intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp xây dựng giờ học môn Toán thân thiện tích cực nhằm nâng cao chất lượng và phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh tại Trường THPT Tây Hiếu

Chia sẻ: Behodethuonglam | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:78

23
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đưa ra các biện pháp để thiết kế nên giờ dạy học, hoạt động của giáo viên hoạt động của học sinh tăng dần về cấp độ tư duy đồng thời tạo ra được môi trường học tập tích cực, chủ động, tạo được niềm vui cho người dạy và người học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp xây dựng giờ học môn Toán thân thiện tích cực nhằm nâng cao chất lượng và phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh tại Trường THPT Tây Hiếu

  1. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Theo chủ trương, đường lối chỉ đạo của Đảng ( Nghị quyết số 29-NQ/TW của BCHTW Đảng khóa IX) về vấn đề “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Trong những năm gần đây đã tạo nên những chuyển biến tích cực về chất lượng giáo dục. Vấn đề này không chỉ đặt ra ở việc đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy học, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá ,.. Đồng thời định hướng phát triển ,xây dựng các chuẩn mực ứng xử , giao tiếp sư phạm hình thành sự phát triển toàn diện về nhân cách, chú trọng xây dựng một môi trường dạy và học thân thiện tích cực. Cụ thể là cần phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; Phát huy tính tích cực chủ động phải phù hợp với từng lớp học, môn học, đồng thời bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng tự làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh (theo luật giáo dục số 38/2005/QH11, điều 28 về phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của sinh). Căn cứ chỉ thị số 40/2008/CT-BGD ĐT ngày 27/7/2008 của Bộ giáo dục; Nghị định số 80/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của chính phủ và quyết định số 5886/QĐ-BGD ĐT ngày 28/12/2017 của BGD-ĐT về vấn đề xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực và chống bạo lực học đường. Phong trào này được phát triển rộng khắp ở các trường học, từ bậc mầm non đến bậc trung học phổ thông, mang lại hiệu quả thiết thực cho ngành giáo dục và xã hội. Muốn xây dựng được ngôi trường thân thiện, học sinh tích cực thì mỗi giáo viên cần xây dựng tốt mỗi tiết dạy học là một giờ học thân thiện, tích cực nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của các học sinh. Môn Toán là một trong những môn học ở trường phổ thông hỗ trợ cho rất nhiều môn học khác, vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán tại Trường THPT là một nhiệm vụ cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Xây dựng mỗi giờ dạy môn Toán nhằm nâng cao phẩm chất năng lực của học sinh là cách xây dựng giờ học đầy thân thiện, cởi mở phát huy tối đa tính sáng tạo của mỗi học sinh đồng thời mang đến cho các em những điều thú vị, mới mẻ không chỉ trong kiến thức toán học mà còn đưa đến cho các em những điều thích hợp trong cuộc sống, góp phần hình thành kỹ năng sống cho các em. Hiện nay, tình trạng học sinh thờ ơ với việc học nói chung và e ngại trước bộ môn toán nói riêng ngày càng nhiều. Bên cạnh đó tình trạng xuống cấp về đạo đức, hành vi, thái độ ứng xử của học sinh với bạn bè , thầy cô gia đình và xã hội ngày càng rõ nét. Chính vì những điều đó, trong những năm học vừa qua bản thân 1
  2. tôi đã nghiêm túc suy nghĩ, lập kế hoạch và tiến hành thực hiện để từng bước hoàn thiện việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng của Bộ giáo dục và đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và phát huy phẩm chất năng lực của học sinh tại trường THPT Tây Hiếu. Trong quá trình áp dụng bản thân tôi thấy đã thu được nhiều kết quả khả quan như: Tạo được sự chuyển biến tích cực từ học sinh cũng như bản thân, đồng thời chất lượng giờ học được nâng cao, học sinh hứng thú học toán hơn, giờ học sôi nổi tìm kiếm kiến thức mới, và đặc biệt hình thành được cho các em bản lĩnh tự tin khi trình bày sản phẩm của bản thân, khi biết đấu tranh phê bình và tự phê bình, rèn luyện được cho các em kỹ năng nói và viết logic, lôi cuốn người nghe, người đọc…Bởi vậy, tôi xin chia sẻ “Một số biện pháp xây dựng giờ học môn Toán thân thiện tích cực nhằm nâng cao chất lượng và phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh tại Trường THPT Tây Hiếu”. Bản thân tôi cho rằng đây là vấn đề thực sự có tính mới mẻ, tính cấp thiết, thiết thực , tính khả thi cao và có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. II .Tính mới của đề tài: - Đây là đề tài nghiên cứu đầu tiên đề cập đến vấn đề xây dựng giờ học môn Toán nhằm nâng cao chất lượng và phát huy phẩm chất năng lực của học sinh tại trường THPT Tây Hiếu. - Đề tài đưa ra các biện pháp để thiết kế nên giờ dạy học, hoạt động của giáo viên hoạt động của học sinh tăng dần về cấp độ tư duy đồng thời tạo ra được môi trường học tập tích cực, chủ động, tạo được niềm vui cho người dạy và người học. - Xây dựng giờ học Toán thân thiện, tích cực đề tài đã đưa ra một số biện pháp để góp phần hình thành kỹ năng sống cho các em học sinh, trong đó đặc biệt chú trọng kỹ năng trình bày, kỹ năng nói, bản lĩnh tự tin của mỗi cá nhân. III. Kế hoạch nghiên cứu : - Năm học 2018-2019 đến năm học 2020-2021. IV. Đối tượng nghiên cứu: Giáo viên và học sinh trường THPT Tây Hiếu. V. Phương pháp nghiên cứu: - Biện pháp xây dựng giờ dạy và học phù hợp với đối tượng học sinh nhăm nâng cao chất lượng. - Biện pháp xây dựng giờ học môn Toán tạo được môi trường để các em học tập và hình thành các kỹ năng sống cần thiết cho bản thân nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho các em học sinh đang độ tuổi trưởng thành. 2
  3. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. Cơ sở lí luận 1. Trường học thân thiện, học sinh tích cực. Cùng với các cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, để tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục toàn diện cho học sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013. Các cơ sở giáo dục phổ thông phải bám sát mục tiêu: Huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội một cách phù hợp và hiệu quả. Bên cạnh đó các cơ sở giáo dục phải chú trọng đến công tác tập trung các nguồn lực để giải quyết dứt điểm những yếu kém về cơ sở vật chất, thiết bị trường học, tạo điều kiện cho học sinh khi đến trường được an toàn, thân thiện, vui vẻ. Phát huy sự chủ động, sáng tạo của thầy, cô giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục trong điều kiện hội nhập quốc tế. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng và phong phú của các tổ chức, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống lịch sử, cách mạng cho học sinh. Phong trào thi đua phải đảm bảo tính tự giác, không gây áp lực quá tải trong công việc của nhà trường, sát với điều kiện ở cơ sở. Nội dung cụ thể của phong trào là do cơ sở tự chọn, phù hợp với điều kiện của nhà trường, làm cho chất lượng giáo dục được nâng lên và có dấu ấn của địa phương một cách mạnh mẽ. Để thực hiện tốt phong trào theo tinh thần của chỉ thị Số: 40/2008/CT-BGDĐT mỗi cá nhân, mỗi lớp học sẽ là nhân tố quyết định cho mọi thành công đã đề ra. Nội dung của chỉ thị đã được cơ sở giáo dục Trường THPT Tây hiếu thực hiện như sau: Thứ nhất là: Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn - Bảo đảm trường an toàn, sạch sẽ, có cây xanh, thoáng mát và ngày càng đẹp hơn, lớp học đủ ánh sáng, bàn ghế hợp lứa tuổi học sinh. - Tổ chức để học sinh trồng cây vào dịp đầu xuân và chăm sóc cây thường xuyên. - Có đủ nhà vệ sinh được đặt ở vị trí phù hợp với cảnh quan trường học, được giữ gìn vệ sinh sạch sẽ. - Học sinh tích cực tham gia bảo vệ cảnh quan môi trường, giữ vệ sinh các công trình công cộng, nhà trường, lớp học và cá nhân. 3
  4.  Thứ hai là: Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi địa phương, giúp các em tự tin trong học tập. - Thầy, cô giáo tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh.  Thứ ba là:Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh - Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm. - Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác. - Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.  Thứ tư là: Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh - Tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. - Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh.  Thứ năm là: Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương. 2. Phẩm chất và năng lực của học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông mới với mục tiêu giáo dục học sinh phổ thông để rèn luyện tốt 5 phẩm chất và 10 năng lực. Theo đó 5 phẩm chất chủ yếu cần có ở học sinh là: Thứ nhất là yêu nước: Yêu thiên nhiên, yêu con người, tự hào về truyền thống Việt Nam; sẵn sàng bảo vệ đất nước khi cần Thứ hai là, nhân ái: Yêu quý mọi người; Tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người. Thứ ba là, chăm chỉ: Ham học; Chăm làm. Thứ tư là, trung thực: Tôn trọng lẽ phải, thật thà ngay thẳng, lên án cái xấu Thứ năm là, trách nhiệm: Có trách nhiệm với bản thân; Có trách nhiệm với gia đình; Có trách nhiệm với nhà trường và xã hội; Có trách nhiệm với môi trường sống. 4
  5. Đồng thời, học sinh cần được phát triển 10 năng lực cốt lõi gồm: - Năng lực tự chủ và tự học: Tự lực; Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng; Tự kiểm soát tình cảm, thái độ, hành vi của mình; Tự định hướng; Tự học, tự hoàn thiện. - Năng lực giao tiếp và hợp tác: Xác định mục đích, nội dung, phương tiện và thái độ giao tiếp; Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội, điều chỉnh và hóa giải các mâu thuẫn; Xác định mục đích và phương thức hợp tác; Xác định trách nhiệm và hoạt động của bản thân; Xác định nhu cầu và khả năng của người hợp tác; - Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: Nhận ra ý tưởng mới; Phát hiện và làm rõ vấn đề; Hình thành và triển khai ý tưởng mới; Đề xuất, lựa chọn giải pháp;Tư duy độc lập. -Năng lực ngôn ngữ: Sử dụng Tiếng Việt; Sử dụng ngoại ngữ. - Năng lực tính toán: Hiểu biết kiến thức toán học phổ thông cơ bản; Biết cách vận dụng các thao tác tư duy, suy luận, tính toán, ước lượng, sử dụng các công cụ tính toán và dụng cụ đo,…; đọc hiểu, diễn giải, phân tích, đánh giá tình huống có ý nghĩa toán học. - Năng lực khoa học: Tìm hiểu tự nhiên: Hiểu biết kiến thức khoa học; Tìm tòi và khám phá thế giới tự nhiên; Vận dụng kiến thức vào thực tiễn, ứng xử với tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Tìm hiểu xã hội: Nắm được những tri thức cơ bản về đối tượng của các khoa học xã hội; Hiểu và vận dụng được những cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội; Nắm được những tri thức cơ bản về xã hội loài người; Vận dụng được những tri thức về xã hội và văn hóa vào cuộc sống. - Năng lực Công nghệ: Thiết kế; Sử dụng; Giao tiếp; Đánh giá. 5
  6. - Năng lực Tin học: Sử dụng và quản lý các phương tiện, công cụ, các hệ thống tự động hóa của công nghệ thông tin và truyền thông; Hiểu biết và ứng xử phù hợp chuẩn mực đạo đức, văn hóa và pháp luật trong xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức. - Năng lực thẩm mỹ: Nhận biết các yếu tố thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài, cái chân, cái thiện, cái cao cả); Phân tích, đánh giá các yếu tố thẩm mỹ; Tái hiện, sáng tạo và ứng dụng các yếu tố thẩm mỹ. - Năng lực thể chất: Sống thích ứng và hài hòa với môi trường; Nhận biết và có các kỹ năng vận động cơ bản trong cuộc sống; Nhận biết và hình thành các tố chất thể lực cơ bản trong cuộc sống; Nhận biết và tham gia hoạt động thể dục thể thao; Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, chương trình giáo dục phổ thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng lực đặc biệt (năng khiếu) của học sinh. 3. Môi trường dạy và học thân thiện, tích cực. Thân thiện là có tình cảm tốt, đối xử tử tế và thân thiết với nhau. Bản thân khái niệm thân thiện đã hàm chứa sự bình đẳng, dân chủ về pháp lý và sự đùm bọc, cưu mang đầy tình người về đạo đức. “Trường học thân thiện” đương nhiên phải thân thiện giữa tập thể sư phạm với học sinh, thân thiện với địa phương, phải thân thiện trong tập thể sư phạm với nhau. +)Trường học thân thiện trước hết là nơi tiếp nhận tất cả trong độ tuổi quy định đến trường và phải tạo điều kiện để thực hiện bình đẳng về quyền học tập và vui chơi cho học sinh. +) Trường học thân thiện là trường học có chất lượng giáo dục toàn diện và hiệu quả giáo dục không ngừng được nâng cao. Đôi ngũ giáo viên phải thân thiện trong dạy học, thân thiện trong cách đánh giá kết quả rèn luyện và học tập của trò, đánh giá công bằng, khách quan với lương tâm và trách nhiệm của nhà giáo. +) Trường học thân thiện là trường học có môi trường sống lành mạnh, an toàn, sạch sẽ, là trường học có cơ sở vật chất đảm bảo các quyền tự nhiên thiết yếu cho trò như: Phòng học sạch sẽ, thoáng mát, đủ ánh sáng, có sân chơi bãi tập, có cây xanh, cây cảnh và cây bóng mát… +) Trường học thân thiện là nơi huy động có hiệu quả sự tham gia của chính quyên, địa phương, các tổ chức đoàn thể trong và ngoài xã, các bậc cha mẹ học sinh, cán bộ giáo viên cùng đồng lòng, đồng sức để xây dựng nhà trường. +) Trường học thân thiện là nơi mà mọi người cảm thấy hạnh phúc, được tôn trọng khi được sống,làm việc và học tập trong chính ngôi trường đó. +) Học sinh tích cực: Là học sinh chủ động, sáng tạo trong học tập và nâng cao dần các thói quen, ý thức tìm tòi, tự đề xuất và giải quyết các vấn đề để nhằm đạt được kết quả học tập cao nhất. Trò hăng hái nhận phần việc cụ thể, có tinh thần 6
  7. trách nhiệm cao trong việc chăm sóc, bảo vệ và làm sạch thêm cảnh quan môi trường ở trường cũng như ở nhà. Biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường lớp học. Nhiệt tình tham gia các hoạt động tập thể, văn nghệ và các trò chơi dân gian. Tại Trường THPT Tây Hiếu phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực được nhà trường cụ thể hóa bằng những việc làm thiết thực. Ai đã từng tới ngôi trường của chúng tôi sẽ thấy được sự sạch sẽ, thoáng mát, với rất nhiều cây xanh. Cô giáo Nguyễn Thị Bích Hạnh, Hiệu phó cùng với Ban giám hiệu nhà trường đã có nhiều giải pháp để giúp ngôi trường có một cảnh quan xanh, sạch, đẹp, an toàn như: Thường xuyên nhắc nhở, tổ chức cho học sinh tham gia bảo vệ, giữ gìn vệ sinh công cộng, vệ sinh trường lớp, đặc biệt là khu nhà vệ sinh của HS. Các khối lớp thường xuyên thay phiên nhau quét dọn sân trường, lớp học, thu gom rác thải. Ngay tại sân trường, học sinh còn tham gia trồng, chăm sóc các loại cây trồng và hoa . Vì thế, cảnh quan trường học rất thân thiện,lành mạnh, an toàn, cơ sở vật chất tương đối đảm bảo để dạy và học. Quang cảnh nhà trường luôn xanh, sạch, đẹp, con người thân thiện, đồng lòng xây dựng, hội cha mẹ phụ huynh quan tâm chia sẻ… 4. Giờ học thân thiện. +) Giờ học thân thiện là ở giờ học đó tạo được niềm hứng khởi cho cả người dạy và người học. +) Giờ học thân thiện là ở đó có sự tôn trọng giữa thầy và trò, giữa trò và trò. +) Giờ học thân thiên là ở đó mọi sự việc được đối xử công bằng, bình đẳng, có sự cởi mở của cả thầy và của trò. +) Giờ học thân thiện là ở đó có lời nói mộc mạc, một cử chỉ chân thành, một nụ cười thân thiện, một ánh mắt trìu mến, sự ứng xử khéo léo… của người thầy sẽ tạo tính tích cực cho người học. II. Cơ sở thực tiễn. 1 . Thực trạng chung. 1.1 Từ xã hội: Bộ môn Toán là bộ môn công cụ để giúp học sinh có những kiến thức cơ bản ban đầu để học tốt các bộ môn khác và trang bị những hành trang cần thiết bước vào đời. Từ trước đến nay khi nói về Toán học thì tất cả mọi người đều quan niệm rằng đó là môn học của những con số nên rất khô khan, trừu tượng, khó hiểu. Sách giáo khoa thì rơi vào tình trạng nặng về kiến thức, lý thuyết nhiều,thiếu thực tiễn hoặc thực tiễn còn quá ít. Bên cạnh đó các loại sách tham khảo thì quá tràn lan, học sinh không có kinh nghiệm trong việc lựa chọn cho mình những bộ sách tham khảo 7
  8. phù hợp.Thời gian gần đây, vì tình hình diễn biến phúc tạp của đại dịch COVID-19 mà phong trào học Oline phát triển mạnh, các trung tâm đã có sự chuẩn bị công phu, đa dạng, thời gian học thì thuận tiện. 1.2 Từ giáo viên: Trong nhưng năm qua, Bộ giáo dục đã thay đổi hình thức kiểm tra đánh giá cuối cấp THPT cho bộ môn Toán, từ hình thức thi tự luận truyền thống chuyển sang hình thức thi trắc nghiệm. Đây là sự chuyển biến lớn trong cách dạy và học của giáo viên và học sinh.Trong thời gian này, đội ngũ giáo viên nói chung, đội ngũ giáo viên bộ môn Toán nói riêng đã tích cực học hỏi, đổi mới phương pháp, hình thức dạy học để kích thích tư duy sáng tạo cho học sinh và bước đầu có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên sự thay đổi theo hướng tích cực còn nhỏ giọt, chưa có hệ thống, đang tập trung vào các giáo viên ở các trường trọng điểm, hoặc các giáo viên cốt cán. Theo tôi có những nguyên nhân sau: - Đội ngũ giáo viên hiện nay chủ yếu được đào tạo đơn môn, chưa thực sự được trang bị một cách đầy đủ, có hệ thống, có chiều sâu về cơ sở lý luận dạy học nhất là về tâm lý học lứa tuổi một cách chính thống, khoa học, hiện đại và thấu đáo. Khi thực hiện chủ yếu giáo viên tự mày mò, tìm hiểuvà tiến hành thực hiện theo cảm tính, chủ quan. - Cách xác định mục tiêu bài dạy chưa thực sự chú trọng, đồng thời chưa thực sự chú ý đến các mức độ nhận thức tư duy cần đạt để rèn luyện cho học sinh nhằm nâng cao phẩm chất năng lực học sinh. - Các hoạt động trong giờ học chủ yếu dựa vào sự tương tác giữa giáo viên với học sinh chua chú trọng đến quá trình tương tác giữa học sinh với học sinh.bên cạnh đó khi vào giờ học giáo viên mới chỉ chú trọng đến truyền đạt kiến thức, hình thức, phương pháp giảng dạy mà chưa thực sự quan tâm đến môi trường học tập , thái độ và cách hành xử của mọi thành viên tham gia vào các hoạt động học tập. - Giáo viên chưa được trang bị kỹ về lý luận và phương pháp dạy học toán hiện đại, nhiều giáo viên còn mơ hồ trước những lý luận về phương pháp dạy học nên kết quả đạt được là chưa cao. - Một số giáo viên chưa nhận thức đúng đắn về vấn đề đổi mới giáo dục phổ thông nên chưa có sự đầu tư, tìm tòi, sáng tạo, chưa thực sự thoát khỏi sự ràng buộc của SGK khi thiết kế bài dạy. - Giáo viên còn thiếu kiên trì với cái mới,vì dạy học theo lối truyền thống có phần nhẹ nhàng đơn giản, ít cần động não, đổ công sức. Còn dạy học theo phương pháp mới thì giáo viền phải tốn nhiều thời gian, phải sáng tạo trong thiết kế bài dạy, sử dụng nhiều phương pháp, tình huống để từ đó dẫn dắt học sinh tìm tòi, khám phá, và xây dựng kiến thức. 8
  9. - Công tác đổi mới phương pháp ở các trường thiếu sự giám sát, nhắc nhở từ lãnh đạo, bởi vậy giáo viên thực hiện công cuộc đổi mới theo hình thức đối phó và được thực hiện trong các tiết dạy thao giảng, có giáo viên dự giờ. - Công tác dạy học của đại đa số giáo viên mới chỉ chú ý tới truyền thụ kiến thức, chưa thực sự quan tâm việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề thực tiễn cho các em học sinh. - Bên cạnh đó đội ngũ giáo viên đa phần là giáo viên lâu năm nên khả năng tiếp cận khoa học công nghệ vào giảng dạy chưa cao sẽ gặp khó khăn trong cách thức dạy theo phương pháp mới, dẫn đến chất lượng thấp. 1.3. Từ phía học sinh: Trong thời đại ngày nay, các em học sinh đã có sự thay đổi nhiều về nhận thức, khả năng nắm bắt nhịp điệu sống, cách thức tư duy sáng tạo hơn. Đồng thời việc tiếp nhận các tệ nạn xã hội cũng nhanh hơn. Bên cạnh đó, học sinh ngày càng lười suy nghĩ và xuống dốc về đạo đức ngày càng nhanh. Nhưng bộ môn toán là môn học cần rất nhiều đến khả năng tư duy và sáng tạo trong quá trình học, mà đại đa số học sinh lười suy nghĩ chỉ mong may mắn trong cách chọn bừa đáp án, mặt khác phải học rất nhiều môn nên học sinh bị phân tán rất nhiều thời gian. Việc học sinh tự tìm hiểu, đọc thêm tài liệu tham khảo chưa thực sự được quan tâm, chú trọng một cách đúng đắn. 2. Thực trạng riêng ở Trường THPT Tây Hiếu Không ngoại trừ tình trạng chung của bộ phận giáo viên cả nước đã nêu ở trên, thì tại trường THPT Tây Hiếu còn có các ưu điểm, hạn chế như sau: - Ưu điểm. +) Trường THPT Tây Hiếu là trường học được đóng trên địa bàn thị xã Thái Hòa. Trường có đội ngũ giáo viên bộ môn Toán trẻ, đạt chuẩn . +) Đội ngũ lãnh đạo của trường trẻ, năng động, nhiệt tình, chú trọng vào công tác đổi mới dạy và học ở giáo viên và học sinh. Luôn nêu cao tiêu chí xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực. +) Đội ngũ giáo viên đoàn kết,nhiệt tình, có chất lượng chuyên môn, nghệp vụ sư phạm, có tinh thần chia sẻ hợp tác với đồng nghiệp. Có tinh thần cầu thị. +) Học sinh chủ yếu là con em nông thôn, thật thà, chất phác, sống giản dị có ý chí vươn lên trong học tập. - Hạn chế: +) Phần lớn giáo viên vẫn có sức ỳ lớn, ngại đổi mới, ngại tìm hiểu,khám phá các phương pháp dạy học mới. Đặc biệt chưa thật sự chú trọng đến việc xây dựng một giờ dạy học có môi trường thân thiện, tích cực, nếu có thì mới vận dụng một cách cảm tính, chủ quan chưa chú ý đến hướng phát huy phẩm chất năng lực của 9
  10. học sinh, cụ thể trong các giờ học phần lớn học sinh chưa có thái độ tích cực, thân thiện với môn học. +) Trong các giờ học Toán, đang thiếu các hoạt động trải nghiệm, tăng cường tương tác, rèn luyện kỹ năng mềm cho các em học sinh,chưa hình thành được cho các em cách phát hiện và giải quyết các vấn đề. +) Chất lượng đầu vào còn thấp, thái độ ,ý thức,động cơ học tập và rèn luyện của đại đa số học sinh không cao. Gia đình học sinh đại đa số là khó khăn,thiếu thốn về điều kiện vật chất, bên cạnh đó một bộ phận học sinh có bố, mẹ đi làm ăn xa nên không thường xuyên quan tâm đến việc học của con em mình.Vì thế việc nhận thức về trách nhiệm, mục tiêu phân đấu, nỗ lực trong học tập chưa cao. Nhiều em còn rụt rè, chưa dám thể hiện chính kiến của bản thân, chưa chủ động trong các hoạt động chung và các hoạt động học tập. +) Cơ sở vật chất của nhà trường còn chưa hiện đại, việc đầu tư mỗi phòng học đầy đủ như máy chiếu, ti vi là không có. Cả trường hiện tại mới có được 2 phòng máy chiếu. +) Bên cạnh đó việc học bộ môn toán ở THPT đòi hỏi các các em học sinh cần có sự đầu tư về cơ sở vật chất như: máy tính cầm tay, máy tính bàn, máy in, các loại tài liệu tham khảo,…ngoài ra học sinh đầu tư về mặt thời gian còn ít. Đặc biệt tâm lý ngại khó, sợ môn Toán chiếm đại đa số học sinhTrường THPT Tây Hiếu. Trước thực trạng đó bản thân tôi đã từng bước nghiên cứu và tìm hướng để xây dựng nên một giờ học nói chung, giờ học Toán nói riêng tại Trường THPT Tây Hiếu trở nên thân thiện, tích cực nhằm nâng cao chất lượng và phát huy phẩm chất năng lực của học sinh. III. Các biện pháp đề xuất. 1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp. +) Phải đáp ứng yêu cầu phát triển nhân cách của học sinh. Nhân cách con người được xem là một chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực. Vì thế, trong quá trình dạy học phát triển phẩm chất, năng lực của người học là mục đích hướng người học tiếp cận gần hơn tới sự phát triển nhân cách của mình. Trong quá trình áp dụng các giải pháp giáo dục, tôi nhận thấy cần áp dụng các giải pháp phát huy được cao nhất các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách của học sinh, đảm bảo tính tự nhiên trong phát triển con người và nâng cao năng lực tự chủ của mỗi cá nhân,tôn trọng thế mạnh, đặc điểm riêng biệt của từng học sinh. +) Phải đảm bảo quan điểm giáo dục theo phương pháp sư phạm. Theo Thông tư 13/2012/TT-BGD ĐT đã chỉ ra rằng tiêu chuẩn về hoạt động giáo dục học sinh: Giáo dục kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức,kỹ năng ra quyết định, 10
  11. kỹ năng suy xét và giải quyết vấn đề kỹ năng đặt ra mục tiêu, kỹ năng ứng phó, kiềm chế, kỹ năng hợp tác và kỹ năng làm việc theo hóm cho học sinh. Đồng thời giáo dục rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh thông qua giáo dục ý thức chấp hành luật ATGT, cách phòng chống tai nạn đuối nước, và các tai nạn thương tâm khác. Thông qua việc thực hiện các quy định về vấn đề ứng xử có văn hóa, đoàn kết, nhân ái, giúp đỡ lẫn nhau, giáo dục về sức khỏe, thể chất và tinh thần, giáo dục về giới tính, tình yêu, hôn nhân, gia đình phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh. +) Phải đảm bảo mục tiêu của môn học THPT : Thực hiện chương trình hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho mỗi học sinh phát huy phẩm chất năng lực, giúp học sinh có đầy đủ phẩm chất của một công dân có ích, có những hiểu biết nhất định về kỹ thuật,chú trọng hướng nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau THPT để học sinh chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp. +) Phải đảm bảo việc thiết kế giáo án dạy học xác định rõ mục tiêu bài học và phải xác định rõ các cấp độ theo thang tư duy Bloom để thiết kế hệ thống câu hỏi, bài tập theo mức độ phù hợp với năng lực giúp học sinh phát huy tối đa khả năng học tập của bản thân. +) Phải đảm bảo việc dạy học và kiểm tra đánh giá trong mỗi giờ học môn Toán cần dựa trên cơ sở: Đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh của Bộ Giáo dục, chú trọng vào khâu vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. +) Phải đảm bảo vận dụng tốt các quy tắc tâm lý học sư phạm, đặc biệt là quan tâm đến các thành phần khác nhau của hạnh phúc tinh thần, khả năng tự tin, kỹ năng đối mặt với cảm xúc… +) Phải đảm bảo tính hoạt động thực tiễn giáo dục tại Trường THPT Tây Hiếu. Các giải pháp phải phù hợp với điều kiện của nhà trường, đặc điểm tâm lý học sinh và đặc biệt đảm bảo tính thiết thực, hài hòa, phù hợp về nội dung, phương pháp để tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh phát triển hết phẩm chất năng lực 2. Một số biện pháp đề xuất 2.1 Biện pháp: Giáo viên cần phải đổi mới: Để xây dựng nên giờ học thân thiện thì giáo viên cần phải đổi mới về mọi mặt. Đổi mới về tư tưởng, phong cách. Đổi mới về phương pháp dạy học. Đổi mới về cách kiểm tra đánh giá học sinh . Đồng thời giáo viên cần phải chịu khó, cần mẫn, và có kỹ năng xử lý tình huống tốt. Bên cạnh đó bản thân mỗi giáo viên cần tích cực tự giác nâng cao trình độ chuyên môn, luôn có ý thức trách nhiệm nghề nghiệp cao. Công tác này được thể hiện qua việc mỗi cá nhân không ngừng học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cũng như thường xuyên tham gia các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, tham gia ôn thi học sinh giỏi cấp trường, cấp tỉnh, tham gia vào các 11
  12. nhóm, các diễn đàn của giáo viên về bộ môn Toán để từ đó học hỏi thêm về kinh nghiệm giảng dạy. Đặc biệt các giáo viên cần tích cực dự giờ thăm lớp các đồng nghiệp trong và ngoài tổ, trong và ngoài nhà trường để trau dồi kỹ năng đứng lớp, theo tôi mỗi giáo viên cần đổi mới các vấn đề sau. * Thứ nhất: Giáo viên cần phải thay đổi phong cách giảng dạy. Có nhiều lúc chúng ta quan niệm rằng, nguyên nhân của các vấn đề về hành vi là do người học. Nhưng thực sự, rất nhiều vấn đề đến từ chính phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh thường mất hứng thú khi các bài học được tiến hành một đơn điệu, nhàm chán. Sự nhàm chán này sẽ kéo theo các vấn đề về hành vi như nói chuyện riêng, không ghi chép bài, không lắng nghe giáo viên giảng, không muốn thực hiện nhiệm vụ… Vì thế, cách tốt nhất là thay đổi phong cách giảng dạy. Nếu như đứa trẻ không thể học theo cách mà chúng ta đã dạy, nên chăng, chúng ta nên thay đổi phương pháp giảng dạy để học sinh có thể học. Mỗi giáo viên nên tìm hiểu đối tượng học sinh mà mình trực tiếp giảng dạy. Đây là một trong những điều quan trọng nhất mà bản thân chúng ta phải làm để phân hóa , nắm rõ các đặc điểm tâm lý của từng đối tượng để từ đó lên kế hoạch thúc đẩy sự phát triển tích cực nhất cho mỗi cá nhân học sinh. Cụ thể : Tìm hiểu học sinh qua lý lịch để nắm bắt được hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, tìm hiểu sự quan tâm, kỳ vọng của gia đình vào các em như thế nào, đồng thời tìm hiểu được sở thích, mục tiêu học tập, kỹ năng làm việc, kỹ năng hợp tác của từng cá nhân học sinh. Từ việc tìm hiểu đối tượng học tập, người giáo viên điều chỉnh phong cách làm việc của mình sao cho phù hợp với học sinh, lớp học. Thông thường giáo viên lâu năm thường sử dụng lại giáo án,tuy nhiên đây lại là yếu tố khiến cho bản thân giáo viên cũng cảm thấy nhàm chán dẫn đến giờ dạy kém hấp dẫn. Do đó giáo viên cần xây dựng kế hoạch và thiết kế giáo án mới hoặc một phần trong giáo án sẽ có nhiều lợi ích trong dạy học. * Thứ hai: Giáo viên cần thay đổi về cách sử dụng thiết bị dạy học để phục vụ cho bài dạy hiệu quả hơn. Cụ thể: Giáo viên phải vận dụng linh hoạt các thiết bị dạy học như: tranh ảnh, bảng phụ, máy chiếu, đặc biệt phải có kỹ năng dùng máy tính bỏ túi để giải toán, đồng thời mỗi giáo viên chúng ta cần biết kết hợp tốt các kỹ thuật dạy học hiện đại. Nếu giáo viên bộ môn Toán trong giai đoạn hiện nay mà không sử dụng được các thiết bị dạy học như trên thì tiết học nhàm chán, đồng thời hạn chế rất nhiều đến sự phát triển năng lực của học sinh. * Thứ ba: Giáo viên cần đổi mới cách quản lý lớp học. 12
  13. Thông thường giáo viên vào lớp là chỉ quan tâm đến sỉ số rồi kiểm tra bài cũ, sau đó tiến hành giảng bài. Kết thúc giờ học mà không quan tâm đến thái độ, tâm tư của các em học sinh, có thể trong quá trình giảng bài có một và chỗ các em chưa thực sự hiểu mà giáo viên không nắm được từ đó các em sẽ sinh ra chán, lười học,hoặc trong quá trình hoạt động thảo luận, giáo viên không quan sát tốt khâu làm việc của học sinh, từ đó sẽ có những học sinh trốn” làm việc, ỷ vào bạn khác… Do đó, nếu giáo viên bước vào lớp biết quan sát vị trí ngồi của các em, quan sát đến thái độ của học sinh, biết nắm bắt diễn biến tâm lý của học sinh để từ đó có các cách ứng xử khéo léo lôi cuốn học sinh vào bài học. * Thứ tư: Giáo viên cần chú trọng trong công tác kiểm tra đánh giá. Giáo viên cần biết lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá theo chủ đề, bài dạy môn Toán theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS.Tức là giáo viên phải nắm được kiểm tra, đánh giá trong dạy học theo một bài dạy phù hợp với hình thức đánh giá thường xuyên, có mục đích cung cấp thông tin phản hồi cho GV và HS để kịp thời điều chỉnh quá trình dạy học, hỗ trợ thúc đẩy sự tiến bộ của HS theo mục tiêu giáo dục. 2. 2 Biện pháp xây dựng giờ học thân thiện. Như chúng ta đã nắm bắt được giờ học thân thiện là giờ học đảm bảo cho người dạy và người học cảm thấy thoải mái, vui vẻ, hạnh phúc, hiệu quả thu được là cao nhất. Để đảm bảo được giờ học như thế thì cần thực hiện các giải pháp như sau: * Đối với học sinh: +) Cần giữ vệ sinh lớp học sạch sẽ ngăn nắp,học sinh ăn mặc gọn gàng đúng quy định. +) Đồ dùng học tập đầy đủ, chuẩn bị bài tập chu đáo. +) Thái độ nghiêm túc, tâm lý học thoải mái, có ý thức vươn lên trong học tập. * Đối với giáo viên: +) Giúp học sinh có hứng thú trong học tập, thu hút được tất cả học sinh vào quá trình học. Học sinh chủ động, tích cực học tập, ghi nhớ kiến thức sâu hơn, kĩ hơn, tiết học không nặng nề, đơn điệu. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, thân thiện nhưng vẫn đảm bảo được việc giáo dục toàn diện cho học sinh về thái độ, tình cảm, thẩm mĩ...Cập nhật được những vấn đề xung quanh gắn với đời sống thực tế của học sinh. Phát huy được tính năng động, sáng tạo trong các em. +) Giáo viên phải có thái độ nghiêm túc và trách nhiệm cao trong công tác dạy học, luôn tận tâm, tận lực cho sự nghiệp. +) Giáo viên cần nắm vững tâm lý học lứa tuổi và có kỹ năng xử lý tình huống thật khéo léo và nhân ái. Luôn đặt ra nội quy nhưng không được quá nghiêm khắc. 13
  14. Các nội quy và quy trình giúp giáo viên giao tiếp và thiết lập các chuẩn mực về hành vi cũng như những kỳ vọng mong đợi từ học sinh. Việc xây dựng và xác lập và duy trì các nội quy cần được đảm bảo tính kiên định và nhất quán. Tuy nhiên giáo viên cũng cần tạo nên một môi trường học tập tích cực, tránh những nội quy quá hà khắc khiến học sinh cảm thấy ngột ngạt. +) Luôn phải giữ bình tĩnh trong mọi trường hợp. Để quản lý lớp học hiệu quả, điều quan trọng là phải kiểm soát được cảm xúc của bản thân. Một giáo viên mất bình tĩnh và la mắng học sinh sẽ là một giáo viên thất bại. Nếu một học sinh trở nên “mất kiểm soát” có hành vi ngang ngược, hay phản ứng lại giáo viên, hãy thử đứng trong im lặng và nhìn thẳng vào học sinh. Điều này sẽ cảnh báo chúng về sự thay đổi trong thái độ và sẽ khiến chúng nhận ra những hành vi không đúng (có thể không phải ngay lập tức). Đối phó với các học sinh có hành vi sai trái cần yêu cầu những học sinh có vấn đề về hành vi nói chuyện trực tiếp với giáo viên. Trong quá trình đối thoại hãy giữ thái độ bình tĩnh và tôn trọng học sinh nhưng cũng thể hiện sự kiên định đối với những hành vi không thể chấp nhận. Hãy nhớ rằng, nếu bạn bỏ qua một hành vi xấu dù là nhỏ, nghĩa là bạn đã nuôi dưỡng mầm mống của sự hỗn loạn sau này. Cùng với đó, hãy cố gắng tìm hiểu những nguyên nhân đằng sau các hành vi sai trái của người học. Từ đó, giáo viên có thể giải quyết tận gốc các hành vi không mong đợi. +) Xây dựng mối quan hệ tích cực với học sinh. Để giúp một học sinh có hành vi đúng, điều quan trọng là GV phải đặt mình vào vị trí của chúng và cùng đồng hành với những suy nghĩ, trải nghiệm của chúng. Điều này sẽ giúp GV nhìn mọi thứ từ góc nhìn của học sinh và đồng cảm với những vấn đề mà chúng gặp phải. Hỗ trợ học sinh bằng cách khuyến khích, động viên không chỉ trong học tập mà còn với các hoạt động ngoại khóa . Điều này sẽ giúp xây dựng một mối quan hệ giáo viên – học sinh đáng tin cậy và trung thực. Kiểm soát cảm xúc của bản thân, luôn tích cực. Hãy chắc chắn rằng bạn đã để hành lý cảm xúc của mình bên ngoài lớp học. Nếu bạn đang có những cảm xúc tiêu cực như giận dữ, buồn chán, thất vọng hay mệt mỏi…, hãy chắc chắn rằng bạn không thể hiện điều đó với học sinh của mình. Một cảm xúc tồi tệ có thể lây lan nhanh như dịch Covid-19, và học sinh là những đối tượng rất dễ bị lây nhiễm. Là một giáo viên, bạn cần vượt qua điều đó để cảm thấy hạnh phúc, luôn hào hứng và nhiệt tình với mỗi bài học, mỗi giờ lên lớp. +) Cần tương tác và thân thiện: Tương tác với học sinh bằng cách nói chuyện hoặc sử dụng các cử chỉ, ngôn ngữ cơ thể (đôi khi đơn giản chỉ là gật đầu hay nở nụ cười). Trong trường hợp phải nói chuyện với học sinh, hãy sử dụng những thuật ngữ đơn giản để giúp chúng thoải mái hơn trong lớp học. Tránh thuyết trình hay giảng đạo quá nhiều, đừng sử dụng những bài học đạo đức khô cứng và giáo điều vì chúng không hề có hiệu quả. Giao tiếp và thu hút học sinh trong các 14
  15. cuộc trò chuyện sẽ thúc đẩy sự tự tin và hứng thú từ đó dẫn đến những thay đổi về hành vi trong lớp học. 2.3 Biện pháp xây dựng giờ học Toán theo hướng phát triển năng lực. 2.3.1: Mục tiêu dạy học Toán: Mục tiêu dạy học của giờ học là mô tả các bước trung gian trên con đường lâu dài của phát triển năng lực. Bằng cách phấn đấu để đạt tới kết quả nhất định, rất cụ thể và có thể kiểm tra được, mỗi một giờ học đóng góp cho sự hỗ trợ lâu dài đối với việc hình thành và phát triển năng lực tức là: Trong việc lập kế hoạch dạy học chi tiết, chúng ta cần mô tả các mục tiêu một cách rõ ràng sao cho: +)Phải đạt được MTDH trong phạm vi khoảng thời gian xác định,Chẳng hạn trong một tiết học, một chủ đề dạy học là có thể kiểm tra được. +) Phải phát biểu rõ ràng mức độ gia tăng về kiến thức được hướng tới và những kỹ năng hoàn toàn cụ thể. +) Phải làm rõ trình tự, có hệ thống từng bước thực hiện. Mức độ trừu tượng hóa của MTDH Toán sẽ cho biết một mục tiêu được trình bày trừu tượng hay cụ thể tùy theo mục tiêu giáo dục chung của quốc gia, cấp học, năm học, mục tiêu của chương hay của một bài cụ thể. Theo mức độ trừu tượng thì mục tiêu được chia thành các loại sau: - Mục tiêu định hướng: Là MTDH rất khái quát và trừu tượng, không kiểm tra được. - Mục tiêu thô: Khái quát và trừu tượng - Mục tiêu tinh: Đặc trung và cụ thể, dễ kiểm tra. Ví dụ: - Đối với mục tiêu định hướng: Khuyến khích phát triển nhận thức trong dạy học toán, khuyến khích các em học sinh tích cực trau dồi kiến thức về Toán học. - Đối với mục tiêu thô: đây là phát triển tư duy Toán học, tức là hướng các em cách học toán từ cách đọc, cách ngiên cứu, cách thực hành và cả cách phân bố thời gian để học tập. - Đối với mục tiêu Tinh: Vận dụng được các thao tác, phương pháp, cách thức phân tích và tổng hợp kiến thức vào việc giải quyết một bài tập hoặc một đề thi Toán. Đồng thời giáo viên cần phải biết phân bậc trình độ trong mục tiêu dạy học. Mức độ khó dễ của MTDH còn được gọi và thể hiện như các bậc của MTDH Trong mỗi bậc MTDH đều cần thực hiện những thao tác tư duy khác nhau. Nhận biết Trích dẫn, biểu diễn, đọc thuộc lòng, liệt kê ra, nêu tên, mô tả, trình bày, nhắc lại,… Thông hiểu Phân biệt, mô tả, xác định, giải thích, sắ xếp , phân loại,so sánh hệ thoonhs hóa,… Vạn dụng thấp Tạo ra ứng dụng,thực hiện đánh giá, vận hành, sử dụng, tính toán… 15
  16. Vận dụng cao Kết luận, đánh giá, phân tích lập luận, ra quyết định, lập kế hoạch Đồng thời khi dạy học theo phương án phối hợp thì chúng ta cần thực hiện như sau: Làm theo Làm theo mẫu tùng bước hành động Luyện tập Tự luyện tập từng bước hành động Độc lập phối hợp các bước của hành động: sắp xếp, xác định Phối hợp mối quan hệ giữa các hành động, đôc lập thực hiện chuẩn xác các hành động Giải quyết vấn đề: Độc lập hành động trong những tình huống khác nhau. Đối với đối tượng thấp hơn giáo viên có thể vận dụng cách thức phân bậc MTDH chúng ta chỉ có thể dạy đến 3 mức đầu tiên trong mỗi phân bậc MTDH. 2.3.2: Dạy học theo phát triển năng lưc.  Chương trình dạy học truyền thống. Chương trình dạy học truyền thống có thể gọi là chương trình giáo dục định hướng nội dung hay dạy học định hướng đầu vào.Đặc điểm của chương trình này là chú trọng vào việc truyền thụ kiến thức, hệ thống tri tức khoa học theo các môn học đã được quy định trong chương trình dạy học.chú trọng trang bị cho người học hệ thống tri thức khoa học khách quan về nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên chuong trình dạy học truyền thống chưa chú trọng đầy đủ đến chủ thể người học cũng như chua chú ý đến khả năng ứng dụng tri thức vào thực tiễn. MTDH thì đưa ra một cách chung chung, không chi tiết, không nhất thiết phải quan sát, đánh giá không cụ thể nên không đảm bảo được chất lượng dạy học theo mục tiêu đề ra.Phương pháp dạy học thì bị động, việc quy định cứng nhắc những nội dung chi tiết trong chương trình sẽ không còn phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội cà khả năng tiếp nhận thông tin của các em học sinh.  Chương trình dạy học theo định hướng năng lực: Chương trình giáo dục định hướng năng lực hay dạy học định hướng kết quả đầu ra là xu thế giáo dục quốc tế nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học. Giáo dục theo định hướng hát triến nawg lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất, nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho người học năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Khác với chương trình dạy học truyền thống chương trình dạy học theo hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả năng lực đầu ra. Chương trình không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả cuối cùng của học sinh. Phương pháp dạy học được giáo viên sử dụng linh hoạt, chú trọng các quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực.Trong qua trình dạy học 16
  17. giáo viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ học sinh tự lực, tích cực lĩnh hội tri thức. chú trọng năng lực giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp….Các hình thức tổ chức dạy học đa dạng, chú trọng vào các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, việc kiểm tra đánh giá có tính đến sự tiến bộ của học sinh trong suốt quá trình học tập, chú trọng khả năng ứng dụng thực tiễn. 2.4 Một số biện pháp thiết kế dạy học môn Toán theo hướng phát triển năng lực người học đã được vận dụng trong thời gian qua tại Trường THPT Tây Hiếu. 1. Quy trình chuẩn bị một giờ học: Hoạt động chuẩn bị cho một giờ dạy học đối với GV thường được thể hiện qua việc chuẩn bị giáo án. Đây là hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Căn cứ trên giáo án, có thể vừa đánh giá được trình độ chuyên môn và tay nghề sư phạm của GV vừa thấy rõ quan niệm, nhận thứcâ của họ về các vấn đề giáo dục như: MTGD, nội dung giáo dục, cách sử dụng PPDH, thiết bị DH, hình thức tổ chức dạy học và cách đánh giá kết quả học tập của HS trong mối quan hệ với các yếu tố có tính chất tương đối ổn định như: Kế hoạch, thời gian, cơ sở vật chất và đối tượng học sinh . Chính vì thế, hoạt động chuẩn bị cho một giờ học có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, quyết định nhiều tới chất lượng và hiệu quả giờ dạy. Từ thực tiễn dạy học, bản thân tôi có thể nêu thành quy trình chuẩn bị một giờ học với các bước thiết kế một giáo án và khung cấu trúc của một giáo án cụ thể như sau: a. Các bước thiết kế một giáo án theo định hướng phát triển năng lực. - Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức (KT), kĩ năng (KN) và yêu cầu về thái độ trong chương trình. Bước này được đặt ra bởi việc xác định mục tiêu của bài học là một khâu rất quan trọng, đóng vai trò thứ nhất, không thể thiếu của mỗi giáo án. Mục tiêu vừa là cái đích hướng tới, vừa là yêu cầu cần đạt của giờ học; hay nói khác đi đó là thước đo kết quả quá trình dạy học. Nó giúp GV xác định rõ các nhiệm vụ sẽ phải làm (dẫn dắt HS tìm hiểu, vận dụng những KT, KN nào; phạm vi, mức độ đến đâu; qua đó giáo dục cho HS những bài học gì). - Bước 2: Nghiên cứu SGK và các tài liệu liên quan để: hiểu chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học; xác định những KT, KN, thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở HS; xác định trình tự logic của bài học. Bước này được đặt ra bởi nội dung bài học ngoài phần được trình bày trong SGK còn có thể đã được trình bày trong các tài liệu khác. Kinh nghiệm cho thấy: 17
  18. trước hết nên đọc kĩ nội dung bài học và hướng dẫn tìm hiểu bài trong SGK để hiểu, đánh giá đúng nội dung bài học rồi mới chọn đọc thêm tư liệu để hiểu sâu, hiểu rộng nội dung bài học. Mỗi GV không chỉ có KN tìm đúng, tìm trúng tư liệu cần đọc mà cần có KN định hướng cách chọn, đọc tư liệu cho HS. GV nên chọn những tư liệu đã qua thẩm định, được đông đảo các nhà chuyên môn và GV tin cậy. Việc đọc SGK, tài liệu phục vụ cho việc soạn giáo án có thể chia thành 3 cấp độ sau: +) Đọc lướt để tìm nội dung chính xác định những KT, KN cơ bản, trọng tâm mức độ yêu cầu và phạm vi cần đạt; +) Đọc để tìm những thông tin quan tâm: các mạch, sự bố cục, trình bày các mạch KT, KN và dụng ý của tác giả; +) Đọc để phát hiện và phân tích, đánh giá các chi tiết trong từng mạch KT, KN. Thực ra khâu khó nhất trong đọc SGK và các tư liệu là đúc kết được phạm vi, mức độ KT, KN của từng bài học sao cho phù hợp với năng lực của HS và điều kiện dạy học. Trong thực tế dạy học, nhiều khi chúng ta thường đi chưa tới hoặc đi quá những yêu cầu cần đạt về KT, KN. Nếu nắm vững nội dung bài học, GVsẽ phác họa những nội dung và trình tự nội dung của bài giảng phù hợp, thậm chí có thể cải tiến cách trình bày các mạch KT, KN của SGK, xây dựng một hệ thống câu hỏi, bài tập giúp HS nhận thức, khám phá, vận dụng các KT, KN trong bài một cách thích hợp. - Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của HS, gồm: xác định những KT, KN mà HS đã có và cần có; dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết. Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới PPDH, GV không những phải nắm vững nội dung bài học mà còn phải hiểu HS để lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học và đánh giá cho phù hợp. Như vậy, trước khi soạn giáo án cho giờ học mới, GV phải lường trước các tình huống, các cách giải quyết nhiệm vụ học tập của HS. Nói cách khác, tính khả thi của giáo án phụ thuộc vào trình độ, năng lực học tập của HS, được xuất phát từ : những KT, KN mà HS đã có một cách chắc chắn, vững bền; những KT, KN mà HS chưa có hoặc có thể quên; những khó khăn có thể nảy sinh trong quá trình học tập của HS. Bước này chỉ là sự dự kiến; nhưng trong thực tiễn, có nhiều giờ học do không dự kiến trước, GV đã lúng túng trước những ý kiến không đồng nhất của HS với những biểu hiện rất đa dạng. Do vậy, dù mất công nhưng mỗi GV nên dành thời gian để xem qua bài soạn của HS trước giờ học kết hợp với kiểm tra đánh giá thường xuyên để có thể dự kiến trước khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức cũng như phát huy tích cực vốn KT, KN đã có của HS. 18
  19. - Bước 4: Lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới PPDH, GV phải quan tâm tới việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, KN vận dụng KT vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tác động đến tư tưởng và tình cảm để đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho HS. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, các GV vẫn quen với lối dạy học đồng loạt với những nhiệm vụ học tập không có tính phân hoá, ít chú ý tới năng lực học tập của từng đối tượng HS. Đổi mới PPDH sẽ chú trọng cải tiến thực tiễn này, phát huy thế mạnh tổng hợp của các PPDH, PTDH, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá nhằm tăng cường sự tích cực học tập của các đối tượng HS trong giờ học. - Bước 5: Thiết kế giáo án. Đây là bước người GV bắt tay vào soạn giáo án - thiết kế nội dung, nhiệm vụ, cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy của GV và hoạt động học tập của HS. Trong thực tế, có nhiều GV khi soạn bài thường chỉ đọc SGK, sách GV và bắt tay ngay vào hoạt động thiết kế giáo án; thậm chí, có GV chỉ căn cứ vào những gợi ý của sách GV để thiết kế giáo án bỏ qua các khâu xác định mục tiêu bài học, xác định khả năng đáp ứng nhiệm vụ học tập của HS, nghiên cứu nội dung dạy học, lựa chọn các PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Cách làm như vậy không thể giúp GV có được một giáo án tốt và có những điều kiện để thực hiện một giờ dạy học tốt. Về nguyên tắc, cần phải thực hiện qua các bước 1, 2, 3, 4 trên đây rồi hãy bắt tay vào soạn giáo án cụ thể. b. Cấu trúc của một giáo án được thể hiện ở các nội dung sau: - Mục tiêu bài học: + Nêu rõ yêu cầu HS cần đạt về KT, KN, thái độ; + Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hóa được. - Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học: + GV chuẩn bị các thiết bị dạy học (tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hoá chất...), các phương tiện dạy học (máy chiếu, TV, đầu video, máy tính, máy projector...) và tài liệu dạy học cần thiết; + Hướng dẫn HS chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và đồ dùng học tập cần thiết). - Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các hoạt động dạy- học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ: + Tên hoạt động; 19
  20. + Mục tiêu của hoạt động; + Cách tiến hành hoạt động; + Thời lượng để thực hiện hoạt động; + Kết luận của GV về: những KT, KN, thái độ HS cần có sau hoạt động; những tình huống thực tiễn có thể vận dụng KT, KN, thái độ đã học để giải quyết; những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu không có cách giải quyết phù hợp;... - Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối: xác định những việc HS cần phải tiếp tục thực hiện sau giờ học để củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ hoặc để chuẩn bị cho việc học bài mới. 2. Phương án thực hiện giờ dạy học Một giờ dạy học nên được thực hiện theo các bước cơ bản sau: a. Kiểm tra sự chuẩn bị của HS - Kiểm tra tình hình nắm vững bài học cũ và những KT, KN đã học có liên quan đến bài mới. - Kiểm tra tình hình chuẩn bị bài mới (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và đồ dùng học tập cần thiết)) Lưu ý: Việc kiểm tra sự chuẩn bị của HS có thể thực hiện đầu giờ học hoặc có thể đan xen trong quá trình dạy bài mới. b. Tổ chức dạy và học bài mới - GV giới thiệu bài mới: nêu nhiệm vụ học tập và cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu bài học; tạo động cơ học tập cho HS. - GV tổ chức, hướng dẫn HS suy nghĩ, tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội nội dung bài học, nhằm đạt được mục tiêu bài học với sự vận dụng PPDH phù hợp. c. Luyện tập, củng cố: GV hướng dẫn HS củng cố, khắc sâu những KT, KN, thái độ đã có thông qua hoạt động thực hành luyện tập có tính tổng hợp, nâng cao theo những hình thức khác nhau. d. Đánh giá - Trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu bài học, GV dự kiến một số câu hỏi, bài tập và tổ chức cho HS tự đánh giá về kết quả học tập của bản thân và của bạn. - GV đánh giá, tổng kết về kết quả giờ học. e. Hướng dẫn HS học bài, làm việc ở nhà - GV hướng dẫn HS luyện tập, củng cố bài cũ (thông qua làm bài tập, thực hành, thí nghiệm, hướng dẫn HS chuẩn bị bài học mới. Sự thành công của một giờ dạy theo định hướng đổi mới PPDH phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của cả người dạy và cả người học. Những phần trình bày trên đây chỉ là những kinh 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
31=>1