intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường tại trường THPT Lê Hồng Phong

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:48

43
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường tại trường THPT Lê Hồng Phong" nhằm góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, phòng ngừa, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường và hình thành ý thức, thói quen “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” cho các em ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Từ đó, để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường tại trường THPT Lê Hồng Phong

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƢỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG –––––––––––––– SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG NHÀ TRƢỜNG TẠI TRƢỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Người thực hiện: Nguyễn Thị Bích Hạnh Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Hồng Phong Số điện thoại: 0912368139 Nghệ An, tháng 4 năm 2022
  2. MỤC LỤC Phần, mục Nội dung Trang Phần 1 Đặt vấn đề 4 Phần 2 Nội dung 6 I Cơ sở lý luận và thực tiễn 6 1 Cơ sở lý luận 6 2 Cơ sở thực tiễn 12 II Thực trạng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại 13 trƣờng THPT Lê Hồng Phong 1 Khái quát đặc điểm, tình hình về trường THPT Lê Hồng 13 Phong Thực trạng công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật tại 2 15 trường THPT Lê Hồng Phong Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng công tác tuyên III truyền, phổ biến pháp luật tại trƣờng THPT Lê Hồng 18 Phong Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và 1 học sinh về vai trò vị trí, tầm quan trọng, mục đích của công 18 tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu các đơn vị, các tổ chức đoàn thể của nhà 2 20 trường trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật 3 Quan tâm công tác xây dựng, ban hành kế hoạch phổ biến và 20 giáo dục pháp luật Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ giáo viên 4 môn Giáo dục công dân, báo cáo viên và cán bộ phụ trách 22 công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của nhà trường Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội 5 trong việc xây dựng văn hóa ứng xử 23 2
  3. Phối hợp chặt ch với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, đoàn thể 6 trong và ngoài nhà trường để triển khai sâu rộng, toàn diện, 24 đồng bộ, thường xuyên, phong phú các nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường Triển khai tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật bằng 7 nhiều hình thức phong phú, linh hoạt, sáng tạo, hấp dẫn để 24 có hiệu quả Tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy pháp luật chính khóa, hoạt động ngoại khóa, ưu tiên kỹ năng thực hành, kỹ năng sống để phát huy tính chủ động, sáng tạo cho người 8 học; xây dựng bài giảng điện tử, các mô hình trực quan, tình 26 huống pháp lý thực tiễn trong giảng dạy. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Kết hợp giáo dục nâng cao ý thức pháp luật với giáo dục đạo 9 đức, lối sống cho học sinh. Phối hợp với gia đình để nâng 27 cao ý thức pháp luật với giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi, đôn đốc việc thực 10 hiện kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật. Đồng thời, thực 28 hiện sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện IV Kết quả đạt đƣợc 29 1 Công tác chỉ đạo 29 2 Tổ chức triển khai thực hiện 29 Các điều kiện đảm bảo triển khai công tác phổ biến, giáo 3 31 dục pháp luật Phần 3 Kết luận và kiến nghị 33 I Kết luận 33 II Kiến nghị, đề xuất 34 Tài liệu tham khảo Phụ lục 3
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Ký hiệu viết tắt Đọc là BHXH Bảo hiểm xã hội CBCCVC Cán bộ công chức, viên chức CBQL Cán bộ quản lý CSGD Cơ sở giáo dục GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo QPPL Quy phạm pháp luật PBGDPL Phổ biến giáo dục pháp luật THPT Trung học phổ thông UBND Ủy ban nhân dân 4
  5. Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã xác định rõ: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Đây là khâu then chốt, quan trọng để đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng chủ thể trong xã hội. Công tác PBGDPL thực sự là cầu nối để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với mọi người dân. Mọi tổ chức, cá nhân muốn tuân thủ, thực thi pháp luật trước hết đều phải có hiểu biết pháp luật. Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và không thực hiện tốt công tác PBGDPL thì dù công tác xây dựng pháp luật có làm tốt đến mấy cũng không đạt được hiệu quả thực thi pháp luật. Như vậy, công tác PBGDPL được thực hiện tốt s góp phần nâng cao nhận thức, định hướng cho mọi người luôn có ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn chặn làm hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước bước vào thời kỳ hội nhập, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội có nhiều biến động phức tạp thì công tác tuyên truyền, PBGDPL cho mọi công dân, đặc biệt là cho học sinh trong trường học là nội dung cần thiết, cấp bách. Phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường có vai trò quan trọng góp phần nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của công dân từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, từ đó nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Có thể nói, không có môi trường nào có thể thực hiện việc PBGDPL thuận lợi và hiệu quả hơn trong môi trường trường học. Muốn học sinh chấp hành pháp luật tốt thì trước hết các em phải có hiểu biết về pháp luật. Với một môi trường sư phạm, một đội ngũ thầy cô giáo nhiệt tình, tâm huyết, có năng lực sư phạm, với hệ thống những bài giảng sinh động, những hình thức, phương tiện phong phú, đa dạng là cách tốt nhất để những tri thức về pháp luật được giới thiệu, được chuyển tải tốt nhất đến con trẻ. Đây là cơ sở, là nền móng vững chắc nhất cho các hành vi đúng pháp luật của các em ngoài nhà trường và trong tương lai. Trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện, PBGDPL theo tinh thần của Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/11/2013, PBGDPL với vị trí là một bộ phận của giáo dục đào tạo cần được đổi mới nội dung, chương trình, đội ngũ giảng viên, giáo viên, phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra, đánh giá… để thực hiện được mục tiêu giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện. Công tác PBGDPL trong các nhà trường trên địa bàn tỉnh Nghệ An thời gian qua đã được Sở GD&ĐT quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện. Nhiều cơ sở giáo dục (CSGD) đã xây dựng kế hoạch PBGDPL; nhiều văn bản luật đã được tuyên truyền, phổ biến trong cán bộ, giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, nhìn chung việc PBGDPL còn mang tính hình thức, chưa đi vào chiều sâu và chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Hiểu biết về pháp luật của học sinh nhìn chung còn hạn chế, cho nên vẫn còn 5
  6. tình trạng học sinh vi phạm pháp luật, nhất là vi phạm luật giao thông, bạo lực học đường, một số học sinh có những hành vi vi phạm như tàng trữ pháo, đốt pháo… làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn trường học. Do đó, cần tiếp tục chú trọng nâng cao chất lượng công tác PBGDPL trong các CSGD nhằm tạo chuyển biến mạnh m trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật trong toàn ngành Giáo dục; góp phần đưa công tác PBGDPL trong xã hội nói chung, trong nhà trường nói riêng đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, góp phần bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật của công dân. Do vậy, việc đúc rút sáng kiến kinh nghiệm về các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL là một nội dung, yêu cầu cần thiết trong ngành giáo dục. Trường THPT Lê Hồng Phong là CSGD trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An (GD&ĐT). Thực hiện hướng dẫn của các cấp, trực tiếp là Sở GD&ĐT, trường THPT Lê Hồng Phong đã xác định vấn đề PBGDPL một nội dung, một nhiệm vụ được nhà trường đặc biệt quan tâm triển khai thực hiện. Qua đó, giúp cán bộ, giáo viên và học sinh ý thức, trách nhiệm thực hiện tốt các chủ trương của ảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; phòng ngừa, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường. Đồng thời góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, phòng ngừa, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường và hình thành ý thức, thói quen “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” cho các em ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Từ đó, để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh. Căn cứ các kết quả đạt được trong quá trình triển khai, chúng tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng c ng tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nh trƣờng tại trƣờng THPT Lê Hồng Phong” Công tác PBGDPL không phải là vấn đề mới vì đây là một nội dung, một nhiệm vụ yêu cầu các CSGD triển khai. Tuy nhiên, hiện tại, đến thời điểm này vẫn chưa có tài liệu nào hướng dẫn cụ thể, đầy đủ, chi tiết về các giải pháp nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường. Đề tài được đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn chủ đạo, triển khai công tác PBGDPL tại trường THPT Lê Hồng Phong. Cho nên đề tài được đặt ra có tính mới. Phần 2. NỘI DUNG 6
  7. I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lý luận 1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật Phổ biến giáo dục pháp luật bao gồm hai nội dung “phổ biến pháp luật” và “giáo dục pháp luật”. Phổ biến pháp luật: Theo từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng năm 1997) hay Từ và ngữ Hán Việt (NXB Từ điển Bách Khoa - 2002) thì "Phổ biến là làm cho đông đảo mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông quan hình thức nào đó" hoặc làm cho mọi người đều biết đến". Phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ nhà nước dùng để trị dân. Bên cạnh đó phổ biến pháp luật còn mang tính tác nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối tượng cụ thể. Ở những mức độ khác nhau, phổ biến pháp luật còn nhằm làm cho các đối tượng cụ thể hiểu thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế. Phổ biến pháp luật thường được thực hiện thông qua các bài quán triệt tại hội nghị, các cuộc tập huấn, các buổi nói chuyện... Giáo dục pháp luật: Theo Từ điển Từ và ngữ Hán - Việt "Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội". So với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt ch hơn, đối tượng xác định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là các phương thức giáo dục cụ thể. Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả đã khá thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật: Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành. Tóm lại, theo cách hiểu chung nhất về phổ biến, giáo dục pháp luật có hai nghĩa: - Theo nghĩa hẹp: Phổ biến, giáo dục pháp luật là giới thiệu tinh thần văn bản pháp luật cho người có nhu cầu; theo đó phổ biến, giáo dục pháp luật là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng. - Theo nghĩa rộng: Phổ biến, giáo dục pháp luật là một khâu của hoạt động tổ 7
  8. chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định thông qua các hình thức giáo dục, thuyết phục, nêu gương... nhằm mục đích hình thành ở đối tượng tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức, phương tiện, phương pháp đặc thù. Phổ biến, giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể tuyên truyền lên đối tượng, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Trong công tác quản lý nhà nước, phổ biến, giáo dục pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng và được xác định là một công việc trọng tâm và thường xuyên của các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành. 1.2. Đặc điểm của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 1.2.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng Bản chất của hoạt động xây dựng pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân vì vậy thực hiện pháp luật là thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Phổ biến, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng cho việc giáo dục chính trị, hình thành ở người dân những hiểu biết nhất định về chính trị đồng thời trong quá trình giáo dục chính trị, tư tưởng có sự đan xen những nội dung, quan điểm pháp lý nhất định. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã xác định rõ phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. 1.2.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và xây dựng pháp luật có mối quan hệ chặt ch , biện chứng với nhau bởi l công tác xây dựng pháp luật là cơ sở cho việc hình thành, thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và ngược lại công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là cầu nối, là một phương tiện quan trọng để đưa pháp luật vào cuộc sống. Phổ biến, giáo dục pháp luật có tác động tích cực đến việc tổ chức, thực hiện pháp luật trên cơ sở giúp người dân có hiểu biết pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật. 1.2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật, giúp cho đối tượng tác động có hiểu biết nhất định về pháp luật, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đối tượng thông qua các hình thức, phương tiện, biện pháp thích hợp. 1.3. Các nguyên tắc phổ biến, giáo dục pháp luật - Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực. 8
  9. - Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm. - Đa dạng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi, trình độ của đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật và truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc. - Gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hằng ngày của người dân. - Phối hợp chặt ch giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội. 1.4. Mục đích, ý nghĩa của PBGDPL trong đời sống xã hội Công tác tuyên truyền, PBGDPL luôn có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể; là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng chủ thể trong xã hội. PBGDPL là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Nói cách khác, quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống được bắt đầu bằng hoạt động PBGDPL. Thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào - tuân thủ, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng (vận dụng) pháp luật hay áp dụng pháp luật. Trước hết đều phải có hiểu biết pháp luật. Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và không thực hiện tốt công tác PBGDPL thì dù công tác xây dựng pháp luật có làm tốt đến mấy cũng không đạt được hiệu quả thực thi pháp luật. Pháp luật của Nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng bản chất pháp luật của Nhà nước ta là tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Tuy nhiên, dù những quy định pháp luật có tốt đẹp nhưng không được nhân dân biết đến thì vẫn không đi vào cuộc sống. PBGDPL chính là phương tiện truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến với người dân, giúp cho người dân hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà không mất quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đó chính là phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân. Thứ hai là phải hình thành lòng tin vào pháp luật của đối tượng. Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tin tưởng vào những quy định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng là để bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng, đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội. Khi nào người dân nhận thức đầy đủ được như vậy thì pháp luật không cần một biện pháp cưỡng chế nào mà mọi người vẫn tự giác thực hiện. 9
  10. Tạo lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi người và cả cộng đồng đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố. Một trong các yếu tố đóng vai trò quan trọng là PBGDPL để mọi người hiểu biết về pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Pháp luật cũng như mọi hiện tượng khác trong xã hội bao giờ cũng có hai mặt, không phải lúc nào nó cũng thoả mãn hết, phản ánh được đầy đủ nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi người trong xã hội. Quá trình điều chỉnh pháp luật s lấy lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội làm tiêu chí, thước đo, do đó s có một số ít không thoả mãn được. Chính các yếu tố hạn chế của các quy định pháp luật càng tạo nên sự cần thiết của công tác PBGDPL để mọi người hiểu đúng pháp luật, đồng tình ủng hộ pháp luật. Có như vậy mới hình thành lòng tin vào pháp luật của đông đảo nhân dân trong xã hội. Thứ ba là nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng. Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố đó là tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật. Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể có được qua việc học tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích luỹ kiến thức của hoạt động thực tiễn và công tác. Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực hiện đúng pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật. Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ có thể được nâng cao khi công tác PBGDPL cho nhân dân được tiến hành thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục. PBGDPL không đơn thuần là phổ biến các văn bản pháp luật đang có hiệu lực mà còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành vi thực hiện đúng pháp luật, hình thành dư luận và tâm lý đồng tình ủng hộ với hành vi hợp pháp, lên án các hành vi vi phạm pháp luật. PBGDPL nhằm hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp của con người với pháp luật, đồng thời ngày càng nâng cao sự hiểu biết của con người đối với các văn bản pháp luật và các hiện tượng pháp luật trong đời sống, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân. Thứ tư là PBGDPL góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vai trò quan trọng này của công tác PBGDPL bắt nguồn từ chính vai trò và giá trị xã hội của pháp luật là phương tiện hàng đầu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. PBGDPL giúp cho mọi người có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự do của mỗi người. PBGDPL đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý. 10
  11. 1.4.Vị trí, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường PBGDPL cho công dân diễn ra trong phạm vi toàn xã hội, tuy nhiên việc phổ biến giáo dục trong trường học đóng vai trò hết sức quan trọng. Trường học là nơi giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ về kiến thức, về kỹ năng, giúp trẻ hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của mình để trở thành người công dân có ích cho xã hội. Vì vậy, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho công dân phải được thực hiện ngay trong trường học, để mỗi công dân trẻ tuổi sớm có hiểu biết về pháp luật, hình thành ý thức và thói quen chấp hành pháp luật. Có thể nói không có môi trường nào có thể thực hiện việc PBGDPL thuận lợi và hiệu quả hơn môi trường trường học. Muốn học sinh chấp hành pháp luật tốt thì trước hết các em phải có hiểu biết về pháp luất. Với một môi trường sư phạm, một đội ngũ thầy cô giáo nhiệt tình, tâm huyết, có năng lực sư phạm, với hệ thống những bài giảng sinh động, những hình thức, phương tiện phong phú, đa dạng là cách tốt nhất để những tri thức về pháp luật được giới thiệu, được chuyển tải tốt nhất đến con trẻ. Đây là cơ sở, là nền móng vững chắc nhất cho cac hành vi việc làm đúng pháp luật của các em ngoài nhà trường và trong tương lai. 1.5. Một số văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Xuất phát từ vị trí vai trò hết sức quan trọng của công tác phổ bến và giáo dục pháp luật, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chỉ đạo, đề ra nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định “Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật, huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội”. Các văn bản chỉ đạo: - Luật số 14/2012/QH13 ngày 20/06/2012 phổ biến, giáo dục pháp luật; - Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04/04/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; - Thông tư số 10/2016/TT-BTP ngày 22/7/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật; - Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật; - Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27/01/2014 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở; - Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay. 11
  12. - Chỉ thị só 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư BCH Trung ương Đảng khóa IX về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. - Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn 2008- 2012; - Luật phổ biến, giáo dục pháp luật (Số 14/2012/QH13) ngày 20/6/2012 do Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 3 đã thông qua; - Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 - 2021; - Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường” (Đề án 1928). - Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân - Quyết định số 1521/QĐ-TTg ngày 06/10/2020 Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân (Quyết định 1521/QĐ-TTg); - Quyết định số 04/QĐHĐPL ngày 12/01/2022 của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương năm 2022. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, Bộ GD&ĐT đã ban hành một số văn bản chỉ đạo triển khai như: Quyết định số 3957/QĐ-BGDĐT ngày 28/9/2017 về việc ban hành Kế hoạch tiếp tục triển khai thực hiện Đề án "Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường" đến năm 2021. Hàng năm, Bộ GDĐT đều ban hành Kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của ngành để chỉ đạo như: Kế hoạch số 115/KH- BGDĐT ngày 27/02/2020 về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2020; Kế hoạch số 159/KH-BGDĐT ngày 01/03/2021 về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2021; Kế hoạch số 194/KH-BGDĐT ngày 28/02/2022 về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2022 của ngành giáo dục. Hàng năm, Sở GD&ĐT Nghệ An đều ban hành các văn bản hướng dẫn nhiệm vụ năm học về công tác Phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà trường. Sở GD&ĐT đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 312/KH-UBND ngày 17/5/2018 về triển khai thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường” đến năm 2021 trên địa bàn tỉnh Nghệ An. 2. Cơ sở thực tiễn 12
  13. Thời gian qua, nhiều vụ việc học sinh nói riêng và trẻ em nói chung có những hành vi vi phạm pháp luật trong và ngoài trường học, đã dấy lên lo ngại về một thực tế là các em thiếu kiến thức về pháp luật. Đặc biệt là những vụ cố ý gây thương tích cho người khác, xử nhau bằng bạo lực dã man mà không lường trước được hậu quả, không hề biết mình đang phạm luật. Theo đánh giá của Công an tỉnh, tình trạng học sinh nói riêng và trẻ em nói chung vi phạm pháp luật về bạo lực học đường, an toàn giao thông, gây rối trật tự công cộng, sử dụng và vận chuyển ma túy, cướp giật... có xu hướng gia tăng. Một số em vi phạm khi bị bắt và xử lý nhưng không biết hành vi đó của mình là vi phạm pháp luật, càng không lường được hậu quả cũng như mức án phải nhận khi phạm tội hình sự. Qua một vài vụ xích mích, đánh nhau tại trường, khi được Ban giám hiệu nhà trường mời lên làm việc, hỏi về việc có biết đánh bạn, gây thương tích là vi phạm pháp luật không, không ít em trong số này ngơ ngác, cho hay là không biết, chỉ thấy ghét là... đánh. Qua đó cho thấy, việc tuyên truyền, giáo dục là cần thiết ngang với những môn học khác. Hiểu biết pháp luật s giúp học sinh biết dừng lại trước những hành vi vi phạm pháp luật. Bởi nó không chỉ giúp các em nhận biết được đâu là hành vi hợp pháp và đâu là hành vi vi phạm pháp luật, qua đó hình thành ý thức xa lánh những hành vi phạm tội, xây dựng thói quen và nhân cách sống chuẩn mực ngay từ khi chưa thành niên. Vấn đề giáo dục, trang bị kiến thức pháp luật cho học sinh nói chung và trẻ em nói riêng là rất cần thiết. Bởi nó không chỉ giúp các em nhận biết được đâu là hành vi hợp pháp và đâu là hành vi vi phạm pháp luật, qua đó hình thành ý thức xa lánh những hành vi phạm tội, xây dựng thói quen và nhân cách sống chuẩn mực ngay từ khi chưa thành niên. Tuy nhiên, cách PBGDPL cho học sinh tại một số trường học hiện nay được đánh giá là còn khô cứng, kém hấp dẫn. Nghệ An là một tỉnh có địa bàn tương đối phức tạp, đời sống của nhân dân nhìn chung còn nghèo, trình độ dân trí chưa cao, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Để giúp người dân vươn lên làm kinh tế giỏi, thay đổi cuộc sống trước hết cần phải giúp họ nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn hơn quyền và nghĩa vụ pháp lý công dân của mình. Đối tượng cần được quan tâm phổ biến, giáo dục pháp luật đầu tiên là thế hệ trẻ, là học sinh, sinh viên, từ đó nhân rộng và lan tỏa trong các gia đình, cộng đồng dân cư và trên địa bàn toàn tỉnh. Vì vậy, công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà trường cần phải được coi trọng, chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật phải ngày càng được nâng cao. Thực tiễn cho thấy công tác PBGDPL trong trường học đã góp phần quan trọng giúp nâng cao chất lượng công tác PBGDPL nói chung; góp phần tích cực vào việc giữ ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật trên địa bàn huyện và tỉnh. II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TẠI TRƢỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG 13
  14. 1. Khái quát đặc điểm, tình hình trƣờng THPT Lê Hồng Phong 1.1. Khái quát chung Trường THPT Lê Hồng Phong tiền thân là trường Cấp III Hưng Nguyên được thành lập tháng 9 năm 1965 trong chiến tranh ác liệt đầy cam go (được tách ra từ trường Quốc học Vinh nay là trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. Tháng 9 năm 1975, trường đã được UBND tỉnh Nghệ An ra quyết định trường mang tên Lãnh tụ Tổng bí thư Lê Hồng Phong. Trải qua 55 năm xây dựng và phát triển, nhà trường đã được tặng thưởng nhiều Bằng khen và Giấy khen của các cấp ở địa phương, được Bộ GĐ&ĐT tặng Bằng khen, nhiều năm được công nhận đơn vị tập thể lao động tiên tiến và tiên tiến xuất sắc. Năm 2015, nhà trường được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng II, liên tục nhiều năm được công nhận là đơn vị văn hoá cấp tỉnh và đạt nhiều thành tích khác. Tổ chức Đảng nhiều năm liên tục đạt “Trong sạch vững mạnh”. Năm 2015, trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Năm học 2021-2022, nhà trường có 23 lớp với 956 HS với có 59 CB,GV,NV, trong đó có 03 CBQL, 51 GV và 5 NV. 1.2. Chất lượng đội ngũ a) Về trình độ đào tạo (tính đến 01/01/2022) GV Trình độ chuyên môn, LLCT Tổng Nữ Đảng Giỏi Trên số ĐH CĐ TC LLCT viên tỉnh ĐH 01 07 TC; 01 59 22 41 24 29 53 0 (NV) CCLLCT b) Về kết quả thực hiện nhiệm vụ TT Kết quả xếp loại (Thống kê theo số người đươc đánh giá) Số lượng HTXSNV HTTNV HTNV KHTNV Năm học 2019-2020 57 18 37 02 0 Năm học 2020-2021 57 22 35 0 0 - Danh hiệu thi đua năm học 2019-2020: Lao động tiến tiến 54 đ/c, CSTĐCS: 3 đ/c. 01 GV được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen, 02 GV được tôn vinh trong trong Hội nghị điển hình tiên tiến ngành giáo dục huyện và tỉnh. 01 GV được tặng Bằng khen của LĐLĐ tỉnh, 9 GV được nhận Giấy khen của CĐ ngành GD Nghệ An. - Danh hiệu thi đua năm học 2020-2021: 01 GV đạt GVCN giỏi cấp tỉnh, đạt tỷ lệ 100%, 03 GV đạt GVCN giỏi cấp trường; 07 cán bộ giáo viên, công nhân viên có sáng kiến kinh nghiệm cấp ngành; Lao động tiến tiến 57 đ/c, CSTĐCS: 7 đ/c. 01 NV được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen, 02 GV được Giấy khen của Giám đốc Sở GD&ĐT, 3 GV được nhận Giấy khen của CĐ ngành GD Nghệ An. 14
  15. 1.3. Kết quả hoạt động giáo dục của nhà trường a) Kết quả xếp loại học lực: Năm học Năm học Học kỳ 1 năm học Xếp loại học 2019-2020 2020-2021 2021-2022 lực Tổng số HS: 836 Tổng số HS: 920 Tổng số HS: 955 SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Giỏi 287 34,33% 241 26,20% 209 21,88% Khá 469 56,10% 574 62,39% 593 62,09% TB 79 9,45% 102 11,09% 150 15,71% Yếu 0 0% 02 0,22% 3 0,31% Kém 0 0 0 0 0 0 b) Kết quả xếp loại hạnh kiểm: Năm học Năm học Học kỳ 1 năm học Xếp loại 2019-2020 2020-2021 2021-2022 hạnh kiểm Tổng số HS: 836 Tổng số HS: 920 Tổng số HS: 955 SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ Tốt 713 85,29% 864 93,91% 847 88,69% Khá 108 12,92% 48 5,22% 88 9,21% TB 13 1,56% 7 0,76% 17 1,78% Yếu 2 0,22% 0 0% 3 0,31% c) Kết quả các kỳ thi cấp tỉnh, cấp QG của giáo viên, học sinh: Học sinh Năm học Giáo viên Giỏi tỉnh Cấp Quốc gia 01 HCV, 01 HCB 9 HS đạt HSG (03 giải Nhì, qqqqqqqqqqqqqqQQ 2018-2019 0 cấp Quốc gia môn 04 giải Ba, 02 giải KK) Quốckinh gia điền 03 HCV, 01 HCB HKPĐ; 2019 - 2020 4 01 giải Ba Hội thi KHKT; 6 HS đạt HSG 15
  16. 7 HS đạt HSG (01 giải Nhì, 03 giải Ba, 4 giải KK); 01 2020-2021 1 giải Ba Hội thi KHKT; 02 giải Nhì, 01 giải KK Hội thao Quốc phòng. 8 HS đạt HSG (01 Thủ 2021-2022 khoa, 3 giải Ba, 4 giải KK) Năm học 2018 - 2019: Có 97,04% HS được công nhận tốt nghiệp, có 02 HS có điểm thi trên 27 điểm khối A và khối D trong Kỳ thi THPTQG, trong đó 01 em đạt thủ khoa đầu vào của trường SPNN Hà Nội, được cấp học bổng 2.000 USD. Năm học 2019 - 2020: Có 99,61% HS được công nhận tốt nghiệp, điểm TBM xếp thứ 29/110 đơn vị; 36 lượt HS đạt từ 26 điểm trở lên các khối, trong đó có 1 HS đạt 28,5 điểm được UBND khen thưởng. Năm học 2020 - 2021: Có 100% HS được công nhận tốt nghiệp; 11 HS đạt từ 27 điểm trở lên các khối, trong đó có 5 HS đạt điểm 10. 2. Thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại trƣờng THPT Lê Hồng Phong 2.1. Kết quả đạt được - Hàng năm, trường THPT Lê Hồng Phong đều xác định nội dung PBGDPL là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ năm học. Nhà trường đã xây dựng nội dung, chương trình về công tác Phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà trường và bố trí lịch triển khai, tổ chức cụ thể. - Thực hiện bố trí giáo viên dạy môn Giáo dục công dân dạy đủ số tiết theo quy định hiện hành; thực hiện phương pháp giảng dạy theo hướng dạy học tích hợp, kết hợp các tài liệu đã có để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật. Tổ chức tốt việc giảng dạy các kiến thức pháp luật theo chương trình đối với các khối lớp. - BGH và giáo viên dạy môn Giáo dục công dân tham gia khóa bồi dưỡng chính trị do Trung tâm chính trị huyện tổ chức để tập huấn, bồi dưỡng cập nhật kiến thức về chính trị để có điều kiện nắm bắt tình hình chính trị, nhất là các văn bản pháp luật mới. - Phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan tăng cường PBGDPL với nhiều hình thức phong phú. Trong những năm qua, trường THPT Lê Hồng Phong đã phối hợp với Viện Kiểm Sát nhân dân tỉnh, Tòa án Nhân dân tỉnh tổ chức tuyên truyền phổ biến giáo dục cho học sinh với hình thức sân khấu hóa “Phiên tòa giả định”, phối hợp với Công an tỉnh, công an Huyện Hưng nguyên phổ biến pháp luật; phối hợp với Huyện đoàn, Tỉnh đoàn tổ chức PBGDPL thông qua các Hội thi, “Ngày hội an toàn giao thông”, “Rung chuông vàng...”, phối hợp với Trung tâm dân số tỉnh, Trung tâm 16
  17. y tế huyện tổ chức tuyên truyền về phòng chống tác hại thuốc lá, về sức khỏe sinh sản vị thành niên... cho học sinh. - Phối hợp với các tổ chức trong nhà trường triển khai tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật bằng nghiều hình thức phong phú: Bảng tin, truyền thanh, các hội thi... - Nhà trường đã có tủ sách pháp luật đưa vào sử dụng. Hằng năm, nhà trường đã đặt mua bổ sung sách pháp luật cho tủ sách đơn vị mình. Trang bị đủ theo danh mục thiết bị, tài liệu cơ bản của Bộ GDĐT, Sở GDĐT phục vụ công tác soạn giảng, tổ chức PBGDPL. Cung cấp đủ tài liệu PBGDPL do Bộ GDĐT biên soạn, bổ sung tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy, học tập các kiến thức pháp luật, tài liệu hướng dẫn kỹ năng áp dụng pháp luật theo hướng cụ thể, thiết thực. - Trang bị pa-nô, áp phích phục vụ tuyên truyền giáo dục pháp luật phù hợp lứa tuổi như: Pháp luật về an toàn giao thông; phòng chống ma tuý; HIV/AIDS; bảo vệ môi trường, bạo lực gia đình, phòng chống cháy nổ,… Công tác PBGDPL góp phần dần hình thành thói quen, tính tự giác và ý thức tổ chức kỷ luật cho học sinh. Lúc đầu đó là sự tự giác tuân thủ những quy định chung của nhà trường và cao hơn là sự tự giác và ý thức tuân thủ pháp luật. Học sinh, cán bộ, giáo viên s phát huy được tính chủ động trong công tác tuyên truyền vận động học sinh và gia đình của mình sống theo pháp luật. Nhiều học sinh s biết cách xử lý tình huống xảy ra trong thực tiễn. Công tác GDPBPL trong nhà trường đã giúp học sinh hiểu được đúng về quyền và nghĩa vụ của bản thân, giúp các em tự tin hơn trong cuộc sống cũng như công việc sau này. 2.2. Một số mặt khó khăn, hạn chế, tồn tại, nguyên nhân - Thực tế nội dung chương trình PBGDPL cho học sinh hiện nay tại nhà trường chủ yếu là lồng ghép vào trong các môn học, đặc biệt là môn Giáo dục công dân, còn đơn điệu về mặt nội dung vì còn quá vắn tắt, nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn. Hơn nữa, lượng kiến thức trong chương trình so với thời lượng (số tiết học) của môn học là quá lớn, do vậy phần nào không chuyển tải hết được nội dung kiến thức như quy định. Một số nội dung chỉ được nhắc đến chứ không đủ thời gian để phân tích để học sinh có thể hiểu được bản chất của vấn đề, không có thời gian thực hành về tình huống pháp luật, từ đó sinh viên tiếp thu bài không tốt, chất lượng học tập không cao; đồng thời nên phân bổ thêm thời gian thực hành. - Về hình thức PBGDPL cho học sinh trong nhà trường: Việc triển khai giảng dạy các nội dung pháp luật lồng ghép vào các môn học theo chương trình chính khoá cho học sinh hiện nay là bằng hình thức nghe giảng trên lớp, việc tiếp thu bài học chủ yếu ở bài giảng của giáo viên, chưa biết kết hợp các khâu trong quá trình học tập; các khâu như thảo luận, nghiên cứu thực tế còn nhiều hạn chế. Từ đó dẫn đến chất lượng PBGDPL chưa cao, chỉ tiếp thu kiến thức từ một chiều là giáo viên không phát huy được khả năng tư duy của người học. 17
  18. - Việc triển khai các hoạt động phổ biến PBGDDPL ngoại khoá tuy đã xây dựng được chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện nhưng một số cuộc còn chưa đi vào chiều sâu. - Trong quá trình thực hiện công tác PBGDPL vẫn còn một số tồn tại, khó khăn như: Sự phối hợp giữa các ngành chức năng trong hoạt động PBGDPL có lúc chưa thường xuyên, sâu sát, kịp thời; vai trò của các đoàn thể đối với việc tham gia tuyên truyền pháp luật cho học sinh còn hạn chế. Các hoạt động ngoại khóa có nội dung PBGDPL trong thời gian qua tuy đã được quan tâm thực hiện nhưng thời gian dành cho hoạt động còn ít, tài liệu hướng dẫn còn chưa phong phú, hiệu quả của hoạt động chưa cao. Việc khai thác, sử dụng tủ sách pháp luật trong các đơn vị, trường học hiệu quả chưa cao, số lượt người sử dụng chưa nhiều, chưa quan tâm đến việc tìm đọc các văn bản quy phạm pháp luật, số lượt học sinh khai thác tủ sách pháp luật còn ít. Trình độ tuyên truyền của một số cán bộ, giáo viên được giao phụ trách công tác PBGDPL còn hạn chế. - Về phương pháp PBGDPL cho học sinh thời gian gần đây có sự đổi mới so với trước đây, có sự kết hợp các phương pháp giảng dạy nhưng chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp thuyết trình là chính, nặng về truyền thụ lý thuyết. Đối với không ít người môn học pháp luật nếu áp dụng kỹ thuật dạy học không tốt s trở nên khô khan, khó tiếp thu cho học sinh, nhưng nếu áp dụng kỹ thuật dạy học tích cực thêm vào đó là sự chịu khó tìm tòi những vấn đề pháp luật liên quan đến nội dung bài giảng và những ví dụ thực tiễn sinh động s giúp học sinh có hứng thú, giờ học s có hiệu quả cao hơn. Chính vì giáo viên giảng dạy bộ môn giáo dục công dân, môn đạo đức vẫn còn hạn chế những vấn đề trên nên công tác PBGDPL tại nhà trường vẫn chưa cao. - Kinh phí phổ biến giáo dục pháp luật thành khoản riêng để chủ động tiến hành công tác PBGDPL còn khó khăn. Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 14/05/2010 giữa Bộ tài chính và Bộ tư pháp hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí đảm bảo cho công tác phổ biến GDPL, song nguồn kinh phí ở còn hạn chế. Việc huy động các nguồn kinh phí khác chưa có cơ chế rõ ràng. - Hai năm gần đây, diễn biến dịch Covid -19 hết sức phức tạp, do đó việc triển khai tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có nhiều khó khăn, không thể tổ chức tuyên truyền với các hình thức tập trung, sân khấu hóa... Nguyên nhân chính của những tồn tại trên có những nguyên nhân khách quan từ hoàn cảnh, điều kiện của xã hội; diễn biến dịch Covid -19 diễn biến phức tạp, gây ra nhiều khó khăn trở ngại trong hoạt động cung của nhà trường; có những nguyên nhân chủ quan như: Vẫn còn một số cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò quan trọng, mục đích của việc PBGDPL; chưa có ý thức thường xuyên tìm đọc các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, chỉ khi đứng trước các vấn đề có liên quan thì bắt đầu tìm hiểu, tìm đọc các tài liệu trên mạng Internet hay qua các báo điện tử, thư viện điện tử. Việc tổ chức PBGDPL qua môn học chưa có nhiều đổi mới trong phương pháp nên hiệu quả chưa cao; việc tổ chức PBGDPL của nhà trường hình thức chưa phong phú nên chưa thu hút học sinh. Kinh phí phục vụ 18
  19. công tác PBGDPL còn hạn chế… Sự phối hợp giữa nhà trường với các cấp, các ngành liên quan trong công tác PBGDPL có lúc chưa thường xuyên. Thực trạng trên đặt ra yêu cầu cấp bách cần có những giải pháp thích hợp để nâng cao chất lượng công tác phổ biến và giáo dục pháp luật trong các trường học, để mỗi giáo viên, cán bộ, nhân viên và các em học sinh đều có những hiểu biết cơ bản về pháp luật, về những quy tắc xử sự mà mỗi người công dân hàng ngày, hàng giờ đều phải thực hiện, để xây dựng trường học thực sự là môi trường an toàn, lành mạnh, thân thiện, không bạo lực, taọ điều kiện cho các em hoạt động học tập, vui chơi và phát huy hết những khả năng của mình đồng thời góp phần xây dựng xã hội văn minh, hạnh phúc. III. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC PBGDPL TẠI TRƢỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Công tác PBGDPL luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó là phương tiện, là cầu nối đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân, giúp mọi người hiểu và thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình. Phổ biến, giáo dục pháp luật còn là một mắt xích quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt của việc tăng cường pháp chế XHCN. Thông qua hoạt động PBGDPL s hình thành cho mọi công dân ý thức pháp luật, qua đó phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong thời gian qua, tập thể Lãnh đạo nhà trường đã xây dựng các giải pháp thực hiện nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL, đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, thể hiện qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện các giải pháp sau: 1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên v học sinh về vai trò vị trí, tầm quan trọng, mục đích của c ng tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nh trƣờng Công tác PBGDPL được xác định là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nội dung cơ bản trong công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống cho học sinh, các nhà trường cần phải chú trọng chỉ đạo và tiến hành thường xuyên. Do đó, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh về vai trò vị trí, tầm quan trọng, mục đích của công tác PBGDPL là việc làm quan trọng hàng đầu để nâng cao chất lượng công tác PBGDPL trong nhà trường. Bời vì, chỉ khi nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác PBGDPL thì đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên làm công tác phổ biến pháp luật mới nhiệt tình, tâm huyết, làm việc có trách nhiệm và mang lại hiệu quả. Đối với học sinh, việc nhận thức đúng đắn vai trò vị trí của công tác PBGDPL s giúp các em chịu khó lắng nghe, chủ động tiếp thu và nắm bắt thông tin, từ đó việc PBGDPL mới đảm bảo hiệu quả. Việc nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên và học sinh về vai trò, vị trí của công tác PBGDPL trong nhà trường được thực hiện thông qua nhiều hình thức như: Gửi văn bản, thông qua các cuộc họp Tổ chuyên môn, họp cơ quan, Hội nghị CCVC, 19
  20. các hội nghị khác; các chương trình tập huấn, truyền thanh, chào cờ đầu tuần... Đồng thời, phối hợp với các tổ chức, đoàn thể như Công đoàn, Hội cựu chiến binh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh... trong nhà trường để thực hiện nội dung này qua các buổi nói chuyện, tuyên truyền, qua tập huấn với sự lên lớp của các chuyên gia, của những người có kinh nghiệm chuyên sâu trong công tác giáo dục pháp luật, qua sách, báo… qua tham dự các lớp bồi dưỡng, tập huấn về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ quản lý, cho đội ngũ giáo viên làm công tác PBGDPL, giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân… Ngoài ra, nhà trường còn hướng dẫn cán bộ, viên chức, người lao động và trong nhà trường chủ động tìm hiểu và gương mẫu trong thực thi pháp luật, gắn việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ với việc thông tin, phổ biến pháp luật tới học sinh; gắn phổ biến pháp luật với việc thực hiện dân chủ cơ sở, đồng thời vận động khuyến khích viên chức, nhà giáo, học sinh tìm hiểu, sử dụng, chấp hành, tuân thủ pháp luật. Để làm tốt công tác tuyên truyền, nhà trường đã tập hợp, cập nhật khá đầy đủ các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho học sinh của Thủ tướng Chính phủ, nhất là các văn bản chỉ đạo của Bộ và Sở GD&ĐT để nghiên cứu, thấm nhuần, trước hết trong Lãnh đạo nhà trường, Trưởng các tổ chức, đoàn thể; đội ngũ làm công tác PBGDPL. Qua công tác truyền thông, nhà trường đã thông tin, tuyên truyền về vai trò vị trí, tầm quan trọng, mục đích của công tác PBGDPL trong nhà trường; về các văn bản chỉ đạo của nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, của ngành về công tác PBGDPL. Thông qua tuyên truyền, đã góp phần giúp các em học sinh nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật, rèn luyện đạo đức, trau dồi kỹ năng sống. Đồng thời, hình thành thói quen chủ động học tập, tìm hiểu pháp luật, nâng cao ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật; giảm thiểu những hành vi vi phạm, lệch chuẩn ở lứa tuổi vị thành niên và ngăn ngừa tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đường. Có được kết quả đó, trước hết do nhà trường làm tốt công tác truyền thông, đã nhận được sự đồng thuận, ủng hộ, tham gia tích cực từ các tổ chức, đoàn thể, của mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường. 2. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo v trách nhiệm của cấp ủy, ngƣời đứng đầu các đơn vị, các tổ chức đo n thể của nh trƣờng trong c ng tác phổ biến, giáo dục pháp luật Công tác PBGDPL phải được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của đơn vị. Hàng năm, cấp ủy có Chuyên đề về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác PBGDPL. Hiệu trưởng nhà trường chịu trách nhiệm tổ chức hiệu quả công tác PBGDPL tại đơn vị. Các tổ chức, đoàn thể chịu trách nhiệm thực hiện và phối hợp thực hiện công tác PBGDPL. Nhà trường đưa nhiệm vụ tuyên truyền, PBGDPL vào kế hoạch năm học, xác định thực hiện tuyên truyền, PBGDPL là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
17=>2