intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm KHKT cho học sinh ở trường THPT Phạm Hồng Thái

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:50

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm KHKT cho học sinh ở trường THPT Phạm Hồng Thái" được hoàn thành với mục tiêu nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về hoạt động nghiên cứu KHKT; Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm KHKT của học sinh ở trường THPT Phạm Hồng Thái; Tổ chức thực nghiệm sư phạm để đánh giá năng lực học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm KHKT cho học sinh ở trường THPT Phạm Hồng Thái

  1. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGHỆ AN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Lĩnh vực: TIN HỌC Đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM KHOA HỌC KỸ THUẬT CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT PHẠM HỒNG THÁI SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGHỆ AN
  2. TRƯỜNG THPT PHẠM HỒNG THÁI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Lĩnh vực: TIN HỌC Đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM KHOA HỌC KỸ THUẬT CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT PHẠM HỒNG THÁI Nhóm tác giả: Phạm Ngọc Vĩnh ĐT: 0982.525.789 Nguyễn Thị Nhung Hồng ĐT-0987179399 Nguyễn Thị Oanh ĐT-0945655123 Nghệ An, tháng 4 năm 2024 2
  3. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TT Từ viết tắt Từ đầy đủ 1 BGD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo 2 THPT Trung học phổ thông 3 GV Giáo viên 4 HS Học sinh 5 KHKT Khoa học kỹ thuật 6 NCKHKT Nghiên cứu khoa học kỹ thuật
  4. MỤC LỤC 4
  5. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Sáng tạo khoa học kĩ thuật (KHKT) là một hoạt động giáo dục quan trọng, không chỉ là sân chơi trí tuệ lành mạnh, bổ ích mà còn giúp cho hoạt động đổi mới phương pháp dạy và học trong nhà trường. Nghiên cứu khoa học kỹ thuật là một hoạt động trải nghiệm thiết thực, gắn liền giữa lý thuyết với thực hành và thực tiễn lao động sản xuất. Hoạt động này giúp học sinh phát huy tính sáng tạo, khích lệ, định hướng, tiếp lửa, khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu, sáng tạo của các em học sinh và của giáo viên. Quá trình nghiên cứu KHKT rèn luyện cho học sinh kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, tự kiểm chứng kết quả bằng thực nghiệm vận dụng kiến thức để giải quyết những vấn đề trong thực tiễn đời sống. Từ nghiên cứu của học sinh giáo viên hướng dẫn được nâng cao năng lực của bản thân về những kiến thức liên quan đến các đề tài nghiên cứu khoa học. Từ năm 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 38/2012/TT- BGDĐT ngày 02 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc ban hành Quy chế thi nghiên cứu khoa học, kỹ thuật cấp quốc gia học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông hướng dẫn hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ thuật trong các trường trung học. Từ đó đến nay, hoạt động này đã trở thành hoạt động thường xuyên, liên tục của học sinh trung học trên cả nước, phát triển cả về quy mô, số lượng, chất lượng dự án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nghiên cứu khoa học kỹ thuật của học sinh trong các trường THPT còn nhiều hạn chế. Một số sản phẩm nghiên cứu chưa đáp ứng được yêu cầu về tính thực tiễn, tính mới, tính sáng tạo. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng sản phẩm nghiên cứu khoa học kỹ thuật của học sinh là một yêu cầu cấp thiết cần phải có giáo viên hướng dẫn để đưa ra những định hướng đúng đắn khi hướng dẫn học sinh tham gia cuộc thi nghiên cứu khoa học. Từ năm học 2019-2024 đến nay, bản thân chúng tôi đã hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học và tham gia các cuộc thi KHKT cấp tỉnh đạt kết quả cao, điều đó cho ta thấy được niềm đam mê nghiên cứu của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Từ kinh nghiệm của bản thân nhiều năm tham gia hướng dẫn học sinh tham gia cuộc thi KHKT chúng tôi xin trao đổi cùng đồng nghiệp “Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm KHKT cho học sinh ở trường THPT Phạm Hồng Thái”. 2. Mục đích nghiên cứu - Học sinh gặp khó khăn trong xác định ý tưởng, lựa chọn đề tài, chất lượng sản phẩm và thời gian giành cho nghiên cứu KHKT. Chính vì vậy giáo viên cần định hướng công việc, hỗ trợ kiến thức học sinh khi thực hiện đề tài. 5
  6. - Tìm được các biện pháp cần thiết để nâng cao chất lượng sản phẩm KHKT khi tham dự cuộc thi các cấp. - Thông qua hoạt động của thi KHKT, cho học sinh tìm hiểu về vai trò quan trọng của công tác nghiên cứu KHKT, tìm hiểu một số đề tài KHKT của trường, của tỉnh để các em tiếp cận tới hoạt động nghiên cứu KHKT, tạo sự thích thú, tìm tòi nghiên cứu để các em thấy việc nghiên cứu KHKT không quá khó với khả năng của mình vì đây là sân chơi bổ ích giúp các em áp dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống, học đi đôi với hành; tiếp cận, làm quen với phương pháp, kỹ năng nghiên cứu KHKT, tăng cường trao đổi với nhau, tạo đà cho các bậc học tiếp theo, tạo sự tự tin, tìm tòi và sáng tạo; rèn luyện cách làm việc tự lực. Đây chính là góp phần quan trọng cho công tác đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng phát huy năng lực 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh trương THPT Phạm Hồng Thái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. ̀ 3.2. Phạm vi nghiên cứu: - Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm KHKT của học sinh - Các ý tưởng và các sản phẩm KHKT của học sinh 3.3. Thời gian nghiên cứu: Năm học: 2019-2020; 2020-2021; 2021-2022; 2022-2023; 2023-2024 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về hoạt động nghiên cứu KHKT - Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm KHKT của học sinh ở trường THPT Phạm Hồng Thái. - Tổ chức thực nghiệm sư phạm để đánh giá năng lực học sinh. 5. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu khoa học xây dựng cơ sở lý thuyết. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu kết quả nghiên cứu KHKT của học sinh trước và sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. - Thực nghiệm sư phạm 6. Tính mới và đóng góp của đề tài Đề tài lần đầu tiên được áp dụng thực nghiệm tại trường THPT Phạm Hồng Thái. Đề tài đã khơi dậy niềm đam mê, hình thành cho người dạy, người học những kĩ năng nghiên cứu khoa học kĩ thuật là những điều vô cùng cần thiết. Làm thế nào 6
  7. để việc tự học, tự nghiên cứu của giáo viên và học sinh trở thành một thói quen và cao hơn nữa là một niềm đam mê. Làm thế nào để học sinh không chỉ hứng thú với việc tham gia các hoạt động sáng tạo, nghiên cứu khoa học kĩ thuật mà còn có thể có những công trình sáng tạo, nghiên cứu thiết thực, có giá trị, ý nghĩa thực tiễn cao trong đời sống xã hội. Giải pháp nào để giải quyết tốt nhất với những vấn đề nêu trên? Đó luôn là những câu hỏi thôi thúc với mỗi nhà giáo mỗi học sinh trong nhà trường. Đóng góp của đề tài: - Thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá, giáo dục STEM trong nhà trường, góp phần phát triển phẩm chất, năng lực học sinh . - Khuyến khích học sinh trung học tham gia NCKH, tạo cơ hội để học sinh giới thiệu kết quả NCKH; tăng cường trao đổi giáo dục giữa các trường THPT trên địa bàn. - Chuẩn bị cho học sinh trung học tiếp cận NCKH, định hướng nghề nghiệp và tiềm năng khởi nghiệp sau khi học xong các trường trung học góp phần thực hiện giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông. - Gắn hoạt động NCKH của học sinh với việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, đổi mới phương pháp, hình thức đánh giá kết quả học tập của học sinh, góp phần phát triển phẩm chất, năng lực học sinh - Tạo cơ hội để học sinh trung học giới thiệu kết quả nghiên cứu KHKT của mình; tăng cường trao đổi, giao lưu văn hóa, giáo dục giữa các địa phương và hội nhập quốc tế. 7. Kế hoạch thực hiện đề tài Biện pháp thực Thời gian Nội dung công việc Ghi chú hiện Năm học Lên ý tưởng Thu thập tài liệu 2019 - 2020 Tiếp tục nghiên cứu ý 03/2020 - 9/2023 tưởng năm 2020 Nghiên cứu tài liệu Lập dàn ý, tìm tài liệu 10/2023 - 11/2023 Xác định tên đề tài Tham khảo tài liệu và Tìm hiểu tài liệu, cơ sở lý ý kiến các chuyên gia. luận và thực tiễn. 11/2023 - 12/2023 Viết và hoàn thiện đề Nghiên cứu tài liệu cương 1/2024 - 3/2024 Viết và hoàn thiện Sáng Tiến hành thực nghiệm kiến kinh nghiệm và đánh giá kết quả thực nghiệm PHẦN II: NỘI DUNG 7
  8. 1. Cơ sở lí luận 1.1. Khái niệm về khoa học, khoa học kỹ thuật - Khái niệm khoa học: Hiện nay, người ta đề cập đến khái niệm khoa học ở ba khía cạnh sau: + Khoa học là hệ thống những hiểu biết hoặc tri thức của con người về tự nhiên - xã hội - tư duy, nó tồn tại dưới dạng các lý thuyết, định lý, quy luật, nguyên tắc, phạm trù, tiền đề. + Khoa học là một hình thái ý thức - xã hội thể hiện tồn tại xã hội trong nội dung, mục đích và các chuẩn mực giá trị, các nguyên lý thế giới quan trong triết học và bức tranh chung về thế giới. + Khoa học là một dạng hoạt động lao động của con người, nó ra đời trong quá trình chinh phục giới tự nhiên và khoa học giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của con người. Đó là một hình thức hoạt động đặc thù, là hoạt động nhận thức. Nó ra đời chỉ ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Từ ba khía cạnh trên, chúng ta có thể định nghĩa, khoa học là hệ thống các kiến thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy dựa trên những phương pháp được xác định để thu nhận kiến thức. - Khoa học kỹ thuật (KHKT): + Khoa học là hệ thống các kiến thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy dựa trên những phương pháp được xác định để thu nhận kiến thức. + Kỹ thuật: được hiểu là toàn bộ các thiết bị, phương tiện, máy móc và công cụ vật chất nằm trong tư liệu sản xuất để quản lý, khai thác, bảo quản và chế tạo các sản phẩm dùng cho sản xuất và thỏa mãn các nhu cầu của đời sống xã hội. 1.2. Nghiên cứu khoa học kỹ thuật Nghiên cứu KHKT là hoạt động quan trọng và cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển phong trào nghiên cứu khoa học trong học sinh là một yêu cầu bức thiết nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao tính tự chủ sáng tạo và năng động của HS. Nghiên cứu khoa học là một dạng hoạt động đặc biệt, giúp cho con người tìm kiếm và cải tạo thực tiễn. Đó chính là quá trình sáng tạo, khám phá những quy luật và vận dụng những quy luật đó vào thực tiễn đời sống xã hội. Bởi thế, công tác nghiên cứu khoa học của học sinh hiện nay được các trường phổ thông đặc biệt quan tâm. Cùng với ngành giáo dục nói chung, vấn đề khuyến khích học sinh trung học 8
  9. nghiên cứu KHKT, sáng tạo kĩ thuật, công nghệ và vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn là một trong những mục tiêu được các trường THPT đặt lên hàng đầu nhằm góp phần đổi mới hình thức tổ chức hoạt động dạy học, đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết quả học tập; phát triển năng lực của học sinh, nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. Khai thác hiệu quả tiềm năng của đội ngũ giáo viên hiện có đặc biệt là giáo viên có năng lực và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, giáo viên đã hướng dẫn học sinh KHKT, giáo viên đã thực hiện đề tài KHKT sư phạm ứng dụng. Đối với học sinh, nghiên cứu khoa học là quá trình trải nghiệm từ lý thuyết đến thực tiễn, giúp học sinh bước đầu rèn luyện và nâng cao khả năng tư duy, tự khám phá, tự bồi dưỡng kiến thức khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Học tập là công việc cả đời, nghiên cứu khoa học sẽ giúp học sinh có kiến thức về phương pháp học và tự học, hình thành và hoàn thiện nhân cách, có tư duy tích cực trong nhận thức và hành vi. Đối với công tác đào tạo của nhà trường, nghiên cứu khoa học giúp nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác dạy và học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà trường, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, giúp học sinh từng bước hoàn thiện kiến thức, tiếp cận các vấn đề khoa học một cách thuận lợi hơn. Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi mà KHKT đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia nói chung, của mỗi nhà trường phổ thông nói riêng. 1.3. Vai trò của công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật đối với HS THPT Thứ nhất, NCKH không những giúp học sinh nắm vững kiến thức mà còn tiếp cận nhiều hơn kiến thức mới Mỗi học sinh thi tham gia NCKH đều đòi hỏi phải có nền tảng kiến thức cơ bản, nhưng không chỉ dừng lại ở các kiến thức đó, trong quá trình nghiên cứu còn đòi hỏi người nghiên cứu không ngừng bổ sung, hoàn thiện kiến thức của mình. Do đó việc tìm kiếm và đọc thêm các tài liệu bổ trợ là cần thiết. Điều này tạo cho học sinh kỹ năng nghiên cứu và kiến thức phục vụ cho đề tài của mình sẽ tăng lên. Đồng thời, các bạn có cơ hội được làm việc cùng với giáo viên hướng dẫn nên sẽ được định hướng và chỉ dẫn thấu đáo hơn đối với các vấn đề nghiên cứu. Thứ hai, NCKH giúp học sinh phát triển và rèn luyện các kỹ năng, tư duy sáng tạo, làm việc độc lập và làm việc theo nhóm Khi tham gia nghiên cứu khoa học, học sinh sẽ được tiếp cận với những vấn đề cụ thể, có ý thức đào sâu suy nghĩ và tập cách tư duy để tự nghiên cứu giải quyết một vấn đề. Trong quá trình thực hiện đề tài học sinh sẽ nảy sinh ra nhiều hướng giải quyết khác nhau. Quá trình này sẽ giúp học sinh rèn luyện tư duy độc lập, biết bảo vệ lập trường khoa học của mình. Đối với đề tài khoa học do một nhóm từ hai học sinh trở lên cùng thực hiện thì việc cùng thực hiện một đề tài nghiên cứu cũng giúp học sinh phát triển các kỹ năng làm việc theo nhóm với sự 9
  10. chia sẻ ý thức và trách nhiệm, thêm vào đó là biết phân công công việc phù hợp với khả năng và sở trường của từng thành viên. Thứ ba, phát triển và rèn luyện kĩ năng mềm trong đó có kỹ năng thuyết trình để bảo vệ đề tài nghiên cứu của mình Bên cạnh đó, việc thực hiện và bảo vệ một đề tài nghiên cứu khoa học sẽ rèn giũa cho học sinh kỹ năng diễn đạt, trình bày một vấn đề, kỹ năng thuyết trình, tập cho học sinh phong thái tự tin khi bảo vệ trước hội đồng khoa học. Đây cũng là trải nghiệm rất quý báu và thú vị mà không phải bất kỳ học sinh nào cũng có được trong quãng đời học sinh của mình. Thứ tư, cải thiện vốn tiếng Anh và Tin học Khi tham gia dự án NCKH, các bạn học sinh sẽ được cải thiện them vốn tiếng Anh, viết Code môn Tin học. Kinh nghiệm trong việc đọc, tìm tài liệu, cách trích dẫn tài liệu, tổng hợp phân tích báo cáo. Những điểm thuận lợi này cũng giúp học sinh hình thành các kỹ năng mềm linh hoạt cho sau này. Thứ năm, thiết lập thêm các mối quan hệ mới NCKH tạo môi trường để mở rộng mối quan hệ với bạn bè, anh chị, thầy cô trong trường và các tổ chức, cơ quan bên ngoài xã hội. Nắm trong tay những mối quan hệ tốt đẹp đó cũng là một lợi thế, để các em có thể học hỏi, mở mang tầm kiến thức đa đạng và phong phú hơn, có cơ hội giao lưu với các cựu học sinh, với các anh chị sinh viên hay các doanh nhân, có thể tiếp cận, tham gia các hội thảo khoa học… Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho học sinh sau này. Thứ sáu, xây dựng hành trang cho mình bằng những thành tích đạt được và cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp Bên cạnh những kiến thức và kinh nghiệm thu được thông qua việc nghiên cứu khoa học, học sinh còn tạo dựng được những thành tích tốt trong quá trình học tập. Đồng thời, những đề tài đạt giải được nhà trường và các tổ chức trong xã hội khen thưởng. Đây cũng là cách thức giúp xây dựng hành trang trước khi tốt nghiệp của mình. Với những thành tích đạt được trong quá trình học tập, những học sinh tích cực NCKH sẽ được các tổ chức, các trường Đại học, cao đẳng ưu tiên, các trường dạy nghề quan tâm, đầu tư trong quá trình học tập hoặc tạo cơ hội việc làm sau khi ra trường. 1.4. Quy trình thực hiện nghiên cứu khoa học kỹ thuật 1.4.1. Xác định đề tài nghiên cứu Muốn lựa chọn được một đề tài cần phải có ý tưởng hay, có tính khả thi, thực tiễn; GV cần chú trọng quan tâm vào việc giúp học sinh hình thành những ý tưởng khoa học kỹ thuật. Để làm được điều này, khi triển khai cuộc thi về từng lớp, mỗi giáo viên cần đưa ra một số gợi ý, định hướng cho học sinh về các lĩnh vực nghiên cứu phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội của gia đình và địa phương; 10
  11. gợi ý cho học sinh phát triển ý tưởng từ một số dự án đã được thực hiện trước đó. Trên cơ sở những định hướng từ giáo viên, học sinh sẽ tư duy và tìm tòi những ý tưởng, giải pháp mới, gắn liền với thực tiễn cuộc sống, từ đó hình thành nên dự án khoa học, kỹ thuật. Thời gian để học sinh hình thành dự án và đưa ra được những kế hoạch nghiên cứu ban đầu có thể cần khoảng một tuần đến một tháng. Sau khi thu thập các ý tưởng của học sinh, giáo viên sẽ nghiên cứu và lựa chọn những dự án có tính mới, tính khả thi để triển khai hướng dẫn học sinh nghiên cứu. 1.4.2. Lập kế hoạch thực hiện Việc lập kế hoạch nghiên cứu nhằm quản lí tốt quỹ thời gian cũng như kiểm soát được tiến độ thực hiện một cách khoa học. 1.4.3. Nghiên cứu tài liệu, xây dựng giả thuyết Việc đầu tiên cần phải làm tốt trong một đề tài nghiên cứu là tìm kiếm tài liệu. Để học sinh làm tốt công việc này, giáo viên hướng dẫn cần định hướng cho học sinh tìm những tài liệu gì, tìm ở đâu và sắp xếp chúng như thế nào. Giáo viên cũng có thể cung cấp tài liệu và yêu cầu học sinh nghiên cứu, sắp xếp những thông tin có được một cách khoa học (theo dàn ý lập sẵn) nếu những tài liệu đó khó tìm kiếm. Giáo viên cũng cần lưu ý cho học sinh những thông tin tìm kiếm được phải xuất phát từ các nguồn tin chính thống (các bài báo, sách, tạp chí) có tác giả rõ ràng. Khi muốn lấy thông tin từ tài liệu nào, học sinh cần lưu tên tác giả, tên bài (báo, sách), nơi xuất bản, năm xuất bản, số thứ tự trang tài liệu,… Việc xây dựng giả thuyết khoa học là rất quan trọng, nó thể hiện mong muốn của tác giả về những thành quả sẽ đạt được từ dự án, thể hiện mức độ, phạm vi nghiên cứu của dự án. Sau khi nghiên cứu tài liệu và xây dựng giả thuyết, học sinh sẽ tiến hành viết đề cương nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo viên. 1.4.4. Thu thập số liệu, xử lí thông tin, triển khai thực hiện dự án Đây là công việc trọng tâm của một dự án khoa học kỹ thuật. Từ kế hoạch nghiên cứu đã lập ra, học sinh bắt đầu tiến hành các giai đoạn thu thập thông tin, số liệu từ các tài liệu đã đọc, xử lý thông tin, tiến hành thực nghiệm, thử nghiệm. Để học sinh làm tốt công việc này, giáo viên hướng dẫn cần đề ra các bước làm cụ thể, hướng dẫn học sinh cách thu thập số liệu thực nghiệm, cách xử lí số liệu và phải yêu cầu học sinh ghi chép kết quả thực nghiệm một cách chi tiết, tỉ mỉ và cẩn thận. Việc thu thập số liệu thực nghiệm cần có hệ thống, có quy luật chặt chẽ, nêu ra các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị của số liệu thực nghiệm. Từ tập hợp số liệu thu thập được, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích để tìm ra quy luật, công thức chung hoặc tìm ra giá trị thực nghiệm tốt nhất. 1.4.5. Viết báo cáo kết quả nghiên cứu 11
  12. Đây là công việc cuối cùng để hoàn thiện một dự án khoa học kỹ thuật trước khi dự án được gửi để tham gia cuộc thi. Một báo cáo tốt sẽ thể hiện được những kết quả đã đạt được của dự án, mức độ, phạm vi của dự án và sự cố gắng của những người thực hiện dự án. Đa số học sinh sẽ gặp khó khăn trong việc viết báo cáo kết quả nghiên cứu, vì vậy cần có sự hướng dẫn chi tiết của giáo viên. 1.4.6. Báo cáo và trưng bày sản phẩm Một dự án khi được tham gia cuộc thi cấp tỉnh trở lên cần có: - Sản phẩm hoàn chỉnh - Tóm tắt báo cáo dự án: được viết sau khi dự án hoàn thành. Đó là một bản tóm tắt ngắn gọn để thông báo cho người đọc những gì dự án đã thực hiện được. - Poster và các hình ảnh giới thiệu dự án: trên poster cần thể hiện được các nội dung sau: + Tên dự án, tên lĩnh vực, tên tác giả (nhóm tác giả), tên trường + Lý do chọn dự án + Mục tiêu của dự án + Phương pháp, cách tiến hành thực nghiệm + Kết quả thực nghiệm (bảng số liệu, biểu đồ, hình ảnh quá trình thực nghiệm của học sinh, …) + Kết luận + Hướng phát triển của dự án - Bài thuyết trình về dự án: Việc học sinh thuyết trình về quá trình thực hiện và kết quả của dự án là rất quan trọng, một bài thuyết trình tốt là cách nhanh nhất để đưa người xem đến gần hơn với dự án của tác giả. Sau đây là một số điểm chính để có một bài thuyết trình tốt: + Chuẩn bị tâm lí tích cực và tự tin trước khi thuyết trình + Hiểu rõ và sâu sắc về dự án của mình hoặc nhóm mình thực hiện + Luyện tập thuyết trình nhiều lần trước cuộc thi, đặc biệt người hướng dẫn phải là người trực tiếp chỉnh sửa nội dung thuyết trình cho học sinh, đặt ra một số câu hỏi tình huống để học sinh tập trả lời + Cố gắng thoát li kịch bản + Thuyết trình có ngữ điệu, có trọng tâm, tránh dàn trải + Mặc trang phục phù hợp, gọn gàng 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng chung về công tác nghiên cứu khoa học và việc hướng dẫn học sinh thi KHKT hiện nay tại các trường THPT 12
  13. Hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trong các trường phổ thông đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm qua, có thể nói hiện nay nó là một chủ đề mang tính tiềm năng nhưng còn nhiều điều hạn chế. Tính tiềm năng ở chỗ học sinh là một lực lượng còn rất trẻ nhưng cũng đầy nhiệt huyết, dám nghĩ dám làm, có thời gian và trí sáng tạo không ngừng được phát triển dưới mái trường THPT. Tuy nhiên một bộ phận cán bộ quản lí, giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của nghiên cứu khoa học đối với việc đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh, khi học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường thì thời gian dành cho việc nghiên cứu KHKT là rất ít và đang còn phụ thuộc vào gia đình. Gần đây đại diện Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo thừa nhận tỉ lệ học sinh nghiên cứu khoa học vẫn còn thấp, chất lượng nhiều đề tài chưa cao, chưa bám sát yêu cầu của đời sống. Nguyên nhân mẫu chốt của vấn đề này là do kinh phí hỗ trợ cho học sinh nghiên cứu khoa học còn thấp, nhiều trường thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất, thiếu cán bộ giáo viên hướng dẫn, chưa có chính sách động viên và khuyến khích thầy cô đóng góp tích cực trong nghiên cứu khoa học. Vấn đề ở chỗ làm thế nào để hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học kĩ thuật có hiệu quả? Đây là câu hỏi mà không ít giáo viên của các nhà trường hiện nay còn đang trăn trở. Đã có những văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh, song vẫn có sự trì trệ, vẫn có những rào cản? Đây là do nhận thức của học sinh chưa hiểu rõ tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học hay vì những nguyên nhân gì khác? Theo nghiên cứu của chúng tôi, có thể kể ra các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Do nghiên cứu khoa học thực sự là công việc khó Nghiên cứu khoa học là một hoạt động đặc biệt, nó là lao động của các lao động. Nó đặc biệt ở chỗ, đó là công việc tìm kiếm và khám phá những điều chưa biết, kết quả tìm kiếm ra sao cũng không thể dự đoán chi tiết chính xác được. Do đó nếu lấy kết quả sản phẩm cuối cùng để đánh giá thì khó thỏa đáng. Hơn nữa việc nghiên cứu khoa học đối với học sinh mới trên cơ sở là ý tưởng chưa có phương pháp nghiên cứu. Đa số học sinh thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thực tế, do vậy các em không biết bắt đầu từ đâu, mục đích nghiên cứu để làm gì và sử dụng công cụ phương pháp nghiên cứu nào có hiệu quả nhất … Thứ hai: Do nhận thức của học sinh và hạn chế từ phương pháp giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Thứ ba: Do tài chính Vấn đề tài chính luôn là bài toán nan giải đối với việc nghiên cứu khoa học, thực tế cho thấy có rất nhiều các chi phí như: chi phí cho việc tìm kiếm (mua dữ liệu), chi phí cho mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ chạy thử, chi phí cho in ấn, chi phí cho điều tra khảo sát, chi phí thông tin liên lạc … 13
  14. Công tác xã hội hóa để tạo nguồn kinh phí dành cho KHKT trong trường còn hạn chế. Thứ tư: Do thời gian bị hạn chế Nhiệm vụ chính của học sinh là học tập, lịch học của từng học kỳ khá nhiều, do đó việc phân chia thời gian cho học tập và cho nghiên cứu khoa học càng khó khăn. Từ đó, cho thấy học sinh trường phổ thông hiện nay chưa thật sự thấy được tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với hoạt động học tập và công tác chỉ đạo, hướng dẫn học sinh nghiên cứu KHKT của nhà trường chưa có sự đầu tư cũng như tích cực tham gia vào hoạt động này. 2.2. Thực trạng nghiên cứu khoa học, thi KHKT của học sinh tại trường THPT Phạm Hồng Thái Hiện nay học sinh trường THPT Phạm Hồng Thái có thể tiếp cận với lý luận và kiến thức thực tiễn thông qua nhiều cách thức phong phú, đa dạng. Trong số đó, thực hiện nghiên cứu khoa học được đánh giá là phương pháp hiệu quả để học sinh mở rộng vốn kiến thức cũng như vốn kỹ năng mềm của bản thân; là cơ hội để học sinh áp dụng những kiến thức lý thuyết đã học vào việc giải quyết những vấn đề thực tiễn. Trên cơ sở chủ trương phát động của Bộ GD&ĐT từ năm 2012 về cuộc thi KHKT, tại trường THPT Phạm Hồng Thái luôn xác định Hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh được thực hiện nhằm ba mục đích đó là: Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo; Tiếp cận và vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học; Giải quyết một số vấn đề khoa học và thực tiễn. Hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh được thể hiện qua những đề tài nghiên cứu khoa học ở gia đình, lớp học, nhà trường. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới, hội nhập về giáo dục và đào tạo, xây dựng và phát triển phong trào nghiên cứu khoa học trong học sinh là một yêu cầu bức thiết nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao tính tự chủ sáng tạo và năng động, một tố chất rất cần thiết nhưng lại rất hạn chế trong trình độ học sinh hiện nay nói chung và học sinh Trường THPT Phạm Hồng Thái nói riêng. 2.3. Điều tra khảo sát về công tác nghiên cứu khoa học và việc hướng dẫn học sinh thi KHKT hiện nay tại các trường THPT Để khảo sát thực trạng nghiên cứu khoa học và hưởng ứng cuộc thi KHKT của HS trường THPT Phạm Hồng Thái, chúng tôi đã làm một cuộc khảo sát ngẫu nhiên đối với các GV trường THPT Phạm Hồng Thái và thu được kết quả như sau: 14
  15. Qua phân tích kết quả trên chúng ta thấy rằng: có tới 100% GV cho rằng việc nghiên cứu KHKT là cần thiết đối với HS; 92,5% GV đã thường xuyên tổ chức cho HS “Tìm kiếm ý tưởng khoa học” và tập dượt cho HS nghiên cứu khoa học; 98% GV đã quan tâm đến hoạt động NCKH, cuộc thi KHKT cho HS; các giải pháp mà chúng tôi đã tiến hành có từ 56,6% đến 83% GV cho là phù hợp; có tới trên 65% GV cho rằng khi tham gia NCKH đã rèn luyện cho HS các năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, giao tiếp hợp tác, … Link tham khảo: https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLScpPKd_VeGqhtpG09MndRk Mht3_UosOu4OuGhcBqGEMZY8bWw/viewform?usp=sf_link 3. Những giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu KHKT và cuộc thi KHKT cho học sinh THPT 3.1. Những giải pháp chung - Cần phân tích, đánh giá về các dự án khoa học kĩ thuật của học sinh trong những năm vừa qua để làm rõ những mặt đã đạt được, những điểm còn hạn chế, từ đó xác định những định hướng nhằm nâng cao chất lượng khoa học, đáp ứng được 15
  16. yêu cầu của trình độ phát triển khoa học trên thế giới. - Nhằm định hướng cụ thể hơn cho học sinh trong việc lựa chọn hướng nghiên cứu và xác định được vấn đề nghiên cứu, các nhà trường, giáo viên, các nhà khoa học cần quan tâm, giúp đỡ học sinh tìm hiểu về những vấn đề khoa học, kĩ thuật đang được đặt ra, đang được thế giới quan tâm, tìm hiểu sâu về các hướng nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học và mức độ yêu cầu của kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước. - Các nhà trường, giáo viên và học sinh cần chủ động liên hệ với các trường đại học, viện nghiên cứu và các tổ chức khoa học công nghệ để tìm hiểu về những hướng nghiên cứu đang triển khai trong các trường đại học, viện nghiên cứu; tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức khoa học công nghệ: cán bộ hướng dẫn khoa học, tham gia các đề tài khoa học kĩ thuật, cơ sở vật chất, thiết bị, phòng thí nghiệm...; - Các giáo viên và các nhà khoa học tham gia hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học cần phải xác định quy trình hợp lí và sử dụng đúng các phương pháp hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học kĩ thuật, nhằm phát huy cao nhất tự tự lực, sáng tạo của học sinh. - Xác định và thực thi những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học kĩ thuật của học sinh trong trường phổ thông cũng như chất lượng của Cuộc thi khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học. - Đưa hoạt động trải nghiệm sáng tạo khoa học kĩ thuật của học sinh trở thành một thành phần chính thức trong chương trình giáo dục phổ thông, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp nghiên cứu khoa học. - Liên hệ với các cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu hỗ trợ học sinh về chuyên môn, người hướng dẫn khoa học, cơ sở vật chất, thiết bị, phòng thí nghiệm cho học sinh nghiên cứu khoa học. - Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức khoa học, công nghệ lựa chọn các sản phẩm nghiên cứu của học sinh để đầu tư, phát triển thành các sản phẩm có thể sản xuất đại trà và đưa vào sử dụng trong thực tiễn. 3.2. Những giải pháp cụ thể 3.2.1. Đối với nhà trường - Cần nhận thức rằng, nghiên cứu khoa học kỹ thuật của học sinh là một trong những hoạt động trải nghiệm sáng tạo, góp phần quan trong vào việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, hướng tới hình thành và phát triển năng lực cho học sinh; - Tăng cường tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của giáo viên, đồng thời qua đó nâng cao năng lực cho giáo viên về phương pháp hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học. - Tổ chức dạy học chuyên đề Nghiên cứu khoa học (như một hoạt động trải 16
  17. nghiệm sáng tạo, có thể thay cho giáo dục nghề phổ thông) - Thành lập Hội đồng tư vấn khoa học; - Thành lập Câu lạc bộ nghiên cứu khoa học kỹ thuật và có cơ chế hỗ trợ về pháp lý và điều kiện để các câu lạc bộ này hoạt động; - Tổ chức cuộc thi ý tưởng khoa học; - Các ý tưởng được lựa chọn đều được khuyến khích triển khai nghiên cứu; Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ thuật; Hỗ trợ khai thác các nguồn lực xã hội. 3.2.2. Đối với giáo viên - Cần tạo dựng môi trường nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, có tính cạnh tranh dành cho học sinh, dưới sự hướng dẫn, tạo điều kiện tối đa của giáo viên và nhà trường; - Cần khuyến khích, tạo động lực cho học sinh tham gia tích cực những hoạt động nghiên cứu khoa học thông qua việc biểu dương thành tích tại các cuộc thi khoa học ở các cấp. - Cần định hướng cho học sinh lựa chọn những đề tài phù hợp với thực tiễn, trình độ kiến thức và phù hợp với sự đam mê của các em. - Tăng cường các điều kiện phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh bằng cách đầu tư hệ thống thông tin thư viện, phương tiện kỹ thuật hiện đại để hỗ trợ cho học sinh trong việc tìm kiếm, thu thập tài liệu, thông tin. - Tạo điều kiện để những thành tựu, kết quả nghiên cứu khoa học có chất lượng của học sinh được áp dụng vào thực tiễn; tạo động lực cho học sinh tích cực thực hiện những nghiên cứu khoa học vừa mang tính lý luận vừa mang tính ứng dụng thực tiễn. - Thiết kế các bài học theo định hướng tìm tòi nghiên cứu (theo các phương pháp dạy học tích cực như: phương pháp "Bàn tay nặn bột", "Dạy học dựa trên dự án", "Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi - nghiên cứu", "Dạy học giải quyết vấn đề", “Dạy học theo định hướng STEM” ..., qua đó hình thành các kỹ năng nghiên cứu cho học sinh; - Chú trọng tính ứng dụng thực tiễn trong mỗi bài dạy; - Kết hợp với các giáo viên khác xây dựng các chủ đề dạy học tích hợp liên môn; - Tạo tâm thế thoải mái, chấp nhận các suy nghĩ khác biệt và khuyến khích học sinh nêu vấn đề, đặt câu hỏi nghiên cứu; - Nhạy bén trong phát hiện và hoàn thiện ý tưởng nghiên cứu từ những câu hỏi, phát biểu, thắc mắc của học sinh; là hiện thân của người làm nghiên cứu, nắm vững được các dự án nghiên cứu trong các cuộc thi hàng năm. 17
  18. 3.2.3. Đối với học sinh: - Học sinh nhận thức được rằng: Nghiên cứu khoa học là một phương pháp học tập tốt nhất (tự lực, chủ động, tích cực, khoa học, hứng thú, say mê); từ đó, có ý thức tự giác, nghiêm túc và kiên trì theo đuổi thực hiện thành công những đề tài nghiên cứu mà mình đã lựa chọn. - Kích thích tính tò mò khoa học, rèn luyện thói quen quan sát, đặt câu hỏi, không chấp nhận những điều còn mơ hồ; - Nắm vững các phương pháp nghiên cứu khoa học và tuân thủ các phương pháp, quy tắc trong quá trình nghiên cứu; - Mạnh dạn và tự tin trao đổi, hỏi, tìm kiếm các nguồn lực hỗ trợ trong suốt quá trình thực hiện đề tài; - Tự mình thực hiện các đề tài nghiên cứu trên cơ sở định hướng, trợ giúp từ thầy cô, nhà trường, và xã hội. - Đảm bảo an toàn kỹ thuật, an toàn về điện trong quá trình thực hiện dự án. 4. Một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng sản phẩm KHKT cho học sinh 4.1. Công tác chỉ đạo của BGH nhà trường Xác định hoạt động nghiên cứu khoa học là một hoạt động có tính chiến lược, quan trọng bậc nhất trong các hoạt động giáo dục của nhà trường. Vì vậy, ngay khi bước vào năm học mới, trong kế hoạch năm học ban giám hiệu nhà trường xác định hoạt động sáng tạo nghiên cứu khoa học kĩ thuật là nhiệm vụ quan trọng góp phần đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh, gắn kết việc học với thực hành giải quyết những tình huống thực tiễn trong đời sống. Nhà trường thành lập ban chỉ đạo hoạt động sáng tạo, nghiên cứu khoa học kĩ thuật gồm 2 đồng chí Phó hiệu trưởng là đồng chí Phan Thị Minh Hiền và Từ Viết Thái, trưởng các đoàn thể và một số đồng chí có năng lực chuyên môn, tiêu biểu trong các hoạt động đổi mới phương pháp dạy học, tâm huyết và nhiệt tình trong hoạt động (thầy Đỗ Ngọc Lâm giáo viên Toán học, thầy Võ Tiến Văn giáo viên Sinh học và cô Nguyễn Thị Mỹ Dung giáo viên Giáo dục công dân…). Ban chỉ đạo trực tiếp tham mưu với Hiệu trưởng, xây dựng kế hoạch đảm bảo hiệu quả công tác tuyên truyền, tập huấn (tập huấn theo chuyên đề, sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn qua trường học kết nối...), tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học kĩ thuật trong dạy học và trực tiếp tham gia các cuộc thi liên quan của cấp trên phát động như Cuộc thi Sáng tạo dành cho thanh thiếu niên nhi đồng; Cuộc thi Khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học phổ thông. Ban chỉ đạo chủ động lập kế hoạch chi tiết, phân công các giáo viên có chuyên môn đóng vai trò là ban cố vấn, hỗ trợ, giúp đỡ học sinh từ việc lựa chọn đề tài, dự án khoa học cho đến việc định hướng cách tổ chức nghiên cứu, tiến hành 18
  19. thực nghiệm và viết thu hoạch sau khi tiến hành hoạt động sáng tạo, nghiên cứu. Kết quả này có thể đơn giản là những đề tài nhỏ của các em khi nghiên cứu về một dạng bài tập trong một môn học mà em yêu thích hoặc có thể là một giải pháp kĩ thuật sáng tạo hỗ trợ cho quá trình học tập và lớn hơn là các sản phẩm dự án khoa học kĩ thuật để tham dự các cuộc thi các cấp. Ban chỉ đạo, ban cố vấn thường xuyên kiểm tra, bám sát tiến độ của hoạt động sáng tạo, nghiên cứu khoa học kĩ thuật đã triển khai, đồng thời cũng cần kịp thời hỗ trợ cho giáo viên và học sinh khi gặp phải những khó khăn trong quá trình hoạt động. Giải pháp này giúp ban giám hiệu có được sự tham mưu, hỗ trợ tốt nhất để nắm bắt về mảng hoạt động này, từ đó có những sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời và hiệu quả nhất. Cùng với đó giải pháp này cũng giúp giáo viên có sự chủ động hơn, có những mối liên hệ tốt hơn về chuyên môn với các đồng nghiệp, với ban chỉ đạo. Như vậy có thể kịp thời tìm ra được giải pháp, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc gặp phải trong suốt quá trình tham gia hoạt động. Cụ thể: Trường THPT Phạm Hồng Thái, sau khi có được kế hoạch của Sở Giáo dục - Đào tạo thì nhà trường căn cứ vào kế hoạch của Sở, Ban chỉ đạo chúng tôi lập kế hoạch chi tiết cho công tác nghiên cứu KHKT. Để có một sản phẩm chất lượng, hiệu quả thì lên kế hoạch cụ thể là rất quan trọng. Vì vậy hằng năm sau khi có kế hoạch của Sở Giáo dục thì nhà trường căn cứ vào kế hoạch của Sở để lên kế hoạch chi tiết cho công tác KHKT. - Đầu tháng 8 họp hội đồng giao nhiệm vụ cho trưởng ban. - Đầu tháng 9 khi học sinh tựu trường nhà trường tổ chức tuyên truyền về mục tiêu, vai trò của KHKT, lợi ích của học sinh khi tham gia KHKT đến giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh và cộng đồng xã hội vào buổi chào cờ hoặc buổi sinh hoạt tập thể và họp phụ huynh nhà trường. - Tổ chức tìm hiểu, phổ biến các quy định, hướng dẫn của Bộ, Sở GD-ĐT về cuộc thi. - Trong tháng 9 cho học sinh đăng ký tên đề tài và bản dự kiến kế hoạch công việc tham gia thi KHKTcấp trường. - Trong tháng 9 Ban chỉ đạo cuộc thi sẽ họp với giáo viên hướng dẫn và học sinh để thống nhất tên đề tài và kế hoạch triển khai làm các sản phẩm dự thi KHKT cấp trường. - Tháng 11 Ban chỉ đạo chúng tôi đã tiến hành tổ chức cuộc thi KHKT cấp trường. Trước khi tổ chức cuộc thi, Hội đồng KHKT cần ban hành các văn bản chỉ đạo, như: Hướng dẫn tham gia cuộc thi, Quyết định thành lập Hội đồng thi, Biểu điểm (mẫu phiếu chấm điểm) để đánh giá các dự án... 19
  20. Sau đó, lựa chọn thời điểm phù hợp, căn cứ theo hai yếu tố chính là thời gian phát động cuộc thi và thời gian Sở GD&ĐT tổ chức cuộc thi cấp tỉnh. Cần đảm bảo rằng học sinh đã có đủ thời gian để hoàn thiện dự án, sẵn sàng tham gia để cuộc thi diễn ra có chất lượng. Mặt khác, thời gian từ sau cuộc thi cấp trường đến cuộc thi cấp tỉnh phải đủ để những dự án được lựa chọn dự thi có thể chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện đạt chất lượng tốt nhất. Với quy mô của một cuộc thi KHKT cấp trường, để tránh gây tốn kém lãng phí thì có thể tập trung đánh giá về mặt ý tưởng sáng tạo, tính mới của ý tưởng,... mà không đặt nặng về yêu cầu hoàn thiện sản phẩm. Tuy nhiên, nếu trước khi tổ chức cuộc thi mà đã thực hiện tốt việc phê duyệt dự án, kiểm tra tiến độ,... nhận thấy các dự án được đầu tư nghiêm túc thì vẫn có thể đặt ra yêu cầu cao hơn, tiệm cận với các yêu cầu của một cuộc thi KHKT cấp tỉnh. Sơ kết cuộc thi KHKT cấp trường để đánh giá sơ bộ về hoạt động nghiên cứu KHKT của học sinh. Qua đó, trao thưởng cho các dự án đạt giải để ghi nhận công sức, trí tuệ của học sinh. Đồng thời lấy kết quả đó làm một trong các tiêu chí để đánh giá thi đua của các tập thể lớp nhằm tạo động lực để nâng cao tinh thần học tập và sáng tạo của học sinh. Cuối cùng, ban tổ chức công bố các dự án được giới thiệu tham dự Cuộc thi KHKT cấp tỉnh. Hình ảnh ban giám khảo trường THPT Phạm Hồng Thái chấm KHKT 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2