intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp giúp học sinh THPT giảm tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:62

3
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp giúp học sinh THPT giảm tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa" nhằm trang bị cho các em những kiến thức cơ bản về kĩ năng mềm, kĩ năng đối phó với những áp lực trong cuộc sống, tự tin phát triển năng lực và phẩm chất của bản thân; tìm hiểu và thực hiện, đề tài giúp mỗi GVCN xây dựng được cho mình một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp nói chung và việc bồi dưỡng, phát triển năng lực phẩm chất học simh nói riêng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp giúp học sinh THPT giảm tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa

  1. S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIÚP HỌC SINH THPT GIẢM TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ÁP LỰC ĐỒNG TRANG LỨA LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM 1
  2. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 4 ======***===== S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIÚP HỌC SINH THPT GIẢM TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ÁP LỰC ĐỒNG TRANG LỨA LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM Nhóm tác giả: Nguyễn Thị Hồng Mận - SĐT 0942790819 Nguyễn Thị Hiến - SĐT 0916268543 Nguyễn Thị Nhàn - SĐT 0979517268 Năm học: 2023 – 2024 ---------------  -------------- 2
  3. MỤC LỤC PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Mục tiêu, ý nghĩa............................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 2 4. Tính mới ............................................................................................................ 3 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 3 6. Thời gian thực hiện ........................................................................................... 3 PHẦN II. NỘI DUNG ........................................................................................... 4 1. Cơ sở lí luận ...................................................................................................... 3 1.1. Áp lực và Áp lực đồng trang lứa. ................................................................... 3 1.2. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm. ............................................................... 3 2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................. 6 2.1. Đặc điểm tâm sinh lí học sinh trường THPT Nghi Lộc 4. ............................. 6 2.2. Thực trạng của áp lực đồng trang lứa tại trường THPT Nghi Lộc 4 ............ 7 2.3. Nguyên nhân dẫn đến áp lực đồng trang lứa: ................................................ 9 2.4. Những khó khăn trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT Nghi Lộc 4 ...... 10 3. Một số giải pháp nhằm giảm tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa cho học sinh THPT. ............................................................................................................ 13 3.1. Trang bị kĩ năng mềm cần thiết cho HS: ....................................................... 13 3.1.1. Kỹ năng nhận thức về bản thân ................................................................... 13 3.1.2. Kỹ năng lắng nghe tích cực ........................................................................ 16 3.1.3. Kỹ năng tự giám sát, tự quản lý cảm xúc.................................................... 18 3.1.4. Kỹ năng phục hồi cảm xúc ...................................... 20 3.2. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động để học sinh thể hiện năng lực. ........... 23 3.2.1. Tổ chức các diễn đàn................................................................................... 23 3.2.2. Tổ chức các cuộc thi.................................................................................... 27 3.2.3. Xây dựng các fanpage, câu lạc bộ............................................................... 30 3.3. Linh hoạt sử dụng các hình thức tư vấn tâm lí học đường ............................ 33 3.3.1. Mục tiêu ........................................................................................................ 33 3.3.2. Những hình thức tư vấn tâm lí giúp HS giảm áp lực đồng trang lứa………...34 3.3.3. Kết quả đạt dược ......................................................................................... 37 3
  4. 3.3.4. Những vấn đề cần lưu ý khi sử dụng các hình thức tư vấn tâm lí: ............. 37 3.4. Xây dựng lớp học hạnh phúc. ........................................................................ 38 3.4.1. Mục tiêu....................................................................................................... 38 3.4.2. Các tiêu chí để xây dựng lớp học hạnh phúc ............................................. 38 3.4.3. Kết quả đạt được ......................................................................................... 43 3.4.4. Một số lưu ý ............................................................................................... 44 4. Kết quả và ứng dụng ......................................................................................... 45 4.1. Kết quả thực nghiệm ...................................................................................... 45 4.2. Kết quả khảo sát. ............................................................................................ 45 4.3. Vận dụng ........................................................................................................ 48 PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ .................................................................. 49 1. Kết luận ............................................................................................................. 49 2. Kiến nghị ........................................................................................................... 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 50 4
  5. DANH MỤC VIẾT TẮT: - HS: Học sinh - GVCN: Giáo viên chủ nhiệm - THPT: Trung học phổ thông - XH: Xã hội - GDPT: Giáo dục phổ thông - CLB: Câu lạc bộ - TVTL: Tư vấn tâm lí 5
  6. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà đang có nhiều thay đổi. Trong bối cảnh đó, nhiều yêu cầu mới được đặt ra đặc biệt là yêu cầu đối với người lao động. Sự nghiệp giáo dục của nước nhà, vì vậy, cũng đứng trước những nhiệm vụ mới, những thách thức mới trong quá trình giáo dục thế hệ trẻ, đào tạo nguồn nhân lực. Trong thời đại mới, giáo dục cần phải đào tạo được đội ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao động. Đào tạo nên những con người tự tin, năng động, sáng tạo, có năng lực hành động, năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giáo dục . Nghị quyết 29 về Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam đã nhấn mạnh nhiệm vụ, giải pháp trong đổi mới giáo dục là: “Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lí dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể 2018 cũng nhấn mạnh đến mục tiêu giáo dục phẩm chất và năng lực. Từ đó, giúp học sinh phát triển toàn diện, biết xây dựng, phát triển hài hòa các mối quan hệ xã hội; có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú, sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước, nhân loại. Với mục tiêu này, chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã chú trọng tới giáo dục toàn diện. Người học không chỉ học để tiếp nhận các kiến thức môn học mà còn có khả năng làm chủ và vận dụng hợp lí các kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. Chương trình giáo dục phổ thông mới đòi hỏi đội ngũ giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp cùng lúc phải có nhiều năng lực: năng lực về chuyên môn; năng lực lãnh đạo, quản lý; xây dựng mối quan hệ gắn bó với học sinh; năng lực tư vấn; tổ chức các hoạt động giáo dục; phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường… Bên cạnh đó, để làm tốt công tác chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm cần phải rèn luyện, bồi dưỡng để phát triển năng lực xử lý và giải quyết các tình huống sư phạm, biết ứng dụng công nghệ thông tin, năng lực giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh. GVCN phải là người đồng hành, phát hiện, chia sẻ cũng như có những định hướng để giúp học sinh vượt qua những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống. Áp lực đồng trang lứa là hội chứng tâm lý phổ biến ở thanh thiếu niên hiện nay. Hội chứng này ảnh hưởng lớn đến cảm xúc, suy nghĩ và hành vi của bản thân mỗi người. Đối với học sinh THPT, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, áp lực đồng trang lứa cũng tạo nên những tác động tiêu cực đối với quá trình học tập, rèn luyện, phát triển nhân cách của các em. Có không ít học sinh cảm thấy mệt mỏi, 1
  7. căng thẳng trước áp lực đồng trang lứa. Có những học sinh trở nên tự ti, mặc cảm, không phát huy được năng lực, giá trị bản thân. Cũng có những học sinh vì áp lực đồng trang lứa mà nảy sinh những phản ứng, những hành xử thiếu chuẩn mực, những hành động tiêu cực, lệch lạc…. Thực trạng đó đang diễn ra và có những tác động phức tạp ở học sinh THPT nói chung, ở học sinh trường THPT Nghi Lộc 4 nói riêng. Là những giáo viên trực tiếp làm công tác chủ nhiệm ở trường THPT Nghi Lộc 4, đứng trước vấn đề: làm thế nào để giảm thiểu tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa đối với học sinh THPT, chúng tôi thực sự có nhiều trăn trở. Chúng tôi nhận thấy việc tìm hiểu tài liệu, nghiên cứu các phương pháp thực tiễn để giảm tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa đến học sinh là điều đặc biệt cần thiết trong công tác chủ nhiệm lớp. Chính vì những lí do trên, chúng tôi đưa ra đề tài : “Một số giải pháp giúp học sinh THPT giảm tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa” nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm trong bối cảnh hiện nay. 2. Mục tiêu, ý nghĩa 2.1. Mục tiêu Thông qua việc áp dụng các giải pháp, đề tài nhằm trang bị cho các em những kiến thức cơ bản về kĩ năng mềm, kĩ năng đối phó với những áp lực trong cuộc sống, tự tin phát triển năng lực và phẩm chất của bản thân. Từ thực tế nghiên cứu, tìm hiểu và thực hiện, đề tài giúp mỗi GVCN xây dựng được cho mình một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp nói chung và việc bồi dưỡng, phát triển năng lực phẩm chất học simh nói riêng. 2. 2. Ý nghĩa Quá trình nghiên cứu, thực nghiệm đề tài để đề xuất các biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp là việc làm vô cùng ý nghĩa. Việc nghiên cứu nhằm giúp học sinh vượt qua những rào cản trong tâm lí để có thể khẳng định bản thân mình, phát huy tối đa năng lực, phẩm chất. Các biện pháp đề xuất trong đề tài là một trong những kinh nghiệm hữu ích cho chúng tôi cũng như đồng nghiệp trong công tác chủ nhiệm lớp, đáp ứng yêu cầu của chương trình mới cũng như bổi cảnh hiện tại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng: Học sinh các khối 10, 11 tại trường THPT Nghi Lộc 4. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Các biện pháp giúp học sinh giảm những tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa. 2
  8. 4. Tính mới Đây là đề tài mới, có tính thực tiễn và thực sự cần thiết trong nhà trường hiện nay. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế số và cả thời gian dịch bệnh kéo dài đã tác động rất lớn đến tâm sinh lí của học sinh THPT. Áp lực đồng trang lứa đang phổ biến rộng rãi trong đời sống, trong mỗi lớp học, trong mỗi học sinh và có chiều hướng phát triển phức tạp. Vì thế đề tài ngoài việc đảm bảo tính khoa học, mang tính ứng dụng cao, vừa đáp ứng đòi hỏi mang tính cập nhật của chương trình GDPT mới. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp khảo sát và thu thập, thống kê thông tin - Phương pháp phân tích, phân loại áp dụng trong việc giải quyết các tình huống sư phạm. - Phương pháp thể nghiệm. - Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ sự tiến bộ. 6. Thời gian thực hiện Thời gian thực hiện đề tài: năm học 2023 - 2024. PHẦN II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 1.1. Áp lực và Áp lực đồng trang lứa. Áp lực là lực ép tác động trên diện tích bề mặt của một vật theo phương vuông góc với bề mặt tiếp xúc. Về mặt tâm lí áp lực chính là một trong những sự dồn nén tiêu cực về mặt cảm xúc. Áp lực tâm lý là trạng thái mà thần kinh đang căng thẳng. Trạng thái này được xem như một phản ứng của cơ thể khi phải đối mặt với những tình huống vượt ngoài khả năng chịu đựng nhưng đang cố gắng để thích nghi. Áp lực đồng trang lứa (peer pressure) là sự tác động, ảnh hưởng từ những người cùng lứa tuổi hoặc cùng một nhóm xã hội được cho là thành công hơn, hạnh phúc hơn đối với một cá nhân. Những tác động có thể xuất phát từ chính nội tâm cá nhân hoặc do những ảnh hưởng của môi trường xung quanh. Tùy vào lứa tuổi và tính cách của mỗi người mà áp lực đồng trang lứa có những biểu hiện khác nhau như: Luôn cảm thấy thua kém khi so sánh bản thân với bạn bè đồng trang lứa: So sánh bản thân với người khác là một hành vi tự nhiên của con người, đặc biệt là ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Khi thấy bạn bè mình có những điểm tốt hơn, nhiều bạn trẻ thường cảm thấy tự ti và muốn thay đổi bản thân để được như người khác. Sự so sánh có thể xảy ra ở mọi khía cạnh của cuộc sống, từ ngoại hình, học tập, công việc, đến sở thích hay điều kiện kinh tế... Sự so sánh ấy có thể ảnh hưởng 3
  9. không tốt đến các em, dẫn đến những cảm xúc, suy nghĩ tiêu cực: Căng thẳng khi nghĩ về thành công của bạn bè; có xu hướng đánh giá thấp bản thân; đánh mất chính mình vì muốn xây dựng hình mẫu theo tiêu chuẩn chung của xã hội; mặc cảm, tự ti, thấy mình thua thiệt và thua kém so với bạn bè. Khi cảm thấy bị áp lực phải hòa nhập với nhóm, các em có thể cố gắng thay đổi bản thân để phù hợp với những tiêu chuẩn của nhóm. Khi cảm thấy bị áp lực phải làm theo ý kiến của người khác, các em có thể sẵn sàng làm bất cứ điều gì để được chấp nhận. Điều này dễ dẫn đến việc đánh mất những giá trị nào đó của bản thân cũng như khả năng độc lập, chủ động trong suy nghĩ và hành động. Luôn tự tạo áp lực cho bản thân: Học sinh THPT đang ở lứa tuổi mà tâm lí có nhiều thay đổi. Các em khát khao khẳng định mình, khẳng định giá trị, vị trí của bản thân. Các em sống với nhiều ước mơ, hoài bão cùng nhiệt huyết của tuổi trẻ. Nhưng các em chưa đủ trưởng thành để nhận thức đúng đắn, đầy đủ về bản thân trong mối quan hệ với cộng đồng, đặc biệt là với bạn bè cùng trang lứa. Có những bạn trẻ tự đề ra cho mình mục tiêu quá lớn so với năng lực của bản thân. Có những bạn khát khao thành công nhưng lại chưa nhận rõ sở trường của mình. Có những bạn luôn muốn mình là nhất (giỏi giang, thành đạt...) nhưng lại chưa hiểu hết mình là ai, ở đâu trong mối quan hệ với bạn bè đồng trang lứa…Vậỵ nên, nhiều lúc càng cố gắng để bản thân mình trở nên giỏi giang hơn, thành công hơn, hoàn thiện hơn, nhiều bạn trẻ lại càng rơi vào bế tắc. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của các em: Tinh thần mệt mỏi, khủng hoảng và kiệt quệ; Luôn có cảm giác khó chịu, bồn chồn, dễ cáu gắt, bức xúc, chán nản; Nhìn nhận mọi thứ theo hướng tiêu cực; Luôn áp lực khi phải cố gắng hơn nữa, nhưng cố gắng trong tinh thần uể oải và mệt mỏi; Cảm thấy tự ti và không tin vào khả năng chính mình… Tác động của áp lực đồng trang lứa Áp lực đồng trang lứa hiện tại đang là hiệu ứng tâm lí phổ biến trong cuộc sống hiện đại. Hiệu ứng tâm lí này đang tồn tại và diễn ra ở mọi lứa tuổi kể cả lứa tuổi đã trưởng thành. Có thể nói, lứa tuổi chịu áp lực và tác động nhiều nhất phải kể đến là tuổi vị thành niên- học sinh THPT. Nhìn một cách toàn diện, hiệu ứng này có nhiều tác động khác nhau từ tác động tích cực đến tác động tiêu cực. 1.1.1. Tác động tích cực: Áp lực đồng trang lứa hoàn toàn có thể trở thành động lực trên hành trình hoàn thiện bản thân, giúp bạn trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình. Áp lực chính là đòn bẩy khuếch đại động lực, không phải yếu tố ganh đua thiệt hơn. Áp lực khiến chúng ta trở nên “sắc nhọn” hơn thông qua việc gọt dũa những kiến thức, kỹ năng và rèn luyện sự bền bỉ, từ đó hoàn thiện bản thân để đạt được mục tiêu của mình. 1.1.2. Tác động tiêu cực: Áp lực làm gia tăng những hệ luỵ về tâm lí: Căng thẳng, mệt mỏi, chán nản, thất vọng, bi quan. Vì những áp đặt mong muốn từ xã hội và những người xung 4
  10. quanh nên bản thân mỗi người cố mang một mặt nạ để che đi, nên luôn cảm thấy mệt mỏi và áp lực. Áp lực khiến học sinh dễ rơi vào trạng thái không tin tưởng vào bản thân, ít chia sẻ về mình và là một trong những nguyên nhân dẫn đến trầm cảm và nặng nhất là hành động tự tử… Suy giảm chất lượng cuộc sống khi phải học tập và làm việc quá sức nhưng không hiệu quả. Áp lực khiến học sinh dễ có những hành động sai lầm, sa ngã và tiêu cực. Vì muốn thể hiện bản thân không thua kém người khác nên cá nhân dễ bị kích động khi bị ai đó khiêu khích, bị mất đi sự tự tin và sự tự tôn của bản thân khi phải chạy đua theo người khác với hệ quy chiếu khác. 1.2. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm. Để hoàn thành mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, hướng tới chương trình giáo dục phổ thông mới, trong đó cốt lõi là giáo dục học sinh phát triển toàn diện, hài hòa về thể chất lẫn tinh thần, thì trong mỗi nhà trường, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò cực kỳ quan trọng, tác động trực tiếp đến học sinh cả về nhận thức lẫn tinh thần. Mỗi GVCN cần nhận thức được những nhiệm vụ sau: Mỗi GVCN phải là một nhà giáo dục : Học sinh lứa tuổi phổ thông không nhỏ nhưng chưa lớn. Thời điểm này các em chịu tác động từ bạn bè, xã hội và áp lực học tập. Do đó GVCN đóng vai trò quan trọng là “điểm tựa” giúp các em bước vào cuộc sống. Trong quá trình định hình nhân cách nói chung ở mỗi người bao giờ cũng tồn tại hai mặt đối lập. Đó là tích cực và tiêu cực. Nhiệm vụ của nhà giáo nói chung, GVCN nói riêng là giúp học sinh biết tự điều chỉnh để trở nên tích cực hơn và giúp các em tránh mặc cảm về những hạn chế của mình. GVCN phải là người quản lí một cách toàn diện học sinh, cần biết lắng nghe, chia sẻ, cảm thông để giúp đỡ các em với tấm lòng khoan dung, độ lượng. GVCN cũng là người nắm được tâm tư, tình cảm cũng như các mặt biểu hiện của lớp chủ nhiệm. GVCN là người thuyền trưởng biết phát hiện, phát huy năng lực toàn diện của học sinh đồng thời định hướng, tư vấn cho HS. Để có thể làm tốt việc giáo dục nhân cách cho học sinh, GVCN phải là “một tấm gương” trong nhân cách và phẩm chất. Trong quá trình giáo dục, GVCN tránh đối xử thiên vị, thiếu công bằng với học sinh. Khuynh hướng này dễ xảy ra do thành kiến giữa thầy và trò hoặc từ các mối quan hệ tế nhị khác. Cách đối xử như vậy dễ gây bức xúc, mất niềm tin trong học sinh và từ đó có thể gây ra những hậu quả khó lường trong quan hệ thầy trò, làm tổn hại đến uy tín của người thầy. Mỗi GVCN cần có tư duy làm việc hiện đại: Giáo dục hiện đại, GVCN cũng phải là người GV hiện đại. Hiện đại không 5
  11. chỉ trong công nghệ thông tin như biết sử dụng mạng xã hội, biết sử dụng các công cụ để quản lý lớp và kết nối học sinh mà còn ở cách tiếp cận học sinh một cách hiện đại, phù hợp với tâm thế của các em. Ngoài tâm thế làm thầy, GVCN còn phải làm bạn, thiếu một trong 2 điều này đều dễ thất bại. Giáo dục hiện đại rất cần đến sự phối hợp nhịp nhàng với gia đình, để “bắt sóng” học sinh. GVCN phải là cầu nối giữa học sinh và phụ huynh, hợp tác với phụ huynh để thống nhất quan điểm giáo dục học sinh. “Mọi học sinh đều có thể thay đổi, chỉ cần GVCN kết nối với các em bằng sự chân thành, chín chắn, đặt vào từng hoàn cảnh của học sinh để hiểu và yêu thương các em. Nhưng trên hết, GVCN phải hoàn thiện chính mình, xây dựng cho học sinh cách nhìn nhận vấn đề khách quan, thấu hiểu. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Đặc điểm tâm sinh lí học sinh trường THPT Nghi Lộc 4. Cũng như tất cả học sinh nói chung, học sinh THPT Nghi Lộc 4 mang đầy đủ những đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi từ độ tuổi 15 đến18. Đây là độ tuổi thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt trong quá trình phát triển, hoàn thiện của mỗi người. Điều đó được thể hiện ở hai phương diện: sinh lí và tâm lý. Theo chúng tôi quan sát và nhìn nhận, đánh giá, lứa tuổi này có những đặc điểm sau: Đặc điểm về sự phát triển thể chất: Học sinh THPT là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kì phát triển bình thường, hài hòa, cân đối. Ở tuổi này, các em dễ bị kích thích và sự biểu hiện của nó cũng giống như ở tuổi thiếu niên. Tuy nhiên tính dễ bị kích thích này không phải chỉ do nguyên nhân sinh lý như ở tuổi thiếu niên mà nó còn do cách sống của cá nhân (như hút thuốc lá, không giữ điều độ trong học tập, lao động, vui chơi…) Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ: Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Nên sự quan sát ở các em thường phân tán, chưa tập trung cao vào một nhiệm vụ nhất định, trong khi quan sát một đối tượng vẫn còn mang tính đại khái, phiến diện đưa ra kết luận vội vàng, thiếu cơ sở thực tế. Trước một vấn đề các em thường đặt những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức chân lý một cách sâu sắc hơn. Hoạt động học tập: Hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo đối với học sinh trong trường nhưng yêu cầu cao hơn nhiều đối với tính tích cực và độc lập trí tuệ của các em. Muốn lĩnh hội được sâu sắc các môn học, các em phải có một trình độ tư duy khái niệm, tư duy khái quát phát triển đủ cao. Những khó khăn trở ngại mà các em gặp phải trong quá trình học tập thường do thiếu kĩ năng học tập trong những điều kiện mới chứ không phải do tâm lí không muốn học như nhiều người vẫn nghĩ. Hứng thú học tập của các em ở lứa tuổi này gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp nên hứng thú mang tính đa dạng, sâu sắc và bền vững hơn. 6
  12. Sự phát triển của tự ý thức: Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về mục đích cuộc sống… Điều đó khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, những phẩm chất nhân cách và năng lực riêng. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ bên ngoài mà còn đặc biệt chú trọng tới phẩm chất bên trong. Các em có khuynh hướng phân tích và đánh giá bản thân mình một cách độc lập dù có thể có sai lầm khi đánh giá. Ý thức làm người lớn khiến các em có nhu cầu khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến mình… . Hoạt động giao tiếp: Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Trong tập thể, các em thấy được vị trí, trách nhiệm của mình và các em cũng cảm thấy mình cần cho tập thể. Khi giao tiếp trong nhóm bạn sẽ xảy ra hiện tượng phân cực – có những người được nhiều người yêu mến và có những người ít được bạn bè yêu mến. Điều đó làm cho các em phải suy nghĩ về nhân cách của mình và tìm cách điều chỉnh bản thân. Đối với học sinh trường THPT Nghi Lộc 4, bên cạnh những đặc điểm chung của tâm lí lứa tuổi, các em còn có những đặc điểm đặc thù do ảnh hưởng của môi trường, hoàn cảnh sống. Nằm ở vùng Đông bắc Huyện Nghi Lộc, Trường THPT Nghi Lộc 4 đóng trên địa bàn xã Nghi Xá, đây là nơi thu hút học sinh chủ yếu của 10 xã trên địa bàn huyện Nghi Lộc bao gồm: Nghi Xá, Nghi Long, Nghi Hợp, Nghi Khánh, Nghi Quang, Nghi Tiến, Nghi Thiết, Nghi Thịnh, Nghi Trường, Nghi Yên và một số xã lân cận như Nghi Tân, Nghi Ân, Nghi Thuận, Nghi Trung, Nghi Liên… Hầu hết học sinh trường THPT Nghi Lộc 4 thuộc vùng đồng bằng ven biển, thành phố. Giáp ranh ven biển, ven thành phố, lưng chừng giữa nông thôn và thành thị nên ở mảnh đất này có nhiều địa điểm ăn chơi, nhiều cám dỗ và thách thức, khiến học sinh có nhiều hệ tư tưởng phức tạp khác nhau và những biểu hiện tâm lí khá phức tạp. Bên cạnh đó, phụ huynh nơi đây chủ yếu làm công nhân tại các nhà máy thuộc khu công nghiệp Nam Cấm, đánh bắt hải sản, đi nước ngoài... Vì cuộc sống mưu sinh và đặc thù công việc, nên phụ huynh đều bận rộn, thời gian ở nhà hầu như rất ít. Một bộ phận không nhỏ học sinh bố mẹ đi làm ăn xa hoặc vì hoàn cảnh riêng, nên phải ở với ông bà, hoặc một mình thiếu sự quan tâm, chăm sóc sát sao từ phía bố mẹ. Chính vì thế, không ít HS đứng trước những khó khăn và áp lực về mặt tâm lí. 2.2. Thực trạng của áp lực đồng trang lứa tại trường THPT Nghi Lộc 4 Thực hiện việc khảo sát đầu năm đối với học sinh các lớp chủ nhiệm ( bằng phiếu khảo sát trên google form và câu hỏi điều tra trả lời bằng bài viết), chúng tôi nhận thấy: hội chứng áp lực đồng trang lứa hầu hết đang diễn ra trong bản thân mỗi học sinh ở các biểu hiện khác nhau, mức độ khác nhau. Theo điều tra, chúng 7
  13. tôi nhận thấy có những biểu hiện trong học sinh về áp lực đồng trang lứa như sau: Với số lượng 141 HS( gồm các lớp 10C1, 10C2, 11A7 và 4 HS khối 10,11,12 ngẫu nhiên), trong đó nam 43 nam, 98 nữ kết quả có tới 97,8% Hs được hỏi trả lời mình biết đến áp lực đồng trang lứa, 77,3% câu trả lời cho rằng đang chịu áp lực đồng trang lứa; hơn 85,1% học sinh được hỏi trả lời mình cảm thấy mệt mỏi, buồn, tự ti khi bị so sánh với người khác hoặc thấy người khác hơn mình. Hầu hết học sinh đều cảm thấy việc học trở thành một gánh nặng rất lớn đối với bất cứ em học sinh nào. Nhiều học sinh chia sẻ rằng, bản thân đã dành hết thời gian trong ngày để học tập, thậm chí nhiều trẻ phải liên tục thức khuya để hoàn thành xong các bài tập được giao về nhà. Nhiều bậc phụ huynh và cả giáo viên lại thường đề cao tầm quan trọng của điểm số. Điều này gây nên nhiều sức ép và tạo thành áp lực rất lớn đối với việc học tập của các em. Trong cuộc khảo sát nguyên nhân dẫn đến áp lực đồng trang lứa, có 40,4% các em đều có chung câu trả lời là mình vẫn thường bị bố mẹ so sánh với cụm từ “con nhà người ta”, do sự kì vọng của gia đình; 34,8% câu trả lời cho rằng đó là do nhận thức của bản thân, 24,8% trả lời do sự tác động của mạng xã hội, có 85,8% thấy áp lực đồng trang lứa mang đến nhiều tiêu cực, số còn lại cho rằng áp lực mang tính tích cực. Các em chia sẻ khi bố mẹ so sánh con với người khác và cho rằng con không bằng ai đó, các em thường cảm thấy bị tổn thương cũng như thất vọng vì không đáp ứng được kỳ vọng và tiêu chuẩn mà bố mẹ đặt ra. Điều này có thể khiến trẻ tự ti, thu mình và có xu hướng tự kỷ. Đồng thời, các em sẽ không cảm thấy an toàn trong mối quan hệ với bố mẹ và có thể gặp khó khăn trong việc xây dựng các kỹ năng xã hội trong tương lai. Kết quả khảo sát thực trạng áp lực đồng trang lứa ở HS Là những học sinh vùng ven biển, ven thành phố, các em còn chịu ảnh hưởng một luồng tư tưởng, phong cách sống của những gia đình có điều kiện về kinh tế. Vì thế một trào lưu của sự đua đòi lại âm ỉ lan toả, đó là: phát ngôn gây 8
  14. sốc, xăm hình, kỉ yếu độc lạ, thời trang dị, yêu đồng tính,… Đặc biệt không ít các trường hợp học sinh do quá căng thẳng, mệt mỏi vì học tập nên đã hình thành nên các hành động xấu như thuyết phục bạn bè trốn học; thúc đẩy ai đó mua thuốc lá điện tử hay hút thuốc lá, ép bạn bè uống rượu bia hoặc thử ma túy, khuyến khích bạn bè đồng trang lứa bắt nạt người khác. Những chia sẻ đầu năm của HS lớp 10 Em Nguyễn Thị Phương Hiền xúc động khi nói về áp lực của mình 2.3. Nguyên nhân dẫn đến áp lực đồng trang lứa: 2.3.1. Nguyên nhân khách quan: Thứ nhất, nguyên nhân đến từ mạng xã hội. Việc bùng nổ thông tin, sự gia tăng của nhiều tệ nạn, nhiều chiêu trò lừa đảo, nhiều cám dỗ, cạm bẫy, nhiều thông tin sai lệch khiến giới trẻ hoang mang, gặp không ít khó khăn trong việc xác định chuẩn mực đạo đức xã hội, từ đó dẫn đến nhiều khó khăn trong việc lựa chọn, định hướng cách sống đúng đắn. Xã hội phát triển, giới trẻ tiếp xúc với đồng tiền sớm hơn, quan tâm nhiều hơn đến vật chất, có nhu cầu tự tìm kiếm thu nhập để trang trải một số nhu cầu cá nhân mà không muốn phụ thuộc vào bố mẹ: sử dụng mạng xã hội, làm đẹp, giải trí... Học sinh có thêm những áp lực mới so với trước: bên cạnh áp lực học tập, còn có áp lực kinh tế. Thứ hai, nguyên nhân đến từ sự so sánh trong xã hội. “Con nhà người ta” đó là thuật ngữ mà trong mỗi chúng ta chắc chắn ai cũng đã được nghe. Bữa cơm gia đình diễn ra, bố mẹ mở ti vi lên nghe bản tin thời sự. Bạn học sinh nghèo nào đó đạt giải Nhất trong kì thi Tiếng Anh quốc tế. Cậu khuyết tật vừa được phỏng vấn vì đạt giải Nhì trong kì thi bơi lội của tỉnh,... Dù 9
  15. không hề quen biết, chúng ta cũng bị bố mẹ đem ra so sánh: con nhà người ta như thế đấy, nhìn lại con nhà mình thì thế này thế kia. Bị so sánh càng nhiều các em càng áp lực khi bản thân mình thua kém người khác và không đáp ứng được kì vọng của mọi người. Thứ ba, nguyên nhân đến từ sự hòa nhập với tập thể Bước vào một lớp học mới, cấp học mới - cấp THPT, quy mô trường học lớn hơn, phạm vi tiếp xúc mở rộng, những yêu cầu mới được đặt ra, HS phải thay đổi, thích nghi với môi trường mới. Trong hoạt động cộng đồng bên cạnh những bạn mới, bạn nhận ra bản thân không có gì nổi trội, áp lực vì cảm giác thua kém trong khi mình cũng từng là một học sinh ưu tú. Trong một tập thể với nhiều người xuất sắc như thế, chắc chắn sẽ có một áp lực vô hình đè nặng lên vai các em. Cũng có những bạn trẻ sa vào các tệ nạn vì bị cám dỗ, lôi kéo. 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan: Xuất phát từ tư tưởng và nhận thức chưa phù hợp: Ở độ tuổi mới lớn, học sinh có những sự thay đổi đáng kể về tâm lý và suy nghĩ, dẫn đến hành động cũng trở nên nhạy cảm với mọi thứ xung quanh, điều này khiến họ luôn muốn thể hiện mình, chứng minh rằng mình đã trưởng thành. Mặt khác, nhu cầu được mọi người chú ý, được mọi người nể trọng, cũng là lí do khiến các bạn học sinh muốn thể hiện bản thân, để khẳng định năng lực và cái tôi của mình. Có những hành động thể hiện bản thân tích cực đến từ những việc đơn giản không những ở bề ngoài chỉn chu, phù hợp với quy định của nhà trường mà còn ở lời nói và cử chỉ lịch sự, lễ phép. Có em dám nói lên ý kiến, bảo vệ những quan điểm đúng đắn của mình, đánh dấu cột mốc của sự trưởng thành. Tuy nhiên, hiện nay một số học sinh đã có những hành động khẳng định bản thân mình sai trái, không phù hợp với độ tuổi. Họ tập tành hút thuốc lá, tụ tập băng nhóm đánh nhau, quay clip bạo lực phát tán lên mạng, họ nói tục chửi thề, lạm dụng “ngôn ngữ teen” để chứng tỏ mình là “người sành điệu”… Điều đó đã dẫn đến những hiện tượng ức chế tâm lý cho học sinh, trở thành áp lực trong đời sống. Khả năng kiểm soát cảm xúc của học sinh còn hạn chế: Kiểm soát cảm xúc của học sinh thể hiện ở khả năng làm chủ bản thân khi cảm xúc nảy sinh, biết cách giải tỏa cảm xúc một cách hiệu quả nhất và có khả năng kiểm soát cảm xúc của người khác. Học sinh THPT là độ tuổi mà tâm sinh lý đang có sự thay đổi rõ rệt do sự giao thoa của sự phát triển, sự chuyển giao giữa một đứa trẻ sang một con người dần trưởng thành. Ở độ tuổi này, các em thường có những cảm xúc nông nổi bất chợt, sự mong muốn vươn lên làm người lớn đối nghịch với khả năng của bản thân luôn kiềm hãm hành động của các em và gây ra những cảm xúc khó chịu tiềm ẩn trong các em. Bên cạnh đó, những tác động mang tính cấm cản từ phía gia đình, sự lôi kéo của những nhóm bạn không lành mạnh cũng là nguyên nhân dẫn đến những cảm xúc không tích cực cho các em. Song song với điều đó, việc tiếp xúc với những hình ảnh, clip mang tính bạo lực tràn lan trên mạng xã hội cũng là một trong những nguyên nhân gây nên những cảm xúc và hành vi lệch lạc, tiêu cực ở lứa tuổi 10
  16. học sinh THPT. Bởi vì chính các em cũng không thể nào kiềm chế hoặc quản lí cảm xúc một cách tốt nhất. Và vì các em học sinh không thể kiểm soát, không quản lí được cảm xúc của bản thân nên không ít những hậu quả đáng tiếc đã xảy ra như các em sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết mâu thuẫn đến mức phải nhập viện thậm chí thiệt mạng. Hay việc xuất hiện những suy nghĩ tiêu cực ngày càng nhiều mà bản thân không biết cách giải tỏa cũng là tác nhân dẫn đến cảm xúc mỗi lúc mỗi leo thang và rồi hành vi hủy hoại bản thân đã diễn ra như rạch tay, rạch chân, uống thuốc ngủ quá liều và kể cả nhảy lầu để tự tử… Trước ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận học sinh ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật... Những biểu hiện đó làm ảnh hưởng đến những quan điểm về tình bạn, tình yêu trong lứa tuổi thanh thiếu niên, nhất là khi chưa được trang bị và thiếu kiến thức về vấn đề này. Tất cả những suy nghĩ lệch lạc đó dần dần ảnh hưởng xấu đến cảm xúc, suy nghĩ, động cơ, ước mơ hoài bão vươn lên của HS. 2.4. Những khó khăn trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT Nghi Lộc 4 Khó khăn xuất phát từ Mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông: Theo dự thảo chương trình phổ thông mới sau năm 2015, Bộ GD&ĐT xác định: “Chương trình giáo dục phổ thông nhằm giúp học sinh phát triển khả năng vốn có của bản thân, hình thành tính cách và thói quen, phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời, có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động cần cù, có tri thức và sáng tạo”. Thực hiện mục tiêu giáo dục, làm nên chất lượng giáo dục phải là công việc của cả hệ thống, nhưng người trực tiếp làm nên chất lượng giáo dục, trực tiếp tác động lên quá trình hình thành, phát triển nhân cách người học thì chỉ có cán bộ quản lý, giáo viên giảng dạy, giáo viên chủ nhiệm của mỗi nhà trường. Từ mục tiêu đó, năng lực của giáo viên chủ nhiệm khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới sau năm 2015 sẽ là: “Tổng hợp những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần có của giáo viên chủ nhiệm khi tham gia các hoạt động giáo dục học sinh ở các cấp học nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của cấp học và hỗ trợ học sinh hoàn thiện phát triển nhân cách”. Đây là một nhiệm vụ cũng là những thách thức lớn cho mỗi GV trong công tác chủ nhiệm lớp. Khó khăn từ phía học sinh: Lứa tuổi THPT là giai đoạn mà các em đang dần hoàn thiện về bản thân và nhân cách. Bên cạnh đó lứa tuổi này vẫn còn thiếu kinh nghiệm, kiến thức sống. Nên giai đoạn này, các em thường gặp những khó khăn, khủng hoảng nhất. Đây là lứa tuổi mà các em dần hình thành “cái tôi” của bản thân. Đồng thời các em còn phải đối diện với những áp lực cuộc sống, thi cử, định hướng tương lai. Học sinh thường gặp áp lực học tập rất lớn. Vấn đề này bắt nguồn 11
  17. từ việc các bậc cha, mẹ luôn muốn con em của mình phải đạt được thành tích cao. Những kỳ vọng về điểm số quá mức của phụ huynh đã vô tình tạo nên áp lực cho các em. Chúng khiến cho các em học sinh rơi vào trạng thái mệt mỏi, khủng hoảng tinh thần. Bệnh thành tích, coi trọng điểm số là một vấn đề nhức nhối hiện nay. Ngoài ra, các em thường có những mối quan tâm và vấn đề về sự phát triển của cơ thể. Những câu hỏi không dễ hỏi người lớn như mặc cảm về hình thể, chiều cao, cân nặng. Ngoài ra ranh giới giữa trẻ con và tuổi trưởng thành này thường không rõ ràng. Trong mối quan hệ với trẻ nhỏ hơn hoặc với bạn bè đồng trang lứa, lứa tuổi này có xu hướng cố gắng thể hiện mình là người lớn. So sánh mình với người lớn, các em luôn muốn được độc lập, tự chủ trong việc giải quyết vấn đề của chính mình. Ở các em, xuất hiện mong muốn trở thành người lớn, nhu cầu hướng đến những giá trị, suy nghĩ, hành động của người lớn. Tuy nhiên, các em ý thức được rằng mình không có khả năng hoặc chưa được chấp nhận điều đó. Xung đột này đã tạo ra những thay đổi lớn trong lĩnh vực tình cảm của những người trẻ tuổi. Từ phía phụ huynh: Xuất phát từ tâm lí “con cái là của để dành của cha mẹ”, nên hầu hết cha mẹ kỳ vọng, đặt tất cả tương lai vào con cái. Nhiều phụ huynh đã không nhìn nhận được điểm đặc biệt của con mình. Do đó, họ thường cho rằng "con nhà người ta" là một hình mẫu hoàn toàn lý tưởng, và mặc định con em của mình phải chạy theo những khuôn mẫu ấy. Từ việc không thấu hiểu, nên các bậc phụ huynh thường hay áp đặt suy nghĩ của mình lên các con, dẫn đến việc các em dần trở nên xa cách với gia đình. Điều này vô tình đẩy con em vào một cuộc đua không điểm dừng. Việc so sánh là để thỏa mãn lòng tham, sự ích kỷ của người lớn nhưng đối với học sinh thì ngược lại, nó trở thành nỗi ám ảnh. Bên cạnh đó, còn có một tỷ lệ lớn cha mẹ tỏ ra thiếu nhạy cảm trước những tâm trạng bất thường của con cái. Việc phối hợp giữa nhà trường, GVCN và phụ huynh ở trường trong những năm qua khá tốt. Tuy nhiên, cũng không ít các trường hợp học sinh, việc phối hợp này còn khó khăn. Trước những biểu hiện, những rắc rối về tâm lí, đạo đức, học tập của học sinh, nhiều phụ huynh gặp khó khăn trong việc giải quyết, thậm chí phó mặc cho nhà trường. Ngoài ra trước áp lực của thời đại công nghệ số, hầu hết phụ huynh đều lao vào công việc mưu sinh, con trẻ lao vào cuộc đua học tập để tồn tại và phát triển. Nhịp sống trở nên tất bật như guồng quay của cỗ máy. Thời gian ngày càng eo hẹp, cha mẹ ít có thời gian dành cho con. Ít giao tiếp trò chuyện trực tiếp với nhau, khoảnh khắc yêu thương, gắn bó trong gia đình ngày càng ít đi. Những bữa cơm đầy đủ thành viên gia đình cũng ít đi, trong khi nó cần được duy trì thường xuyên, đều đặn. Hơn nữa, thực tế cho thấy, hiện nay, nhiều cha mẹ rất nghiện sử dụng điện thoại. Theo quan sát, học sinh hầu hết đều có phát biểu cha mẹ cũng “nghiện” sử dụng thiết bị di động. Có thể thấy, tác động của công nghiệp hóa đã khiến một số giá trị văn hóa gia đình truyền thống tốt đẹp bị mai một. Giáo dục về nhân cách, lối sống cho con cái trong không ít gia đình hiện đang có sự lúng túng, có khi lệch chuẩn. Điều này vô hình chung đã trở thành một nguyên nhân dẫn đến rất nhiều học sinh hiện nay gặp phải các tác động tâm lí mà gia đình chưa thể giải quyết được. 12
  18. 3. Một số giải pháp nhằm giảm tác động tiêu cực của áp lực đồng trang lứa cho học sinh THPT. 3.1. Trang bị kĩ năng mềm cần thiết cho HS: 3.1.1. Kỹ năng nhận thức về bản thân 3.1.1.1. Mục tiêu Học sinh hiện nay, các em đang phải đương đầu với rất nhiều nguy cơ, cám dỗ không lành mạnh của xã hội hiện đại nhưng lại không có hoặc thiếu những kỹ năng để ứng phó với khó khăn và lựa chọn cách sống lành mạnh, tích cực cho bản thân và xã hội. xét về mặt tâm sinh lý, học sinh THPT là lứa tuổi nhạy cảm, có những thay đổi to lớn về tâm sinh lý và các mối quan hệ xã hội. Do đó trang bị những kỹ năng tự nhận biết và định hướng bản thân là một yêu cầu đầu tiên, hết sức cần thiết. Kỹ năng tự nhận thức cũng như nhiều kỹ năng sống khác cần được giáo dục và phát triển cho mọi lứa tuổi học sinh nói chung, đặc biệt là học sinh THPT. Trang bị kỹ năng nhận thức giúp mỗi HS có thể tự hiểu rõ về mình, biết rõ về tính cách, cảm xúc, điểm mạnh, điểm yếu của mình, tự nhận thức nhu cầu bản thân, biết mình muốn gì và cần làm gì. Thấu hiểu bản thân giúp HS nhanh chóng đưa ra những quyết định tốt nhất cho mình, nhờ đó có thể giảm căng thẳng, áp lực trước những lựa chọn, cảm thấy tràn đầy sức sống hơn. Việc thấu hiểu bản thân sẽ mang lại năng lượng dồi dào, hào hứng với cuộc sống và khiến mọi trải nghiệm trở nên phong phú hơn. Kỹ năng nhận thức giúp HS có thể kiểm soát được những đòi hỏi của bản thân đồng thời hiểu rõ về khả năng chịu đựng của mình ở mức giới hạn như thế nào. Nhờ vậy mà bản thân sẽ đưa ra được những suy nghĩ, hành động và lựa chọn đúng đắn. Việc hình thành kỹ năng tự nhận thức chính là tiền đề để tạo dựng một cuộc sống mà HS mong muốn sở hữu. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc xác định những thế mạnh, ưu điểm và cả những điểm yếu, khuyết điểm của bản thân. Nhờ vậy mà bản thân có thể tự biết được sở trường, năng lực cũng như những khả năng tiềm ẩn của mình để tìm cách phát huy, học cách sống tích cực hơn. Đồng thời tránh được những ảo tưởng về khả năng, giá trị của bản thân cũng như những áp lực mà cuộc sống tạo nên. Với kỹ năng này giúp học sinh có thể đánh giá đúng về thực lực của mình, không bị lo lắng, tự ti khi bị so sánh. Tự nhận thức về bản thân giúp mỗi HS xác định được mục tiêu để phấn đấu cho tương lai.Chính vì thế, các em có đủ tự tin, lạc quan để vượt qua được những áp lực trong cuộc sống, từ đó đưa ra lựa chọn đúng đắn, lập kế hoạch cụ thể phù hợp với khả năng, hoàn cảnh thực tế và yêu cầu của xã hội. 3.1.1.2. Cách thức nâng cao kĩ năng nhận thức về bản thân cho học sinh: - Hướng học sinh đến suy nghĩ tích cực, nhìn nhận bản thân khách quan: Việc cố gắng nhìn nhận về chính bản thân mình thực sự không phải là một quá trình dễ dàng, thế nhưng nếu bạn bỏ công sức xứng đáng, thì phần thưởng 13
  19. nhận lại là sự tự nhận thức sẽ cực kì ngọt ngào. Nếu như bạn có thể xem xét bản thân bằng một cái nhìn khách quan, bạn sẽ học được cách chấp nhận chính mình và cách để thành công trong tương lai. Để giúp HS nhìn nhận bản thân khách quan, GVCN cần hướng dẫn học sinh thực hiện các bước sau: + Xác định những hiểu biết cụ thể về bản thân: Viết chúng ra giấy những ưu điểm, hoặc khuyết điểm của mình. Điều bạn tự hào, hoặc một tài năng nào đó thực sự nổi bật trong cuộc sống của mỗi học sinh. + Nghĩ về bản thân mình và những điều đã khiến mình cảm thấy hạnh phúc. Điều gì đã thay đổi, còn điều gì vẫn giữ nguyên? Vì sao những điều ấy lại thay đổi? Không ngừng tự soi chiếu bản thân, dành thời gian để nghĩ xem sẽ ra sao nếu mình làm như thế. Hãy nghĩ về những việc mình có thể làm để thực hiện được mục tiêu, khát vọng của mình. Giá trị thực sự của mình là gì, điều gì quan trọng nhất với mình trong lúc này? Tất cả những câu hỏi mang tính tự phản chiếu ấy sẽ giúp HS xác định rõ ràng hơn rằng các em là ai, các em cần gì trong cuộc sống hiện tại. + Viết ra những mục tiêu, kế hoạch ưu tiên của bản thân: Hướng dẫn HS viết ra những mục tiêu của các em trong một trang giấy hoặc qua việc khảo sát các định hướng nghề nghiệp tương lai. Hiện thực hóa chúng thành một quá trình tuần tự từng bước; Chia nhỏ những mục tiêu lớn để cảm giác có thể thực hiện ngay từ lúc bắt đầu, và hãy bắt tay thực hiện chúng. - Hướng dẫn HS nhận thức về bản thân thông qua các buổi tuyên truyền, trải nghiệm hướng nghiệp và các tiết sinh hoạt lớp. Tiết sinh hoạt lớp theo chủ đề : Nhận thức về bản thân Hoạt động trải nghiệm: Rèn luyện bản thân; khám phá bản thân 14
  20. - Tự phê bình bản thân mỗi ngày Muốn nâng cao khả năng tự nhận thức thì HS cần phải thực hiện tự phê bình bản thân mỗi ngày. Đây chính là cách để HS tự nhìn nhận bản thân một cách nghiêm túc và trung thực nhất để biết được mình đã làm được gì và chưa làm được gì? Cần phải thay đổi như thế nào để tốt hơn và giúp bản thân thực hiện kế hoạch, mục tiêu của mình. Việc thực hiện có thể thực hiện theo từng tháng hoặc theo từng học kì. 3.1.1.3. Kết quả đạt được Bài tự đánh giá tự nhận thức của bản thân tại lớp 10C1 - Việc nâng cao kỹ năng nhận thức cho học sinh đã giúp mỗi HS nhận thức được cơ bản về bản thân: điểm mạnh, điểm yếu, sở thích của bản thân. Với các em lớp 10 bước đầu biết định hướng về mục tiêu học tập và định hướng nghề nghiệp bản thân dựa trên những năng lực sở trường và cả hoàn cảnh của gia đình. - Từ việc nhận thức về bản thân đã giúp các em tự tin, vui vẻ với tập thể lớp. Mỗi học sinh đều thấy được nét riêng, giá trị riêng của bản thân trong tập thể lớp, nên mỗi em đều tự nhiên, vui vẻ, hoà đồng. 3.1.1.4. Một số lưu ý khi trang bị kĩ năng nhận thức cho HS - Việc rèn luyện khả năng tự nhận thức rất gian nan và đòi hỏi sự nỗ lực của cá nhân mỗi HS và sự kiên nhẫn từ phía GVCN. - Để cởi bỏ gánh nặng của áp lực đồng trang lứa, điều quan trọng nhất là ta phải nhận thức một cách đúng, đủ và khách quan về giá trị của bản thân. Mỗi con người sinh ra là một cá thể riêng biệt với những tính cách, phẩm chất, năng lực khác nhau. Vì thế mỗi GVCN cần tôn trọng tính cá thể của mỗi HS, mỗi HS cũng không thể ép buộc bản thân đi theo con đường của người khác khi xuất phát điểm vốn khác biệt. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2