Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỉ luật tích cực cho học sinh THPT thông qua công tác chủ nhiệm lớp
lượt xem 5
download
Đề tài nghiên cứu nhằm giúp giáo viên thấy rõ hơn vai trò, ý nghĩa của công tác kỉ luật tích cực. Đưa ra các biện pháp kỉ luật tích cực, thích hợp trong công tác chủ nhiệm để nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh. Giúp học sinh cảm thấy thoải mái, vui vẻ, hạnh phúc mỗi khi đến trường, từ đó học sinh tích cực học tập và rèn luyện.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỉ luật tích cực cho học sinh THPT thông qua công tác chủ nhiệm lớp
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 3 ---------- ---------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC KỈ LUẬT TÍCH CỰC CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP. LĨNH VỰC: CHỦ NHIỆM TÁC GIẢ: - TRẦN THỊ LIÊN THANH - TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 3. - NGUYỄN VĂN CỬU - TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 3. - NGUYỄN QUỐC SƠN - TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 3. Năm thực hiện: 2022- 2023 1
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã dạy “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” hay “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Điều đó cho thấy Người rất coi trọng công tác giáo dục toàn diện đặc biệt là giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Thực hiện lời dạy của Bác, hiện nay các nhà trường đang rất quan tâm đến việc giáo dục toàn diện, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Trong nhà trường, chất lượng và hiệu quả giáo dục học sinh không chỉ phụ thuộc vào kết quả học tập các bộ môn văn hóa mà còn phụ thuộc vào rất nhiều các hoạt động giáo dục khác. Trong đó có vai trò giáo dục học sinh của giáo viên chủ nhiệm lớp. Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp quản lí lớp học, dìu dắt giáo dục học sinh phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi; là người quán xuyến tất cả các hoạt động của lớp, định hướng và đưa ra các phong trào thi đua học tập rèn luyện cho lớp. Tuy nhiên, quá trình học tập và tu dưỡng đạo đức của học sinh còn chịu tác động mạnh mẽ từ môi trường xã hội. Mặt trái của nền kinh tế thị trường và môi trường xã hội với những tác động tiêu cực đang xâm nhập vào đạo đức lối sống của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ học sinh. Đối với học sinh THPT ở độ tuổi phát triển mạnh về cả thể chất và tinh thần, đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, các em thường thích thể hiện bản thân, thích khẳng định mình, có tính hiếu động, nông nổi và cảm tính… Trong khi đó hiểu biết xã hội, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, do đó các em chưa có trách nhiệm với hành vi của mình nên dễ sa ngã, dẫn đến những hành vi tiêu cực, thiếu tập trung trong học tập, vi phạm nội quy nhà trường, ý thức học tập ngày càng, nhiều học sinh trở nên bướng bỉnh, ham chơi... Đứng trước hiện tượng học sinh phạm lỗi, một số giáo viên chủ nhiệm đã dùng những hình thức xử phạt chưa tích cực như trừng phạt thân thể (đánh, véo, kéo tai, bắt học sinh quỳ, đuổi học sinh ra khỏi lớp...) hoặc trừng phạt về tinh thần (la mắng, quát tháo, phê bình gay gắt trước lớp...). Điều đó gây ra những hậu quả lâu dài về tâm lí, khiến học sinh dễ nổi nóng dẫn đến những hành vi bạo lực đối với người khác, tạo ra một số hành vi không tốt, có khả năng bị trầm cảm, tự ti, thiếu hòa đồng với tập thể, giảm ý thức kỉ luật, giảm động lực trong học tập, không thích đến lớp, để lại những “vết sẹo’’ trong tâm hồn khiến học sinh luôn có thái độ chống đối. Trên thực tế hiện nay, để xây dựng được một môi trường học tập tích cực thì nó đòi hỏi sự phối hợp từ phía nhà trường, giáo viên và học sinh. Qua hoạt động giảng dạy hàng ngày tại các lớp và qua công tác chủ nhiệm của mình, chúng tôi nhận thấy còn nhiều học sinh chấp hành không tốt các nội quy, quy định của trường đề ra dẫn đến những vi phạm không đáng có và những hình thức xử phạt của thầy cô giáo bộ môn cũng như một số giáo viên chủ nhiệm còn mang tính chất khô khan, không có điểm mới... làm cho mối quan hệ giữa thầy cô và học sinh luôn có một rào cản vô hình nào đó tồn tại. Là giáo viên chủ nhiệm lớp, chứng kiến trực tiếp các hành vi của 2
- học sinh, hiểu về tính cách của học sinh lớp mình chủ nhiệm, chúng tôi thấy mình cần có biện pháp giáo dục kỉ luật học sinh tích cực hơn, hiệu quả hơn và mang tính nhân văn hơn, góp phần cải thiện mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh, giảm tình trạng học sinh vi phạm nội quy của nhà trường, xây dựng lớp học hạnh phúc, thân thiện nên chúng tôi chọn đề tài "Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỉ luật tích cực cho học sinh THPT thông qua công tác chủ nhiệm lớp" làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình. Thực hiện đề tài này chúng tôi mong muốn đưa ra các hình thức kỉ luật học sinh tích cực hơn, góp phần xây dựng môi trường học đường lành mạnh, nói không với bạo lực học đường. 2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu 2.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu nhằm giúp giáo viên thấy rõ hơn vai trò, ý nghĩa của công tác kỉ luật tích cực. Đưa ra các biện pháp kỉ luật tích cực, thích hợp trong công tác chủ nhiệm để nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh. Giúp học sinh cảm thấy thoải mái, vui vẻ, hạnh phúc mỗi khi đến trường, từ đó học sinh tích cực học tập và rèn luyện. Giúp cho mục tiêu xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”, tiến tới xây dựng “lớp học hạnh phúc” thành công, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá một cách khách quan các hình thức kỉ luật chủ yếu hiện có trong công tác chủ nhiệm lớp tại một số lớp học ở trường THPT Đô Lương 3, tác động của các hình thức kỉ luật tới học sinh. Từ đó đưa ra một số biện pháp kỉ luật tích cực nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”, “lớp học hạnh phúc”, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, ổn định nề nếp kỉ cương của nhà trường. 3. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về các hình thức kỉ luật. Một số hình thức kỉ luật chủ yếu hiện có trong công tác chủ nhiệm tại trường THPT Đô Lương 3. Tác động của các hình thức kỉ luật tới học sinh. Đề tài đưa ra một số biện pháp kỉ luật tích cực áp dụng đối với lớp chủ nhiệm và vận động một số giáo viên chủ nhiệm các lớp khác trong trường THPT Đô Lương 3 áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nội quy trường lớp của học sinh, cải thiện mối quan hệ giữa giáo viên và HS, giúp HS nhận ra được lỗi lầm của mình và từ đó có ý thức sữa chữa. - Không gian nghiên cứu: Đề tài được triển khai nghiên cứu với các lớp học tại trường THPT Đô Lương 3, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. - Thời gian nghiên cứu: Đề tại thực hiện trong năm học 2022 - 2023. 3
- 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Thu nhập thông tin, phân tích, tìm hiểu thực trạng về các hình thức kỉ luật học sinh của các giáo viên chủ nhiệm đang được thực hiện tại trường THPT Đô Lương 3. - Đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục kỉ luật tích cực trong công tác chủ nhiệm và hiệu quả của nó. - Áp dụng các biện pháp kỉ luật tích cực đối với lớp chủ nhiệm và vận động một số giáo viên chủ nhiệm khác áp dụng trong quá trình chủ nhiệm. - Lấy kết quả thực hiện nội quy trường lớp của lớp chủ nhiệm và các lớp khác để chứng minh tính hiệu quả của đề tài. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài của chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau: - Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu có liên quan đến đề tài. - Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp toán học thống kê để xử lí kết quả điều tra về thực tiễn và thực nghiệm đề tài. - Phương pháp điều tra xã hội học: để điểu tra thực trạng trước và sau khi thực hiện các giải pháp có liên quan đến đề tài. - Phương pháp biểu đồ: Vẽ biểu đồ so sánh đối chiếu kết quả thực nghiệm đề tài. 6. Những đóng góp của đề tài 6.1. Đóng góp về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu lý luận của đề tài góp phần bổ sung và phát triển thêm lý luận về giáo dục học sinh bằng hình thức kỉ luật tích cực: xác định được khái niệm kỉ luật, kỉ luật tích cực, các yếu tố ảnh hưởng đến yếu tố tâm lí và hành động của học sinh THPT. 6.2 Đóng góp về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu thực tiễn của đề tài góp phần làm cho các biện pháp, các hình thức kỉ luật trong công tác chủ nhiệm lớp hiện nay không gây áp lực nặng nề lên học sinh (HS), giúp HS nhận ra lỗi sai của mình, sẵn sàng chấp nhận hình thức kỉ luật một sách thoải mái vui vẻ, HS biết được cái sai của mình và sửa sai một cách hiệu quả. Từ đó góp phần nâng cao ý thức chấp nội quy trường lớp của HS, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, phẩm chất HS trong nhà trường. Đề tài giúp giáo viên thay đổi hình thức xử lý học sinh phạm lỗi theo hướng tích cực và kích thích giáo viên luôn tìm tòi, sáng tạo để đạt kết quả cao trong công tác chủ nhiệm lớp và giáo dục học sinh. Áp dụng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực trong quá trình giáo dục học sinh mang lại nhiều lợi ích: Phát triển các năng lực, phẩm chất của người học sinh như năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực tự chủ, tự học, giải quyết vấn đề và sáng taọ, năng lực ngôn ngữ, năng lực tin học. Hình thành và phát triển các phẩm chất cho học sinh như nhân ái (biết đồng cảm, chia sẻ với bạn, biết yêu thương gia đình, thầy cô, bạn bè), trung thực (nêu lên ý kiến, quan điểm của bản thân về các vấn đề xung 4
- quanh, về quan điểm của bạn bè, tâm sự, chia sẻ những suy nghĩ, vướng mắc của bản thân với thầy cô), trách nhiệm (có trách nhiệm góp ý cho bạn và hoàn thiện bản thân, thấy rõ vai trò của bản thân đối với các vấn đề đang diễn ra), chăm chỉ (các em tự tìm hiểu, tìm kiếm thông tin về các vấn đề cần giải quyết, lắng nghe ý kiến của thầy cô, bạn bè). 7. Tính mới của đề tài: Đề tài góp phần giúp giáo viên chủ nhiệm cũng như giáo viên bộ môn thay đổi cách nhìn, thay đổi các hình thức kỉ luật bằng đòn roi, sự “trừng phạt” một cách nặng nề về tinh thần, hay bắt học sinh phải làm các công việc lao động vệ sinh, … bằng những lời nói tích cực, những hành động nhẹ nhàng vừa có tính chất giáo dục, vừa có tính chất khích lệ động viên tinh thần của HS, khơi gợi cho HS những niềm vui sáng tạo, môi trường lành mạnh thân thiện để phát huy các năng kiếu, các khả năng tiềm ẩn … Từ đó góp phần xây dựng “trường học hạnh phúc”, “học sinh tích cực” làm cho mối quan hệ thầy trò ngày càng trở nên thân thiết, gần gũi; giảm bạo lực học đường và quan trọng nhất là không để lại những “vết sẹo’’ trong tâm hồn HS. Tính mới của đề tài còn thể hiện ở chỗ: Trong các sáng kiến về công tác chủ nhiệm trước đây của các giáo viên trên địa bàn tỉnh nhà mà chung tôi được biết, chưa có sáng kiến kinh nghiệm nào đề vấn đề “kỉ luật tích cực” trong công tác giáo dục HS mặc dù hàng ngày đã có giáo viên từng áp dụng một số biện pháp kỉ luật tích cực nhưng nhiều người vẫn chưa từng biết tới đó là khái niệm “kỉ luật tích cực”. 8. Cấu trúc của đề tài Đề tài bao gồm các phần: mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Phần nội dung của đề tài được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về các hình thức kỉ luật trong công tác giáo dục học sinh của các nhà trường phổ thông và tác động của nó đến học sinh. Chương 2: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỉ luật tích cực đối với quá trình hình thành và phát triển của học sinh THPT. Chương 3: Kết quả của đề tài. 5
- PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về các hình thức kỉ luật trong công tác chủ nhiệm lớp và tác động của nó đến học sinh. 1.1 Cơ sở lí luận. 1.1.1 Các khái niệm liên quan. 1.1.1.1. Khái niệm kỉ luật. Kỉ luật là những quy tắc xử sự chung do một cơ quan, tổ chức đặt ra yêu cầu tất cả các thành viên trong cơ quan, tổ chức đó phải thực hiện theo, thường được đặt ra trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. 1.1.1.2. Khái niệm kỉ luật tích cực. Kỉ luật tích cực là kỉ luật theo hướng tạo ra cơ hội tốt nhất có thể có được để học sinh tự nhận thấy lỗi và chủ động sửa chữa, tìm ra hướng phát triển tích cực của mình. (Theo TS Phùng Khắc Bình – chuyên gia tư vấn giáo dục nguyên vụ trưởng vụ công tác HSSV – Bộ GD và ĐT). 1.1.1.3 Khái niệm phương pháp kỉ luật tích cực Theo Nguyễn Dục Quang thì “Lâu nay “kỉ luật” khiến người ta liên tưởng đến “hình phạt”, những lời quở trách nặng nề, thậm chí là những trận đòn roi vì còn nặng quan niệm “thương cho roi cho vọt”. Thường khi nói đến kỉ luật là người ta nghĩ tới những cái xấu là tiêu cực, cần phải có những biện pháp trừng phạt thích đáng. Phương pháp kỉ luật tích cực là biện pháp giáo dục học sinh không sử dụng các hình thức bạo lực, trừng phạt mà thay thế vào đó là sử dụng những hình thức kỉ luật tích cực, phù hợp để giúp học sinh giảm thiểu những hành vi không phù hợp, củng cố các hành vi tích cực và phát triển nhân cách một cách tốt đẹp và bền vững. Kỉ luật tích cực (KLTC) là hình thức kỉ luật nhưng sau kỉ luật sẽ làm HS tiến bộ. Nó hoàn toàn khác với lối giáo dục truyền thống theo kiểu “đòn roi”. Kỉ luật tích cực là động viên, khuyến khích, hỗ trợ trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh, nuôi dưỡng lòng ham học. Người có KLTC là người có ý thức kỉ luật tự giác, tự nhận hình thức kỉ luật, cam kết không tái phạm. KLTC nhấn mạnh đến việc thay đổi hành vi hơn là xử phạt, theo tư duy nguyên nhân và hậu quả. Là cách giúp HS tự kiểm điểm bản thân, có trách nhiệm với hành vi của mình, đồng thời xây dựng cho trẻ kỹ năng giải quyết vấn đề và tinh thần hợp tác phi bạo lực cả về thể xác lẫn tinh thần, là một quá trình thường xuyên, liên tục và nhất quán. Thông qua đó khuyến khích khả năng tư duy, lựa chọn của HS. KLTC không phải là luôn chú ý kỉ luật HS hoặc hình phạt nặng hơn trước mà cần có quan niệm rằng việc mắc lỗi của HS được coi như lỗi tự nhiên của quá trình học tập và rèn luyện trong nhà trường. Do vậy, nhiệm vụ quan trọng của nhà giáo dục là làm thế nào để HS nhận thức được bản thân, tự kiểm soát hành vi, thái độ trên cơ sở các quy định, nội quy... Như vậy người GV là người phân tích đúng, sai đối 6
- chiếu các quy định của những hành vi không đúngđể HS nhận ra lỗi của mình để điều chỉnh sửa đổi, để bản thân đạt được nhữngtiến bộ nhất định. 1.1.1.3. Khái niệm giáo dục kỉ luật tích cực. Theo quan điểm giáo dục kỉ luật tích cực, việc mắc lỗi của học sinh được coi như lẽ tự nhiên của quá trình học tập và phát triển. Nhiệm vụ quan trọng của nhà giáo dục là làm thế nào để HS tự nhận thức được bản thân, tự kiểm soát hành vi, thái độ trên cơ sở các quy định, quy ước được xây dựng, thoả thuận giữa người dạy và người học. Khi học sinh mắc lỗi, giáo viên là người bạn, người anh/chị, người bố, người mẹ, chỉ cho các em nhận ra lỗi của mình để tự điều chỉnh. Việc tự nhận ra lỗi để điều chỉnh bản thân là cơ sở cho sự phát triển hoàn thiện nhân cách. Đôi khi giáo dục dựa trên “sai lầm” cũng mang lại tác dụng không nhỏ. Giáo dục kỉ luật tích cực là cách giáo dục dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của học sinh; không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của học sinh; có sự thỏa thuận giữa giáo viên- học sinh và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Cụ thể là những giải pháp/ biện pháp giáo dục phải có các đặc điểm sau: - Phải mang tính dài hạn giúp phát huy tính kỉ luật tự giác của học sinh. - Phải thể hiện rõ ràng những quy tắc và giới hạn mà học sinh phải tuân thủ. - Được gây dựng mối quan hệ tôn trọng. Và phải tạo dựng mối quan hệ tôn trọng giữa giáo viên và học sinh. Phải dạy cho học sinh những kĩ năng sống mà các em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời. Và làm tăng sự tự tin và khả năng/ kỹ năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và cuộc sống của các em. Dạy cho HS cách cư xử lịch sự nhã nhặn, không bạo lực, có sự tôn trọng bản thân, biết cảm thông và tôn trọng quyền của người khác. - Phải động viên, khích lệ người thực hiện các biện pháp kỉ luật thực hiện các hành vi tôn trọng HS, có lòng tự trọng và tính trách nhiệm, giúp học sinh phát triển hoàn thiện nhân cách, không làm cho các em bị tổn thương. Như vậy, giáo dục kỉ luật tích cực là việc dạy và rèn luyện cho HS tính tự giác tuân theo các quy định và quy tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như về lâu dài. Mục tiêu của giáo dục kỉ luật tích cực là dạy HS tự hiểu hành vi của mình, có trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác. Nói cách khác, giáo dục kỉ luật tích cực giúp HS phát triển tư duy và có các hành vi tích cực có thể ảnh hưởng lâu dài đến cả cuộc đời sau này. 1.1.2. Khác biệt giữa kỉ luật tích cực và trừng phạt Khác biệt giữa kỉ luật tích cực và trừng phạt Trừng phạt Kỉ luật tích cực Góc độ Trừng phạt là hành động xử lí Kỉ luật tích cực là hành động xử lí sau tiếp cận mà thầy cô phản ứng sau khi học khi học sinh phạm sai lầm và chủ động sinh phạm sai lầm. chỉ dạy chúng về các hành vi đúng, phân biệt về lối cư xử đúng sai. 7
- Khái Trừng phạt là dùng hình phạt với Biện pháp giúp HS học được cách làm niệm học sinh làm sai. Biện pháp này đúng từ những sai lầm. Đồng thời cố gắng kiểm soát và thay đổi hướng dẫn HS các kĩ năng cần thiết để hành vi của học sinh trong tương HS tự kiểm soát bản thân và tự điều lai của HS bằng cách bắt chúng chỉnh bản thân. HS sẽ được thưởng và “trả giá” vì hành vi đã phạm sai khích lệ khi tuân thủ các quy tắc ứng lầm trước đó. xử. Mục Kiểm soát và dừng hành động Giúp HS phân biệt đúng sai và tiếp thu đích của HS thông qua một số biện các biện pháp kỉ luật một cách chủ pháp tiêu cực (mục tiêu ngắn động và tích cực (mục tiêu dài hạn). hạn). Quan - Cho rằng hành vi, phản ứng - Cho rằng hành vi ứng xử là một dạng điểm của học sinh chỉ đơn giản là xấu, giao tiếp hình thể . là sai. - Không có ý định tìm hiểu - Hỗ trợ và hướng dẫn HS hiểu được nguồn gốc hành vi, không có ý cách ứng xử phù hợp hơn trong tương định giúp trẻ hiểu vấn đề và lai để trẻ nhớ và thay đổi. không hướng dẫn cách ứng xử phù hợp hơn. - Cho HS biết có nhiều sự lựa chọn - Chỉ cho học sinh biết KHÔNG hành động tích cực khác. được làm gì. - Xem lỗi sai là một bài học để tiến bộ. - Bắt ép HS tuân theo quy tắc chỉ - Tìm hiểu khả năng của HS, cũng như vì người lớn muốn như vậy. nhu cầu,tình huống và bước phát triển - Không xem xét, quan tâm đến của học sinh. nhu cầu, khả năng, tình huống. Hình - Trừng phạt thân thể (dùng bạo - Dùng cử chỉ thân thể và ngôn ngữ thức lực). không bạo lực, đe dọa hay sỉ nhục. - Trừng phạt tinh thần (kỉ luật - Áp dụng những biện pháp có liên tiêu cực). quan trực tiếp đến cách ứng xử sai, - Biện pháp trừng phạt thường hành vi chưa đúng của trẻ để trẻ có thể bất hợp lí và không liên quan liên hệ và đối chiếu. trực tiếp đến lỗi sai của học sinh. - Cần thường xuyên khiển trách - HS được lắng nghe và có tấm gương về bất cứ lỗi sai nào. học tập là cha mẹ, người lớn. - Phê bình, chỉ trích cá nhân, bản - Chỉ phê bình hành vi của HS, không thân trẻ thay vì hành vi gây ra. công kích bản thân HS. Điều - Hành vi của HS cần được quản - HS có thể tự quản lý hành vi của học sinh lý bởi bố mẹ, thầy cô. mình thông qua sự tự kiểm soát. học - HS cần cẩn thận để không bị - HS cần thay đổi hành vi của mình nếu được bắt nếu muốn tránh phải giải họ muốn tránh phải giải quyết hậu quả. quyết hậu quả. 8
- Kết quả - HS trở nên căng thẳng, khó - HS biết được mình cần phải thay đổi chịu, cáu gắt, bướng bỉnh, lo hành vi như thế nào cho đúng, phù hợp lắng, tự ti, nhút nhát, xấu hổ, tội với hoàn cành. lỗi. - HS phân biệt được hành vi đúng sai, - HS tuân thủ theo quy tắc do bị biết được hậu quả của mỗi lựa chọn. ép buộc, bắt nạt. - HS biết vận dụng việc thương lượng, -Tạo khoảng cách ngày càng lớn tự điều chỉnh và kiểm soát bản thân. giữ bố mẹ với con, giữa thầy cô - Xây dựng mối quan hệ thân thiện, với học sinh tích cực và tôn trọng giữa cha mẹ, thầy cô và học sinh. Qua bảng phân tích trên ta thấy trừng phạt sẽ gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trí tuệ và nhân cách của HS; gây ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa GV, cán bộ nhân viên nhà trường với HS. Trừng phạt có thể khiến HS tìm cách chống phá, tạo khoảng cách giữa GV và HS, khiến HS hận, xa lánh GV. Giáo dục kỉ luật tích cực (GDKLTC) là dạy và rèn luyện cho HS tính tự giác tuân theo các quy định và quy tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như lâu dài, là những phương pháp mang tính dài hạn giúp phát huy tính kỉ luật tự giác của HS. Quá trình này thể hiện rõ những mong đợi, quy tắc và giới hạn mà HS phải tuân thủ, xây dựng mối quan hệ tôn trọng giữa GV và HS. Giúp các em có được những kỹ năng sống, tăng sự tự tin, khả năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và trong cuộc sống; các em biết cách cư xử lịch sự, nhã nhặn, không bạo lực, biết cảm thông và tôn trọng quyền lợi của người khác. So với kỉ luật tiêu cực/trường phạt thì GDKLTC làm cho HS chưa ngoan (hoặc HS mắc lỗi) cảm thấy được tôn trọng hơn, ít có những phản ứng tiêu cực với bản thân, gia đình, bạn bè và xã hội. Tâm lý của các em cũng có những biểu hiện tốt hơn, không còn mặc cảm, tự ti, chủ động thay đổi bản thân, phát huy các giá trị tích cực của mình. 1.1.3 Ý nghĩa của việc thực hiện các hình thức kỉ luật tích cực trong nhà trường. 1.1.3.1 Kỉ luật tích cực là yếu tố quan trọng chống lại bạo lực học đường, tạo ra môi trường học đường an toàn, góp phần xây dựng trường học hạnh phúc. Trong nhà trường kỉ luật là một hình thức duy trì kỉ cương nề nếp của nhà trường. Các hình thức kỉ luật trừng phạt thân thể, bằng lời nói có sức “sát thương” vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều trường hợp khác nhau trong nhà trường. Đó là một phương pháp kỉ truyền thống khi thầy cô muốn giáo dục HS. Lâu dần nó hình thành hành vi bạo lực học đường đối với HS mà GV không hề hay biết, không nghĩ đến đó là hành vi bạo lực mà chỉ đơn giản rằng một cách giáo dục HS hiệu quả, khiến HS vào nề nếp hơn so với các biện pháp khác và là một biện pháp kỉ luật chứ không phải là bạo lực. Khác với các hình thức kỉ luật truyền thống, kỉ luật tích cực (KLTC) hiện nay đã được sử dụng trong các trường học và nó có khả năng tạo ra môi trường giáo dục 9
- tích cực, an toàn, có thể giúp các em HS yên tâm học tập và thoải mái để phát triển bản thân. KLTC có thể giúp HS nhận ra hành vi sai trái của mình và chủ động sửa chữa bằng hành vi đúng đắn hơn. Đồng thời, các phương pháp KLTC giúp HS hoà đồng với bạn bè, biết kiểm soát chính mình, biết phân biệt đúng sai, khuyến khích sự sáng tạo và nhiệt tình của các em. HS sẽ cảm thấy hành phúc vì được yêu thương, hạnh phúc khi đến trường. 1.1.3.2 Kỉ luật tích cực tạo cơ hội cho HS sữa chữa lỗi sai một cách nhân văn và sáng tạo. Phát huy được các năng lực, năng khiếu của bản thân để làm điều tốt đẹp. Trong kỉ luật tích cực, GV luôn cơ hội cho HS sữa chữa lỗi sai một cách nhân văn và sáng tạo bằng các hình thức “chuộc lỗi” khác nhau, bằng cách cho các em lầm những điều tiến bộ đúng đắn để “xoá dần” những hành vi chưa đúng chuẩn mực trước đó. Quá trình HS cố gắng làm những hành động đẹp, tạo ra những hành vi đẹp chính là một quá trình khơi gợi cho HS năng lực sáng tạo, phát huy các năng khiếu tiềm ẩn mà lâu nay các em chưa có “cơ hội” thể hiện. Thay vì làm những thói quen xấu, các em đã biết dùng tư duy của mình cho những việc hữu ích. Phát phuy được các năng lực, năng khiếu của bản thân để làm điều tốt đẹp 1.1.3.3 Kỉ luật tích cực tạo dựng mối các quan hệ tốt đẹp trong nhà trường, góp phần thực hiện văn hoá nhà trường. Thực hiện các biện pháp KLTC tạo ra sự thân thiện, ấm áp trong mối quan hệ giữa GV với HS, giữa nhà trường với HS, giữa HS với nhau. HS bị lỗi sẽ giảm bớt tự ti, mặc cảm, được quan tâm chia sẻ về những tâm tư, cảm xúc, nguyên nhân các em có những hành động chưa đúng. Khi HS được quan tâm, chia sẻ yêu thương, các em sẽ có ý thức tốt, sẽ cố gắng “không vi phạm” để không làm thầy cô, bạn bè thất vọng về mình. Các hành vi của mỗi cá nhân HS cũng như cán bộ nhân viên trong nhà trường nhờ đó mà được kiểm soát và ngày càng tốt lên, tạo nên văn hoá ứng xử lành mạnh, chuẩn mực trong nhà trường. Điều này đã hạn chế được xung đột và tiêu cực, tạo động lực làm việc cho GV, HS và nhân viên của nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện của nhà trường. 1.1.4 Ý nghĩa của việc thực hiện các hình thức kỉ luật tích cực đối với gia đình và xã hội. HS vừa là thành viên của nhà trường/lớp học, vừa là thành viên của gia đình, là tế bào- công dân tương lai của xã hội và đất nước. Khi HS tới trường đợc nhà trường, thầy cô, bạn bè quan tâm, sẻ chia, giúp đỡ để thực hiện các hành vi tốt, học tập và tạo cơ hội để sửa chữa sai lầm của mình thì gia đình sẽ yên tâm hơn, sẽ tin tưởng ở nhà trường và giáo viên. Về nhà, gia đình cũng sẽ có phương pháp giáo dục con phù hợp. Khi gia đình tin tưởng vào nhà trường và giáp viên, họ sẽ sẵn sàng phối hợp tốt với nhà trường để giáo dục con cái của mình ngày càng trưởng thành. Đối với cộng đồng, việc thực hiện các hình thức kỉ luật tích cực góp phần giảm thiểu được các tệ nạn xã hội, bạo hành, bạo lực. Các khoản chi phí để chăm 10
- sóc, điều trị và trợ giúp trẻ bị trừng phạt sẽ dành phục vụ, nâng cao đời sống cộng đồng, xã hội. Xã hội nhờ đó mà văn minh hơn, phát triển phồn vinh hơn, xã hội trở thành môi trường an toàn và lành mạnh cho HS tiếp xúc và phát triển toàn diện. 1.2 Đăc điểm tâm-sinh lý của học sinh THPT Học sinh THPT có độ tuổi chủ yếu từ 15 tới 18 tuổi. Theo sự phân chia của tâm lí học, lứa tuổi học sinh ở THPT là vào độ đầu tuổi thanh niên (thanh niên mới lớn). 1.2.1. Đặc điểm cơ thể - Đạt được sự trưởng thành về mặt thể lực nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát triển của người lớn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển mạnh. Ở tuổi này, HS dễ bị kích động, thích bắt chước, thích thể hiện là người lớn. Sự phát triển thể chất có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách đồng thời nó còn ảnh hưởng tới sự lựa chọn nghề nghiệp sau này của các chúng. - Sự phát triển thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Điều này tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hóa hoạt động phân tích, tổng hợp của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học tập. 1.2.2. Về phát triển trí tuệ Hệ thần kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Cảm giác và tri giác của học sinh đã đạt tới mức độ của người lớn. Trí nhớ cũng phát triển rõ rệt. Hoạt động tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh. Học sinh đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát triển, giúp học sinh có thể lĩnh hội các khái niệm phức tạp và trừu tượng. Năng lực tư duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng tâm lý mới đó là tính hoài nghi khoa học, tính tò mò khám phá ở HS. 1.2.3. Về phát triển nhân cách Ở HS, ý thức làm người lớn phát triển mạnh khiến HS thích khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến mình… Với các đặc điểm đó, người lớn, thầy cô giáo cần phải lắng nghe ý kiến của học sinh đồng thời cần giúp học sinh có sự nhìn nhận khách quan về nhân cách của mình, tự nhận thức và xác định được giá trị của bản thân nhằm giúp cho sự tự đánh giá bản thân được đúng đắn hơn, xác định được điểm mạnh, điểm yếu để tự điều chỉnh hoàn thiện bản thân, tránh những suy nghĩ lệch lạc, phiến diện hoặc là quá ảo tưởng hoặc quá tự ty về bản thân dẫn đến các biểu hiện hành vi không tích cực . HS quan tâm đến nhiều vấn đề như: cái xấu, cái đẹp, cái thiện, cái ác, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm… Tuy nhiên nhiều HS ở độ tuổi này do ảnh hưởng của giáo dục gia đình nên có tư tưởng không lành mạnh như: không muốn lao động chân tay, ý thức tổ chức kỉ luật kém, thích hưởng thụ, dựa dẫm vào người khác… Những HS này dễ trở 11
- thành HS “cá biệt” trong lớp. GV cần tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư tình cảm, suy nghĩ của HS, nguyên nhân của những hành vi không tích cực để giúp các em phát triển đúng hướng. Tuyệt đối không dùng bạo lực (lời nói hay hành động thô bạo làm tổn thương đến các em). 1.2.4 Sự phát triển về giao tiếp và đời sống tình cảm Ở lứa tuổi này quan hệ bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn so với quan hệ với người lớn tuổi hơn. HS có thể tham gia vào nhiều hội, nhóm tự phát. Gia đình và nhà trường không thể quán xuyến toàn bộ cuộc sống của mỗi học sinh. Bên cạnh đó, nhu cầu về tình bạn và tâm tính cá nhân tăng lên rõ rệt. Nhu cầu về tình bạn khác giới được tăng cường. Tuy nhiên, học sinh cấp THPT có giữ được phẩm chất tốt đẹp, sự trong sáng trong tình bạn, tình yêu tuổi học trò hay không và có là bạn tốt của nhau không, phụ thuộc một phần rất lớn vào sự giáo dục của gia đình và nhà trường. Như vậy, lứa tuổi THPT là lứa tuổi quan trọng và có nhiều thay đổi trong quá trình phát triển tâm sinh lí HS. Ở tuổi này, HS thích thể hiện là mình là người lớn, thích tò mò khám phá những điều mới lạ xung quanh, HS luôn muốn khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến mình…ở các em cũng đã xất hiện nhu cầu về tình bạn, đặc biệt là tình bạn khác giới. Điều đặc biệt là các em được nuôi dưỡng trong thời đại bố mẹ có điều kiện hơn, số lượng con cái trong các gia đình ít, đa số HS ít phải tham gia giúp đỡ gia đình các công việc năng nhọc; HS có nhiều cơ hội để tham gia vào các mối quan hệ gia đình và xã hội, hưởng thụ cuộc sống đầy đủ hơn thế hệ bố mẹ trước đây. … Những đặc điểm tâm sinh lí và các mối quan hệ đa dạng này có ảnh rất lớn đến tính cách, hành vi, cách ứng xử của các em, thậm chí có nhiều mối quan hệ có ảnh hưởng chi phối đến đời sống tâm lí, tình cảm và nhân cách HS. Nó đòi hỏi GV, nhà trường và gia đình phải quan tâm để biết rõ hơn nguyên nhân sâu xa tạo nên các hành vi vi phạm lỗi của HS và từ đó đưa ra các giải pháp tác động phù hợp. 1.2.5. Điều kiện xã hội của sự phát triển - Trong gia đình, con cái đã có nhiều quyền lợi và trách nhiệm hơn, được trao đổi, chia sẻ những vấn đề trong gia đình. - Ở trường và ngoài xã hội, thái độ của người lớn thường thể hiện tính chất hai mặt: một mặt nhắc nhở rằng họ đã là người lớn, đòi hỏi ở họ tính độc lập, ý thức trách nhiệm và thái độ hợp lí…Mặt khác, lại còn đòi hỏi họ thích ứng với cha mẹ, giáo viên …Như thế, vị trí của con cái có tính chất không xác định (ở mặt này họ được coi là người lớn, mặt khác lại không). Đặc điểm này đòi hỏi người dạy phải tạo điều kiện xây dựng phương thức sống phù hợp để có thể tiến hành việc giáo dục hiệu quả. 1.3 Thực trạng về các hình thức kỉ luật trong công tác giáo dục học sinh của các nhà trường phổ thông và tác động của nó đến học sinh. 1.3.1 Mục đích của nghiên cứu thực trạng Để phục vụ cho cơ sở thực tiễn của vấn đề cần nghiên cứu, đề tài đã tìm hiểu thực trạng sử dụng các biện pháp giáo dục kỉ luật trong các trường về các nội dung: 12
- - Thực trạng sử dụng các biện pháp kỉ luật tiêu cực/ truyền thống và các biện pháp kỉ luật tích cực ở trường THPT trên địa bàn Đô Lương, Nghệ An dưới góc nhìn/từ phía của HS. - Thực trạng sử dụng các biện pháp kỉ luật ở trường THPT trên địa bàn Đô Lương, Nghệ An dưới góc nhìn/ từ phía GV. Để thu thập thông tin về thực trạng các nội dung trên, đề tài đã sử dụng các phương pháp điều tra: + Lấy mẫu phiếu khảo sát điều tra thu nhập ý kiến từ các bạn học sinh về những vấn đề cần khảo sát. + Quan sát, phỏng vấn các bạn học sinh trong trường học + Lấy mẫu phiếu khảo sát điều tra thu nhập ý kiến từ phía GV trên địa bàn huyện Đô Lương những vấn đề cần khảo sát. 1.3.2 Kết quả nghiên cứu thực trạng 1.3.2.1 Tình trạng sử dụng biện pháp kỉ luật ở trường THPT trên địa bàn Đô Lương-Nghệ An a) Kết quả điều tra thực trạng từ phía HS Qua điều tra chúng tôi đã nhận được 580 ý kiến của học sinh trên toàn huyện với 152 học sinh trường THPT Đô Lương 3 và 428 học sinh các trường khác. ■ Đánh giá về các hình thức kỉ luật trong các trường, kết quả cho thấy, có: - 58,5% HS đánh giá phù hợp. - 23,5% HS đánh giá hơi nghiêm khắc. - 18% HS đánh giá quá nghiêm khắc. ■ Các lỗi vi phạm thường gặp ở HS là: Bảng 1.1 Các lỗi thường hay vi phạm của học sinh Mức độ Thường xuyên Thỉnh Hiếm khi Không bao giờ thoảng Đi học muộn 11 138 125 306 Gian lận trong kiểm 60 73 98 349 tra, thi cử. Đánh nhau, gây mất 5 46 72 457 trật tự. Không học bài và 201 237 126 16 làm bài. Sử dụng điện thoại 102 245 118 99 trái quy định. Sử dụng chất kích 02 22 26 530 thích, văn hóa phẩm đồi trụy. Vi phạm luật an toàn 39 72 150 319 giao thông. 13
- Ăn mặc không đúng 52 126 231 171 quy định/không phù hợp. Ăn quà vặt. 78 326 148 28 ■ Với các lỗi vi phạm, HS thường thường bị các hình thức kỉ luật là: Bảng 1.2 Các hình thức kỉ luật chủ yếu dành cho học sinh. Lỗi vi phạm Hình thức bị xử phạt CHỦ YẾU Không học bài Gọi điện báo phụ huynh, chép phạt. Đi học muộn, bỏ học, Gọi điện báo phụ huynh, viết bản tự kiểm điểm/bản trốn tiết tường trình, hạ hạnh kiểm, phê bình trước lớp. Gây gỗ, đánh nhau Viết bản tự kiểm điểm/bản tường trình, gọi điện báo phụ huynh, đình chỉ học, hạ hạnh kiểm, phê bình trước lớp. Không đội mũ bảo biểm Viết bản tự kiểm điểm/bản tường trình, gọi điện báo phụ huynh, hạ hạnh kiểm. Nói xấu, xúc phạm danh Viết bản tự kiểm điểm/bản tường trình, gọi điện báo dự người khác phụ huynh, phê bình trước lớp. Sử dụng điện thoại trái Viết bản tự kiểm điểm/bản tường trình, gọi điện báo quy định phụ huynh, hạ hạnh kiểm. Không làm vệ sinh, Phê bình trước lớp, viết bản tự kiểm điểm/bản tường không tham gia các hoạt trình, phạt lao động. động của Đoàn trường đề ra Ăn mặc không đúng quy Gọi điện báo phụ huynh, viết bản tự kiểm điểm/bản định/không phù hợp tường trình, phê bình trước lớp. Nói chuyện, gây mất trật Phê bình trước lớp, viết bản tự kiểm điểm, gọi điện báo tự phụ huynh. Không có ý thức giữ gìn Phê bình trước lớp, viết bản tự kiểm điểm, phạt lao cơ sở vật chất động. Ăn quà vặt Phê bình trước lớp, viết bản tự kiểm điểm, gọi điện báo phụ huynh. Gian lận trong học tập, Viết bản tự kiểm điểm, gọi điện báo phụ huynh, phê kiểm tra bình trước lớp. ■ Ý kiến của HS khi được hỏi về cách cư xử của thầy cô khi có học sinh phạm lỗi: Đa số ý kiến HS (hơn 400 HS trong số 580 HS làm khảo sát) đều tán thành với các hình thức xử phạt như: Phê bình trước lớp, viết bản tự kiểm điểm, gọi điện báo phụ huynh. Đặc biệt, HS rất mong muốn khi các em bị phạm lỗi được giáo viên hỏi han, động viên, tìm hiểu nguyên nhân trước khi xử phạt, khoan dung độ lượng với 14
- các em. Hơn 90% số HS không thích sự thờ ơ của GV trước lỗi lầm của HS, đặc biệt là không thích bị chửi mắng, đánh đập khi phạm lỗi. Hình 1.1 Ý kiến của HS về cách xử lí của HV khi HS phạm lỗi. Bảng 1.3: Mức độ đồng ý của HS trước cách xử lí của GV khi HS phạm lỗi: Đồng ý Không đồng ý Hỏi han, động viên 88,1% 11,9% Phê bình trước lớp 68,3% 31,7% Gọi điện thoại báo cho phụ huynh 70,1% 29,9% Sự thờ ơ, mặc kệ không quan tâm 7,2% 89,4% Sự khoan dung 76,3% 23,7% Đánh đập, chửi mắng 5,4 % 94,6% Tìm hiểu rõ nguyên nhân trước khi xử phạt 93,5% 6,5% ■ Điều mà HS mong muốn nhận được từ giáo viên khi mình phạm lỗi là: sự ân cần, bao dung, tìm hiểu nguyên nhân cụ thể và định hướng cho HS để HS không còn vi phạm và ngày càng hoàn thiện bản thân (có 549/580 HS được khảo sát đồng ý với ý kiến này). Hình 1.2 Mong muốn của HS nhận được từ giáo viên khi HS phạm lỗi. 15
- Dựa vào kết quả của việc khảo sát, chúng ta có thể thấy rằng hiện nay vấn đề HS vi phạm nội quy học đường là vấn đề nổi cộm, đáng quan tâm ở các trường phổ thông. Các lỗi vi phạm của HS rất nhiều, trong đó các lỗi thường gặp của học sinh là: Đi học muộn, ăn quà vặt, không học bài và làm bài, Sử dụng điện thoại trái quy định, Gian lận trong thi cử, Vi phạm luật an toàn giao thông, đánh nhau, … Với các lỗi vi phạm, HS thường thường bị các hình thức kỉ luật như: Gọi điện báo phụ huynh, viết bản tự kiểm điểm/bản tường trình, hạ hạnh kiểm, phê bình trước lớp, Phạt lao động… và đây chủ yếu là các biện pháp giáo dục kỉ luật truyền thống. Trên địa bàn của huyện Đô Lương, theo khảo sát chỉ có 58,5% HS cho rằng hình thức kỉ luật đó là phù hợp, có tới 41,5% HS cho rằng các biện pháp đó hơi nghiêm khắc và 18% HS đánh giá quá nghiêm khắc. Và điều này đã dẫn đến một số khó khăn trong việc thấu hiểu HS, gây ảnh hưởng không tốt đến tâm lí, tình cảm và ảnh hưởng tới quá trình học tập của HS. Hơn 90% HS mong muốn ở GV sự ân cần, bao dung, tìm hiểu nguyên nhân cụ thể rồi mới tiến hành các biện pháp kỉ luật hơn là sẵn sàng xử phạt mà chưa biết lí do. Qua đó cũng khẳng định rằng HS mong muốn có các hình thức kỉ luật tích cực hơn để các em có nhiều cơ hội để giải thích, để làm các việc hữu ích hoàn thiện bản thân hơn là các biện pháp trừng phạt. Và qua khảo sát ý kiến của HS, chúng tôi cũng đã nhận nhiều ý kiến về kỉ luật tích cực. Phần lớn HS đều cho rằng KLTC là biện pháp giáo dục văn minh và luôn đặt lợi ích lâu dài của học sinh lên hàng đầu, nó vẫn là biện pháp giáo dục ý thức cho HS luôn tôn trọng nội quy lớp học và trường học. So với trừng phạt, KLTC chú trọng vào việc hiểu tâm lí và luôn lắng nghe ý kiến từ học sinh, nó làm cho HS cảm thấy vui vẻ, thoải mái, có động lực để phấn đấu không phạm lỗi nữa, mối quan hệ giữa GV và HS ngày càng tốt đẹp hơn, tạo ra môi trường học tập an toàn, thoải mái, thân thiện. Hình 1.4 Cảm xúc của HS khi nhận được các hình thức kỉ luật tích cực. Trong số 399 HS tham gia khảo sát về các biện pháp kỉ luật tích cực, phần lớn HS thích các biện pháp KLTC hơn là các biện pháp kỉ luật truyền thống. Các bạn HS đưa ra nhiều lí do khác nhau, trong đó có ý kiến HS cho rằng: “nên áp dụng biện 16
- pháp tích cực, vì tâm sinh lý của học sinh khá nhạy cảm, nên nếu chúng ta sử dụng biện pháp tích cực thì sẽ giúp hs hiểu rõ vấn đề hơn biết lỗi của mình và thực hiện tốt hơn, còn nếu sử dụng biện pháp tiêu cực thì nhiều lúc tâm lý sẽ không được thoải mái, luôn trong trạng thái tức giận, nóng nảy, sẽ không hiểu rõ vẫn đề và biết lỗi của bản thân để sửa từ đó dẫn tới hiệu quả không cao, mà đôi khi còn chán ghét người trừng phạt. Vì vậy nên sử dụng biện pháp tích cực nhiều hơn, tuy nhiên thì có nhiều trường hợp cũng cần phải sử dụng biện pháp tiêu cực”. b) Kết quả điều tra thực trạng từ phía GV Trong qua trình giáo dục HS, GV gặp rất nhiều khó khăn như HS có thái độ chống đối, không nghe lời, các hình thức kỉ luật chưa thực sự giúp học sinh tiến bộ, không biết nên áp dụng hình thức kỉ luật nào trong từng trường hợp cụ thể, … Trong giai đoạn hiện nay, nhiều GV còn cảm thấy lo sợ, dè dặt khi xử phạt HS. Theo ý kiến khảo sát từ phía các thầy/ cô, HS thường phạm các lỗi như không học bài và làm bài, đi học muộn, nói chuyện, Sử dụng điện thoại trái quy định, ăn quà vặt, vi phạm luật an toàn giao thông, … Mỗi khi HS phạm lỗi, đa số GV đều lắng nghe HS giải thích, luôn quan tâm HS, không bỏ mặc HS vì những lỗi lầm mà các em đã mắc phải. Điều này chứng tỏ thầy cô rất quan tâm, yêu thương, sẵn sàng lắng nghe HS, mong muốn HS biết lỗi của mình để sửa chữa. Hình 1.5 Những khó khăn mà thầy (cô) phải đối mặt trong giáo dục học sinh Hình 1.6 Thái độ của GV khi HS phạm lỗi. 17
- Hình 1.7 Các hình thức GV thường sử dụng khi HS phạm lỗi. Với các lỗi vi phạm của HS, GV thường dùg các hình thức kỉ luật như: Chép phạt, gọi điện báo phụ huynh, phê bình trước lớp, viết bản tự kiểm điểm/bản tường trình, phạt lao động… Đa số HS đều chấp nhận các hình phạt đó của GV. Tuy nhiên, đây là các hình thức kỉ luật truyền thống, các hình thức thức này nhiều lúc làm cho HS cảm thấy không thoải mái, có HS còn có thái độ chống đối, không nghe lời, không chấp hành hình thức xử phạt của GV, tỏ thái độ không hài lòng, cố tình phạm lỗi nư là một cách trêu tức GV, … Qua đây ta thấy được tâm lí không thoải mái của HS khi thực hiện các hình thức kỉ luật. Điều này đòi hỏi GV/ những người thi hành kỉ luật cần phải có các hình thức kỉ luật mới mang tính linh động, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí HS, năng lực học sinh. Vừa có tính giáo dục, vừa phát huy được năng lực/ năng khiếu HS, vừa tạo tâm lí thoải mái cho các em khi “thi hành” các biện pháp kỉ luật. 1.3.3 Nguyên nhân của thực trạng Nguyên nhân khách quan: Do xã hội Việt Nam còn chịu ảnh hưởng về tư tưởng phong kiến của giáo dục nho giáo; do nhận thức còn nhiều hạn chế của một bộ phận GV. Quan niệm xưa cho rằng muốn dạy trẻ thì ngay từ nhỏ trẻ phải được giáo dục bằng đòn roi thì mới nên người, người lớn/thầy cô có quyền đánh mắng, xử phạt... Trẻ em phải chịu đựng, phải chấp hành không được cãi lại. Có nghĩa là người lớn có quyền bắt trẻ em phải làm bất kể điều gì người lớn muốn. Quan niệm này đã được truyền từ đời nay sang đời khác và nghiễm nhiên nó trở thành một biện pháp giáo dục mang tính phổ biến. Bên cạnh đó, quan niệm sai lầm về giáo dục HS thông qua sử dụng các hình thức kỉ luật truyền thống đó là quan niệm "Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi" cho đến nay vẫn được nhiều GV và các bậc phụ huynh áp dụng. “Miếng ngon nhớ lâu - Đòn đau nhớ đời”. Hầu hết các cha mẹ, thầy cô đã sử - dụng biện pháp trừng phạt thân thể khi trẻ mắc lỗi với hy vọng làm cho trẻ sợ, trẻ sẽ nhớ lâu và 18
- không giám tái phạm. Từ quan niệm sai lầm trên, nhiều người đã sử dụng biên pháp trừng phạt thân thể khi trẻ mắc lỗi. Về phía HS: - Do HS có những khó khăn và rào cản trong học tập (năng lực học tập hạn chế, chưa tìm ra phương pháp học tập phù hợp, chưa định hướng được mục tiêu học tập của bản thân, …), gặp những khó khăn về xã hội (như bị ngược đãi, đe doạ, bức xúc, bị lôi kéo bởi các trò chơi hay các hội nhóm …) gặp áp lực từ phía gia đình (mâu thuẫn với bố mẹ, bố mẹ mâu thuẫn ảnh hưởng tới con cái, kì vọng của bố mẹ đối với con cái quá lớn, hoàn cảnh gia đình khó khăn, mất bố/mẹ không có người chăm sóc, chia sẻ yêu thương, …), nên các em bị tác động về mặt tâm lí, dễ mắc lỗi khi ở trường. - Bản thân HS chưa có ý thức phấn đấu, ý chí học tập và rèn luyện, còn buông thả chính mình với những thói quen xấu. Về phía GV: - Do một số GV chưa có một phương pháp giáo dục phù hợp, đặc biệt là phương pháp giáo dục không sử dụng trừng phạt thân thể (không véo tai, dùng thước), dùng lời nói xúc phạm đến HS. - Giáo viên bị căng thẳng khi phải chịu những áp lực từ nhiều phía nên tâm lí không thoải mái, dẫn tới các hành vi “xử phạt” còn cứng nhắc, nóng nảy. - Một số GV còn thiếu kinh nghiệm sống (còn trẻ, mới ra trường, ít và chạm với cuộc sống xã hội), suy nghĩ mọi chuyện theo chiều hướng đơn giản. Một số GV vì muốn giữa “thể diện” cho mình trước học sinh. 19
- Chương 2: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỉ luật tích cực đối với quá trình hình thành và phát triển của học sinh THPT. 2.1 Các nguyên tắc của kỉ luật tích cực 2.1.1 Nguyên tắc 1: Vì lợi ích tốt nhất của học sinh Mọi hành động, biện pháp kỉ luật mà giáo viên áp dụng là nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho HS, để các em nhận ra lỗi sai của mình, có các hành động tích cực để sửa sai. Chỉ khi đặt lợi ích của HS lên trên hết, GV mới có thể đưa ra các biện pháp kỉ luật phù hợp với HS và có thể phát huy tốt nhất tiềm năng của HS. 2.1.2 Nguyên tắc 2: Luôn tôn trọng học sinh. Lứa tuổi HS cấp 3 là lứa tuổi có những bước phát triển mới về nhận thức và tâm sinh lí, ở nhiều HS cái tôi cá nhân phát triển rất cao, các em dễ bị tổn thương, dễ xúc cảm. Vì vậy, trong quá trình tiến hành kỉ luật HS, GV phải dùng các lời nói và hành động vừa mang tính giáo dục, vừa thể hiện sự tôn trọng HS; phải làm cho HS có cảm giác được tôn trọng, để các em nhận thấy các hành vi chưa đúng của mình, đồng thuận, chấp nhận các hình thức kỉ luật một cách thoải mái nhất. 2.1.3 Nguyên tắc 3: Không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của học sinh Các biện pháp can thiệp phải tập trung hướng vào hành vi chưa đúng của học sinh, không phải để phê phán con người và nhân cách học sinh. 2.1.4 Nguyên tắc 4: Khích lệ, động viên học sinh cố gắng Dù HS đang bị kỉ luật vì những hành vi sai trái của mình nhưng GV không nên tập trung nói vào cái sai của HS. GV cần biết tìm ra các ưu điểm của HS, động viên khích lệ các em phấn đấu phát huy ưu điểm, khắc phục các nhược điểm. Điều này vừa giúp HS giảm áp lực tâm lí, vừa chỉ ra cho HS cách thực hiện các hình thức kỉ luật tích cực. 2.1.5 Nguyên tắc 5: Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Mỗi học sinh đều trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau, có hoàn cảnh phát triển riêng, không ai giống ai. Do đó mỗi HS đều cần những phương pháp tiếp cận, dẫn dắt khác nhau. Bằng cách tìm hiểu về đặc điểm của lứa tuổi của HS, những khó khăn, áp lực mà HS đang đối mặt, GV sẽ đưa ra được biện pháp kỉ luật phù hợp, mang lại hiệu quả, giúp HS tiến bộ hơn, HS sẽ không cảm thấy áp lực hay nặng nề trước các hình phạt. Qua đó HS cũng hiểu hơn về tâm lòng yêu thương của thầy cô dành cho mình, sẽ cố gắng phấn đấu để thầy cô không buồn phiền nữa. 2.1.6 Nguyên tắc 6: Luôn tìm hiểu kỹ nguyên nhân học sinh vi phạm trước khi tiến hành các hình thức xử phạt. Nguyên tắc này giúp GV hiểu rõ nguồn gốc của các vi phạm, hiểu rõ về HS, đưa ra được hình thức kỉ luật đúng đắn, xử lí tận gốc nguyên nhân của vấn đề, giúp 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 280 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 193 | 29
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 179 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p | 46 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 32 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 24 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 19 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 39 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 31 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 23 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p | 42 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 35 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp tính khoảng cách trong hình học không gian lớp 11
35 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả daỵ - học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh qua tiết 07 - bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia
45 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 30 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn