intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học – kỹ thuật cho học sinh trường THPT Xuân Hòa – Tỉnh Vĩnh Phúc

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:64

27
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thành với mục tiêu nhằm tìm ra những giải pháp cụ thể giúp nâng cao chất lượng trong hoạt động hướng dẫn học sinh NCKH-KT qua đó nhằm phát triển năng lực của học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học – kỹ thuật cho học sinh trường THPT Xuân Hòa – Tỉnh Vĩnh Phúc

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT XUÂN HÒA ­­­­­­­­­­                                  BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN  TÊN SÁNG KIẾN: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU  KHOA HỌC – KỸ THUẬT CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT  XUÂN HÒA ­ TỈNH VĨNH PHÚC Tác giả sáng kiến: Phan Hồng Quân                    Mã sáng kiến: 37.68.02 1
  2. Vĩnh Phúc, năm 2020 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: Nghiên cứu khoa học (NCKH) là quá trình nhận thức khoa học, là hoạt động  trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu nhất định để tìm ra một cách   chính xác và có mục đích những điều mà con người chưa biết đến hoặc biết chưa   đầy đủ, tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới về nhận thức hoặc   phương pháp. Trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo hiện   nay thì đổi mới giáo dục phổ thông đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu của   hoạt động NCKH, là sân chơi bổ ích giúp các em áp dụng những kiến thức đã học  vào cuộc sống, học đi đôi với hành; tiếp cận, làm quen với phương pháp, kỹ năng  NCKH, tạo đà cho các bậc học tiếp theo; tạo sự  tự  tin, tìm tòi và sáng tạo; rèn  luyện cách làm việc tự lực, làm việc nhóm, tính tích cực, chủ động, hứng thú trong  học tập và sinh hoạt. Từ  đó phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh  ở  một số môn học có liên quan, phát hiện các tài năng để bồi dưỡng nhân tài cho đất   nước. Không những thế, NCKH trong nhà trường là một trong những nội dung  được đẩy mạnh, nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản toàn diện nền giáo  dục. Để phát huy những lợi ích trên, hoạt động NCKH phải được chú trọng ngay  trong độ  tuổi học trò, có như  vậy mới có cơ  sở  xây dựng và phát triển được đội  ngũ nhân lực chất lượng cao cho xã hội.             Nhận thấy  Nghiên cứu khoa học kỹ thuật (NCKH­KT) là một hoạt động  trải nghiệm bổ ích, thiết thực, gắn liền giữa lý thuyết với thực hành và thực tiễn  lao động sản xuất. Hoạt động này giúp phát huy, khích lệ, định hướng, tiếp lửa,   khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu, sáng tạo của các em học sinh. Đặc biệt, hoạt   động nghiên cứu khoa học ­ kỹ thuật còn rèn luyện cho các em kĩ năng tự học, tự  2
  3. nghiên cứu, tự  kiểm chứng kết quả bằng thực nghiệm... Mặt khác qua việc định   hướng, hướng dẫn cho học sinh nghiên cứu, giáo viên được nâng cao năng lực của   bản thân về  những kiến thức có liên quan đến các đề  tài nghiên cứu khoa học .  Cuối cùng để  có được sản phẩm KHKT tốt thì cần phải có những giải pháp phù   hợp. Chính vì thế tôi đã tiến hành đề tài với mong muốn tìm ra những giải pháp cụ  thể giúp nâng cao chất lượng trong hoạt động hướng dẫn học sinh NCKH­KT qua   đó nhằm phát triển năng lực của học sinh. Với ý nghĩa đó, tôi đã nghiên cứu và áp dụng sáng kiến “Một số  giải pháp   nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học – kỹ thuật cho học sinh   trường THPT Xuân Hòa – Tỉnh Vĩnh Phúc ” 2. Tên sáng kiến kinh nghiệm:  Một số  giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học –   kỹ thuật cho học sinh trường THPT Xuân Hòa – Tỉnh Vĩnh Phúc  3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Phan Hồng Quân. ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Xuân Hòa, Phúc Yên, Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0977627788. ­ Email: phanhongquan.nth@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Phan Hồng Quân 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phương pháp giảng dạy, tập trung vào việc đề ra một số giải pháp nâng cao   chất lượng nghiên cứu khoa học kỹ thuật tại trường THPT 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 9/2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Nội dung của sáng kiến 3
  4. CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI Nghiên cứu khoa học kỹ  thuật là một trong những hoạt  động không thể  thiếu trong trường phổ thông, thể hiện nguyên lý học đi đôi với hành, nhà trường   gắn liền với xã hội. Vì vậy, hoạt động này cần được các trường THPT quan tâm  đẩy mạnh hơn. Thông qua phong trào nghiên cứu khoa học kỹ thuật, khuyến khích học sinh  vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của cuộc sống   một cách sáng tạo, qua đó giúp các em mở mang tầm nhìn, có cơ hội giao lưu với   bạn bè trong nước cũng như  quốc tế. Hơn nữa, phong trào này còn góp phần đổi   mới hình thức hoạt động dạy học, phương pháp đánh giá kết quả  học tập, đẩy  mạnh công tác bồi dưỡng và phát triển giáo viên; đồng thời, phát triển năng lực tự  học, sáng tạo của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đây là hoạt  động khá mới mẻ  trong nhà trường, đòi hỏi mỗi giáo viên và cấp lãnh đạo các  trường cần quan tâm chỉ đạo một cách có hiệu quả. Để  nâng cao chất lượng NCKH tại các trường phổ  thông bằng việc tạo ra  sân chơi khoa học từ Cuộc thi, cần có những giải pháp đồng bộ hóa để hoạt động   NCKH thật sự đạt được kết quả. 4
  5. CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.  Nghiên cứu khoa học kỹ thuật là gì ?         Thật ra, công việc nghiên cứu khoa học kỹ thuật chỉ là những nghiên cứu, tìm  tòi nhằm phát hiện ra những cái mới, giải quyết những vấn đề mà thực tiễn và lý   luận đặt ra! Chẳng hạn như bạn nhìn thấy "nước máy bị nhiễm bẩn" tại TP Phúc  Yên, bạn muốn thực hiện một công trình NCKH để  giảm thiểu tình trạng nước   nhiễm bẩn tại đô thị này... đó chính là NCKH.  NCKH là một công việc phức tạp,   đòi hỏi bạn phải có tư duy và chịu khó. 2.  Nghiên cứu khoa học, được và mất gì?           Những năm gần đây công việc NCKH ­ KT là một hoạt động thường xuyên   của học sinh và giáo viên trong các trường trung học cơ sở và THPT. Ở Việt Nam   chúng ta, thuật ngữ NCKH không chỉ còn "lạ lẫm" với đa số học sinh mà kể cả đa   số sinh viên ở các trường Đại học.            Nghiên cứu khoa học sẽ mang lại cho bạn rất nhiều thứ! Bạn sẽ ch ủ động   hơn trong học tập, những phương pháp học tập và tư duy mới sẽ hình thành! Cách  thức phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề, bạn sẽ giỏi hơn trong giao tiếp, trong   cách làm việc nhóm (teams word).... bạn cũng sẽ  có đựoc niềm vui từ  sự  thành   công, sự  tôn trọng, yêu quý từ  mọi người xung quanh bạn! Đặc biệt đây là giai  đoạn tiền đề tạo điều kiện cho bạn làm tốt luận văn tốt nghiệp sau này! Hơn nữa,  bạn sẽ có những khoản tiền thưởng (thường thì rất ít), bạn còn đựoc cộng điểm,  và được các nhà tuyển dụng ưu tiên trong quá trình phỏng vấn!         Tuy nhiên, để thành công trong NCKH bạn cũng phải mất đi nhiều thứ. Thời   gian, tiền bạc và công sức! Thời gian để tìm tòi, đọc tài liệu, đi thực tế, khảo sát,   viết báo cáo... Tiền để  photo tài liệu, in  ấn, và các chi phí khác! Công sức là rất  lớn, bạn sẽ phải nỗ lực tư duy trong một thời gian dài. 3.     Các   bước   để   thực   hiện   một   công   trình   nghiên   cứu   khoa   học Nếu thực sự  bạn có niềm đam mê NCKH – KT, bạn đừng ngần ngại mà hãy bắt  5
  6. tay ngay để thực hiện một công trình khoa học về bất cứ một vấn đề  nào đó mà  bạn thích! Nếu bạn chưa biết bắt đầu từ đâu, xin hãy làm theo 5 bước sau đây: a. Tìm ý tưởng          Bạn có thể  tìm ý tưởng từ  việc đọc sách, báo, Internet, nghe đài.. hoặc qua  quan sát thực tế. Khi bạn phát hiện ra vấn đề, hẫy chọn cho mình một hướng  nghiên cứu phù hợp. b. Xác định hướng nghiên cứu        Khi bạn đã tìm ra ý tưởng hãy tìm đọc nhiều tài liệu về vấn đề đó. Chẳng hạn  như về "thực trạng vi phạm pháp luật của trẻ em vị thành niên trên địa bàn TP.  Vĩnh Yên", bạn hãy tìm đọc tất cả các laọi sách báo viết về chủ đề này.  c. Chọn tên đề tài      Sau khi đã có trong tay nhiều tài liệu bạn hãy đặt cho mình tên của đề tài! Lưu  ý, tên đề tài phải ngắn gọn và phải thể hiện được vấn đề bạn đang định nghiên  cứu. tên đề tài phải thể hiện đầy đủ đối tượng, phạm vi, chủ thể, khách thể, thời  gian, không gian nghiên cứu. d.Lập đề cương Bạn hãy thể hiện ý tưởng của mình thành một đè cương sơ khởi bao gồm những  nội dung sau đây: + Đặt vấn đề +Mục đích nghiên cứu +Phạm vi nghiên cứu (Phạm vi về không gian, thời gian, đối tượng nghiên cứu) +Phương pháp nghiên cứu +Câu hỏi nghiên cứu +Các giả thuyết +Kết cấu đề tài +Nguồn số liệu, tài liệu tham khảo e.Tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn 6
  7. Sau khi đã lập được đề cương sơ khởi học sinh chủ động tìm gặp giáo viên hướng  dẫn để thầy cô định hướng các bước làm tiếp theo…                              CHƯƠNG 3: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Mục tiêu của đề tài      Nhận thấy Nghiên cứu khoa học kỹ  thuật (NCKH­KT) là một hoạt động trải  nghiệm bổ  ích, thiết thực, gắn liền giữa lý thuyết với thực hành và thực tiễn lao   động sản xuất. Hoạt động này giúp phát huy, khích lệ, định hướng, tiếp lửa, khơi   dậy niềm đam mê nghiên cứu, sáng tạo của các em học sinh. Đặc biệt, hoạt động   nghiên cứu khoa học ­ kỹ thuật còn rèn luyện cho các em kĩ năng tự học, tự nghiên  cứu, tự  kiểm chứng kết quả bằng thực nghiệm... Mặt khác qua việc định hướng,  hướng dẫn cho học sinh nghiên cứu, giáo viên được nâng cao năng lực của bản   thân về  những kiến thức có liên quan đến các đề  tài nghiên cứu khoa học . Cuối  cùng để  có được sản phẩm KHKT tốt thì cần phải có những giải pháp phù hợp.  Chính vì thế tôi đã tiến hành đề tài với mong muốn tìm ra những giải pháp cụ thể  giúp nâng cao chất lượng trong hoạt động hướng dẫn học sinh NCKH­KT qua đó  nhằm phát triển năng lực của học sinh. 2. Câu hỏi nghiên cứu:  Dựa vào mục đích của đề tài, hai câu hỏi nghiên cứu đã được đưa ra:  ­“Làm thế nào để phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh trường THPT  Xuân Hòa một cách có hiệu quả nhất thay vì hoạt động tiếp thu một cách thụ  động thì cho học sinh tự trải nghiệm sáng tạo”  ­ “Để  nâng cao chất lượng hoạt động NCKH­KT tại trường THPT Xuân Hòa thì  cần có những giải pháp cụ thể nào?” 3. Phương pháp nghiên cứu:  7
  8. a, Đối tượng nghiên cứu: là học sinh khối 10 và khối 11 của trường THPT Xuân   Hòa, bao gồm những em  ở  cả  các lớp đầu cao cũng như  thấp, học lực bộ  môn  giỏi, khá, trung bình và yếu, dựa vào kết quả bài kiểm tra bộ môn ở trường. b, Các bước tiến hành:  ­ Đưa ra các câu hỏi điều tra để thu thập thông tin. Một số thông tin khác có được  từ việc quan sát, dự giờ, phỏng vấn học sinh. CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ 1. Thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh.  1.1. Nhận thức về hoạt động NCKH. 1.1.1.  Nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động NCKH trong giáo viên và học   sinh. Trong công tác quản lý, việc giáo viên và học sinh ý thức đúng được tầm   quan trọng của NCKH trong nhà trường trung học có ý nghĩa rất lớn trong việc tổ  chức, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ NCKH trong trường trung học. Hiện nay vẫn còn tồn tại hai quan điểm cho rằng hoạt động NCKH của học  sinh chỉ là hoạt động bổ trợ và được xem như là hoạt động phong trào; quan điểm  khác lại cho rằng hoạt động NCKH có vị trí quan trọng, liên quan tới việc nâng cao  chất lượng học tập và vận dụng kiến thức của học sinh đồng thời góp phần đổi  mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh.  Tìm hiểu nhận thức của giáo viên và học sinh trường THPT Xuân Hòa về  vai trò của hoạt động NCKH của học sinh cho kết quả như trong bảng 1:  8
  9. Bảng 1: Mức độ cần thiết của hoạt động NCKH đối với học sinh Mức độ cần  Giáo viên Học sinh thiết SL % SL % Rất cần thiết 6 9,09 42 17,14 Cần thiết 30 45,45 161 65,71 Có thì tốt 18 27,27 35 14,29 Không cần thiết 12 18,18 7 2,86 Tỉ lệ phần trăm được thể hiện ở biểu đồ 1: Biểu đồ 1: Đánh giá mức độ cần thiết của NCKH đối với học sinh  Số liệu khảo sát cho thấy tỉ lệ giáo viên và học sinh đánh giá ở mức độ “Rất  cần thiết” khá thấp; một tỉ  lệ khá cao  ở  giáo viên (45,45%) và học sinh (17,15%)  chưa coi hoạt động NCKH của học sinh là một hoạt động cần thiết trong nhà   trường. Khó khăn hơn nữa khi chính đội ngũ giáo viên lại đánh giá sự  cần thiết   của hoạt động NCKH thấp hơn so với học sinh đánh giá.  9
  10. 1.1.2. Nhận thức ý nghĩa của hoạt động NCKH trong giáo viên và học sinh. Các ý nghĩa của hoạt động NCKH được xem xét và đánh giá bởi giáo viên và  học sinh bao gồm: 1) Tiếp thu được kiến thức môn học thuộc lĩnh vực tham gia nghiên cứu khoa  học 2) Tiếp thu được phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu bài bản khoa  học 3) Nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu 4) Nâng cao kĩ năng giao tiếp và làm việc nhóm 5) Nâng cao kĩ năng sử dụng CNTT và ngoại ngữ 6) Nâng cao khả năng viết báo cáo khoa học 7) Có thêm các mối quan hệ  với các bạn bè, thầy cô giáo, các cơ  sở  trung tâm  nghiên cứu… Kết quả đánh giá được thống kê trong bảng 2: Bảng 2: Đánh giá về ý nghĩa của hoạt động NCKH  Mức tác động Mức  Thứ  Ý nghĩa Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 Mức 5 độ bậc SL % SL % SL % SL % SL % 1) 24 7,72 12 3,86 36 11,58 78 25,08 161 51,77 4,09 1 2) 33 10,61 69 22,19 66 21,22 76 24,44 67 21,54 3,24 4 3) 75 24,12 73 23,47 54 17,36 45 14,47 64 20,58 2,84 5 4) 34 10,93 65 20,90 45 14,47 78 25,08 89 28,62 3,40 3 5) 75 24,12 86 27,65 71 22,83 44 14,15 35 11,25 2,61 6 10
  11. 6) 14 4,50 45 14,47 68 21,86 29 9,32 155 49,84 3,86 2 7) 131 42,12 86 27,65 46 14,79 15 4,82 33 10,61 2,14 7 Như  vậy đánh giá về  ý nghĩa của hoạt động NCKH tập trung chủ  yếu vào  các ý nghĩa thứ  1), 2), 4), 6) đều là các vấn đề có liên quan trực tiếp tới việc hoc   tập của học sinh như  kiến thức, phương pháp và các nội dung thuộc về  kĩ năng  sống ­ điểm yếu của các em học sinh. Các ý nghĩa không được đánh giá cao là các   ý nghĩa thứ  3), 5) và 7) liên quan tới vấn đề tự  học, các mối quan hệ và sử  dụng  ngoại ngữ tin học (chỉ trên mức trung bình, từ  2,14 – 2,84). Như  vậy đánh giá về  tầm quan trọng của hoạt động NCKH vẫn còn có nhiều ý kiến coi nhẹ các vai trò  nâng cao năng lực tự  học, hiểu biết thêm ngoại ngữ, tin học và có thêm các mối  quan hệ; đồng thời chỉ  đánh giá cao các vai trò có tác động trực tiếp tới kết quả  học tập. Điều này cho thấy sự  nhìn nhận chưa đầy đủ  về  vai trò của NCKH bắt   nguồn từ  một tư  duy đơn giản là học tập để  lấy kiến thức và đạt điểm số  trong   nhà trường chứ chưa chú ý tới việc phát triển năng lực toàn diện của học sinh. Tình hình nắm bắt thông tin về hoạt động NCKH của học sinh trường THPT  Xuân Hòa được thể hiện ở bảng 3: Bảng 3: Mức độ nắm bắt thông tin về hoạt động NCKH của học sinh  HS tự đánh giá Giáo viên đánh giá Mức độ Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Rất rõ ràng 54 22,0 6 9,1 Có biết 157 64,1 36 54,5 Biết rất ít 29 11,8 23 34,8 Không biết 5 2,0 1 1,5 Như  vậy có một sự  chênh lệch nhất định giữa đánh giá của giáo viên và  đánh giá của học sinh, đó là giáo viên đánh giá học sinh chủ yếu  ở mức “có biết”  và “biết rất ít”, trong khi đó học sinh lại tự đánh giá ở mức “có biết” và “biết rất  11
  12. rõ ràng”. Tuy nhiên nếu nhìn tổng thể thì vẫn có thể đánh giá còn một tỉ lệ không   nhỏ  học sinh mới chỉ  nắm bắt thông tin  ở  mức “biết rất ít” và “không biết”  về  hoạt động NCKH của học sinh  ở trường. Số liệu cho thấy có sai khác trong đánh  giá của giáo viên đối với học sinh, trong vấn đề nắm bắt thông tin về NCKH thì có  thực tế  đang xảy ra là giáo viên cho rằng học sinh chỉ  biết rất ít hoặc có biết  nhưng học sinh lại biết nhiều hơn thế. Như  vậy trong công tác tuyên truyền và  phổ  biến chưa tập trung vào đội ngũ giáo viên ­ lực lượng tuyên truyền viên rất  hiệu quả trong nhà trường và cũng là lực lượng chính để hướng dẫn học sinh tham   gia NCKH. Trong thực tế các nguồn cung cấp thông tin tới học sinh về học sinh NCKH   chủ yếu là thông qua giáo viên chủ nhiệm, bảng thông báo của trường và trong tiết  chào cờ đầu tuần. Các nguồn thông tin chưa hiệu quả là thông tin của Đoàn thanh   niên và do giáo viên trực tiếp hướng dẫn học sinh NCKH phổ biến.. Các số  liệu   cho thấy thực  tế đang diễn ra ở  các trường THPT Xuân Hòa đó là nguồn cung cấp  thông tin về  hoạt động NCKH của học sinh thì khá nhiều nhưng những nguồn  cung cấp có giá trị và hiệu quả, đến được đông đảo học sinh lại không nhiều. Các   nguồn thông tin được đánh giá có hiệu quả  tới đa số  học sinh về  thực chất là  những nguồn thông tin một chiều, nếu học sinh không hiểu rõ hoặc muốn tìm hiểu   thêm thì các nguồn này không đáp ứng được. Trong khi đó nguồn thông tin từ giáo  viên trực tiếp hướng dẫn chưa được quan tâm chú ý mặc dù đây là nơi cung cấp  thông tin cụ thể nhất để  học sinh có  thể  tiến hành ngay hoạt động NCKH được.   Từ  thực tế  này đòi hỏi cần nhìn nhận đúng vai trò của các nguồn thông tin và sử  dụng hợp lí. * Mức độ tham gia vào quy trình NCKH của học sinh Số liệu khảo sát thực tế cho thấy tỉ lệ học sinh đã từng tham gia hoạt động  NCKH trong nhà trường còn rất thấp, chỉ có 7 học sinh trong số 245 học sinh tham   gia khảo sát (chiếm 2,86%)  trả lời là đã từng tham gia. Tuy nhiên khi được hỏi cụ  thể  về  các bước trong quy trình NCKH thì học  sinh lại sẵn sàng lựa chọn các nhiệm vụ phù hợp để tự mình thực hiện hoặc thực   12
  13. hiện dưới sự hỗ trợ của giáo viên. Số liệu khảo sát được nêu trong bảng 2. 2 (dưới  đây), cho thấy học sinh hăng hái và sẵn sàng chủ động tham gia với các hoạt động  như  viết báo cáo, tìm kiếm tài liệu thông tin và tham gia hoàn thành sản phẩm  NCKH. Các hoạt động mà học sinh thấy khó khăn khi tham gia là chuẩn bị vật liệu  chế  tạo sản phẩm, lập kế  hoạch cho dự  án, điều tra thực trạng..Tuy  vậy có thể  thấy học sinh dù tham gia được nhiều hay ít vào quy trình NCKH thì vẫn thể hiện   các em muốn tham gia nhưng với tỉ lệ quá ít ỏi trong thực tế là  2,86% học sinh đã  từng tham gia chứng tỏ còn rất nhiều khó khăn ngăn trở học sinh tham gia vào hoạt   động NCKH của học sinh. Bảng 4: Mức độ tham gia của HS trong các bước của quy trình NCKH Không Tham gia  HS tự mình  Nội dung  tham gia  cùng GV  thực hiện  SL % SL % SL % Suy   nghĩ   và   tìm   kiếm   ý   tưởng  21 8,57 152 62,04 72 29,39 NCKH Lập kế hoạch cho dự án NCKH 20 8,16 192 78,37 33 13,47 Tìm   kiếm   tài   liệu,   thông   tin   để  64 26,12 40 16,33 141 57,55 nghiên cứu iên  cứ Điều tra thực trạng của vấn đề ng 13,88 141 57,55 70 2 u 34 Chuẩn bị vật liệu để  chế  tạo sản  phẩm nghiên cứu,57 73 29,80 117 47,76 55 22,45 Hoàn thành sản phẩm nghiên cứu 37 15,10 105 42,86 103 42,04 ,71 Viết báo cáo 14 28,16 162 66,12 69 Theo như  kết quả  điều tra đánh giá, đa phần học sinh trường THPT Xuân   Hòa đều nhận thức được vai trò của việc nghiên cứu KHKT.  Hầu hết các em cho rằng việc nghiên cứu KHKT không chỉ  có ý nghĩa tạo  sân chơi bổ ích, mà còn khơi dậy sự đam mê sáng tạo cho các em ngay từ lứa tuổi   học trò. Nếu các em HS được quan tâm tạo điều kiện động viên khuyến khích   13
  14. cùng với sự  hướng dẫn giúp đỡ  tận tình của các thầy cô giáo thì những ý tưởng   sáng tạo của các em sẽ  trở  thành những sản phẩm hữu ích phục vụ  cuộc sống.   Qua đó rèn luyện cho các em thói quen tự đọc tự học tự nghiên cứu. 2. Những vấn đề phổ biến học sinh gặp phải trong việc nghiên cứu KHKT Các khó khăn đối với học sinh khi tham gia hoạt động NCKH ở   các trường THPT  trên địa bàn Phúc Yên bao gồm 14 nguyên nhân sau: 1) Không biết được các thông tin để tham gia 2) Thiếu động cơ học tập nghiên cứu 3) Thiếu thời gian để thực hiện nghiên cứu khoa học 4) Không biết hoặc không thực hiện theo được phương pháp nghiên cứu   khoa học 5) Thiếu các điều kiện để nghiên cứu như khó tiếp cận thư viện, phòng  thí nghiệm, tài liệu, thông tin... 6) Ngại gặp gỡ trao đổi với giáo viên hướng dẫn 7) Giáo viên hướng dẫn không rõ ràng 8) Các giáo viên khác không ủng hộ học sinh sử dụng quá nhiều thời gian   vào hoạt động nghiên cứu khoa học 9) Trình độ ngoại ngữ, tin học hạn chế 10) Bạn cùng nhóm nghiên cứu không hợp 11) Đã tham gia quá nhiều hoạt động của nhà trường 12) Không được  ưu tiên khuyến khích như  khi tham gia các hoạt động   khác trong trường 13) Gia đình chỉ  muốn học sinh tập trung vào học tập các môn học trong  chương trình 14) Cho rằng hoạt động NCKH không cần thiết với học sinh Khi điều tra về mức độ gây khó khăn của các nguyên nhân  (các mức độ từ 1   đến 5: trong đó mức độ 1 là ảnh hưởng ít nhất và mức độ  5 là ảnh hưởng nhiều   14
  15. nhất  tương  ứng với thang điểm từ  1 đến 5).  Kết quả  điều tra được thể  hiện  ở  bảng 5. Bảng 5: Nguyên nhân gây khó khăn tới hoạt động NCKH của học sinh  Mức ảnh hưởng của các nguyên nhân Th Nguyên  Mứ Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 Mức 5 ứ  nhân c độ SL % SL % SL % SL % SL % bậc 15 62,8 23 9,39 43 17,5 20 8,16 5 2,04 1,77 1) 13 4 6 5 9 3,67 16 6,53 48 19,5 77 31,4 95 38,7 3,95 2) 1 9 3 8 12 4,90 19 7,76 56 22,8 78 31,8 80 32,6 3,80 3) 3 6 4 5 12 4,90 21 8,57 78 31,8 56 22,8 78 31,8 3,68 4) 4 4 6 4 88 35,9 78 31,8 34 13,8 26 10,6 19 7,76 2,22 5) 9 2 4 8 1 12 52,2 12 4,90 34 13,8 56 22,8 15 6,12 2,26 6) 8 8 4 8 6 11 45,3 29 11,8 37 15,1 55 22,4 13 5,31 2,31 7) 7 1 1 4 0 5 13 55,1 53 21,6 41 16,7 10 4,08 6 2,45 1,77 8) 12 5 0 3 3 12 48,9 69 28,1 49 20,0 6 2,45 1 0,41 1,77 9) 14 0 8 6 0 56 22,8 89 36,3 49 20,0 36 14,6 15 6,12 2,45 10) 6 6 3 0 9 15 6,12 49 20,0 43 17,5 67 27,3 71 28,9 3,53 11) 5 0 5 5 8 98 40,0 76 31,0 56 22,8 11 4,49 4 1,63 1,97 12) 10 0 2 6 12 52,6 34 13,8 67 27,3 12 4,90 3 1,22 1,88 13) 11 9 5 8 5 14 5,71 20 8,16 24 9,80 98 40,0 89 36,3 3,93 14) 2 3 Mức độ ảnh hưởng của các nguyên nhân được mô tả trên biểu đồ 2: 15
  16. Biểu đồ 2: Các nguyên nhân gây khó khăn đối với việc tham gia NCKH của HS    Xem xét các nguyên nhân có ảnh hưởng đến việc tham gia hoạt động NCKH  của học sinh có thể thấy các yếu tố tác động từ giáo viên và cơ sở vật chất thiết bị  không phải là yếu tố  trở  ngại lớn. Các khó khăn được học sinh coi là tác động   nhiều đều đến từ việc nhận thức tầm quan trọng và động cơ học tập, ngoài ra còn   do các em thiếu thời gian  (nhóm nguyên nhân 2), 3), 4), 11), 14) có mức độ khá từ   3,53­3,95)... Các nguyên nhân có mức độ ảnh hưởng thấp  (mức dưới trung bình từ  1,77­2,45) là nhóm các nguyên nhân đến từ  các yếu tố  cá nhân nhỏ  lẻ, không đặc  trưng như  thiếu thông tin, gia đình hoặc giáo viên khác cản trở... Như  vậy các  nguyên nhân gây khó khăn lớn với học sinh trong thực tế đang là khó khăn với hầu   hết học sinh chứ  không chỉ  tác động tới một bộ  phận . Từ  thực trạng này có thể  thấy những nguyên nhân cản trở  học sinh tham gia hoạt động NCKH có tác động  lớn tới đa số  học sinh, từ  đó vấn đề  đặt ra cho công tác quản lý là muốn tăng  cường sự tham gia của học sinh vào hoạt động NCKH thì cần tăng cường tổ chức  các hoạt động nâng cao nhận thức của học sinh và tác động tạo điều kiện để thay  đổi khung thời gian, lịch hoạt động của học sinh. 3. Thực trạng lập kế hoạch quản lý hoạt động NCKH của học sinh  Trong công tác quản lý NCKH của học sinh, việc lập kế hoạch là bước khởi  đầu quan trọng, định hướng cho toàn bộ các hoạt động tiếp theo. Tại trường THPT  Xuân Hòa việc lập kế  hoạch cho hoạt động NCKH của học sinh đã được xây  16
  17. dựng  ngay từ  đầu năm học, trong đó có phân tích rõ thuận lợi, khó khăn, đưa ra   đầy đủ mục đích, yêu cầu cần thực hiện; trong kế hoạch tổ chức thực hiện đã có  phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận và cá nhân với các mốc thời gian rõ   ràng. Tuy nhiên khi phỏng vấn các giáo viên thì vẫn có những ý kiến về  công tác  lập kế  hoạch còn nhiều hạn chế  và bất cập. Kết quả  điều tra về  công tác xây   dựng kế hoạch thể hiện ở bảng sau: Bảng 6: Thực trạng xây dựng kế hoạch hoạt động NCKH của học sinh  Hình thức xây dựng kế hoạch SL Tỉ lệ % Nằm trong kế hoạch nhiệm vụ năm học của nhà trường 12 85,71 Do phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn lập kế hoạch và triển  9 64,29 khai tới các tổ chuyên môn Có kế hoạch từ đầu năm với nhân sự, nguồn lực và các mốc  6 42,86 thời gian cụ thể Lập kế hoạch ngắn hạn để có sản phẩm NCKH tham gia dự thi  10 71,43 Không có kế hoạch cụ thể 3 21,43 Qua bảng số  liệu có thể  thấy nhà trường đã quan tâm chú ý tới hoạt động   NCKH của học sinh và đa phần đều có nhắc tới trong kế hoạch nhiệm vụ chung   của năm học (85,71%). Tuy nhiên tỉ lệ xây dựng kế hoạch dài hạn chưa nhiều mà   chủ  yếu là kế  hoạch ngắn hạn (71,43%) tức là hoạt động NCKH chỉ  được triển   khai trong một thời gian nhất định, có thể hiểu là thời gian khi Sở Giáo dục và Đào   tạo phát động cuộc thi nghiên cứu KHKT. 4. Thực trạng tổ chức hoạt động NCKH của học sinh  Trường THPT Xuân Hòa thực hiện việc tổ chức hoạt động NCKH của học  sinh một cách bài bản. Ban chỉ đạo hoạt động này bao gồm ban giám hiệu, các tổ  trưởng chuyên môn và một số giáo viên nhiệt tình, say mê với công tác hướng dẫn   học sinh NCKH. Trong đó ban giám hiệu có nhiệm vụ chỉ đạo chung, tuyên truyền   phổ biến nội dung, ý nghĩa, kế hoạch của hoạt động NCKH; các tổ trưởng chuyên  môn phụ trách hướng dẫn (hoặc giao cho tổ viên) hướng dẫn các dự án NCKH liên   17
  18. quan đến chuyên môn của tổ;  nhóm giáo viên có năng lực NCKH được phân công  nhiệm vụ hướng dẫn các giáo viên khác và học sinh lựa chọn ý tưởng, thực hiện  dự án theo đúng quy trình, hoàn thiện hồ sơ, báo cáo. Như  vậy với cách tổ  chức  thực hiện như hiện nay thì có rất nhiều người tham gia nhưng thực chất hiệu quả  lại không cao. Có thể thấy trong công tác tổ  chức vừa thừa lại vừa thiếu, thừa  ở  người chỉ đạo và thiếu ở người thực hiện, phối hợp; nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá  kết quả thực hiện chưa được chú ý, các bộ  phận liên quan khác như  kế  toán, thư  viện, thiết bị thí nghiệm...không được phân công nhiệm vụ cụ thể.  Điều bất cập lớn nhất  ở  trong việc tổ chức hoạt động NCKH hiện nay là   không chú ý tới lực lượng học sinh – đối tượng quyết định sự  thành công và hiệu   quả  của hoạt động NCKH. Trong số  liệu khảo sát về  sự  nắm bắt thông tin của   học sinh thì vai trò các câu lạc bộ khoa học là 0%. Nói cách khác trong công tác tổ  chức việc thành lập được một đội giáo viên hướng dẫn và nhóm học sinh (câu lạc   bộ NCKH) để thực hiện nhiệm vụ NCKH có nền nếp, có sự hỗ trợ hiệu quả của   các bộ phận liên quan thì hiện nay vẫn chưa thực hiện được. 5. Thực trạng việc chỉ đạo triển khai hoạt động NCKH của học sinh Để chỉ đạo và triển khai hoạt động NCKH của học sinh trường THPT Xuân  Hòa đều căn cứ  theo các văn về việc hướng dẫn tô ch ̉ ưc Cuôc thi khoa h ́ ̣ ọc kỹ thuật  dành cho học sinh trung học.  Điều bất cập trong việc chỉ  đạo triển khai hoạt động NCKH của học sinh   trong thời gian qua đó là tính phong trào trong chỉ đạo. Sau khi Bộ Giáo dục và Đào  tạo phát động cuộc thi cấp quốc gia và tiếp đó là Sở  Giáo dục và Đào tạo Bắc   Ninh phát động cuộc thi nghiên cứu khoa học kĩ thuật cấp tỉnh thì các trường mới  có kế hoạch tổ chức thi khoa học kĩ thuật cấp trường. Như vậy kế hoạch tổ chức   hoạt động NCKH của học sinh đã có từ  đầu năm học nhưng chỉ  khi có cuộc thi  nghiên cứu khoa học kĩ thuật thì mới tập trung chỉ  đạo thực hiện, tính chất ngắn  hạn trong chỉ  đạo này làm  ảnh hưởng không nhỏ  đến hiệu quả  của hoạt động  NCKH đồng thời làm cho các kết quả  thành tích, kinh nghiệm đã có không được   kế thừa, phát triển giữa các lứa học sinh và trong đội giáo viên hướng dẫn. 18
  19. 6. Thực trạng việc kiểm tra đánh giá hoạt động NCKH  Việc kiểm tra đánh giá trong bất cứ  hoạt động nào đều rất cần thiết, nó   giúp cho công việc triển khai đúng với kế hoạch đã đề ra, người quản lý nắm bắt   được tình hình thực hiện và người trực tiếp thực hiện công việc có cơ hội được tư  vấn thúc đẩy, khắc phục những hạn chế  của mình do những người có vị  trí và   kinh nghiệm cao hơn giúp đỡ.  Ngay trong phần thực trạng của việc lập kế hoạch đã có nhắc tới một bất  cập là kế  hoạch tổ chức hoạt động NCKH của học sinh không có nội dung kiểm  tra đánh giá, nghĩa là công tác này không được chuẩn bị cụ thể từ đầu, chính vì vậy  việc kiểm tra đánh giá không được coi trọng đúng mức. Ngay khi kết thúc cuộc thi   nghiên cứu khoa học kĩ thuật thì hoạt động NCKH của học sinh trong năm học đó  không hề được nhắc tới nữa.  7. Thực trạng giáo viên và hoạt động NCKH của học sinh  7.1. Cơ cấu và trình độ đào tạo của giáo viên trường THPT Xuân Hòa Theo thống kê về  cơ  cấu độ  tuổi của đội ngũ giáo viên cho ta thấy lực   lượng giáo viên của các trường THPT Xuân Hòa  còn trẻ. Đội ngũ giáo viên có tuổi  đời dưới 40 tuổi chiếm gần 65%. Trong cơ cấu giáo viên đội ngũ giáo viên trẻ là  lực lượng có nhiệt huyết, đam mê và hăng hái trong việc NCKH, nắm trong tay  công cụ CNTT và ngoại ngữ do đó rất thuận lợi trong vai trò làm giáo viên hướng   dẫn học sinh NCKH. Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên trẻ cũng gặp không ít khó khăn:  kinh nghiệm hướng dẫn học sinh còn hạn chế, bản thân chưa được tập huấn, bồi   dưỡng thường xuyên về NCKH.  Theo thống kê về trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên có thể nhận xét  như sau: Đội ngũ giáo viên 100% đều đạt chuẩn trình độ đào tạo theo quy định của  Luật giáo dục tức là có trình độ đại học. Trong đó, số giáo viên có trình độ trên chuẩn  ở (gần 43%); đây là một thuận lợi lớn trong công tác NCKH.  7.2. Năng lực NCKH của giáo viên Phần lớn giáo viên vẫn cho rằng nhiệm vụ chính của giáo viên là dạy học,   do đó nếu chưa dạy tốt thì chưa thể  tham gia NCKH  được, thậm chí còn coi  19
  20. NCKH là thủ tục hành chính nếu cần mới phải thực hiện. Các đề tài NCKH chiếm  số  lượng rất khiêm tốn. Đối với hình thức NCKH  ở  mức đơn giản hơn là đề  tài   sáng kiến kinh nghiệm cũng chỉ  tập trung vào những cá nhân đăng kí danh hiệu   Chiến sĩ thi đua hoặc giáo viên tham gia thi giáo viên dạy giỏi vòng tỉnh vì 2 đối   tượng này bắt buộc phải có sáng kiến kinh nghiệm được công nhận. Các giáo viên   khác nếu không thuộc 2 diện trên đều không thực hiện đề  tài sáng kiến kinh  nghiệm hoặc đề tài NCKH thể hiện được thành báo cáo.  Phân tích sâu hơn thì  thấy những giáo viên là ngườ i  đã từng tham gia   hướ ng dẫn học sinh NCKH đều có trả  lời đã tự  bồi dưỡ ng các kiến thức về  NCKH (60%) và hướ ng dẫn học sinh NCKH (40%) để  đảm đươ ng nhiệm vụ  đượ c giao. Như  v ậy do nhu c ầu c ủa công việc nên các giáo viên đã tự  chủ  động   bồi   dưỡ ng   bản   thân   bằng   hình   thức   tự   học,   tự   bồi   d ưỡ ng.   Điề u   này  chứng tỏ  một nhu c ầu rất lớn trong độ i ngũ giáo viên là nhu cầu về  kiến thức  NCKH và hướ ng dẫn học sinh NCKH nh ưng hi ện nay m ới ch ỉ  đượ c đáp  ứng   cho đối tượ ng cán bộ quản lý là chủ yếu.  Như vậy có thể đánh giá giáo viên trường THPT Xuân Hòa có quan tâm tới   sáng tạo, nghiên cứu cải tiến đối với những vấn đề liên quan trực tiếp tới công tác   giảng dạy. Tuy nhiên việc bồi dưỡng năng lực NCKH và hướng dẫn học sinh  NCKH lại  chưa  được quan tâm nên dẫn tới bất cập trong thực tiễn là người  hướng dẫn trực tiếp chưa được bồi dưỡng năng lực NCKH nhưng lại phải đảm   đương nhiệm vụ hướng dẫn học sinh NCKH. 7.3. Khó khăn của giáo viên khi hướng dẫn học sinh NCKH Các nguyên nhân gây khó khăn đối với giáo viên khi làm công tác hướng dẫn  học sinh NCKH gồm có: 1) Năng lực nghiên cứu khoa học hạn chế 2) Không có kinh nghiệm hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học 3) Kế hoạch triển khai không rõ ràng 4) Không được phân công nhiệm vụ cụ thể, làm theo ý thích riêng 5) Sự chỉ đạo của cấp trên không rõ ràng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2