểu thị độ  cao h và có phần đồ  thị trùng với quỹ đạo của bóng trong  tình huống này? Gợi ý: Giả sử ta cần tìm  Theo giả thiết, quả bóng từ độ cao nghĩa là ; Sau  nó đạt độ cao là nên ; tại khi đá lên, nó ở độ cao , ta có .  Vậy ta có hệ: .  Vậy hàm số Parabol cần tìm có dạng: . Qua ví dụ học sinh được trải nghiệm hình thành định nghĩa khái niệm, củng cố và vận   dụng khái niệm vừa học các tình huống và giải quyết vấn đề  thực tiễn. Đặc biệt là   các em thấy được mối liên hệ  giữa toán học và thực tiễn và các môn khoa học khác,   yêu thích học tập môn Toán hơn. Ví dụ  2: Khi tổ  chức dạy học khái niệm Cấp số  nhân SGK Đại số  và giải tích  lớp 11 trang 98­ 102 Hoạt động 1. Bài toán bàn cờ (tr.98. SGK ĐS và GT 11) Tục truyền rằng nhà Vua  Ấn Độ  cho phép người phát minh ra bàn cờ  Vua được lựa   chọn một phần thưởng tùy theo sở thích. Người đó chỉ xin nhà Vua thưởng cho số thóc  bằng số  thóc được đặt lên 64 ô của bàn cờ như  sau: đặt lên ô thứ  nhất của bàn cờ  1  hạt thóc, tiếp đến ô thứ hai 2 hạt..., cứ như vậy số hạt thóc ở  ô sau gấp đôi số  hạt thóc  ở  ô liền kề  trước cho đến ô cuối  cùng. GV đưa ra câu hỏi về số các hạt thóc được đặt vào các  ô của bàn cờ. Sau khi để một số HS dự đoán, GV có thể đưa  ra đáp số  làm HS vô cùng kinh ngạc và thú vị. Một cách mở  đầu như  vậy sẽ  tạo nên hứng thú cho HS trước khi học bài   mới. Nói cụ  thể  hơn, việc  xuất phát từ  các vấn đề  thực tế  sẽ  giúp HS dễ  thấy được sự  tồn tại khái niệm Toán học  ẩn  chứa trong thực tiễn , từ  đây  có  được niềm  tin  và  cả  hứng  thú để  khám phá khái niệm được học. Khi có được niềm tin thì những hoài nghi về  sự  tồn tại kiến thức  nào đó được loại  bỏ  và đây cũng là một  yếu tố  tinh thần tạo  động lực, kích thích sự  tìm hiểu về  kiến thức của  HS. Trở  lại với ví dụ  BÀN CỜ  VUA trên đây, có thể đưa ra một cách trong rất nhiều cách mở đầu sau khi giới thiệu  Bàn cờ vua và cách thức đặt số hạt thóc vào các ô. Hoạt động 2.  Tìm hiểu tình huống trong thực tiễn liên quan đến cấp số nhân. Bài toán 1. Một người gửi vào ngân hàng với số  tiền 100 triệu đồng. Nếu không rút   tiền ra khỏi ngân hàng thì số  tiến được lĩnh sau n tháng () bằng số  tiền được lĩnh  7
  8. tháng nhân với . Hỏi người đó được lĩnh bao nhiêu tiền sau n tháng? HS nêu được định nghĩa cấp số nhân: GV: Nếu cấp số nhân có số hạng đầu và công bội  thì số hạng tổng quát xác định bởi  công thức nào? Hoạt động 3.  Hình thành mối liên hệ  giữa giữa số  hạng thứ  n với số  hạng đâu và  công bội Bài toán 2. Xét cấp số nhân  có số hạng đầu và công bội  a) Viết đại lượng thích hợp vào chỗ trống  b) Có mối liên hệ nào giữa  HS kết luận Nếu cấp số nhân có số  hạng đầu và công bội  thì số  hạng tổng quát xác   định bởi công thức:   với  GV hướng dẫn học sinh chứng minh bằng phương pháp quy nạp Hoạt động 4. Củng cố mối liên hệ giũa số hạng thứ n với số hạng đầu và công bội Bài toán 3. Xét cấp số nhân có số hạng đầu và công bội . Tính  theo n. Bài toán 4. Xét cấp số nhân có số hạng đầu và công bội . a) Tính                           b) Số hạng thứ bao nhiêu của dãy số bằng 160. Hoạt động 5. Vận dụng kiến thức Toán vào giải quyết vấn đề thực tiễn. Bài toán 5. Tế  bào E.Coli trong điều kiện nuôi cấy thích hợp thì cứ  20 phút lại phân  đôi một lần.  a) Hỏi nếu một tế bào sau 10 lần phân chia sẽ thành bao nhiêu tế bào? b) Nếu có  tế bào thì sau hai giờ sẽ phân chia thành bao nhiêu tế bào? Qua dạy học định lý trên học sinh được trải nghiệm, hình thành định lý, củng cố  và   vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn. 2) Dùng bài toán thực tiễn ở hoạt động thực hành, luyện tập, ôn tập Bước luyện tập thiên về rèn luyện cách giải toán cho HS. Đại đa số các bài toán trong   SGK là bài toán “Toán học thuần túy”,. Vì vậy, ở bước này GV cần đưa thêm các bài  tập thực tiễn để tạo cơ hội cho HS phát triển năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn. Ví dụ minh họa.     Giải phương trình:  (1)  Như vậy bài toán dược phát biểu với giả thiết và kết luận rất rõ ràng, tường minh và  dơn giản. Học sinh chỉ cần vận dụng kiến thứ về phương trình bậc nhất nên phù hợp   với đối tượng học sinh yếu, kém. Nếu biến đổi qua một bước trung gian mới đưa  phương trình (1) bằng cách thay đổi dữ kiện đã cho bằng một điều kiện gián tiếm ta  có bài toán sau: Bài toán 1. Giải phương trình:  (2).  Để giải bài toán 2 học sinh chỉ cần biến đổi phương trình đã cho về phương trình bậc  8
  9. nhất rồi giải  (Không khó khăn với học sinh trung bình)  Nếu thay đổi hình thức phát  biểu của (2) ta có bài toán sau: Bài toán 2: Tìm giao điểm của hai đồ thị hàm số:     và  Các kiến thức để  sử  dụng để  giải bài toán không chỉ  là  giải phương trình mà còn bao gòm cả hàm số, đồ  thị hàm  số, tọa độ  giao điểm hai đồ  thị  hàm số. Bài toán 2 có thể  phát biểu thông qua bài toán thực tế sau: Bài toán 3: Có hai loại máy bơm với cùng cùng lưu lượng  nước   bơm   được   trong   một   giờ.   Loại   thứ   nhất   giá   1.500.000 đồng, loại thứ 2 giá 2.000.000 đồng. Nếu dùng  loại thứ  nhất thì mỗi giờ  phải trả  tieend điện là 1200 đồng, nếu dùng máy bơm loại  thứ 2 thì mỗi giờ  phải trả tiền điện là 1000 đồng. Sau bao nhiểu thời gian thì số  tiền  phải trả cho hai loại máy là như nhau? Bài toán đưa ra một tình huống cụ  thể  liên quan đến số  tiền phải trả bằng nhau cho   hai loại máy bao gồm cả tiền điện và tiền mua máy bơm. Nếu không chú ý học sinh  chỉ có thể  quan tâm đến tiền điện mà không để ý đến tiền mau máy bơm. Ở  bài toán  này học sinh chỉ cần biết toán học há tình huống để đưa về bài toán 2. GV thay đổi câu  hỏi trong bài toán 3 ta có bài toán sau: Bài toán 4.  Một gia đình muốn mua một chiếc máy bơm. Có hai loại máy bơm với   cùng cùng lưu lượng nước bơm  được trong một giờ. Loại thứ  nhất giá 1.500.000  đồng, loại thứ 2 giá 2.000.000 đồng. Nếu dùng loại thứ nhất thì mỗi giờ phải trả tiền   điện là 1200 đồng, nếu dùng máy bơm loại thứ 2 thì mỗi giờ phải trả tiền điện là 1000  đồng.  a) Viết cac biểu thức toán học thể hiện số tiền (tính bằng nghìn đồng) phải trả khi sử  dụng máy bơm thứ  nhất và máy bơm thứ  2 trong x giờ. (Bao gồm tiền điện và tiền   mua máy bơm). b) Biểu diễn bằng đồ  thị  số  tiền phải trả  theo biểu thức toán học  ở  phần a) khi sử  dụng mỗi loại máy bơm trên cùng một mặt phẳng tọa độ. c) Xác định tọa độ  giao điểm của hai đồ  thị   ở  phần b). Từ  đó hãy phân tích ý nghĩa   kinh tế của bài toán. Nhận xét: Bài toán 4 đưa ra một tình huống cụ thể, quá trình giải quyết bài toán cần   nhiều hơn đến kiến thức và tư duy toán học so với bài toán 3. Bài toán này đòi hỏi học   sinh phải biết dựa vào đồ  thị  hai hàm số  trên cùng một hệ  trục tọa độ  để  rút ra ý   nghĩa kinh tế. Qua đó gia đình sẽ  biết cách mua loại máy bơm nào phù hợp với gia   đình. GV tiếp tục thay đổi câu hỏi trong bài toán 4 ta có bài toán sau: Bài toán 5. Gia đình bạn Hưng muốn mua chiếc mày bơm Có hai loại máy bơm với  cùng cùng lưu lượng nước bơm  được trong một giờ. Loại thứ  nhất giá 1.500.000  đồng, loại thứ  2 giá 2.000.000 đồng. Nếu dùng loại thứ  nhất thì mỗi giờ  phải trả  tieend điện là 1200 đồng, nếu dùng máy bơm loại thứ 2 thì mỗi giờ phải trả tiền điện  9
  10. là 1000 đồng. Em hay tư  vấn, phân tích ý nghĩa kinh tế  cho gia đình bạn Hưng mua   một trong hai loại máy bơm đó. Như  vậy bài toán 5 khó hơn bài toán 4.  Bài toán 5 không chỉ  ra các kiến thức  toán học cần sử dụng cần sử dụng trong bài toán 4. Bài toán này đòi hỏi học sinh phỉa   suy luận, liên hệ với các kiến thức toán học để giải quyết tình huống, phải tự xác định  hàm số, phải biết vẽ  đồ  thị  các hàm số  trên cùng một hệ  trục tọa độ  , biết tìm giao  điểm của hai đồi thị. Từ đó phân tích được ý nghĩa kinh tế giúp gia đình bạn Hưng đưa  ra quyết định đúng đắn. sau khi giải quyết được tình huống trên học sinh có thể rút ra  được bài học về việc sử dụng phương trình, đồ thị  hàm số để giải quyết các bài toán   tối ưu tương tự. Nhận xét: Từ một bài toán đơn giản sau mỗi lần khai thác ta lại có một bài toán với   mức độ  khó tăng dần, tự  một bài toán có nội dung toán học thuần túy, ta có thể   chuyển về và phát biểu các bài toán mang tĩn thực tiễn cao, gần gũi với cuộc sống đời   thường ngày, giúp học sinh vạn dụng kiến thức toán học vào giải quyết các vấn đề   thực tiễn.    Ví dụ  2.  Sau khi HS được học định lí sin, định lí cosin, GV có thể  yêu cầu HS tìm  những  ứng dụng trong TT vận dụng kiến thức này, để  từ  đó tạo cơ  hội cho các em   tích cực liên hệ nhằm đạt được kết quả như: 1) Vận dụng để tính gần đúng chiều cao cột cờ, toà nhà, ngọn núi thông qua việc tính  độ dài “bóng” (hình chiếu trên mặt đất) của nó.  2) Vận dụng để tính khoảng cách khi gặp vật cản, chẳng hạn tính khoảng cách giữa   hai vị trí bị cắt bởi con sông, tính khoảng cách từ bờ tới  một hòn đảo nhỏ,... (luyện tập mang ý nghĩa thực hành). 3) Cho hình bình hành  có    a) Chứng minh rằng:    b) Khi quan sát một người thợ  sửa chữa ôtô ta thấy   rằng khi người thợ  dùng kích và người thợ  văn một   thanh nằm ngang trong kích thì thấy Kích nâng được  cái xe ô tô lên và người thợ  lấy lốp xe ra để  vá. Em  hãy giải thích vì sao?  Với câu a) học sinh sử dụng kiến thức về định lý cosin  chứng minh được đẳng thức và trả  lời được câu hỏi “   Trong mọi hình bình hành tổng bình phương hai đường  chéo của nó bằng hai lần tổng bình phương chiều dài và  chiều rộng Ở câu b) HS giải thích được chiếc Kích có dạng hình bình  hành nên khi ta quay một trục của đường chéo của Kích  (giảm kích thước đường chéo). Vì tổng bình phương hai  đường chéo là không đổi nên nên trục đường chéo còn lại  phải dài ra ( tăng kích thước) giúp nâng ô tô lên để người thợ có thể sửa xe. 10
  11. Ví dụ 3. Khi dạy xong chương Hàm số ở lớp 10, để ôn tập kiến thức về hàm số bậc  hai, thay vì việc đưa ra một hàm số bậc hai rồi yêu cầu HS nhắc lại các tính chất, cách   tìm giá trị lớn nhất, nhỏ nhất của hàm số trên   hoặc một đoạn nào đó, GV có thể  đưa ra bài toán sau: Bài toán: Một khách sạn tại thành phố Vinh có 50 phòng cho thuê. Biết rằng hiện tại   giá mỗi phòng cho thuê là 400 nghìn đồng/ngày/phòng thì kín hết phòng. Người quản  lý khách sạn cho biết nếu cứ mỗi lần tăng thêm giá 20 nghìn đồng trên phòng thì có   thêm phòng trống (không có người thuê). Hỏi khách sạn phải chọn giá phòng bao nhiêu  để khách sạn có thu nhập cao nhất trong một ngày.” Gợi ý: Gọi ( nghìn đồng) là giá phòng khách sạn đặt ra nghìn đồng. Khi đó số phòng giảm là , khi đó số phòng cho thuê là . Tổng doanh thu của khác sạn trong một ngày là:  . Dự vào hàm số bảng biến thiên của hàm số bậc hai (Parabol) thì đạt GTLN tại  Do đó,    với giá phòng đồng trên ngày thì lợi nhuận của khách sạn là cao nhất.  Như vậy, ngoài  việc giải quyết các yêu cầu đặt ra  ở  trên, việc đưa bài toán này vào tiết ôn tập sẽ  giúp  HS nhận thấy   được  ý nghĩa của toán học  là  có thể  ứng  dụng  trong  các  hoạt   động  kinh doanh. Cũng qua  đây, học sinh  có  thể  giải  quyết đượ c  các  tình  huống  tươ ng tự  trong thực tiễn hay nói một cách khác việc đưa ra bài toán này góp phần  phát triển năng lực vận d ụng kiến th ức toán học vào thực tiễn cho HS. Ví dụ  4: Sau khi học xong tính đồng biến và nghịch biến của hàm số  để  vận dụng  kiến thức vừa học và thực tiễn GV có thể đưa ra bài toán sau: Người ta tiêm một loại thuốc vào mạch máu vào cánh tay phải của bệnh nhân. Sau   một thời gian t giờ, nồng độ thuốc ở mạch máu của bệnh nhân đó được tính theo công  thức.                                           . Vào khoảng thời gian nào thì nồng độ thuốc ở mạch máu của bệnh nhân tăng? giảm? Học sinh tính được đạo hàm và tìm khoảng đồng biến nghịch biến của hàm số.                                         . + Xác định được khoảng giá trị t để hàm số đồng biến nghịch biến. + Nhận ra được khoảng thời gian để  nồng độ  thuốc trong mạch máu bệnh nhân tăng  giảm. Thông qua ví dụ thực tiễn học sinh được trải nghiệm việc vận dụng kiến thức   toán học vào giải quyết bài toán thực tiên. c) Tìm hình ảnh, mô hình trong thực tiễn minh họa kiến thức toán học trong tất cả các   quá trình của tiến trình thực hiện kế hoạch dạy học. Để thực hiện theo hình thức này  đòi hỏi GV phải sưu tầm, tìm hiểu, chuẩn bị các hình  ảnh, mô hình nhằm cung cấp  các hình ảnh mang tính trực quan, giúp HS tưởng tượng đúng đắn, góp phần huy động   và sử dụng các kiến thức toán học khi giải quyết các bài toán thực tiễn. 11
  12. Biện pháp 2: Chọn lựa và sử dụng bài toán thực tiễn để rèn luyện những yếu tố  phù hợp của năng lực vận dụng kiến thức, kỹ năng vào thực tiễn của học sinh. 1) Mục đích và ý nghĩa của biện pháp: Các bài toán thực tiễn tùy theo nội dung, mục   tiêu dạy học của nó có thể  góp phần nâng cao một hay một số thành tố. Do đó việc  chọn lựa có mục đích các bài toán cho từng loại thành tố hoặc nhiều thành tố của năng   lực là rất cần thiết và sau đó là sử dụng chúng đúng với mục đích chọn lựa trong quá  trình thực hiện kế hoạch dạy học. 2) Cách thức thực hiện biện   pháp:  Nhằm rèn luyện cho HS phát triển các năng lực  thành phần của năng lực giải quyết vấn đề, trong DH cần tạo cơ hội để HS thực hiện  các hoạt động phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Các hoạt động  (thành tố) này vừa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vừa có tính độc lập tương đối.  Do đó, trong quá trình dạy học toán, thông qua các hoạt động, GV có thể quan tâm phát  triển từng thành tố tương ứng hoặc kết hợp nhiều thành tố khác nhau. Ví dụ 1: Xét bài toán tính giá cước xe Taxi.  Bài toán này GV có thể đưa ra khi dạy về  Bất phương trình ở lớp 10 THPT nhằm phát triển các thành tố của năng lực giải quyết  vấn đề thực tiễn. Bài toán: Gia đình bạn Minh ở Thành phố Vinh có kế hoạch thuê xe taxi về thăm quê   nội và quê ngoại (không đi, về  trong ngày). Quê nội cách nhà 40 km, quê ngoại cách  nhà 95  km.  Qua tìm hiểu, bạn Minh biết được bảng giá của hai hãng taxi có uy tín  (Hình 3) và quyết định chọn lựa chỉ  đi một trong hai hãng taxi đó là Mai Linh hoặc   Taxi Group. Hãy đưa ra lời khuyên cho bạn Minh để  lựa chọn hãng Taxi với chi phí   thấp nhất. Hình 3. Bảng giá taxi của hãng Mai Linh và hãng Taxi Group Sau đây là bảng thống kê tính giá cước đi một chiều của hai hãng taxi (đơn vị  tính: đồng). Hãng taxi Giá mở cửa Tiếp theo   Từ    km   Phí chờ đến km 30 31 trở đi Mai Linh 10.500 (cho 0,7 km)           14.800        12.200   3.000 đồng/mỗi 5 phút Taxi Group 14.000 (cho 0,506 km)        14.900     11.700 2.000 đồng/mỗi 6 phút Bài  toán  trên  có  nhiều  thông  tin  và  chủ  yếu  sử  dụng  nhiều  ngôn  ngữ  thông  thường nên sẽ gây trở ngại cho HS trong việc tìm hiểu và trả lời. Để giải quyết được  và giúp HS phát triển được các thành tố của năng lực giải quyết vấn đề thông qua giải   bài toán trên, cần làm rõ các hoạt động sau: Hoạt động 1.  Tìm hiểu, xác định vấn đề cần giải quyết 12
  13. Để trả lời được các câu hỏi “Gia đình bạn Minh khi về quê nội thì nên đi xe của hãng  nào?”, “Gia đình bạn Minh khi về quê ngoại thì nên đi xe của hãng nào?”. HS cần biết   cách chuyển ngôn ngữ, chúng ta chọn hãng có chi phí thấp nhất, vì vậy việc chọn hãng  nào thực chất là việc  xác  định được chi  phí của  hãng nào  thấp nhất. Vậy thực chất  của bài toán là đi tính chi phí của từng hãng và lựa chọn hãng có chi phí thấp hơn. Với yêu cầu câu 3) “nên chọn đi hãng taxi nào để chi phí là thấp nhất?”, trong câu này   HS cần tính chi phí theo từng hãng theo x, việc xác định chi phí hãng nào thấp hơn đòi  hỏi HS phải so sánh được hai biểu thức theo  ẩn x, do vậy cần chuyển hóa từ  ngôn   ngữ  thực tiễn sang ngôn ngữ  toán học đó là so sánh hai biểu thức chứa x hay đi giải   bất phương trình một ẩn. Hoạt động 2. Xác định các thông tin toán học ( Cơ  hội góp phàn phát triển năng lực   giao tiếp toán học thể hiện qua việc nhận biết thông tin) Chẳng hạn GV có thể  gợi ý HS: Lập bảng thống kê tính giá cước đi một chiều của   hai hãng taxi. Việc lập bảng nhằm làm rõ những thông tin chính, giảm được yếu tố  phụ không cần thiết cho việc lập mô hình toán học của tình huống. Hoạt động 3.  Kết nối được các kiến thức, thông tin liên quan HS cần kết nối được cách tính tiền cước dựa trên các thông tin: giá mở cửa tương ứng  quãng đường bao nhiêu, giá từ 0,7 km đến 30 km, giá cước khi 31 km trở lên. HS cần nhận ra việc tính giá phải được chia thành 3 đoạn khác nhau:  (giá mở  cửa) + (giá đi đến 30 km + (giá đi đến 40 km) giá mở cửa chỉ có giá trị trong  0,7 km đầu tiên, chứ không phải là 1 km, nên việc tính tiền tiếp theo phải được tính  bằng số kilômét tiếp đến 30 km, tức là  km, nhân với giá tiền. Hoạt động 4.  Diễn đạt vấn đề bằng ngôn ngữ toán học ­ HS cần biết chuyển từ bài toán chứa ngữ cảnh thực tế sang mô hình toán học.  Tính giá tiền taxi Mailinh, Group khi đi với quãng đường 40 km, 95 km?  So sánh ti ền phải trả khi  đi taxi Mailinh, Group v ớ i  quãng đ ườ ng  40 km, 95 km. Học sinh sử  dụng những kiến thức, kĩ năng được học để  tìm kiếm chiến lược   giải quyết. ­ HS cần nhận ra cách tính số tiền phải trả đó là: số  kilômét (quãng đường) nhân với   giá tiền.  ­ HS cần biết so sánh tiền cước giữa hai hãng và đưa ra nhận xét nên đi hãng có tiền  cước thấp hơn.  ­ HS cần nhận ra được cách tính số tiền phải trả khi đi taxi Mai Linh trong trường hợp   quãng đường xác định là:  Kinh phí phải trả taxi một chiều về quê nội là: ­ Số tiền phải trả khi đi hãng Mai Linh là:  (đồng) ­ Số tiền phải trả khi đi hãng Taxi Group là:  (đồng) 13
  14. Vì cước phí cầu phà (nếu có) là như nhau nên bạn Minh nên chọn hãng taxi Mai Linh. Kinh phí phải trả taxi một chiều về quê ngoại là: ­ Số tiền phải trả khi đi hãng Mai Linh là:    (đồng). ­ Số tiền phải trả khi đi hãng Taxi Group là:   (đồng). Vì cước phí cầu phà (nếu có) là như  nhau nên bạn Minh nên chọn hãng Taxi   Group. Như vậy, có thể thấy lúc thì chọn hãng này, có lúc lại chọn hãng kia. Câu hỏi   tự nhiên đặt ra cho học sinh là khi nào thì bạn Minh nên chọn hãng nào? Do đó cách tính trong trường hợp chưa biết quảng đường đi bao nhiêu km ( giả sử là x   km) là:   ­ Số tiền phải trả khi đi hãng Mai Linh là:  (đồng).  ­ Số tiền phải trả khi đi hãng Taxi Group là:  (đồng). Giải bài toán: Khi đó, ta sẽ  tìm xem với điều kiện nào thì giá tiền đi bằng hãng Mai  Linh tiết kiệm hơn đi bằng hãng Taxi Group hay không. Tức là ta có bất phương trình:  Chuyển đổi kết quả bài toán sang thực tế:  Nếu bạn Minh đi về quê xa khoảng từ  trở  lên thì nên đi bằng hãng Taxi Group vì phải trả ít tiền hơn, còn nếu đi về quê khoảng  48 km trở xuống đến  thì nên đi bằng hãng taxi Mai Linh.   HS cần phải giải thích được cách tính, giải thích được những ý có thể phát sinh  như không tính phí cầu đường vì do chính mình tự trả, do đó không ảnh hưởng khi so   sánh tiền cước hai hãng theo cách tính trên và tuyến đường đi là duy nhất nên phí là  như nhau.  Việc phân tích theo từng hoạt động trên nhằm cho thấy việc giải bài toán trên   các hoạt động cụ thể là cách thức giúp HS đạt được, rèn luyện và phát triển các năng   lực thành phần tương ứng.  ­ GV có mở rộng hoặc đưa ra các bài toán thực tiễn tương tự được không? Từ bài toán này, GV có thể đưa ra yêu cầu HS trả lời câu hỏi hoặc thực hiện các hoạt  động dưới đây: Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tiếp tục đặt ra các tình huống để  khai thác thêm bài toán, ví dụ như: Trên đường về  quê ngoại thì phải đi qua quê nội,   gia đình ở thăm quê nội 5 giờ sau đó về quê ngoại? Gia đình bạn Minh đi và về trong   ngày?   Hình thức thanh toán có đa dạng? Đối với các tình huống này, học sinh phải  tính thêm kinh phí xe taxi chờ, ưu đãi nếu về ngay trong ngày. Qua ví dụ trên cho thấy rằng sử dụng quá trình toán học hóa trong hướng dẫn  14
  15. học sinh giải quyết các bài toán thực tiễn giúp phát triển năng lực toán học cho học   sinh, cụ thể: thông qua biểu diễn các khoản tiền phải chi trả thông qua số km đi bằng   biểu thức; so sánh hai biểu thức bậc nhất một  ẩn  (tức là giải bất phương trình bậc   nhất một ẩn); sử  dụng kết quả  giải bất phương trình bậc nhất một ẩn để  đưa ra câu  trả lời cho tình huống thực tiễn. Qua đó, có thể  thấy thông qua quá trình toán học hóa,  giáo viên có cơ hội phát triển cho học sinh các năng lực như: năng lực toán học hoá,  năng lực giải toán và năng lực chuyển từ  kết quả  giải toán về giải quyết vấn đề thực  tiễn. Ví dụ  2.   Vận dụng kiến thức về  hàm số  để  giải  quyết các bài toán liên quan đến thực tế.  Một guồng nước có bán kính 1m, đặt trên mặt nước,  quay ngược chiều kim đồng hồ, guồng quay mỗi vòng  hết 360 giây, thời gian được tính từ  vị  trí A mà gầu  nước nằm ngang ở phía trên của guồng ( Xác định theo hình vẽ) a) Tìm hệ thức liên hệ giữa góc  (Điểm G là điểm gắn gầu ở trên guồng,  được tính theo đơn vị độ, và chiều cao  ( tính theo mét) của gầu. b) Tìm hệ thức liên hệ giữa thời gian ( tính bằng giây) và góc  c) Xác định những thời điểm để gầu ở vị trí cao nhất. d) Viết phương trình biểu thị độ cao  của gầu theo thời gian . Sản phẩm: + Học sinh nhận ra được mối quan hệ và biết tạo dựng kết nối giữa góc  và độ cao của gầu.  + Học sinh nhận ra được mối quan hệ và biết tạo dựng kết nối giữa thời gianvà góc + Học sinh nhận biết và sử  dụng kiến thức để  xác định những thời điểm (tính bằng  giây) để gầu đạt vị trí cao nhất. + Biết sử  dụng ngôn ngữ  toán học, ngôn ngữ  thông thường để  biểu đạt độ  cao theo  thời gian. Thông qua các hoạt động học sinh xác định được cách thức chiến lược tương   thích giải quyết vấn đề. Chỉ  ra chứng cứ, lý lẽ, biết lập luận hợp lý trước khi kết   luận. Từ đó góp phần hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư  duy lập luận toán học, năng lực mô hình hóa toán học, năng lực giao tiếp toán học.  Ví dụ 3. Vận dụng kiến thức về xác suất vận dụng vào thực tiễn Một bác sỹ  có xác suất chữa khỏi bệnh là 0,8. Có người nói rằng cứ  10 người đến  chữa thì chắc chắn có 8 người khỏi bệnh. Điều khẳng định đó có đúng không? Cơ  hội góp phần phát triển năng lực giải quyết vấn đề  toán học thể  hiện qua việc   thực hiện các thao tác. ­ Nhận ra vấn đề  cần giải quyết: Kiểm tra xác suất để  10 người đến chữa thì chắc   chắn có 8 người khổi bệnh có phải là 0,8 không? 15
  16. ­ Xác định được cách thức, quy trình giải quyết vấn đề.  Ta có thể xem việc chữa cho   10 người là một phép thử độc lập. Tính xác suất để  trong 10 người đến chữa bện thì  có 8 người khỏi bệnh và so sánh với xác suất chữa khổi bệnh trong bài toán. Thực hiện và trình bày giải pháp. Gọi A là biến cố chữa khổi bệnh cho một người ta có   Khi đó xác suất của biến cố  không chữa khỏi bệnh là cho một người là  xác suất để trong trong 10 người đến chữa   thì có 8 người khỏi bệnh là:  vậy nên khẳng định là sai.   Ví dụ 4. Vận dụng kiến thức về cấp số cộng vào thực tiễn Khi tốt nghiệp phổ thông bạn A không có điều kiện học tiếp, bạn làm công nhân cho  một công ti nước ngoài với thời gian kí hợp đồng (10 năm). Công ti X đề  xuất hai  phương án trả lương cho bạn A, cụ thể là: ­ Phương án 1. Bạn A nhận số tiền 35 triệu đồng cho năm làm việc đầu tiên và kể từ  năm thứ hai, mức lương sẽ được tăng thêm 4 triệu đồng mỗi năm. ­ Phương án 2. Bạn A nhận được nhận 7 triệu đồng cho quý đầu tiên và kể từ quý làm  việc thứ hai mức lương sẽ tăng thêm 500.000 đồng mỗi quý. Em tính giúp cho bạn nên chọn phương án nào? Ta phải tính xem trong 10 năm bạn được nhận tiền lương là bao nhiêu? Học sinh nhận thấy cả hai phương án trả lương sau một năm (một quý) đều tuân theo   một quy luật nhất định. Phương án 1. Đó là cấp số cộng với số hạng đầu là  và công sai  Phương án 2. Đó là cấp số cộng với số hạng đầu là  và công sai  Cách tiếp cận dạy học từ các kĩ năng tính toán, tư duy, trải nghiệm như trên, học sinh   dễ dàng tiếp cận môn toán, học sinh có hứng thú hơn khi học toán. Biện pháp  3: Hướng dẫn HS tự  sưu tầm, tìm hiểu những  ứng dụng của Toán   học để  chuyển những tình huống thực tiễn khi học các môn khoa học tự  nhiên   khác trong chương trình phổ thông theo mô hình bài toán thực tiễn. 1) Mục đích và ý nghĩa của biện pháp: Đây là cơ hội cho học sinh học tập trải nghiệm và   phát triển năng lực của học sinh một biểu hiện cụ thể của quan niệm DH tích cực, phát  huy tối  đa vai trò chủ  thể  của HS trong học tập. HS chủ  động trong mọi hình thức,  mỗi hành động cụ thể. Thêm nữa, HS hoàn toàn có khả năng thực hiện việc  này (chủ  yếu là sưu tầm song không hạn chế khả năng “chế biến”, “sáng tác” của các em để có  được càng nhiều bài toán thực tiễn thuộc càng nhiều lĩnh vực thì càng tốt). Ứng dụng  của toán học mà HS có thể  trực tiếp nhận và phải tìm hiểu, giải quyết trước hết là  qua nội dung học tập nói chung và đặc biệt là các bộ  môn có liên quan  chặt chẽ với  toán học (các môn khoa học tự  nhiên), góp phần thực hiện nguyên tắc liên môn trong  DH. Ngoài việc sưu tầm các bài tập ở các môn học khác đòi hỏi phải sử dụng công  cụ TH để giải quyết thì cần tạo cho HS khả năng tự mình khai thác các bài toán thực   16
  17. tiễn thuộc các lĩnh vực của cuộc sống. 2) Cách thức thực hiện biện  pháp: Nhằm tạo cơ hội để HS có thể sưu tầm, khai thác   các bài toán thực tiễn nói chung thì các yêu cầu sau có thể xem là điều kiện cần: Thứ nhất, người học cần phải có vốn kiến thức toán học cần thiết. Thứ hai, người học cần phải có vốn hiểu biết  thực tiễn  ở mức độ phù hợp với  lứa tuổi và trình độ  trải nghiệm, có vốn ngôn ngữ  tự  nhiên, có khả  năng chuyển đổi  sang ngôn ngữ toán học hoặc ngược lại nói chung. Thứ  ba, người học phải nhận ra được kiến thức toán học tiềm  ẩn trong tình   huống thực tiễn nói  chung  và  tình  huống  của  môn  học  nói  riêng.  Biết  liên  kết  kiến  thức toán học với kiến thức trong thực tiễn trong các môn học khác, với các trải nghiệm  của bản thân trong cuộc sống thực tiễn. ­ Đối với việc nhận ra các bài tập ở các môn học mà khi giải cần phải sử dụng   công cụ toán học: Khi dạy đến một chủ đề toán học cụ thể, GV hướng dẫn HS sưu  tầm các bài tập trong các SGK, các nguồn internet, đề thi. Sau khi hoàn thành quá trình  sưu tầm (sau một  học  kỳ,  một  năm  học),  HS  có  thể  sắp  xếp  các  bài  tập  theo  từng  nhóm  ứng dụng chủ đề kiến thức toán học cụ thể. Một bộ sưu tập như vậy sẽ rất có  ích cho các HS khóa sau, giúp GV chủ động trong DH. Riêng đối với HS thì việc sưu   tầm đó vừa tạo nên hứng thú, vừa rèn luyện được khả năng nghiên cứu, vừa phát triển  năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn. Dưới đây là một số ví dụ minh họa về nhận ra và sưu tầm các bài tập có trong  các bộ môn khác, cần có công cụ toán học khi giải quyết. ­ Đối với các môn học khác: Đối với Vật  lí: Vật lí là môn khoa học thực nghiệm, học  Vật lí trong trường  phổ  thông là học tập gắn liền với thực tiễn thông qua các sự  vật, hiện tượng Vật lí  trong thế giới tự nhiên để  giúp HS hiểu biết các quy luật của nó và cùng chung sống  với thực tiễn đời sống xã hội. Với các đặc thù vốn có của mình, kiến thức toán học  có một vai trò đầy ý nghĩa đối với quá trình phát triển Vật lí. Không thể  nghiên cứu  và phát triển Vật lí nếu thiếu nền tảng toán học. Vì vậy, trong DH cần yêu cầu HS  xác định kiến thức toán được học có thể  sử dụng để giải quyết các vấn đề của vật lí.  Dưới đây là một số ví dụ có trong SGK, sách tham khảo, đề thi của môn Vật lí có sử  dụng đến kiến thức toán học để giải quyết, được sắp xếp theo đơn vị  kiến thức toán  học mà HS có thể nhận ra và sưu tầm theo các chủ đề toán học. Chẳng hạn như: ­ Sử dụng kiến thức về vectơ và phép chiếu vuông góc: đó là bài tập 2 SGK Vật  lí 10 trang 48. Chương trình Nâng cao: Một chiếc thuyền chuyển động ngược dòng  nước với vận tốc 14 km/h so với mặt nước. Nước chảy với t ốc độ  9 km/h so với bờ.   Hỏi vận tốc của thuyền so với bờ? Một em bé đi từ đầu thuyền đến đuôi thuyền với  vận tốc 6 km/h so với thuyền. Hỏi vận tốc của em bé so với bờ? (Thực chất của bài  tập này là tìm cường độ  lực tổng hợp tác dụng lên một vật của hai lực ngược chiều   nhau: Một lực có độ lớn 14 và một lực có độ lớn 9). ­ Sử dụng kiến thức về hàm số và đồ thị: Đề thi tuyển sinh ĐH, CĐ khối A, A 1  năm 2012: Trong giờ thực hành, một HS mắc đoạn mạch AB gồm điện trở  thuần 40 ,  17
  18. tụ điện có điện dung C thay đổi được và cuộn dây có độ tự cảm L nối tiếp nhau theo  đúng thứ tự trên. Gọi M là điểm nối giữa điện trở thuần và tụ điện. Đặt vào hai đầu  đoạn mạch AB một điện áp xoay chiều có giá trị hiệu dụng 200V và tần số 50 Hz. Khi   chỉnh điện dung của tụ điện đến giá trị C thì điện áp hiệu dụng giữa hai đầu  điều  m  đoạn mạch  MB đạt giá trị cực tiểu bằng 75V. Điện trở thuần của cuộn dây là: A. .                  B. . C. .  D. . ­ Sử dụng kiến thức về phương trình, hệ phương trình: Đề thi tuyển sinh ĐH,  khối A, A năm 2012: Từ một trạm phát điện xoay chiều một pha đặt tại vị trí M,  CĐ  1  điện  năng được truyền tải đến nơi tiêu thụ N, cách M 180 km. Biết đường dây có điện   trở tổng cộng  (coi dây tải điện là đồng chất, có điện trở tỉ lệ thuận với chiều dài của   dây). Do sự cố, đường dây bị rò điện tại điểm Q (hai dây tải điện bị  nối tắt bởi một   vật có điện trở  có giá trị  xác định R). Để  xác định vị  trí Q, trước tiên người ta ngắt   đường dây khỏi máy phát và tải tiêu thụ, sau đó dùng nguồn điện không đổi 12V, điện  trở trong không đáng kể, nối vào hai đầu của hai dây tải điện tại M. Khi hai đầu dây  tại N để hở thì cường độ dòng điện qua nguồn là , còn khi hai đầu dây tại N được nối   tắt bởi một đoạn dây có điện trở không đáng kể thì cường độ dòng điện qua nguồn là  0,42 A. Khoảng cách MQ là:  A.            B. . C. . D. . ­ Sử dụng kiến thức về hàm số mũ, logarit: Đề thi THPT quốc gia năm 2015:  Tại vị  trí O trong một nhà máy, một còi báo cháy (xem là nguồn điểm) phát âm với  công suất không đổi. Từ  bên ngoài, một thiết bị  xác định mức cường độ  âm chuyển   động thẳng từ M hướng đến O theo hai giai đoạn với vận tốc ban đầu bằng không và   gia tốc có độ lớn 0,4 m/s2 cho đến khi dừng lại tại N (cổng nhà máy). Biết NO = 10 m   và mức cường độ âm (do còi phát ra) tại N lớn hơn mức cường độ  âm tại M là 20dB.   Cho rằng môi trường truyền âm đẳng hướng và không hấp thụ  âm. Thời gian thiết bị  đó chuyển động từ M đến N có giá trị gần giá trị nào nhất sau đây? A. .                     B. . C. . D. . Đối với Hóa học. Không chỉ trong Vật lí vai trò công cụ của toán học cũng thể  hiện rõ trong việc phát triển hệ thống kiến thức Hóa học. Dưới đây là một số bài toán   minh họa, sắp xếp theo đơn vị kiến thức toán học mà các bài toán cần sử dụng để giải   quyết.  Chẳng hạn như: ­ Sử  dụng  kiến  thức  về  tổ  hợp,  chỉnh  hợp:  Bài  1.33.  tr.8  ­  SBT  Hóa  học  10  Chương trình Nâng cao: Trong tự nhiên oxi có ba đồng vị:  Cacbon có hai đồng vị là  . Hỏi có thể có bao nhiêu loại phân tử khí cacbonic hợp thành từ các đồng vị  trên? Viết công thức phân tử và tính phân tử khối của chúng. ­ Sử  dụng kiến thức về  tính thể  tích khối cầu: Bài 3.63. tr.27 ­ SBT Hóa học  10 Chương trình Nâng cao: Trong mạng tinh thể lập phương tâm diện, các nguyên tử  tiếp xúc với nhau  ở mặt bên. Đường chéo của mặt đó có độ  dài bằng 4 lần bán kính  nguyên tử. Hãy xác định % chiếm chỗ  của nguyên tử  kim loại trong mạng này (Ghi   chú: lập phương tâm diện: Các nguyên tử, ion kim loại nằm trên các đỉnh và tâm các  18
  19. mặt của hình lập phương). ­ Sử dụng kiến thức về hàm số và đồ thị của hàm số bậc nhất:  Bài 6.34. tr.54 ­  SBT Hóa học 12 Chương trình Nâng cao: Vẽ đồ thị biểu diễn số mol CaCO sinh ra  3  phụ  thuộc vào số  mol  tác dụng với dung dịch . Biết dung dịch chứa 1 mol , số mol     tham gia phản ứng lần lượt là: . Dựa vào đồ thị, hãy cho biết số mol  đã tác dụng với    dung dịch để thu được 0,75 mol . ­ Sử dụng kiến  thức  về  hệ phương  trình bậc nhất  2  ẩn:  Bài  1.67. tr.13  ­  SBT  học 10 Chương trình Nâng cao: Trong phân tử có tổng số hạt là 140 hạt,  Hóa  trong đó  số hạt mang điện nhiều hơn số hạt không mang điện là 44 hạt. Số khối của nguyên tử  M lớn hơn số  khối của nguyên tử  X là 23. Tổng số  hạt (p, n, e) trong nguyên tử  M   nhiều hơn trong nguyên tử X là 34 hạt. Viết cấu hình electron của các nguyên tử M và  X. Viết công thức phân tử của hợp chất. Đối với Sinh  học.  Ngoài  Vật lí,  Hóa học  thì Toán học cũng có vai trò quan  trọng đối với việc giải quyết một  số vấn đề Sinh học. Dưới đây là một số bài toán  minh họa, sắp xếp theo đơn vị kiến thức Toán học mà các bài toán cần sử  dụng để  giải quyết. Chẳng hạn  như: ­ Sử dụng kiến thức về hàm số mũ, cấp số nhân: Bài tập Sinh học 10. Cho biết  thời gian thế hệ (thời gian từ khi sinh ra một tế bào vi khuẩn cho đến khi tế  bào vi  khuẩn đó phân chia xong để tạo thành 2 tế bào vi khuẩn) trong điều kiện nuôi cấy đầy  đủ ở 40oC của vi khuẩn E.coli là 20 phút và mỗi tế bào vi khuẩn E.coli có chiều dài 10­ 6  m. Tính chiều dài tổng cộng của tất cả các tế bào vi khuẩn được tạo ra sau 24 giờ  nuôi cấy từ 1 tế bào vi khuẩn E.coli ban đầu? ­ Sử dụng kiến thức về tổ hợp, xác suất: Bài tập trong môn Sinh học: Ở người,  tỉ  lệ  nam/ nữ  xấp xỉ  1:1. Tuy nhiên, trong thực tế,  ở  các gia đình có 2 con thì không  phải gia đình nào cũng có 1 con trai và 1 con gái. Hãy giải thích tại sao như vậy? Khi mỗi gia đình đều sinh 2 đứa con thì xác suất để mỗi gia đình có 1 đứa con  trai và 1 đứa con gái là bao nhiêu? ­ Sử dụng kiến thức về giải phương trình: Bài tập trong môn Sinh học: Ở một  loài gia súc giao phối ngẫu nhiên, tính trạng màu lông do một gen nằm trên nhiễm sắc  thể thường có hai alen quy định. Alen A quy định lông đen trội hoàn toàn so với alen a  quy định lông trắng. Một quần thể của loài này đang ở trạng thái cân bằng di truyền có  số con lông trắng chiếm tỉ lệ 16%. Tìm tần số các kiểu gen thuộc về gen này trong  quần thể. ­ Đối với việc khai thác các bài toán thực tiễn trong các lĩnh vực của đời sống  GV có thể hướng dẫn HS thực hiện một số bước  sau: Công  việc  đó  nên  diễn  ra trong  cả  quá trình  học  toán,  thực  hiện theo trật  tự  học các chủ  đề.  GV có thể đưa ra các nhận xét về bài toán thực tiễn tạo cơ hội phát  triển năng lực giải quyết vấn đề  thực tiễn cho  HS. Yêu cầu sưu tầm,  giải và “chế  biến” các bài toán thực tiễn (không đặt ra như  nhau đối với mọi HS). Tùy theo trình  19
  20. độ mà gợi ý cho từng HS hoặc nhóm thực hiện yêu cầu nào là chủ yếu và chỉ cần đạt  đến mức độ nào. Tuy nhiên vì mục đích cuối cùng là góp phần phát triển năng lực giải  quyết vấn đề thực tiễn nên trong quá trình HS giải toán, đồng thời lại từ đó mà đưa ra  được một số bài toán khác thì GV nên tận dụng các cơ hội để chú ý rèn luyện NL trên  trong DH. Dưới đây là một số ví dụ minh họa cho. Bài toán:  Diện tích (là một bài toán phản ánh một thực tế  đang báo động về  môi trường, kiến thức toán liên quan tới cấp số nhân). Do hiện tượng tan băng, nước biển dâng nên diện tích một hòn đảo trên Thái  Bình Dương mỗi năm bị  chìm thêm 2%. Giả  sử năm 2015 diện tích đảo là 1.200 km2.  Hỏi năm 2030 diện tích của đảo còn lại bao nhiêu? a) Em hãy giải bài toán trên. b) Từ bài toán trên hãy xây dựng các bài toán thực tiễn (có thể dựa vào mô hình  TH của bài toán trên để xây dựng bài toán mới). Mục đích của câu hỏi (a) nhằm yêu cầu HS giải được bài toán để  hiểu nội  dung, từ đó thấy được mô hình Toán học và nội dung Toán học của bài toán. Câu hỏi  (b) nhằm tạo cơ hội để HS liên hệ, kết nối các tình huống khác trong thực tiễn để đưa  ra các bài toán thực tiễn khác. Để  giải quyết được câu hỏi (a) HS phải huy động kiến thức về  Toán học và  kiến thức về địa lí, môi trường. Trong quá trình thực nghiệm đa số  HS biết cách giải   quyết, tuy nhiên một số em lúng túng không biết xử lí thế nào. Trong trường hợp này,   GV có thể  đặt ra câu hỏi “Em hãy tính diện tích hòn đảo năm 2016? năm 2017? năm  2018”, “Từ  các kết quả  trên em hãy dự  đoán được kết quả  diện tích hòn đảo năm   2030?”.  Từ việc giải bài toán ở phần a, HS xác định được mô hình TH của bài toán là đi   xác định số hạng của một cấp số nhân: “Cho  Xác định ”. .  Với câu (b), GV có thể gợi ý để HS đưa ra bài toán sau bằng cách thay đổi việc  xác định diện tích đảo năm 2030 thành năm 2050 (thay đổi n). Bài toán 1: Do hiện tượng tan băng, nước biển dâng nên diện tích một hòn đảo  trên Thái Bình Dương mỗi năm bị  chìm thêm 2%. Giả  sử  năm 2015 diện tích đảo là   1.200 km2, hỏi năm 2050 diện tích của đảo còn lại bao nhiêu? Tương tự như trên, GV có thể gợi ý để HS xây dựng bài toán mới là cho biết  diện tích còn lại và tính số năm tương ứng. Bài toán 2: Do hiện tượng tan băng, nước biển dâng nên diện tích một hòn đảo   trên Thái Bình Dương mỗi năm bị  chìm thêm 2%. Giả  sử  năm 2015 diện tích đảo là   1.200 km2, hỏi năm đến năm bao nhiêu thì diện tích của đảo còn 1.000 km2? GV cũng có thể gợi ý cho HS tìm các tình huống thực tiễn tương thích với mô  hình toán học của bài toán DIỆN TÍCH: Bài toán 3: Mỏ sắt Thạch Khê thuộc tỉnh Hà Tĩnh được xem là mỏ sắt lớn nhất   khu vực Đông Nam Á, được phát hiện từ năm 1960, với trữ lượng khoảng 544 triệu  tấn. Số lượng mỏ lộ thiên ít nên trữ lượng khai thác được rất ít. Đến năm 2014, Công  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0