intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 12 môn Địa lí trường THPT Yên Thành 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:53

19
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm nghiên cứu lý luận dạy học nói chung và thực tiễn việc dạy học Địa lí ở trường THPT nói riêng, đề tài tập trung khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tự học, đặc biệt trong việc ôn thi tốt nghiệp THPT; Đề xuất một số biện pháp phát triển năng lực tự học, giúp học sinh ôn tập tốt nghiệp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 12 môn Địa lí trường THPT Yên Thành 2

  1. SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2 =====  ===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIỆC THỰC HIỆN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 12 MÔN ĐỊA LÍ TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2 LĨNH VỰC : ĐỊA LÍ Giáo viên thực hiện : Nguyễn Văn Cường- Phan Văn Cảnh Tổ : Khoa học xã hội Năm học : 2022 – 2023 Yên Thành – 04/2023
  2. MỤC LỤC
  3. Nội dung Trang PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 2 5. Những điểm mới và đóng góp của đề tài 3 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 4 1. Cơ sở lí luận 4 2. Cơ sở thực tiễn 6 2.1. Thực trạng của vấn đề 6 2.2. Nguyên nhân của thực trạng 8 3. Giải pháp khắc phục thực trạng 11 3.1. Giải pháp 1: Hình thành động cơ học tập Địa lí cho học sinh 11 3.2. Giải pháp 2: Đa dạng hóa các hình thức hướng dẫn học sinh 15 nhằm phát huy năng lực tự chủ và tự học 3.3. Giải pháp 3: Sử dụng linh hoạt các hình thức đánh giá hoạt 28 động tự học của học sinh 3.4. Giải pháp 4: Thường xuyên khích lệ, động viên, khen thưởng 32 học sinh 4. Khảo sát tính khả thi và cấp thiết 34 4.1. Mục đích khảo sát 34 4.2. Nội dung và phương pháp khảo sát 34 4.3. Đối tượng khảo sát 35 4.4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải 35 pháp đề xuất 5. Kết quả thực hiện 36 PHẦN III. KẾT LUẬN 39 1. Kết luận 39 2. Ý nghĩa của đề tài 40 3. Kiến nghị, đề xuất 40 TÀI LIỆU THAM KHẢO 42 PHỤ LỤC 43
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT Nội dung Viết tắt 1 Trung học phổ thông THPT 2 Giáo viên GV 3 Học sinh HS
  5. 4 Nhà xuất bản NXB 5 giáo dục phổ thông GDPT 6 Công nghệ thông tin CNTT 7 Trung học cơ sở THCS 8 Nghiên cứu khoa học NCKH 9 Phương pháp, kĩ thuật dạy học PP, KTDH
  6. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một ngước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Quả đúng như vậy. Từ xưa đến nay, ở Việt Nam giáo dục luôn được coi là quốc sách hàng đầu, là động lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Mục tiêu chung của nền giáo dục nước ta là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” để phục vụ đất nước trong thời đại mới. Xuất phát từ yêu cầu đó, tháng 12 năm 2018 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình giáo dục phổ thông mới đặt ra sự cần thiết phải đổi mới về chương trình các môn ở các cấp học để phát huy phẩm chất, năng lực học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông mới hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực chung thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo và những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhấtđịnh: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất. Môn Địa lí THPT giúp học sinh phát triển năng lực chung và các năng lực Địa lí đã được học sinh hình thành ở cấp THCS; góp phần giáo dục tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, các phẩm chất, năng lực của người công dân Việt Nam, công dân toàn cầu phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; giúp học sinh nhận thức và nhận thức rõ vai trò, đặc điểm của khoa học Địa lí cũng như sự kết nối giữa Địa lí học với ngành nghề khác, tạo cơ sở để học sinh định hướng nghề nghiệp trong tương lai. Có thể nói rằng: Địa lí vốn là môn học có kiến thức gắn liền với thực tiễn, thay đổi hàng ngày theo sự phát triển của xã hội, cho nên địa lí thực sự gần gũi và có vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan cho học sinh. Tuy nhiên hiện nay, học sinh phổ thông còn chưa thực sự dành nhiều thời gian cho việc tự học, chưa phát triển hết năng lực tự học vốn có của bản thân. Các em chưa hiểu được rằng: Đây là năng lực chung đầu tiên và quan trọng nhất (là năng lực thể hiện trong quan hệ với bản thân) nếu không có năng lực này thì có lẽ các năng lực tiếp theo rất khó để có thể phát triển. Bởi lẽ, nếu học sinh không phát huy được năng lực nội tại trong bản thân mình thì làm sao phát huy được năng lực giao tiếp và hợp tác với người khác và năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo trong công việc. Đó là năng lực mà chỉ có chính bản thân học sinh tự rèn luyện mới có được, không một ai có thể cung cấp hay làm thay. Thực tế đã chứng minh, mỗi thành công của học sinh trên con đường học tập không là kết quả của lối học tập 1
  7. thụ động. Mặt khác, giáo viên đôi khi ít quan tâm đến phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh. Đó chỉ là sự nhắc nhở, dặn dò chung chung mà chưa đi vào sự hướng dẫn cụ thể, chưa yêu cầu các em phải tìm hiểu cái gì, nó như thế nào, học sinh phải tạo ra sản phẩm gì, đánh giá sản phẩm đó ra sao. Nhận thức được tầm quan trọng của năng lực tự học với mỗi học sinh trong hiện tại và cả tương lai nhằm việc nâng cao chất lượng dạy học địa lí nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung cũng như góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông. Tôi mạnh dạn đề xuất: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 12 môn Địa lí trường THPT Yên Thành 2” 2. Mục đích nghiên cứu - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận dạy học nói chung và thực tiễn việc dạy học Địa lí ở truờng THPT nói riêng, đề tài tập trung khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tự học, đặc biệt trong việc ôn thi tốt nghiệp THPT. - Đề xuất một số biện pháp phát triển năng lực tự học, giúp học sinh ôn tập tốt nghiệp . - Giải quyết được các dạng câu hỏi trong ma trận đề thi của Bộ theo 4 mức độ. 3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu - Phạm vi của đề tài là đưa ra các phương pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh, đồng thời hướng dẫn học sinh ôn tập tốt nội dung kiến thức và thực hành trả lời các câu hỏi trắc nghiệm phần Địa lí Việt Nam theo 4 mức độ. - Đối tượng của đề tài là: hướng dẫn học sinh lớp 12 phát triển năng lực tự học, ôn luyện và làm tốt các câu hỏi trắc nghiệm ở 4 mức độ 4. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu lí thuyết: + Nghiên cứu tài liệu về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước trong công tác giáo dục. + Nghiên cứu các tài liệu về lí luận, phương pháp dạy học, chương trình nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu ôn thi trắc nghiệm THPT Quốc gia, sách bồi dưỡng học sinh giỏi ,các đề thi học sinh giỏi tỉnh, Quốc gia, THPT Quốc gia và các tài liệu liên quan khác. - Phương pháp điều tra: Thông qua hình thức dự giờ, quan sát, trưng cầu ý kiến, tiếp xúc trao đổi với giáo viên, học sinh để tìm hiểu thực trạng về khả năng tự học của học sinh và mức độ trả lời các câu hỏi trong ma trận phần Địa lí Việt Nam. 2
  8. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra giả thuyết khoa học của đề tài. - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Để hệ thống kiến thức tự luận nâng cao cho học sinh vận dụng vào làm câu hỏi trắc nghiệm mức độ khó cần phải sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp các bài, chương, phần học trong Sách giáo khoa. 5. Những điểm mới và đóng góp của đề tài - Hệ thống nội dung kiến thức phần Địa lí Việt Nam để các em chinh phục các câu hỏi trắc nghiệm ở 4 mức độ. - Phát triển năng tực tự học, hình thành kĩ năng tự học không chỉ đối với bộ môn Địa lí mà còn đối với các môn học khác. Trên cơ sở hình thành năng lực chung, phát triển các năng lực chuyên biệt đối với môn Địa lí. - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học, xem đối tượng người học là trung tâm, thay đổi tư duy, lối học thụ động của học sinh. Bản thân giáo viên cũng không ngừng phải tự học, tự nghiên cứu để năng cao chất lượng dạy và học. Đề tài đã áp dụng năng lực của CTGDPT mới vào chương trình giáo dục phổ thông hiện hành. Thay vì chú trọng ý thức tự học bài cũ của học sinh trong các đề tài trước đây thì đề tài: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 12 môn Địa lí trường THPT Yên Thành 2” đã chú trọng tới phát triển cả năng lực tự học, tự hoàn thiện của HS ở cả trong nội dung bài cũ cũng như bài mới với nhiều nội dung hướng dẫn tự học đa dạng và phong phú như: phiếu bài tập, sơ đồ, bài thuyết trình tập san ảnh, video mô hình, trò chơi học tập trên điện thoại hay máy tính như Quizizz... Ngoài ra đề tài còn đề cập thêm thành tố tự chủ như: tự lực, tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của học sinh hay khả năng thích ứng với cuộc sống và định hướng nghề nghiệp của các em sau này. Đề tài còn đưa ra các giải pháp động viên, khen thưởng học sinh như phiếu khen, tặng quà… để phát triển năng lực tự học cũng như các năng lực chung và năng lực đặc thù khác, góp phần tạo hứng thú học tập, nâng cao chất lượng học tập bộ môn địa lí nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Đây là điều mà các đề tài nghiên cứu trước chưa làm được. 3
  9. PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lí luận 1.1. Môn Địa lí trong chương trình giáo dục phổ thông Trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018, chương trình môn học Địa lí 2018 xác định: Trên nền tảng những kiến thức cơ bản và phương pháp giáo dục đề cao hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh, chương trình môn Địa lí giúp học sinh hình thành, phát triển năng lực địa lí - một biểu hiện của năng lực khoa học; đồng thời góp phần cùng các môn học và hoạt động giáo dục khác phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đã được hình thành trong giai đoạn giáo dục cơ bản, đặc biệt là tình yêu quê hương, đất nước; thái độ ứng xử đúng đắn với môi trường tự nhiên, xã hội; khả năng định hướng nghề nghiệp; để hình thành nhân cách công dân, sẵn sàng đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở trung học phổ thông, Địa lí là môn học thuộc nhóm môn khoa học xã hội được lựa chọn theo nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp của học sinh. Môn Địa lí vừa thuộc lĩnh vực khoa học xã hội (Địa lí kinh tế - xã hội) vừa thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên (Địa lí tự nhiên), giúp học sinh có được những hiểu biết cơ bản về khoa học địa lí, các ngành nghề có liên quan đến địa lí, khả năng ứng dụng kiến thức địa lí trong đời sống; đồng thời củng cố và mở rộng nền tảng tri thức, kĩ năng phổ thông cốt lõi đã được hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, tạo cơ sở vững chắc giúp học sinh tiếp tục theo học các ngành nghề liên quan. Chương trình môn Địa lí xác định rõ các phẩm chất và năng lực có thể hình thành, phát triển qua môn học. Đó là năm phẩm chất chủ yếu của người Việt Nam, ba năng lực chung và các năng lực đặc thù khác. 1.2. Năng lực là gì? Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Năng lực chung: là những năng lực cơ bản, thiết yếu làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người, là năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kì ai cũng cần phải có để sống, học tập và làm việc hiệu quả. Năng lực chung được hình thành và phát triển dựa trên bản năng di truyền, quá trình giáo dục và trải nghiệm. Năng lực chung được hình thành và phát triển qua tất cả các môn học và HĐGD: năng lực tự học, Năng lực giao tiếp và hợp tác, Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo Môn Địa lí có nhiều ưu thế hình thành và phát triển các năng lực chung đã quy định trong Chương trình tổng thể. Năng lực tự học: được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động học tập như thu thập thông tin và trình bày báo cáo 4
  10. địa lí; khảo sát, điều tra thực tế địa phương, vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề thực tế,.. Năng lực giao tiếp và hợp tác: được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động nhóm và phương pháp dạy học thảo luận, dạy học dự án, xêmina,...Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động phát hiện vấn đề, nêu giả thuyết hoặc giả định, tìm lôgic trong giải quyết vấn đề, đề xuất được giải pháp giải quyết vấn đề, đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề, tưởng tượng khoa học, giải quyết vấn đề mới, tự học về lí thuyết và công cụ địa lí. Tuy nhiên trong phạm vi đề tài này tôi chỉ nghiên cứu chính về năng lực chung: Năng lực tự học trong dạy học địa lí cấp THPT 1.3. Yêu cầu cần đạt về năng lực tự chủ và tự học cấp THPT: - Tự lực: Luôn chủ động, tích cực thực hiện những công việc của bản thân trong học tập và trong cuộc sống; biết giúp đỡ người sống ỷ lại vươn lên để có lối sống tự lực. - Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng: Biết khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu cá nhân phù hợp với đạo đức và pháp luật. - Tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của mình: Đánh giá được những ưu điểm và hạn chế về tình cảm, cảm xúc của bản thân; tự tin, lạc quan. Biết tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của bản thân; luôn bình tĩnh và có cách cư xử đúng. Sẵn sàng đón nhận và quyết tâm vượt qua thử thách trong học tập và đời sống. Biết tránh các tệ nạn xã hội. - Thích ứng với cuộc sống: Điều chỉnh được hiểu biết, kĩ năng, kinh nghiệm của cá nhân cần cho hoạt động mới, môi trường sống mới. Thay đổi được cách tư duy, cách biểu hiện thái độ, cảm xúc của bản thân để đáp ứng với yêu cầu mới, hoàn cảnh mới. - Định hướng nghề nghiệp: Nhận thức được cá tính và giá trị sống của bản thân. Nắm được những thông tin chính về thị trường lao động, về yêu cầu và triển vọng của các ngành nghề. Xác định được hướng phát triển phù hợp sau trung học phổ thông; lập được kế hoạch, lựa chọn học các môn học phù hợp với định hướng nghề nghiệp của bản thân. - Tự học, tự hoàn thiện: Xác định được nhiệm vụ học tập dựa trên kết quả đã đạt được; biết đặt mục tiêu học tập chi tiết, cụ thể, khắc phục những hạn chế. Đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập; hình thành cách học riêng của bản thân; tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau; ghi chép thông tin bằng các hình thức phù hợp, thuận lợi cho việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết. Tự nhận ra và điều chỉnh được những sai sót, hạn chế của bản thân trong quá trình học tập; suy ngẫm cách học của mình, rút kinh nghiệm để có thể vận dụng vào các tình huống khác; biết tự điều chỉnh 5
  11. cách học. Biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân và các giá trị công dân 2. Cơ sở thực tiễn: 2.1. Thực trạng của vấn đề Nói đến dạy học là một công việc vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Do đó đòi hỏi người giáo viên cần có năng lực sư phạm vững vàng, phương pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động trong việc chiếm lĩnh kiến thức. Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú trong học tập hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 với định hướng là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự chủ và tự học nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Thế nên, năng lực tự học có vị trí và vai trò rất quan trọng. Nó là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập. Hơn thế nữa, tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời. Tuy nhiên thực trạng dạy học môn Địa lí ở trường THPT còn tồn tại những vấn đề không nhỏ ảnh hưởng đến việc hình thành năng lực tự học của học sinh và dẫn đến chất lượng bộ môn Địa lí chưa cao. Tôi đã tiến hành khảo sát đối với 5 giáo viên dạy Địa lí trong trường về thực hiện phát triển năng lực tự học môn Địa lí của học sinh khối 12 trường THPT Yên Thành 2 Kết quả thu được như sau: Nội dung Số GV thực hiện Tỉ lệ học sinh được thực hiện/đánh giá 1. Về hình thức phát triển năng lực tự học Dặn dò: Học bài cũ, chuẩn bị bài mới 5 100% Phiếu bài tập 2 40% Vẽ sơ đồ 1 20% Thuyết trình 0 0% Hình thức khác 0 0% 2. Hình thức đánh giá năng lực tự học Nhận xét 5 100% Lấy điểm miệng 5 100% 6
  12. Lấy điểm sản phẩm học tập 0 0% Lấy điểm thuyết trình 0 0% Đồng thời chúng tôi tiến hành khảo sát với 220 học sinh khối 12 về việc phát triển năng lực tự học môn Địa lí. Kết quả thu được như sau: Nội dung Số học sinh được thực hiện Tỷ lệ 1. Các nội dung tự học môn Địa lí đã được thực hiện Học thuộc vở ghi và SGK 220 100% Phiếu học tập 45 20,4% Làm mô hình, tập san ảnh 0 0% Các sản phẩm khác 15 6,8 % 2. Các em được đánh giá nội dung tự học bằng: Lấy điểm miệng 220 100% Nhận xét 220 100% Lấy điểm thuyết trình 0 0% Lấy điểm sản phẩm học tập 0 0% Qua các phiếu khảo sát trên chúng tôi nhận thấy thực trạng của vấn đề như sau: Đa số các giáo viên đã phát triển năng lực tự học cho học sinh tuy nhiên chỉ chú trọng đến năng lực tự học ở nhà và chủ yếu là nhắc nhở các em: “Về nhà họ bài cũ, làm bài tập và chuẩn bị bài mới. Giờ sau cô kiểm tra”. Giáo viên ít khi phát phiếu bài tập cho HS chuẩn bị bài hay yêu cầu HS học những nội dung luyện tập, mở rộng, vận dụng. GV chỉ quan tâm tới việc học bài cũ của học sinh mà ít quan tâm tới việc chuẩn bị bài mới của các em…GV đánh giá năng lực tự học của học sinh chủ yếu là nhận xét và lấy điểm miệng cũng như điểm trong các bài kiểm tra và kì thi để cho đủ số lần điểm theo quy định. Đa số các thầy cô chưa quan tâm phát triển thành tố tự lực, tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của học sinh hay khả năng thích ứng với cuộc sống và định hướng nghề nghiệp. Lại thêm, một thực trạng đáng buồn hiện nay của học sinh khối lớp 12. Ngoài các em tham gia thi khối xã hội chăm chỉ, tự học, tự nghiên cứu thì đại bộ phận học sinh chưa thật mặn mà, thậm chí là xem nhẹ, thờ ơ đối với môn Địa lí, việc học chỉ mang tính đối phó, coi trọng điểm số hơn là tích lũy kiến thức, năng lực thông qua quá trình học tập bộ môn. Các em học sinh bị cuốn vào mạng xã hội: zalo, facebook; thường xuyên chơi điện tử, sống ảo... không chú tâm vào việc học hành. Năng lực tự học chưa tốt: chưa chăm chỉ học bài cũ, chưa tích cực chuẩn bị bài mới, chưa tự chủ trong 7
  13. tình cảm, thái độ và hành vi học tập của mình . Cách học của học sinh vẫn đơn giản là cố gắng hoàn thành hết số bài tập giáo viên giao về nhà và học thuộc trong vở ghi chứ không có ý định tự học, tự hoàn thiện. Tóm lại với những thực trạng trên, học sinh chưa phát huy được phẩm chất, năng lực của mình qua quá trình học tập và chất lượng bộ môn cũng như chất lượng học sinh giỏi chưa như kì vọng và chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới giáo dục hiện nay 2.2. Nguyên nhân của thực trạng. Để đánh giá thực trạng vấn đề tự học của học sinh trong, trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát bằng phiếu điều tra (Phiếu điều tra - xem ở Phần phụ lục). Cụ thể như sau: - Đối tượng khảo sát: Toàn bộ học sinh khối 12 đang học tại trường. Tổng số học sinh khảo sát: 420/453 (chiếm 92,7%) - Thời gian khảo sát: từ ngày 08/02/2023 đến ngày 12/04/2023 - Phương pháp khảo sát: Khảo sát trực tuyến qua đường link Google Form https://forms.gle/n8Ht43E2F5BMMr5Y9 - Kết quả khảo sát: Kết quả khảo sát cho thấy, về cơ bản học sinh đều nhận thức được tầm quan trọng của việc tự học (75%). Tuy nhiên vẫn có một bộ phận học sinh vẫn cho rằng việc tự học là không quan trọng (10%). Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ học sinh hàng ngày dành từ 2-3 giờ và trên 3 giờ tự học chiếm 52%, còn lại có tới 48% học sinh hàng ngày dành dưới 2 giờ để tự học hoặc không nhớ dành bao nhiêu thời gian để tự học. Điều này cho thấy vẫn 8
  14. còn tỷ lệ khá lớn học sinh chưa dành đủ thời gian cho việc tự học, chưa có kế hoạch quản lý khoa học, cụ thể thời gian hoạt động tự học hợp lý. Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ học sinh lựa chọn nội dung tự học theo yêu cầu của giáo viên chiếm ưu thế (46%). Điều này chứng tỏ vai trò quan trọng của giáo viên trong việc định hướng, xác định, lựa chọn nội dung tự học của học sinh. Do đó, giáo viên cần tiếp tục chủ động, gởi mở nội dung kiến thức để khuyến khích học sinh tự học. Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ học sinh cho rằng khối lượng bài tập, nội dung phải tự học là vừa đủ, chiếm 50%; tỷ lệ học sinh cho rằng khối lượng bài tập, nội dung phải tự học là nhiều và quá nhiều chiếm 45%. Liên hệ với kết quả khảo sát thời gian tự học cho thấy cũng có 48% học sinh dành thời gian dưới 2 giờ hoặc không nhớ thời gian tự học của học sinh. Có thể số học sinh đánh giá khối lượng bài tập tự học là nhiều và quá nhiều chưa dành đủ thời gian cho tự học hoặc có khả năng số học sinh này chưa biết cách tự học hoặc khối lượng kiến thức tự học là quá sức đối với nhóm học sinh này. 9
  15. Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ học sinh cho rằng thời gian cần thiết để hoàn thành bài tập tự học là nhiều và quá nhiều chiếm 32%. Nhóm này có khả năng là chưa dành đủ thời gian cho việc tự học hoặc có thể có năng lực tự học, quản lý, phân bổ thời gian chưa khoa học, hợp lý. Kết quả thống kê cho thấy, tỷ lệ học sinh thường xuyên lên thư viện trường hoặc vào mạng Internet để tìm tài liêu, bài tập cho môn học của mình chỉ chiếm 8%. Trong khi đó, tỷ lệ học sinh thỉnh thoảng lên thư viện hoặc vào Internet phục vụ cho việc tự học chiếm 48%, tỷ lệ học sinh mới 1-2 lần lên và không lên thư viện hoặc vào mạng Internet vì mục đích học tập đang chiếm 44%. Kết quả thống kê cho thấy, tỷ lệ số lượng ý kiến học sinh cho rằng chương trình học quá nặng chiếm 25%; tỷ lệ số lượng ý kiến học sinh cho rằng còn quá nhiều bài tập về nhà chiếm 21%; tỷ lệ số lượng ý kiến học sinh cho rằng các em gặp khó khăn khi tìm kiếm tài liệ tham khảo, bài tập cho môn học chiếm 17%; tỷ lệ số lượng ý kiến học sinh cho rằng các em không biết phương pháp tự học sao cho hiệu quả chiếm 15%; tỷ lệ số lượng ý kiến học sinh cho rằng thời gian học trên lớp quá nhiều chiếm 12%; tỷ lệ số lượng ý kiến học sinh tự thấy rằng khả năng tiếp thu của bản thân kém chiếm 10%. 10
  16. Như vậy, qua khảo sát thực tế, nhận thức của học sinh về vấn đề tự học đang còn nhiều hạn chế. Có gần 80% HS nhận thức được sự cần thiết của việc tích cực chủ động trong học tập, tuy nhiên những biểu hiện trong hoạt động tự học của các em còn ở mức rất hạn chế, chẳng hạn một bộ phận học sinh có thời gian chuẩn bị bài ở nhà không xác định, và thường thì thời gian dành cho việc chuẩn bị bài lại rất ít. Những khó khăn cho việc tự học chủ yếu do HS thiếu tự tin trong học tập, không tự kiểm soát được quá trình học tập, hay sao nhãng, thiếu sự hướng dẫn cụ thể của thầy cô về vấn đề tự học... Do đó, đối với học sinh từ việc lập kế hoạch đến việc dành thời gian cho việc học tập còn chưa thường xuyên, chưa đủ để tạo thành thói quen. HS chủ yếu trông chờ vào việc học thêm ngoài thời gian học trên lớp để cải thiện kết quả học tập (yếu tố học thêm được các em chọn xếp hàng đầu trong việc cải thiện thành tích học tập). Các em chưa tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu tài liệu, chuẩn bị bài mới. Qua phân tích kết quả điều tra, tôi thấy cần thiết phải tích cực trong việc đổi mới PPDH cũng như cần có các biện pháp hướng dẫn, giúp đỡ HS nâng cao năng lực tự học bộ môn Địa lí. Sau khi nhận kết quả khảo sát từ các lớp và tổng hợp các ý kiến của giáo viên trong tổ chuyên môn cũng như các đồng nghiệp trong tập huấn tôi đưa ra các nguyên nhân sau: Thứ nhất: do giáo viên chưa thực sự chú trọng tới việc hướng dẫn học sinh phát triển năng lực tự chủ và tự học. Chưa đưa ra các hình thức và yêu cầu cụ thể để học sinh thực hiện, chưa linh hoạt trong đánh giá năng lực tự chủ và tự học của học sinh, chưa có các hình thức khích lệ kịp thời. Một số giáo viên chưa linh hoạt khi sử dụng phương pháo và kĩ thuật dạy học nên chưa thu hút được học sinh hứng thú với môn học. Thứ hai: chương trình giáo dục phổ thông hiện hành còn nặng về kiến thức, nội dung bài học còn dài nên không có nhiều thời gian cho các hoạt động kiểm tra đánh giá việc tự học. Thứ ba: tâm lí môn Địa lí là “môn phụ” vẫn còn tồn tại ở một số học sinh và cả phụ huynh. Các em vẫn coi trọng các môn Toán, Lý, Hóa, Văn, Tiếng Anh chứ chưa nhận thức được vị trí, vai trò của môn Địa lí nên thiếu quan tâm đến việc học môn này. Thứ tư: do đối tượng dạy học, một số học sinh nhận thức chưa có động cơ học tập, một số em nhận thức chậm, chưa tự giác, chưa tích cực tham gia các hoạt động học tập nên chưa hoàn thành các nhiệm vụ học tập mà giáo viên giao. 3. Giải pháp khắc phục thực trạng 3.1. Giải pháp 1: Hình thành động cơ học tập Địa lí cho học sinh 3.1.1. Mục tiêu giải pháp: Giúp học sinh nhận thức được vị trí và vai trò của môn Địa lí trong trường THPT từ đó tạo được nhu cầu và động cơ học tập thiết thực với các em 11
  17. 3.1.2. Nội dung giải pháp Môn địa lý trong chương trình phổ thông là cung cấp cho HS các cơ hội hiểu thêm về thế giới, những thách thức mà thế giới phải đối mặt. HS tìm hiểu về các quá trình thay đổi của địa lý, làm sáng tỏ những tác động và sự thay đổi trong mối quan hệ giữa con người và môi trường… Môn học này còn giúp HS trở thành những công dân toàn cầu, có hiểu biết và quan tâm về môi trường. Địa lý không chỉ là những địa điểm có tên trên bản đồ mà còn về con người, văn hóa, lịch sử của từng vùng miền; các tác động về thiên tai đến cuộc sống con người và cách đối xử của nhân loại đối với tự nhiên đã làm thay đổi bề mặt địa lý, hoàn cảnh xã hội và điều kiện kinh tế như thế nào. Có thể nói, nắm vững địa lý sẽ giúp thế hệ tương lai hiểu hơn về quá khứ, hiện tại và tương lai của toàn cầu, cũng như vai trò của từng địa phương đối với phần còn lại của thế giới. Chương trình môn học Địa lí 2018 xác định: Trên nền tảng những kiến thức cơ bản và phương pháp giáo dục đề cao hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh, chương trình môn Địa lí giúp học sinh hình thành, phát triển năng lực địa lí - một biểu hiện của năng lực khoa học; đồng thời góp phần cùng các môn học và hoạt động giáo dục khác phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đã được hình thành trong giai đoạn giáo dục cơ bản, đặc biệt là tình yêu quê hương, đất nước; thái độ ứng xử đúng đắn với môi trường tự nhiên, xã hội; khả năng định hướng nghề nghiệp; để hình thành nhân cách công dân, sẵn sàng đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 3.1.3. Quá trình áp dụng giải pháp vào thực tiễn và kết quả đạt được. Động cơ học tập là những động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người. Các Mác đã khẳng định: “Con người ta sẽ không làm bất cứ điều gì, nếu nó không liên quan đến nhu cầu, động cơ của họ”. Vì vậy, xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh luôn có một ý nghĩa quan trọng, nhằm nâng cao tính tích cực học tập của học sinh, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra trong tình hình mới. * Địa lí là môn học mà đối tượng nghiên cứu là thể tổng hợp tự nhiên và thể tổng hợp kinh tế - xã hội xung quanh đời sống con người. Các hiện tượng tự nhiên và xã hội thay đổi theo thời gian và không gian, tuy nhiên các hiện tượng này gần gũi và tác động trực tiếp đến đời sống của mỗi người. Chính vì vậy cho học sinh tự nêu ra những nhu cầu hiểu biết của bản thân về thế giới xung quanh là nhân tố đầu tiên để khuyến khích các em tự học. Để làm được điều đó, cần trang bị cho học sinh năng lực quan sát, năng lực khái quát, năng lực sáng tạo và độc lập trong quá trình nghiên cứu những hiện tượng này. * Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy khoảng cách trong tư duy giữa các thế hệ (giáo viên - học sinh) đã làm cho giáo viên chưa nhận ra những nhu cầu của học sinh khi học tập bộ môn Địa lí. Các kiến thức địa lí mà giáo viên cung cấp thường mang tính hàn lâm - khoa học, ít có sự gần gũi với học sinh. Hoặc nói cách 12
  18. khác, chưa trúng với nguyện vọng học tập của học sinh. Thêm vào đó, ở lứa tuổi 17,18 các em đã có những tích lũy kiến thức thực tế nhất định, nhu cầu khẳng định bản thân, thể hiện bản thân rất lớn nên bên cạnh tìm ra các phương pháp học tập phù hợp. Việc sử dụng các kĩ thuật dạy học sao cho học sinh thể hiện tốt năng lực của mình. Giáo viên có thể nắm bắt nhu cầu, mong muốn học tập của học sinh là điều vô cùng cần thiết. * Các bài giảng có tính thực tế như Địa lí địa khu vực, địa lí địa phương… cần được sử dụng một cách tiếp cận mới, có sự tương tác giữa giáo viên và học sinh cao hơn. Ở đó, học sinh được bày tỏ những kiến thức, quan điểm hay suy nghĩ của bản thân để hướng tới dạy học thật sự như tiêu chí đề ra của Bộ GD&ĐT là lấy người học làm trung tâm, giáo viên chỉ là người đóng vai trò định hướng để học sinh tiếp thu kiến thức mới. Mục tiêu giờ học Địa lí là tạo ra giờ học sôi động, lôi cuốn đối với học sinh, sử dụng những điều gần gũi với học sinh thay vì các kiến thức lí thuyết đôi khi hơi nhàm chán và không còn phù hợp với thực tế. * Có nhiều cách thức tự học, nhưng khái quát lại có hai cách thức tự học cơ bản là: tự học có hướng dẫn và tự học hoàn toàn. Để có kết quả học tốt thì tự học trước hết phải có sự hướng dẫn của thầy, qua đó tích luỹ kinh nghiệm tự học, sau đó tự học với sách, tự học không có thầy hướng dẫn. Tự học có hướng dẫn: Người đóng vai trò hướng dẫn ở đây chính là người thầy. Tự học hoàn toàn là mức mà mọi người phải đạt được nếu muốn tự học suốt đời. Như vậy trong hoạt động giảng dạy giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức …Tuy nhiên, yếu tố quyết định cho chất lượng học chính là yếu tố nội lực của người học – sự tự học. Do đó giáo viên phải chú ý đến việc rèn luyện để các em làm chủ được khả năng tự học của bản thân. Trong môi trường học đường, nhà trường, gia đình, xã hội cần có những tác động tích cực để học sinh hình thành và phát triển động cơ học tập đúng hướng, phù hợp với bản thân và yêu cầu xã hội. Hình thành và phát triển được những động cơ học tập đúng đắn, lành mạnh sẽ là động lực mạnh mẽ giúp học sinh đạt được mục đích, thành công trong học tập. Để khơi gợi hứng thú học tập, tôi đã hướng dẫn xây dựng cho học sinh các lớp mình dạy động cơ học tập đúng đắn là việc cần làm đầu tiên. Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng tùy tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và thị trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi người những tố chất cần thiết chứ không phải là những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật trang sức vào đời mà không có thực lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến cho người ta luôn tự giác say mê, học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui sáng tạo bất tận. Động cơ học tập của học sinh không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng chẳng được đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự giác thầm lặng từ bên trong. Do vậy, tôi đã đưa ra những biện pháp nhằm khơi dậy hứng thú học tập 13
  19. và năng lực tiềm tàng của các em, tạo mọi điều kiện tốt nhất để các em tự kích thích động cơ học tập của mình. Đối với phần đông học sinh, việc tạm gác những thú vui, những trò giải trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc học là hai điều có ranh giới vô cùng mỏng manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và ý chí mạnh mẽ cùng nghi lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình, trong đó người thầy đóng vai trò chủ đạo. Trong khuôn khổ thời lượng là những tiết địa lí ở trên lớp tôi đã hình thành động cơ học tập cho học sinh bằng những việc làm cụ thể như sau: * Tiết học đầu tiên của năm học, tôi dành hai mươi phút để cho các em chia sẻ về vị trí, vai trò của môn Địa lí, các em sẽ được chia sẻ: Tại sao cần học địa lí? Học địa lí cần thiết thế nào đối với bản thân trong sự phát triển của xã hội thời đại 4.0. Cách học địa lí như thế nào để có kết quả tốt nhất? Trong quá trình giảng dạy tôi sử dụng linh hoạt các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực kết hợp với phương pháp dạy học trực quan để tạo sự hứng thú, tích cực từ các em. Thi thoảng tôi lại lồng ghép kể chuyện những tấm gương trong tự học và đạt được thành công trong cuộc sống như: Bác Hồ, Mạc Đĩnh Chi…hay những anh chị trong nhà trường đã đạt thành công để hun đúc ý chí, nghị lực cho các em. Tôi thường áp dụng một cách: là cho các bạn học sinh giỏi chia sẻ về lịch tự học cũng như phương pháp học của mình với các bạn trong lớp. William A. Warrd đã khẳng định: “Người thầy trung bình chỉ biết nói, Người thầy giỏi biết giải thích, Người thầy xuất chúng biết minh họa, Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”. Thật vậy, giáo viên ngoài dạy giỏi còn phải lan tỏa cảm hứng học tập cho các em, là người động viên khích lệ các em, trao cho các em cơ hội được thể hiện bản thân, được tự do sáng tạo theo hướng dẫn, được nhận xét và sửa chữa khi chưa làm tốt chứ không phải là sự cáu gắt và khinh thường Kết quả áp dụng: Đa số học sinh chủ động, tích cực thực hiện những nhiệm vụ của mình trong học tập và trong cuộc sống; biết khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu cá nhân phù hợp với đạo đức và pháp luật. Đánh giá được những ưu điểm và hạn chế của bản thân. Biết tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của bản thân. Sẵn sàng đón nhận và quyết tâm vượt qua thử thách trong học tập và đời sống. Biết tránh các tệ nạn xã hội. Có khả năng Thích ứng với cuộc sống, thay đổi được cách tư duy, cách biểu hiện thái độ, cảm xúc của bản thân để đáp ứng với yêu cầu mới, hoàn cảnh mới. Các em nắm được những thông tin chính về thị trường lao động, về yêu cầu và triển vọng của các ngành nghề. Xác định được hướng phát triển phù hợp sau trung học phổ thông, định hướng nghề nghiệp của bản thân sau này. Đặc biệt là các em đã xác định được nhiệm vụ học tập; biết đặt mục tiêu học tập chi tiết, cụ thể, điều chỉnh được kế hoạch học tập; hình thành cách học riêng của bản thân, tự nhận ra và điều chỉnh được những sai sót, hạn chế của bản thân trong quá trình học tập. Biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân và các giá trị công dân. 14
  20. Học sinh chia sẻ về phương pháp tự học tại Đại Hội Đoàn Thanh Niên 3.2. Giải pháp 2: Đa dạng hóa các hình thức hướng dẫn học sinh nhằm phát huy năng lực tự học 3.2.1. Mục tiêu giải pháp: Thông qua việc đa dạng hóa các hình thức hướng dẫn học sinh tự học của giáo viên như hướng dẫn học sinh học bài cũ, chuẩn bị bài mới. Học sinh thực hiện hoạt động cá nhân hay theo nhóm để hoàn thành nhiệm vụ học tập thì sẽ phát triển các thành tố khác nhau của năng lực tự học. 3.2.2. Nội dung giải pháp Cuối mỗi tiết học giáo viên nên dành thời gian năm phút để hướng dẫn học sinh học bài cũ và chuẩn bị bài mới. Trong khoảng thời gian ấy, giáo viên sẽ phân công nhiệm vụ cho học sinh, hướng dẫn cách làm và yêu cầu đối với sản phẩm của học sinh. Giáo viên hướng dẫn học sinh học bài mới bằng cách hướng dẫn HS hoàn thành phiếu học tập, bằng các câu hỏi có vấn đề, bằng sơ đồ tư duy, bằng các bài thuyết trình, hoàn thành dự án học tập hay các hình thức sáng tạo (vẽ + sơ đồ + thuyết trình). Đối với bài cũ: Giáo viên hướng dẫn học sinh sưu tập tranh ảnh làm tập san, làm video hay ôn tập kiến thức bằng phần mềm trò chơi Quyzzi... 3.2.3. Quá trình áp dụng giải pháp vào thực tiễn và kết quả đạt được. Để thực hiện việc đa dạng hóa các hình thức hướng dẫn học sinh học tập thì giáo viên cần dành thời gian đầu tư vào kế hoạch dạy học, đặc biệt chú ý đến việc chuẩn bị phiếu học tập bài mới, các yêu cầu đối với các sản phẩm tự học của học sinh như: video, tập san, sơ đồ, dự án học tập, chuẩn bị trò chơi Quyzizz cho HS chơi…Giáo viên cần lưu ý là tạo cơ hội cho các em tạo ra các sản phẩm học tập phù hợp với yêu cầu bộ môn, với năng khiếu, sở trường của các em và phát huy được tính tự chủ cũng như sáng tạo của học sinh. Học sinh cần chăm chỉ, nhiệt 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2