
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp sửa lỗi khi sử dụng tiếng Việt của học sinh trong trường trung học phổ thông
lượt xem 2
download

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm định hướng cho học sinh những yêu cầu cơ bản khi sử dụng tiếng Việt về các phương diện ngữ âm, chữ viết, dùng từ, đặt câu, cấu tạo văn bản và phong cách ngôn ngữ… Từ đó nhằm khắc phục và hạn chế được cho học sinh những lỗi cơ bản thường mắc phải.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp sửa lỗi khi sử dụng tiếng Việt của học sinh trong trường trung học phổ thông
- SỞ GD - ĐT TỈNH VĨNH PHÚC TRƯỜNG PT DTNT CẤP 2-3 VĨNH PHÚC BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬA LỖI KHI SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT CỦA HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG” Tác giả sáng kiến: Vũ Quang Bình Mã sáng kiến: 04.51. VĨNH PHÚC, NĂM 2021
- MỤC LỤC 1. Lời giới thiệu .................................................................................................... 1 2. Tên sáng kiến ................................................................................................... 1 3. Tác giả sáng kiến ............................................................................................. 2 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến ........................................................................... 2 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến ........................................................................... 2 6. Ngày sáng kiến được áp dụng đầu tiên ......................................................... 2 7. Mô tả bản chất của sáng kiến ......................................................................... 2 NỘI DUNG SÁNG KIẾN ................................................................................... 2 I. Cơ sở lí luận ....................................................................................................... 2 II. Thực trạng vấn đề ............................................................................................. 2 1. Lỗi chính tả........................................................................................................ 3 1.1. Thói quen sử dụng “ngôn ngữ chat” dẫn đến viết sai chính tả ...................... 3 1.2. Phát âm địa phương dẫn đến viết sai chính tả ................................................ 4 1.3. Lỗi viết hoa tuỳ tiện ....................................................................................... 5 1.4. Sai do nhầm lẫn giữa các âm vị khác nhau hoặc cùng một âm vị ................. 5 2. Lỗi về từ ............................................................................................................ 6 2.1. Lỗi lựa chọn.................................................................................................... 6 2.1.1. Chọn sai từ................................................................................................... 6 2.1.2. Chọn từ, ngữ sáo rỗng ................................................................................. 7 2.1.3. Chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản ......................................... 8 2.2. Lỗi kết hợp ..................................................................................................... 8 2.2.1. Kết hợp sai nghĩa từ vựng ........................................................................... 8 2.2.2. So sánh khập khễnh .................................................................................. 10 3. Lỗi về câu ........................................................................................................ 11 3.1. Lỗi sai khi sử dụng dấu câu.......................................................................... 11 3.2. Lỗi do học sinh chưa ý thức rõ về các thành phần trong câu....................... 12 3.3. Lỗi diễn đạt................................................................................................... 12 III. Biện pháp cụ thể ............................................................................................ 13 1. Khắc phục những hệ lụy của “ngôn ngữ @” .................................................. 13 2. Hướng dẫn học sinh cách phát âm: ................................................................ 14 3. Hướng dẫn học sinh cách viết hoa, viết thường sau dấu câu .......................... 14
- 4. Hướng dẫn học sinh cách sử dụng dấu câu ..................................................... 15 5. Hướng dẫn học sinh cách đặt câu, chữa câu ................................................... 17 5.1. Cách đặt câu ................................................................................................. 17 5.2. Phương pháp chữa câu ................................................................................. 18 6. Hướng dẫn học sinh một số mẹo sửa lỗi chính tả ........................................... 20 IV. Những kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tài ............................................ 23 8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có) .............................................. 24 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: ........................................... 24 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung sau: ...................................................................................................................... 25 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): ..................................................................... 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 27 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 28
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển” đối với bộ môn Ngữ Văn nếu chỉ chú trọng đến cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên hay tổ chức dạy học... vẫn là chưa đủ; chúng ta còn cần quan tâm đến việc học tập và nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt bởi đó chính là công cụ quan trọng để các em giao tiếp và khám phá tri thức, hình thành kĩ năng. Để thực hiện quan điểm giáo dục toàn diện theo chỉ đạo của Bộ GD - ĐT, chúng ta không thể bỏ qua bộ môn Ngữ văn bởi từ bao đời nay “Văn học là nhân học”. Dạy văn trong nhà trường là một môn học quan trọng và ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Dạy văn là dạy làm người, dạy cho học sinh cách nói, cách viết sao cho đúng và hay. Vì thế, nhiệm vụ của người giáo viên không chỉ là truyền thụ cho học sinh vốn văn hoá tri thức phổ thông về Văn học mà còn phải giúp học sinh vận dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong cách nói, cách viết sao cho đúng, chuẩn mực. Để đạt được điều đó thì vai trò của người giáo viên rất quan trọng, giáo viên phải chủ động trong việc tìm tòi, nhận diện các lỗi mà học sinh thường hay mắc phải để giúp học sinh hoàn thiện năng lực viết văn và nói năng trong cuộc sống. Trong quá trình giảng dạy và chấm bài, tôi thấy hiện tượng học sinh viết sai chính tả rất phổ biến. Việc mắc lỗi nhiều lần như vậy sẽ làm giảm giá trị của câu văn, bài viết gây khó chịu cho người đọc. Nhất là do thói quen nói năng ở địa phương và việc học sinh chưa có ý thức sửa chữa hoặc không phát hiện được lỗi sai khi nói và viết. Vì thế, tôi chọn áp dụng sáng kiến: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬA LỖI KHI SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT CỦA HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”. Việc lựa chọn đề tài này sẽ có tác dụng định hướng cho học sinh những yêu cầu cơ bản khi sử dụng tiếng Việt về các phương diện ngữ âm, chữ viết, dùng từ, đặt câu, cấu tạo văn bản và phong cách ngôn ngữ… Từ đó nhằm khắc phục và hạn chế được cho học sinh những lỗi cơ bản thường mắc phải. 2. Tên sáng kiến: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬA LỖI KHI SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT CỦA HỌC SINH TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”. 1
- 3. Tác giả sáng kiến - Họ và tên: Vũ Quang Bình - Số điện thoại: 0913379966 - Email: vuquangbinh.c3dtntphucyen@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến - Vũ Quang Bình - Giáo viên trường PT DTNT cấp 2-3 Vĩnh Phúc 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến - Trong trường THPT và THCS khi giảng dạy cũng như chấm trả bài kiểm tra của học sinh. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng đầu tiên - Tháng 9 năm 2020 7. Mô tả bản chất của sáng kiến NỘI DUNG SÁNG KIẾN I. Cơ sở lí luận Văn bản là một thực thể có hai mặt: hình thức và nội dung. Hình thức của văn bản là thuộc tính vật chất của nó tác động vào giác quan của người tiếp nhận; khi nói, hình thức đó chính là ngữ âm, tác động vào thính giác; khi viết, hình thức đó hiện ra bằng chữ viết, tác động vào thị giác. Nội dung của văn bản là những ý nghĩa hàm chứa bên trong văn bản, mà những thuộc tính vật chất của mặt hình thức có thể gợi ra trong não bộ người tiếp nhận. Hai mặt ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, quy định lẫn nhau. Quan tâm tới văn bản chính là phải quan tâm tới hai mặt, hình thức và nội dung của nó. Nhận thức này rất cần thiết đối với sự rèn luyện về năng lực nói và viết. Lâu nay, theo thói quen, ta thường dùng hai tiêu chuẩn đúng và hay để đánh giá một văn bản (nói và viết). Đó là một thói quen đúng đắn. Có thể xem nói và viết đúng chính là làm cho văn bản đáp ứng những yêu cầu về tính chính xác; nói và viết hay chính là làm cho văn bản đáp ứng những yêu cầu về tính nghệ thuật. II. Thực trạng vấn đề Thực trạng những lỗi phổ biến khi sử dụng tiếng Việt Trong quá trình giảng dạy, qua các bài kiểm tra theo phân phối chương trình, qua việc chấm bài tôi nhận thấy phần đông học sinh đều không phát hiện 2
- được lỗi sai khi nói, thậm chí trong bài viết học sinh còn mắc khá nhiều lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu... Thực tế phân phối chương trình dành cho phần Tiếng Việt ít, thời lượng một tiết trả bài 45 phút nên việc sửa chữa lỗi sử dụng tiếng Việt cho học sinh của giáo viên trên lớp chưa được nhiều. Qua thống kê, học sinh mắc phải những lỗi sau: 1. Lỗi chính tả Chính tả là phân môn nhằm rèn cho học sinh kĩ năng viết, nghe, đọc và làm các bài tập chính tả, rèn luyện các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Kĩ năng chính tả thực sự cần thiết không chỉ đối với học sinh mà còn với tất cả mọi người. Khi đọc một văn bản viết đúng chính tả, người đọc có cơ sở để hiểu đúng nội dung văn bản đó. Trái lại, một văn bản mắc nhiều sai sót về chính tả, người đọc khó nắm bắt nội dung và có thể hiểu sai hoặc không hiểu đầy đủ văn bản. Viết chính tả đúng còn giúp học sinh học tốt các phân môn khác, là cơ sở cho việc học bộ môn Tiếng Việt ở tiểu học. Chính tả còn bồi dưỡng cho học sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong công việc như: cẩn thận, chính xác, óc thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm. Tuy nhiên hiện nay nhiều học sinh vẫn mắc lỗi sai chính tả trong quá trình sử dụng tiếng Việt. Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi như: 1.1. Thói quen sử dụng “ngôn ngữ chat” dẫn đến viết sai chính tả Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và intenet, một loại ngôn ngữ mới do giới trẻ sáng tạo đã ra đời - “ngôn ngữ @”. Ngôn ngữ này ngày càng phát triển và có những tác động lớn đến tiếng Việt. Những xu thế ngôn ngữ “chat” của giới trẻ chia ra làm hai nhóm như sau: Xu hướng đơn giản hóa. Đây là khuynh hướng phổ biến nhất. Chỉ cần lướt qua phòng chat hay diễn đànchúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những kiểu diễn đạt như: wá, wyển (quá, quyển); wen (quen); wên (quên); iu (yêu); lun (luôn); bùn (buồn); bitk? (biết không?); bít rùi (biết rồi); mí (mấy); dc (được); ko, k (không); u (bạn, mày), ni (nay), en (em), m (mày), ex (người yêu cũ), t (tao), hem (không), Bít chít lìn (biết chết liền) v.v. Xu hướng thứ hai là phức tạp hóa . Xu hướng này tuy không phát triển mạnh mẽ như xu hướng thứ nhất nhưng nó vẫn tồn tại như một cách để thể hiện sự khác biệt “sành điệu”của giới trẻ: dzui (vui), thoai (thôi), dzìa (về), roài (rồi), khoai (khó) >
- “trong cuộc” nhiều khi cũng không thể hiểu hết được những nội dung do những sáng tạo mang nặng tính cá nhân như vậy. Không dừng lại ở đó, thứ ngôn ngữ này còn được các em đưa vào trong những bài làm văn: - Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, em hứa sẽ lun (luôn) cố gắng hok (học) hành chăm chỉ. - Không bít (biết) tự khi nào hoa phượng được gọi là hoa học trò. - Nỗi bùn (buồn) trong thơ Huy Cận cũng là nỗi bùn (buồn) chung của một lớp nhà thơ mới khi họ không tìm thấy mối dây liên hệ với cuộc sống thực tại. Xuân Dịu (Diệu) là nhà thơ của mùa xuân, tình iu (yêu) và tuổi trẻ Việc sử dụng "ngôn ngữ chat" thường xuyên sẽ làm các em không ý thức được trách nhiệm giữ gìn, phát triển ngôn ngữ dân tộc, quên đi bài giảng về sự trong sáng của tiếng Việt mà thầy cô đã dày công dạy bảo. Nếu cứ theo đà này thì thật khó để tìm những ngôn từ đẹp, lời văn hay trong lứa tuổi thanh thiếu niên. 1.2. Phát âm địa phương dẫn đến viết sai chính tả - Nghĩa của các từ ngữ và vỏ ngữ âm của chúng gắn bó với nhau chặt chẽ. Để người khác hiểu đúng ý nghĩa muốn diễn đạt, cần phát âm đúng hình thức ngữ âm, viết đúng hình thức chính tả của từ ngữ. Việc phát âm sai, viết sai chính tả dẫn đến người nghe, người đọc hiểu sai ý định cần truyền đạt. - Do thói quen phát âm của địa phương, của cá nhân ở một số từ ngữ nên dẫn đến hiện tượng phát âm sai, viết sai. Cụ thể, người viết có thể dễ mắc lỗi chính tả khi viết các từ: + Bắt đầu bằng : ch/tr; d/gi/r; x/s; l/n... + Chứa các vần : iu/ưu; iêu/ươu, ay/ây; ua/ươ... Ví dụ: Phát âm Viết sai Viết đúng Xím Xím Thím Ốc biêu Ốc biêu Ốc bưu Ông lời Ông lời Ông trời Bẩu ban Bẩu ban Bảo ban Liu giữ Liu giữ Lưu giữ Uống riệu Uống riệu Uống rượu 4
- + Phát âm sai L và N (đây là lỗi phát âm sai phổ biến của học sinh huyện Kim Sơn) dẫn đến viết sai. Việc phát âm sai, dẫn đến viết sai chính tả thường có thể gây hiểu lầm, làm cho văn bản thiếu chính xác, giảm hiệu quả truyền đạt. Ví dụ: Phát âm Viết sai Viết đúng Tha nỗi Tha nỗi Tha lỗi Nối đi Nối đi Lối đi Lết la Lết La Nết na Nàng nước Nàng nước Làng nước No nắng No nắng Lo lắng Nung ninh Nung ninh Lung linh 1.3. Lỗi viết hoa tuỳ tiện Số lượng học sinh viết hoa tuỳ tiện không nhiều nhưng chúng ta cũng cần chú ý sửa lỗi, đặc biệt là chữ T, chữ N, chữ C,.. Ví dụ: - Trọng Thuỷ bước Tới gần Mỵ Châu. - Trọng Thuỷ nhìn theo bóng Người ấy. - Thánh Gióng là tác phẩm giàu tinh thần yêu Nước. - Cô ấy đang nói Chuyện với mẹ tôi… 1.4. Sai do nhầm lẫn giữa các âm vị khác nhau hoặc cùng một âm vị Trên thực tế bài kiểm tra, học sinh thường hay mắc lỗi: lỗi do lẫn lộn giữa hai âm vị khác hẳn nhau như: S - X, CH - TR, L - N và lỗi do chưa phân biệt được các chữ viết khác nhau của cùng một âm vị: Ví dụ: [K] : C [Z] : D K GI Q R Ví dụ: Viết sai Viết đúng Viết sai Viết đúng * Cặp: D, GI, R: * Cặp: L - N: Sinh da Sinh ra Lết la Nết na Dữ gìn Giữ gìn Bao nâu Bao lâu Giản gị Giản dị Có nỗi Có lỗi 5
- Bịn dịn Bịn rịn Nó mặt Ló mặt Rãi bày Giãi bày Nâng nâng Lâng lâng Giương gian Dương gian ( chỉ trạng thái) Giấu vết Dấu vết Nỗi lầm Lỗi lầm Rao sắc Dao sắc Lền nếp Nề nếp Rao nộp hàng Giao nộp hàng… Niên miên Liên miên… 2. Lỗi về từ Trong ngôn ngữ thì từ là cái quan trọng nhất. Nói cách khác, trong ngôn ngữ, từ là chất liệu cơ bản, được sử dụng để tạo ra những đơn vị, kết cấu ở bậc cao hơn. Vì thế, không có từ, con người không thể tiến hành giao tiếp được, và như vậy, bản thân ngôn ngữ cũng không tồn tại. Có thể xem xét vai trò của từ từ hai góc độ.Về phía người tạo lập văn bản (người nói, người viết), để truyền đạt một nội dung thông báo nào đó, tất nhiên phải tạo ra lời cụ thể, tồn tại dưới một loại hình ngôn bản cụ thể. Trong quá trình tạo câu, tạo đoạn... trong ngôn bản, công việc cơ bản của người nói (viết) là lựa chọn và kết hợp từ để tạo thành câu, đoạn v.v... Về phía người tiếp nhận văn bản (người nghe, người đọc), khi nghe, đọc, trước hết là tiếp xúc với từ (dưới dạng âm thanh hay kí hiệu chữ viết) và hiểu được từ, trên cơ sở đó mới hiểu được câu, đoạn... và cuối cùng là hiểu được nội dung toàn ngôn bản. Từ có vai trò vô cùng quan trọng như vậy, nên năng lực ngôn ngữ của một cá nhân thể hiện rõ nhất, dễ nhận thấy nhất qua việc dùng từ, xét ở cả hai mặt: đúng và sai, hay và dở. Trong quá trình sử dụng từ ngữ, học sinh thường mắc các lỗi sau: 2.1. Lỗi lựa chọn Nói đến lỗi lựa chọn từ, chủ yếu là xét qua hai mối quan hệ : - Giữa nội dung muốn biểu đạt với nghĩa của từ được dùng. - Giữa giá trị phong cách của từ được dùng với phong cách ngôn ngữ văn bản. Trên cơ sở đó, lỗi lựa chọn từ được chia thành ba kiểu lỗi sai nhỏ: 2.1.1. Chọn sai từ Chọn sai từ là chọn từ mà nghĩa của nó không phù hợp với nội dung muốn biểu đạt, tức khái niệm, hành động, tính chất, trạng thái... mà người viết muốn nói đến. Nói cách khác, chọn sai từ là hiện tượng nghĩa của từ được dùng và nội dung muốn biểu đạt có sự chênh lệch ở mức độ này hay mức độ khác. 6
- Ví dụ: (a) Tất cả mọi hành động, suy nghĩ của mình, chị Út đều dồn vào tương lai của đàn con. (b) Trái lại, lũ quan lại dưới triều đình chỉ biết hợp tác với nhau, dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để bóc lột nhân dân, ăn chơi xa xỉ . Trong ví dụ (a) dồn có nghĩa là: cùng một lúc tập trung tất cả cả yếu tố, bộ phận vào một nơi, một vật chứa đựng nào đó. Nhưng nội dung mà học sinh muốn biểu đạt là nhắm vào, hướng về: chị Út hướng tất cả mọi suy nghĩ, hành động của chị vào tương lai của đàn con. Trong ví dụ (b), có ba từ chọn sai: dưới, hợp tác, xa xỉ. Dưới chỉ vị trí thấp hơn trong không gian so với một vị trí xác định nào đó, hay thấp hơn các vị trí khác nói chung. Nghĩa của từ dưới trong câu không phù hợp với nội dung muốn biểu đạt: thuộc phạm vi. Còn hợp tác có nghĩa là: cùng chung sức với nhau trong một công việc, một lãnh vực hoạt động nào đó, nhằm một mục đích chung. Nói hợp tác còn bao hàm sự đánh giá cao, tốt đẹp. Nhưng nội dung mà học sinh muốn biểu đạt là: hợp thành một phe cánh, một lực lượng để thực hiện âm mưu, hành động xấu xa. Xa xỉ có nghĩa là: tốn nhiều tiền mà không thật cần thiết, chưa cần thiết. So với nội dung muốn biểu đạt: quá sang trọng và mang tính chất lãng phí, thì nghĩa của từ xa xỉ hoàn toàn không phù hợp. 2.1.2. Chọn từ, ngữ sáo rỗng Tữ, ngữ sáo rỗng là những từ, ngữ đọc lên nghe rất kêu (sáo), nhưng nghĩa của chúng vượt quá tính chất, mức độ cần thiết so với nội dung muốn biểu đạt, trở nên cường điệu, huênh hoang, rỗng tuếch. (a) Bài thơ Tiếng ru của Tố Hữu (...) là một đỉnh cao muôn trượng. (b) Chúng ta phải ra sức học tập để góp một phần công lao vĩ đại của mình đưa đất nước tiến lên tầm cao thời đại. Trong ví dụ (a), học sinh đã đánh giá bài thơ Tiếng ru của Tố Hữu là đỉnh cao muôn trượng. Một bài thơ, dù là thành công đến đâu, cũng khó mà đạt đến đỉnh cao muôn trượng. Trong ví dụ (b), học sinh muốn đóng góp một phần- chỉ một phần thôi - công lao vĩ đại của mình để đưa nước nhà tiến lên tầm cao của thời đại. Quả là quá huênh hoang, đại ngôn. 7
- 2.1.3. Chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản Từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản là những từ, ngữ mà giá trị phong cách của nó không phù hợp với phong cách ngôn ngữ văn bản. Cũng giống như các ngôn ngữ khác, trong tiếng Việt, không phải tất cả các đơn vị từ vựng và cụm từ cố định đều có thể sử dụng trong tất cả các lãnh vực giao tiếp. Mà ở đây, thường xảy ra hiện tượng chuyên dùng, tức là việc ưu tiên sử dụng từ, cụm từ cố định hay có xu hướng cố định hóa trong từng lãnh vực giao tiếp khác nhau. Giá trị phong cách của từ, ngữ là nét nghĩa phụ của từ, ngữ, cho biết từ, ngữ thường được ưu tiên sử dụng trong phạm vi giao tiếp nào, tức là phong cách ngôn ngữ nào (trong phong cách khẩu ngữ tự nhiên hay phong cách ngôn ngữ gọt giũa, trong phong cách ngôn ngữ hành chánh, khoa học hay phong cách ngôn ngữ văn chương...). Nếu một từ, ngữ nào đó vốn được chuyên dùng trong phong cách ngôn ngữ này, nhưng học sinh lại sử dụng trong phong cách khác, thì đó chính là hiện tượng chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản. Trong bài viết của học sinh, kiểu lỗi này thường thể hiện ở việc sử dụng các đơn vị từ vựng, các cụm từ cố định hay có xu hướng cố định hóa thuộc phong cách khẩu ngữ tự nhiên mà bài viết của học sinh lại thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học. Do đó, các từ, cụm từ này trở thành lỗi sai. Ví dụ: (a) Ðọc tác phẩm, em thấy thương yêu và cảm phục anh Trỗi, chị Quyên quá chừng! (b) Chị Út Tịch là một người phụ nữ anh hùng quá xá cỡ ! Trong các ví dụ trên, các tổ hợp từ quá chừng, quá xá cỡ, chúng thuộc phong cách khẩu ngữ tự nhiên. Dùng những tổ hợp này trong bài viết là sai phong cách ngôn ngữ văn bản. 2.2. Lỗi kết hợp Lỗi kết hợp là loại lỗi dùng từ, ngữ được xét qua mối quan hệ về nghĩa từ vựng giữa các từ, ngữ trong cấu tạo cụm từ. Dựa vào đặc điểm, tính chất của các hiện tượng vi phạm, có thể chia lỗi kết hợp thành các kiểu lỗi nhỏ như : kết hợp sai nghĩa từ vựng, kết hợp trùng lặp, thừa từ và so sánh khập khễnh. 2.2.1. Kết hợp sai nghĩa từ vựng Kết hợp sai nghĩa từ vựng là kiểu lỗi sai thể hiện qua hiện tượng kết hợp từ tạo thành cụm từ mà nội dung nghĩa giữa các thành tố không tương hợp 8
- với nhau, làm cho nghĩa của cả cụm trở nên luẩn quẩn, mơ hồ hay lệch lạc so với ý đồ biểu đạt. Xem xét các ví dụ dưới đây : (a) Vì thế mà văn học thời kì này đã để lại bao tác phẩm quý giá về văn học yêu nước của nhiều tác giả như Nguyễn Ðình Chiểu, Nguyễn Thông... (BVHS). (b) Chị Sứ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc, gần kề cái chết, nhưng chị không hề lo sợ về mình, chỉ nghĩ đến cách mạng, đồng đội (BVHS). (c) Chị Út Tịch được giao nhiệm vụ cực kì quan trọng trong khi chị đang có con chưa thành người(BVHS). (d) Không có miếng ăn, người mẹ không tiếc gì cái chết của chính mình mà chỉ thương cho các con vô tội, phải chết oan uổng (BVHS). (e) Nỗi thất vọng của tình yêu còn lớn hơn vì tình yêu dẫn đến không đưa tới hạnh phúc (BVHS). Trong ví dụ (a) , nội dung biểu đạt của cụm từ bao tác phẩm quý giá về văn học yêu nước, luẩn quẩn. Sự luẩn quẩn này bộc lộ qua mối quan hệ về nghĩa giữa bao tác phẩm quý giá với văn học yêu nước. Trong ví dụ (b), sự lệch lạc của cụm từ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc bộc lộ qua mối quan hệ về nghĩa giữa đang nằm với sự thâm độc của bọn giặc. Bởi vì sự thâm độc của bọn giặc không phải là một phạm vi không gian, cho nên không thể kết hợp với đang nằm. Trong ví dụ (c), nội dung biểu đạt của cụm từ đang có con chưa thành người có sự mâu thuẫn về nghĩa giữa đang có con với chưa thành người. Ðã nói đang có con thì không thể nói chưa thành người. Bởi vì con ở đây cũng là con người. Trong ví dụ (d), không tiếc gì không tương hợp với cái chết của chính mình. Bởi vì không tiếc gì có nghĩa là: sẵn sàng rời bỏ, sẵn sàng chịu mất đi, chịu hi sinh. Mà cái chết của chính mình thì không thể nào là đối tượng của việc sẵn sàng rời bỏ, sẵn sàng chịu mất đi, chịu hi sinh. Trong câu (e), nội dung biểu đạt của cụm từ dẫn đến không đưa tới có sự mâu thuẫn về nghĩa giữa dẫn đến với không đưa tới. (Ngoài ra, trong câu này, học sinh còn chọn sai từ của, phải thay bằng từ trong mới đúng). 9
- Hiện tượng kết hợp sai nghĩa từ vựng có nhiều mức độ khác nhau, dẫn đến hậu quả khác nhau. Kết hợp sai nhẹ sẽ làm cho cụm từ luẩn quẩn hay lệch lạc về nghĩa. Các câu (a), (b) thuộc trường hợp này. Kết hợp sai nặng có thể làm cho các thành tố trong cụm từ mâu thuẫn với nhau về nghĩa. Chẳng hạn như trong các câu (c), (d), (e) đã dẫn. 2.2.2. So sánh khập khễnh So sánh khập khễnh là loại lỗi kết hợp, trong đó đối tượng được so sánh và đối tượng dùng để so sánh không có dấu hiệu tương đồng hay dấu hiệu tương đồng không tiêu biểu. Trên bình diện tu từ, so sánh là một biện pháp trau chuốt, gọt giũa từ ngữ, trong đó, người viết đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một dấu hiệu tương đồng nào đó, nhằm làm nổi bật lên đặc điểm của đối tượng được nói đến. So sánh tu từ nếu được vận dụng đúng, giữa đối tượng được so sánh và đối tượng dùng để so sánh có dấu hiệu tương đồng, mang tính chất tiêu biểu, thì ngôn ngữ trở nên sinh động, giàu sắc thái gợi tả, gợi cảm. Ví dụ: Chế độ phong kiến nanh ác đã cướp lại miếng mồi ngon của nó. Thúy Kiều sẽ như đóa hoa trên ngọn sóng, ba chìm bảy nổi, phiêu dạt khôn cùng (NLPBCL, T.III). Nhưng nếu học sinh không nắm vững cách dùng biện pháp tu từ này thì dễ dẫn đến hiện tượng so sánh khập khiễng, một kiểu lỗi kết hợp. Ví dụ: (a) Mẹ con chị Út giống như những vì sao trên trời, sau cơn mưa, những vì sao ấy quần tụ lại với nhau, sáng lấp lánh(BVHS). (b) Sức mạnh của đoàn kết như một đàn trâu cày phăng phăng thửa ruộng(BVHS). (c) Nếu như những thiên thần thoại, truyền thuyết giống như những lớp sóng cồn giữa đại dương ầm ì vang dội, thì những câu ca dao, dân ca giống như cơn gió thoảng giữa trưa hè ru ngủ hồn ta”(BVHS). Trong câu (a), giữa Mẹ con chị Út, đối tượng được so sánh, và những vì sao trên trời, đối tượng dùng để so sánh, không có điểm tương đồng nào cả. Biện pháp so sánh này không thể chấp nhận được. Trong ví dụ (b), đối tượng dùng để 10
- so sánh quá thô vụng. Không thể dùng hình ảnh một đàn trâu cày phăng phăng thửa ruộng để ví von với sức mạnh của đoàn kết. Trong câu (c), học sinh đã dùng phép so sánh hai lần. Thứ nhất là so sánh những thiên thần thoại, truyền thuyết với những lớp sóng cồn giữa đại dương. Ở đây, khó mà xác định được dấu hiệu tương đồng giữa hai đối tượng. Thứ hai là so sánh những câu ca dao với cơn gió thoảng giữa trưa hè. Ðọc thoáng qua, tưởng chừng như có thể chấp nhận được. Nhưng cân nhắc kĩ, chúng ta thấy cách so sánh này vẫn khập khễnh. Bởi vì, nội dung ca dao, dân ca không chỉ là nhẹ nhàng, mát mẻ như cơn gió thoảng giữa trưa hè. Lỗi so sánh khập khễnh xuất hiện tương đối ít trong bài viết của học sinh, ít nhất so với các loại lỗi dùng từ khác. 2.2.3. Sử dụng từ Hán Việt không đúng nghĩa Ví dụ 1: Chúng ta không nên bàng quang trước hiện thực. → Viết đúng: bàng quan. Ví dụ 2: Viện kiểm soát. → viết sai. → viết đúng: Kiểm sát. Ví dụ 3: Tôi nghe phong phanh nó thi đỗ đại học. → viết sai. → viết đúng: Phong thanh Hoặc: yếu điểm, nghĩa là điểm quan trọng (giống như yếu nhân = người quan trọng, yếu huyệt = huyệt quan trọng) nhưng lại được dùng với nghĩa là nhược điểm, thiếu sót, yếu kém,… khi viết: Ngoài những thành tích đáng tự hào trên, chúng ta cũng còn một số yếu điểm cần phát huy. Lỗi này không đơn thuần là viết sai chính tả mà thực chất là hiểu sai nghĩa. 3. Lỗi về câu 3.1. Lỗi sai khi sử dụng dấu câu - Đây là lỗi mà học sinh viết sau mỗi dấu chấm câu không viết hoa, hoặc sử dụng dấu chấm than, dấu ba chấm, dấu gạch ngang... một cách tuỳ tiện. - Do người viết không hiểu được công dụng của dấu câu; Nhầm lẫn các thành phần nên không biết chỗ đánh dấu, hậu quả khiến câu không rõ ràng, câu khác về nghĩa, hoặc có nội dung hoàn toàn khác. Ví dụ: Bò cày không được giết thịt. Nếu thêm dấu phẩy, câu sẽ có nội dung mới như sau: 11
- 1, Bò cày, không được giết thịt. 2, Bò cày không được, giết thịt. 3.2. Lỗi do học sinh chưa ý thức rõ về các thành phần trong câu - Lỗi câu không đủ các thành phần (Câu thiếu các bộ phận Chủ ngữ, Vị ngữ, hoặc thiếu cả Chủ ngữ, Vị ngữ). + Lỗi thiếu chủ ngữ: Ví dụ: Bằng trí tuệ sắc bén, thông minh của người lao động không những đấu tranh trực tiếp mà còn đấu tranh gián tiếp chống chế đọ phong kiến. + Lỗi thiếu vị ngữ: Ví dụ: Tình cảm của chúng tôi dành cho người thầy, người thầy đã cho chúng tôi những bài học đầu tiên về cuộc sống. + Lỗi thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ: Ví dụ: Để có cơ hội nhận được việc làm như ý trong tương lai, ngay từ bây giờ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. - Lỗi do không biệt rõ thành phần trạng ngữ và chủ ngữ: Ví dụ: Với tôi nó là người bạn tốt. - Lỗi do không phân định rõ định ngữ, phần phụ chú và vị ngữ: Ví dụ: Nguyễn Đình Chiểu, nhà thi sĩ mù, yêu nước của dân tộc Việt Nam. - Lỗi do không ý thức rõ về trật tự cần có của thành phần câu: Ví dụ: Qua mỗi lần như vậy, người ta sẽ tích luỹ được kinh nghiệm và thành công nhất định về sau. - Lỗi do chưa ý thức rõ về mối quan hệ giữa các câu với nhau hoặc mối quan hệ ý nghĩa giữa các bộ phận trong câu: Ví dụ: Vì phong trào “ Ba đảm đang” đang phát triển sôi nổi khắp nơi, nên chị em phụ nữ của chúng ta đã đóng góp rất nhiều thành tích to lớn vào công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, xây dựng tổ quốc giầu mạnh. - Lỗi về câu thiếu thông tin Ví dụ: Nó đá bóng bằng hai chân. Hoặc: Nó nhìn tôi bằng đôi mắt. 3.3. Lỗi diễn đạt Trong bài viết của học sinh đa phần mắc loại lỗi này. Ví dụ 1: Con mồi bị trúng tên, giãy giụa, rồi bỏ chạy thục mạng. 12
- Thiếu lôgíc. Ví dụ 2: Sau khi thi đỗ, ba tôi mua cho tôi một chiếc đồng hồ. Mơ hồ về nghĩa. Ví dụ 3: Họ úp cái nón lên mặt, nằm ngủ một giấc cho đến chiều. Câu sai về logic, trật tự từ không đúng trình tự. III. Biện pháp cụ thể 1. Khắc phục những hệ lụy của “ngôn ngữ @” - Để khắc phục những hệ lụy của “ngôn ngữ @”, các bạn trẻ cần tích cực tham gia trao đổi trong những môi trường tích cực như trường, lớp, Đoàn hội, trau dồi vốn hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc, tiếp thu những yếu tố mới trên cơ sở có xem xét chọn lọc, không cổ xúy, chạy theo những xu hướng mà ngay chính bản thân cũng chưa hiểu chưa rõ. - Trong gia đình, các bậc phụ huynh cần có sự quan tâm, chia sẻ với con cái, nên xem con em mình như những “người bạn” để hiểu được tâm tư nguyện vọng của giới trẻ hiện nay và đưa ra những lời khuyên một cách thiết thực nhất,. giúp các em có nhiều cơ hội được tiếp xúc, giao lưu học hỏi, cũng như trạng bị những hiểu biết văn hóa, ứng xử ngay từ chính những hoạt động, sinh hoạt trong gia đình. - Thầy cô - những người có ảnh hưởng trực tiếp đến các bạn trẻ, những người định hướng, giúp các em hoàn thiện vốn ngôn ngữ của mình cần phải là những tấm gương về sử dụng ngôn ngữ, kiến thức ngôn ngữ. Thầy cô thường xuyên thiết lập các kênh đối thoại để từ đó khích lệ, nhắc nhở hay chấn chỉnh hoạt động ngôn ngôn ngữ của học sinh. - Nhà trường cần định hướng cho các em những giá trị tốt đẹp của tiếng Việt, từ đó nâng cao ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tạo thêm nhiều cơ hội, cũng như khích lệ tinh thần học hỏi nói và làm theo lời hay ý đẹp. Bên cạnh đó, nhà trường cũng cần có những biện pháp để chấn chỉnh những em đi ngược lại xu thế đó. - Các cơ quan thông tin truyền thông cần xây dựng cách nói, viết chuẩn mực góp phần định hướng xã hội; Cần có thái độ cầu thị kiên quyết chống lại những cách diễn đạt lệch chuẩn, những xu hướng không phù hợp làm mất đi sự trong sáng và chuẩn hóa của tiếng Việt, từ đó giúp giới trẻ có được định hướng đúng đắn. 13
- 2. Hướng dẫn học sinh cách phát âm: - Âm L: Khi phát âm lưỡi cong, hơi đẩy ra đằng miệng (ngạc lưỡi). - Âm N: Khi phát âm lưỡi chạm lợi, hơi đẩy lên mũi (lưỡi lợi). Đây là lỗi phát âm chủ yếu của học sinh khu vực huyện Kim Sơn, do vậy giáo viên cần thường xuyên nhắc nhở học sinh, (kể cả lúc nói chuyện ngoài giờ học) để tạo thành ý thức khi nói và viết. Việc sửa cách phát âm chuẩn L/ N cần chú ý kiên trì và đòi hỏi thời gian dài vì từ cấp dưới học sinh chưa có ý thức sửa chữa. Lỗi sai lạc về ngữ âm: Ví dụ : Viết đúng Viết sai Thầy giáo dạy học. Thày giáo dậy học. Dậy mà đi. Dạy mà đi. Cảm ơn các bạn. Cám ơn các bạn Hằng ngày tôi vào học lúc 7h. Hàng ngày tôi vào học lúc 7h. Phải mất hằng tháng trời tôi mới viết Phải mất hàng tháng giời tôi mấy viết xong cuốn sách. xong cuấn sách/ Cho tôi đi chơi với nhé Cho tôi đi chơi mới nhé. Sáng nay chúng tôi đi tham quan. Sáng nay chúng tôi đi thăm quan. Anh ấy trả lời rất khảng khái… Anh ấy trả lời rất khẳng khái… 3. Hướng dẫn học sinh cách viết hoa, viết thường sau dấu câu Để tránh được những lỗi viết hoa, người viết phải nắm được và biết vận dụng đúng các quy tắc viết chữ hoa. - Sau dấu chấm: + Tất cả các từ (bất kể tên riêng, tên chung) đều phải viết hoa chữ cái mở đầu âm tiết. + Sau khi chấm xuống dòng, tất cả các từ đều phải viết hoa chữ cái mở đầu âm tiết và thụt vào đầu dòng với khoảng cách của một âm tiết ở dạng cấu tạo đầy đủ (1 từ). - Sau dấu phẩy: tất cả các từ đều viết bình thường, trừ các tên riêng, và các từ có giá trị thay thế tên riêng thì phải viết hoa. - Sau dấu chấm phẩy: viết như sau dấu phẩy. - Sau dấu chấm than: phải viết hoa như sau dấu chấm. 14
- - Sau dấu chấm hỏi: phải viết hoa như sau dấu chấm. - Sau dấu chấm lửng (dấu ba chấm): tuỳ từng trường hợp mà viết hoa hay viết thường. + Viết hoa trong trường hợp: sau dấu ba chấm là một câu mới. Ví dụ: Họ đã qua Đèo Cả, Đèo Ngang, Đèo Khế… Cuối cùng, họ đã đến nơi tập kết. + Không viết hoa trong trường hợp: sau dấu ba chấm chỉ là một bộ phận của câu có liên quan với bộ phận ở trước dấu ba chấm. Ví dụ: Trong các văn bản hiến pháp, ngoại giao… thường có các loại câu đồng chức năng. - Sau dấu hai chấm: tuỳ từng trường hợp mà viết hoa hay viết thường. + Sau dấu hai chấm là một câu hoặc là bộ phận mở rộng của vị ngữ, bổ ngữ, hoặc là một bộ phận liệt kê, giải thích cho sự kiện, hành động thì phải viết hoa. Ví dụ: Nó nhìn thấy cô gái: Tóc dài, áo nâu, quần xắn gọn tới quá đầu gối. + Sau dấu hai chấm là bộ phận mở rộng chủ ngữ của câu hoặc là một bộ phận tương đương với vị ngữ thì viết thường. Ví dụ : Các từ: bàn, ghế, tủ… là các thực từ. - Sau dấu gạch ngang: viết hoa như sau dấu hai chấm. - Trong dấu ngoặc đơn: + Trong dấu ngoặc đơn là một câu mới, độc lập với câu trước đó, hoặc là một đoạn câu giải thích thì viết hoa chữ cái của âm tiết đầu tiên giống như sau dấu chấm. Ví dụ: Mấy lần Thắm cứ nhìn hắn (Hình như có lần cô đã gặp hắn ở chiến khu). + Trong dấu ngoặc đơn là một bộ phận không độc lập, chỉ có chức năng giải thích hoặc mở rộng cho thành phần nào đó của câu thì viết thường. Ví dụ: Cô ta cười (lần nào cũng vậy). - Trong dấu ngoặc kép: chỉ viết thường khi liệt kê một loạt các sự kiện nhằm mở rộng hoặc giải thích cho thành phần câu. Tất cả các trường hợp khác đều viết hoa. Ví dụ: Các con số “ba”, “bảy” đều có giá trị biểu trưng. 4. Hướng dẫn học sinh cách sử dụng dấu câu - Dấu chấm: + Dùng để kết thúc một câu. Nó được dùng ở cuối câu tả hoặc câu tường thuật. 15
- Ví dụ: Hôm nay lớp tôi được nghỉ học. Trời đang mưa. + Dùng để kết thúc một câu ca dao hay câu thơ. + Khi đọc đến dấu chấm phải ngừng nghỉ lâu hơn dấu phẩy và dấu chấm phẩy. Nói cách khác dấu chấm có độ ngắt quãng dài hơn. - Dấu phẩy: thường được dùng làm ranh giới ngăn cách giữa các bộ phận của câu. Ví dụ: Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du đã cho thấy bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. - Dấu chấm phẩy: thường được dùng làm ranh giới giữa các vế của một câu ghép khi người viết không muốn mở rộng câu đơn quá dài. Cũng có trường hợp dấu chấm phẩy được dùng để tách bộ phận giải thích, bổ sung ở phía sau ra với dụng ý nhấn mạnh. Ví dụ: Sáng tạo là một vấn đề rất quan trọng; không sáng tạo không làm được Cách mạng. (Lê Duẩn) - Dấu chấm than: thường được đặt ở cuối câu cảm thán, có khi được đặt trong ngoặc đơn để biểu thị ý nghĩa khách quan của việc bình giá, thậm chí dùng dấu chấm than cùng với dấu chấm hỏi trong ngoặc đơn để vừa nêu ý nghĩa bình giá, vừa như tự trả lời bằng sắc thái phủ định. Ví dụ : Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ ! - Dấu chấm hỏi: + Thường được đặt ở cuối câu biểu thị sắc thái nghi vấn hoặc cái ý cần hỏi. Vì thế dấu chấm hỏi còn được dùng trong các lời đối thoại: hỏi - đáp. Ví dụ : Sao hôm nay mẹ về muộn thế ? + Có khi được dùng chung với dấu ba chấm có ý làm tăng sắc thái nghi vấn, có khi được dùng kết hợp với dấu chấm than và dấu chấm lửng để diễn tả sắc thái nghi vấn nhưng người đọc có thể tự trả lời được. Ví dụ: Thơ tôi như chiếc hôn đầu Gò công yêu dấu đâu nào má em ? !... (Hoàng Tố Nguyên) - Dấu chấm lửng: dùng để thể hiện ý chưa nói hết hoặc các sự kiện, vấn đề chưa có điều kiện để liệt kê hết. Ngoài ra còn được sử dụng để biểu thị trạng 16
- thái cảm xúc mạnh, nghẹn ngào không nói được, cả ý và lời đều đứt quãng không liên tục. Ví dụ: Cùng với nghệ thuật vườn cảnh, hoa đạo, trà đạo, hội hoạ, tiểu thuyết,… thơ Hai-cư là một đóng góp lớn của Nhật Bản vào kho tàng văn hoá Nhật. - Dấu hai chấm: thường dùng dẫn giải trực tiếp lời của người nói hoặc dùng để dẫn lời thuyết minh, giải thích điều vừa mới được trình bày trước đó. Ví dụ: Anh ấy có một điểm yếu: không quyết đoán trong công việc. - Dấu gạch ngang: thường được dùng trước các lời đối thoại. Trong câu, nó được dùng làm ranh giới giữa bộ phận chính và bộ phận xen lồng dùng giải thích hay chú thích cho bộ phận trước. - Dấu ngoặc đơn: thường dùng làm dấu ngăn cách giữa bộ phận chính và bộ phận chú thích, giải thích. Nói đúng hơn, dấu ngoặc đơn dùng để đóng khung phần bổ sung, giải thích thêm. Ví dụ: Khoảng năm 28 tuổi,ông chuyển đến Ê-đê (nay là Tô-ki-ô), sinh sống và làm thơ Hai-cư với bút hiệu là Ba-Sô (Ba Tiêu) - Dấu ngoặc kép: dùng để trích dẫn lời người khác hoặc dẫn lời trực tiếp của nhân vật thay cho hình thức đối thoại. Có khi nó được dùng để nhắc lại các từ, các thuật ngữ của một người khác với ý nghĩa mỉa mai, phủ định. Ví dụ : Sau “vụ” đó, Lê Vi nhớ mãi lời bố mẹ trách móc: “Cả nhà mình làm nghệ thuật, sao con lại chối từ?” 5. Hướng dẫn học sinh cách đặt câu, chữa câu 5.1. Cách đặt câu Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người trong xã hội. Để thực hiện chức năng giao tiếp, trong mỗi ngôn ngữ tồn tại những quy tắc tạo câu đặc trưng cho những ngôn ngữ đó. Trong quá trình sử dụng, để giao tiếp (nói và viết) có hiệu quả, mỗi cá nhân cần phải tuân thủ các quy tắc đó. Một trong những quy tắc cần chú ý đó là: + Cứ phải viết đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Việt. Ví dụ : Nếu trời mưa thì chúng tôi được nghỉ học.(1) Chiếc xe này máy đã hỏng.( 2) Trời mưa (3) … Trên đây là những câu được đặt đúng quy tắc đặt câu tiếng Việt. Câu ( 1) là câu có hơn một kết cấu chủ - vị ( C-V) trong đó không có kết cấu C - V nào 17

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p |
326 |
62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p |
209 |
30
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p |
195 |
25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p |
58 |
15
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p |
165 |
11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p |
55 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p |
43 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p |
57 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p |
41 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p |
53 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p |
48 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p |
39 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p |
47 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p |
52 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p |
47 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p |
86 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p |
29 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p |
52 |
3


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
