
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao năng lực tự học cho học sinh trường Trung học phổ thông Thanh Oai A trong thời gian phòng dịch
lượt xem 2
download

Đề tài “Một số giải pháp nâng cao năng lực tự học cho học sinh trường Trung học phổ thông Thanh Oai A trong thời gian phòng dịch” đưa ra một số cơ sở lý luận, một số giải pháp để áp dụng vào thực tiễn, rút ra được bài học kinh nghiệm, từ đó đưa những biện pháp được nghiên cứu vào hoạt động giáo dục trong trường THPT Thanh Oai A, thành phố Hà Nội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao năng lực tự học cho học sinh trường Trung học phổ thông Thanh Oai A trong thời gian phòng dịch
- MỤC LỤC MỤC LỤC ................................................................................................................................. 3 PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................ 4 2 . Mục đích của đề tài ............................................................................................................ 5 3. Nhiệm vụ của đề tài ............................................................................................................ 5 4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài ......................................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................... 6 PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................................... 6 1. Cơ sở lý luận ....................................................................................................................... 6 2. Thực trạng công tác chỉ đạo hướng dẫn, bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh ở Trường THPT Thanh Oai A ................................................................................................... 7 2.1. Các kỹ năng cơ bản của hoạt động tự học ................................................................... 8 2.1.1. Kỹ năng định hướng ................................................................................................. 9 2.1.2. Kỹ năng lập kế hoạch học tập ................................................................................... 9 2.1.3. Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm ..................................................... 10 2.2. Những việc giáo viên cần làm để phát triển kỹ năng tự học cho học sinh .................... 11 2.3. Những khó khăn mà học sinh cần nỗ lực vượt qua trong việc rèn luyện kỹ năng tự học. .............................................................................................................................................. 13 2.3.1. Thiếu tập trung trong quá trình tự học .................................................................... 13 2.3.2. Tính kiên trì không cao, gặp bài khó hay nản chí................................................... 14 2.3.3. Tập đánh giá hiệu quả việc học .............................................................................. 14 2.3.4. Tính trì hoãn việc học ............................................................................................. 14 3. Đánh giá về công tác định hướng, bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh ở trường THPT Thanh Oai A, Thành phố Hà Nội. ............................................................................. 15 4. Một số giải pháp cho công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh tại trường THPT Thanh Oai A ......................................................................................................................... 17 5. Phiếu khảo sát thông tin về năng lực tự học của học sinh ................................................ 21 PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................................. 23 1. Một số kết luận ................................................................................................................. 23 2. Kiến nghị: Không ............................................................................................................. 24 ̉ TÀ I LIỆU THAM KHAO...................................................................................................... 25 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Stt Chữ viết tắt Nội dung 1 GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo 2 NQ/TW Nghị quyết Trung ương 3 SGK GDPT Sách giáo khoa – Giáo dục phổ thông 4 NLTH Năng lực tự học 5 HĐGD Hoạt động giáo dục 6 HĐND Hội đồng nhân dân 7 UBND Ủy ban nhân dân 8 THPT Trung học phổ thông 9 THCS Trung học cơ sở 10 GV Giáo viên 11 CBGV-NV Cán bộ giáo viên nhân viên 12 CBQL Cán bộ quản lý 13 HS Học sinh 3
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, đất nước ta đang trên đường đổi mới, sự nghiệp GD&ĐT đã và đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đúng mức và đạt được những thành tựu to lớn. Chủ trương đổi mới GD&ĐT được thể hiện qua Nghị quyết 29 – NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, Nghị quyết 88/ NQ-QH 13 về đổi mới chương trình SGK GDPT, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân. Phát triển chương trình nhà trường làm cho chương trình chung quốc gia phù hợp với thực tiễn của địa phương trên cơ sở đảm bảo yêu cầu chung của chương trình quốc gia. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại và hội nhập quốc tế vào năm 2020 là phát triển nguồn nhân lực. Nhân tố quan trọng để phát triển nguồn nhân lực là giáo dục và đào tạo như Nghị quyết đã xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng phát triển năng lực”, “Phải đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy, sáng tạo cho người học, đảm bảo điều kiện, thời gian tự học, tự nghiên cứu”. Yêu cầu của đổi mới PPDH là phải sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, bỗi dưỡng phương pháp tự học của học sinh. Việc tự học, tự đào tạo ngày càng có vai trò quan trọng đối với giáo dục nói chung và nhu cầu nắm vững tri thức của mỗi cá nhân nói riêng. Việc tìm ra các biện pháp hữu hiệu để tổ chức có hiệu quả hoạt động tự học để trang bị cho người học năng lực tự học là nhu cầu bức tiết và mang ý nghĩa chiến lược đối với lợi ích trước mắt và lâu dài của ngành giáo dục nói riêng và quốc gia nói chung. Hướng dẫn, bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trường THPT phải góp phần vào thực hiện mục tiêu giáo dục đặt ra. Việc phát triển năng lực tự học nói chung, năng lực tự học của học sinh trung học nói riêng có vai trò quan trọng. Tự học là một bộ phận cấu thành phương pháp học. Hay nói cách khác trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học, đó là cầu nối giữa học 4
- tập và nghiên cứu, trải nghiệm thực tế. Nếu rèn luyện cho người học có được năng lực tự học, biết ứng dụng những điều đã học vào tình huống mới, biết tự lực phát hiện và giải quyết những vấn đề gặp phải thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có của mỗi con người. Chương trình giáo dục phổ thông cấp THPT quy định về PPDH phải tăng cường rèn luyện năng lực làm việc với SGK, tài liệu tham khảo và rèn luyện năng lực tự học. Hiện nay, lượng thông tin kiến thức của các bộ môn ngày càng nhiều, trong khi thời gian trên lớp rất hạn chế. Vì vậy, việc phát triển năng lực tự học là một giải pháp quan trọng góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng học tập và thực hiện đổi mới PPDH theo hướng tích cực hoạt động của học sinh. Là một cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn trong trường THPT, tôi có nhiều băn khoăn, trăn trở là làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh, phát huy được năng lực vốn có của học sinh trường THPT Thanh Oai A. Chính vì vậy, nên tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao năng lực tự học cho học sinh trường Trung học phổ thông Thanh Oai A”. Thông qua đề tài này, tôi không có tham vọng gì lớn chỉ mong tìm ra được cơ sở lý luận để áp dụng vào thực tiễn, rút ra được bài học kinh nghiệm cho bản thân, từ đó đưa những biện pháp được nghiên cứu vào hoạt động hướng dẫn học sinh tự học trong trường THPT Thanh Oai A, Thành phố Hà Nội. 2 . Mục đích của đề tài Thông qua đề tài nghiên cứu đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh thông qua việc phân tích các kỹ năng cần phát triển cho năng lực tự học và tìm ra những khó khăn và cách khắc phục những khăn đó trong quá trình học tập của các em. 3. Nhiệm vụ của đề tài Thông qua đề tài nghiên cứu xác định cơ sở lý luận của việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh thông qua việc nghiên cứu định hướng giải quyết những khó khăn trong quá trình tự học. Xác định vai trò, vị trí, nhiệm vụ và tác dụng giáo dục của hoạt động bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh của THPT Thanh Oai A. Rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân và áp dụng vào thực tiễn nhà trường để có hiệu quả trong tổ chức các hoạt động giáo dục trong nhà trường. 4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Tập trung nghiên cứu vào công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh thông qua việc nghiên cứu định hướng giải quyết những khó khăn trong quá trình tự học của học sinh trường THPT Thanh Oai A. Rèn luyện cho học sinh 5
- biết khắc phục những khó khăn thường gặp ở lứa tuổi THPT trong quá trình tự học để nâng cao chất lượng học tập của học sinh. 5. Phương pháp nghiên cứu Đọc, phân tích, tổng hợp và khái quát những tài liệu Giáo dục học, tâm lý học, PPDH phát triển các năng lực học tập. Nghiên cứu chương trình, SGK ở trường THPT. Điều tra thực tiễn thông qua điều tra xã hội học trong giáo viên và học sinh ở trường THPT, dự giờ thăm lớp để có kết luận chính xác về thực trạng dạy học ở trường THPT nói chung, thực trạng về năng lực tự học của học sinh THPT nói riêng, làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp sư phạm phù hợp. Thực nghiệm sư phạm tổ chức buổi nói chuyện tương tác với học sinh từng phần, toàn phần nhằm kiểm nghiệm tính khả thi của các biện pháp mà đề tài đưa ra. Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả thực nghiệm sư phạm. Phương pháp nghiên cứu hỗ trợ, phương pháp tổng kết, biểu đồ, sơ đồ. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Từ thực tiễn đã tổ chức hướng dẫn học sinh trong các năm học 2018-2019, 2019-2020, 2020-2021. Tổng hợp kinh nghiệm cho hoạt động ở cơ sở cho các năm học tiếp theo. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Đối với vấn đề tự học và phát triển năng lực tự học, từ xa xưa đến nay đã có nhiều nhà giáo dục học đề cập đến. Tự học là một khái niệm được đề cập đến rất sớm thường được sử dụng với ý nghĩa là người học tự giác, chủ động thực hiện các hoạt động học tập của mình, ví dụ: ở Trung Quốc cổ đại xuất hiện nhà giáo dục kiệt suất nổi bật là Khổng Tử (551- 479). Trong cuộc đời dạy học của mình ông quan tâm và coi trọng mặt tích cực suy nghĩ, sáng tạo của học sinh. Cách dạy của ông là gợi mở để học trò tìm ra chân lý. Mạnh Tử (372 - 289) đòi hỏi người học phải tự suy nghĩ, chứ không nên cứ nhắm mắt theo sách: “Cả tin ở sách thì chi bằng không có sách”. Ông đòi hỏi người học phải tự cố gắng mà tìm hiểu, ông ví người dạy học như người dạy bắn cung, chỉ kéo thẳng dây cung mà không bắn tên đi hộ, tự người bắn phải bắn lấy. Nhà giáo dục John Locke (1632), người Anh yêu cầu người thầy giáo phải gợi ý tò mò của học sinh. Đây được coi là một trong những phẩm chất quan trọng của tự học. Ông nói: “Tò mò là cái lợi khí lớn nhất của tự nhiên dùng để sửa cái dốt nát của chúng ta”. Nhà sư phạm J.A.Commenxki (1592 – 1670), ông tổ của nền giáo dục cận đại người đặt nền móng cho sự ra đời của nhà trường hiện nay đã khẳng định: 6
- “Không có khát vọng học tập thì không trở thành tài” trong các sách hướng dẫn giảng dạy của ông, ông đã nêu ra nguyên tắc, phương pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, ông cương quyết phản đối lối dạy học áp đặt, giáo điều. Tư tưởng này cho thấy trong dạy học cần phải xây dựng hoài bão, tạo động cơ để người học để có thể tự vượt qua trở ngại trong học tập. Trong giáo dục hiện đại có rất nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục và phát triển trí tuệ của những nhà giáo dục nổi tiếng nhấn mạnh: Muốn phát triển trí tuệ người học phải phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo để tự giành lấy tri thức. Cần giáo dục cho học sinh biết định hướng, biết hành động một cách sáng tạo, biết tự mình nâng cao vốn học vấn và tự phát triển bản thân mình. Tổ chức công việc tự học của học sinh trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm học tập cá nhân, nhiều nhà giáo dục đã đưa ra đề nghị về phương pháp học tập của học sinh trên mấy vấn đề cơ bản: Nghe và ghi bài giảng; đọc và ghi tài liệu; chuẩn bị thảo luận; làm bài tập thực tế; chuẩn bị kiểm tra và thi; tổ chức trải nghiệm và xây dựng kế hoạch học tập. - Những năm cuối thế kỷ XX các nhà giáo dục tập trung nghiên cứu bản chất năng lực tự học, theo thống kê của Candy (1987) đã xác định có ít nhất 30 khái niệm khác nhau được sử dụng đồng nghĩa với NLTH đó là: Học tập độc lập, người học tự kiểm soát, hướng dẫn bản thân, học tập phi truyền thống, học tập mở, tự học, tự giáo dục trong hoạt động học. 2. Thực trạng công tác chỉ đạo hướng dẫn, bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh ở Trường THPT Thanh Oai A Thực trạng việc dạy học ở trường phổ thông, việc phát triển năng lực tự học cho học sinh còn nhiều hạn chế, chương trình SGK còn mang năng tính hàn lâm, PPDH ở nhiều môn còn chưa phát huy được tính tích cực học tập của học sinh, nhiều học sinh còn lúng túng trong việc học tập, tiếp thu kiến thức. Việc hướng dẫn học sinh tự học còn hạn chế về tần suất và hiệu quả. Giáo viên chưa chú ý đến việc phát triển năng lực tự học cho học sinh, chưa có quy trình khoa học để tổ chức cho học sinh tự học một cách có hệ thống. Về phía học sinh, phần lớn học sinh chưa coi trọng việc tự học, chưa biết sử dụng phương pháp tự học một cách có hiệu quả và khoa học để lĩnh hội tri thức. Nhiều học sinh chưa xác định được nguyên nhân dẫn đến kết quả học tập chưa tốt hoặc có nhiều em xác định nguyên nhân chung là do lười học. Thực trạng này làm hạn chế việc thực hiện mục tiêu phát triển năng lực học tập của em. Nhận thức được điều đó, Chuyên môn nhà trường đã tham mưu cho Hiệu trưởng tổ chức các hoạt động phối kết hợp giữa ban chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm lớp với ban hoạt động ngoài giờ lên lớp tổ chức tốt công tác tuyên truyền, 7
- tư vấn cho học sinh và gia đình học sinh về quản lý tốt giờ tự học của học sinh. Giúp học sinh tìm hiểu rõ nguyên nhân và biện pháp khắc phục những khó khăn trong quá trình tự học. Trong đề tài này, bản thân tôi nghiên cứu quá trình phát triển tâm lí, chia ra một số kỹ năng mà học sinh phải rèn luyện và một số khó khăn học sinh gặp trong quá trình tự học và giải pháp khắc phục từng khó khăn đó. 2.1. Các kỹ năng cơ bản của hoạt động tự học Khi nghiên cứu, hướng dẫn học sinh kỹ năng tự học mỗi giáo viên cần hiểu rõ tâm, sinh lý lứa tuổi và khả năng học tập của học sinh giai đoạn THPT. Trong giai đoạn này, tính độc lập chủ động sáng tạo trong nhận thức là phẩm chất tâm lý đặc trưng, do vị thế xã hội và sự phát triển tâm lý của các em tạo ra. Nhiều lĩnh vực các em có chính kiến rõ ràng. Tuy nhiên các phẩm chất này của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp dạy học của giáo viên và điều kiện của nhà trường. Các em có sự hứng thú học tập sâu sắc hơn so với các lứa tuổi trước đó, thậm chí trở thành niềm đam mê của các em. Năng lực nhận thức của các em cũng phát triển ở mức độc cao và đa dạng. Nhiều em đã bộc lộ tài năng của mình qua một số lĩnh vực nào đó. Các hoạt động cảm giác, tri giác đạt tới độ tinh tế và nhạy cảm cao. Óc quan sát phát triển mạnh. Tri nhớ logic, ngôn ngữ trừu tượng ngày càng được bổ sung. Hơn nữa, việc học thuộc lòng máy móc, không suy luận như THCS nhiều khi còn bị xem thường. Các em có thể một lúc thực hiện được nhiều công việc, như một lúc có thể tính toán được nhiều phép toán, hay là vừa nghe giảng, vừa chép bài, vừa tư duy. Và các em cũng bắt đầu có sự lựa chọn môn học gây hứng thú cho mình, và môn học phù hợp với nhành nghề của mình. Các bạn nam thường thiên về trí tuệ trừu tượng, logic nên sẽ chọn những bộ môn liên quan đến tư duy nhiều như các môn tự nhiên, còn các bạn nữ lại thiên về tư duy sự kiện, nên sẽ hứng thú với với các môn xã hội. Do phải làm việc với lượng tri thức lớn hơn so với THCS nên các em THPT phát triển nhanh về tính sáng tạo và phân tích. Các em có thể độc lập đưa ra lý luận của mình, không nhất nhất là đồng tình với giáo viên, có khi còn biện luận cho ý kiến của mình. Và ở độ tuổi này, tư duy đã đạt tới mức độ trưởng thành. - Khái niệm kỹ năng tự học: là khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng các kinh nghiệm có liên quan đến hoạt động đó. Có bao nhiêu loại hình học tập thì có bấy nhiêu loại hình kỹ năng chuyên biệt. Các nhà nghiên cứu đã phân chia các kỹ năng tự học theo nhiều cách khác nhau. Theo nhóm nghiên cứu ở Khoa Tâm lý - Giáo dục Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, kỹ năng tự học có thể được phân thành 4 nhóm, đó là nhóm kỹ năng định hướng, nhóm kỹ năng thiết kế (lập kế 8
- hoạch), nhóm kỹ năng thực hiện kế hoạch và nhóm kỹ năng kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm. Mộ số nhà giáo dục học khác cho rằng kỹ năng tự học của học sinh gồm 4 nhóm: kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hành, kỹ năng tổ chức, kỹ năng kiểm tra đánh giá. Tiếp thu những quan điểm trên, tôi phân chia hoạt động tự học của học sinh bao gồm các nhóm kỹ năng cơ bản sau: 2.1.1. Kỹ năng định hướng Trước tiên, để quá trình tự học diễn ra thành công người học cần thiết lập cơ sở định hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ thể có thể sử dụng nó để thực hiện một hành động xác định nào đó. Nó có chức năng nhận thức đối tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh hành động theo kế hoạch. Để có được cơ sở định hướng, người học phải trả lời được các câu hỏi: - Học nhằm mục đích gì? Học vì yêu thích môn học, vì trách nhiệm với gia đình và xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao… - Thái độ học tập ra sao? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời hợt qua loa. - Học như thế nào? Người học nên chọn phương pháp nào là phù hợp với bản thân. 2.1.2. Kỹ năng lập kế hoạch học tập Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu người học xác định được mục tiêu, nội dung và phương pháp học. Muốn vậy, người học phải xây dựng được kế hoạch học tập. Trên cơ sở bộ khung đã được thiết lập đó, người học có thể tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức một cách dễ dàng. Trong quá trình lập kế hoạch người học phải chú ý một số điểm sau: - Người học phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó có thể là kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho từng môn, từng phần. Kế hoạch phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình. - Khi lập kế hoạch, người học phải chọn đúng trọng tâm, cần xác định được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Kỹ năng thực hiện kế hoạch Muốn thực hiện thành công kế hoạch mình đã tạo lập, người học cần có một số kỹ năng sau: - Tiếp cận thông tin: lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, làm thí nghiệm… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt. 9
- - Xử lí thông tin: việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình này có thể được tiến hành thông qua các kỹ năng ghi chép, phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh… - Vận dụng tri thức, thông tin: thể hiện qua việc vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình huống, viết bài thu hoạch… - Trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức thông qua các hình thức: thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức. 2.1.3. Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự đánh giá được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái gì mình chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, học sinh cần: - Tự trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa bằng cách xác định yêu cầu của câu hỏi, dự kiến câu trả lời, tái hiện các kiến thức liên quan, tập trình bày câu trả lời trước nhóm hoặc trước lớp để tìm ra chỗ sai từ đó khắc phục. - Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè. - Làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm kiếm sau đó tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm… Tôi đã thực hiện một khảo sát thông tin ở ba loại hình học sinh: Lớp 10, 11, 12 với các đối tượng học sinh: Giỏi, khá, trung bình và yếu với 11 câu hỏi về hoạt động tự học của HS THPT tại trường THPT Thanh Oai A để nêu lên thực trạng về hoạt động tự học của HS. Theo kết quả khảo sát, có 56,3% HS chọn hình thức học một mình, 31,8% HS chọn nhóm bạn để cùng học tập và chỉ có 4,6% HS chọn hình thức học với người thân. Đặc biệt có tới 82,3% học sinh bị mất tập trung trong khi học, 76,2% học sinh không biết bắt đầu học từ đâu (Rỗng kiến thức) dẫn đến chán nản học tập. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, về kỹ năng tự học, có khoảng 62,1% - 75,8% HS còn lúng túng khi sử dụng các kỹ năng tự học. Mức độ sử dụng thành thạo các kỹ năng tự học của HS còn quá thấp (chỉ từ 6,1% - 14%). Về thời gian tự học của HS, có khoảng 35,7% - 39,9% HS chỉ tự học một ngày từ 1 giờ đến 2 giờ và có 6,9% - 8,7% HS tự học 3 giờ và trên 3 giờ mỗi ngày. Ý kiến của các HS về thời gian tự học cũng tương đối tương tự với các ý kiến của các GV khi kiểm tra hoạt động làm bài tập, chuẩn bị bài ở nhà. Nhiều học sinh 10
- còn nhầm lẫn giữa việc tự học với việc cắp sách đi học thêm buổi tối ở các lò luyện thi. Qua kết quả khảo sát, có thể thấy rằng hoạt động tự học của HS vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Theo kết quả trên, tỉ lệ HS tự học từ 1 đến 2 giờ chiếm khá cao. Bên cạnh đó, nhiều HS vẫn còn lúng túng khi sử dụng các kỹ năng tự học. Nguyên nhân một phần là do các em chưa có ý thức tự giác trong quá trình học tập, một phần khác là do các em chưa được định hướng một cách cụ thể trong hoạt động tự học của bản thân. Do vậy, vai trò của người GV trong việc phát triển kỹ năng tự học của HS nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở trường phổ thông là hết sức quan trọng. 2.2. Những việc giáo viên cần làm để phát triển kỹ năng tự học cho học sinh Thứ nhất, muốn học sinh có ý thức tự học thì trước hết học sinh phải yêu thích môn học đó. Vì vậy GV cần tạo cho HS niềm say mê môn học. GV có thể dùng tiết dạy để giới thiệu về môn học, về những giá trị của môn học trong thực tiễn bằng những ví dụ minh họa cụ thể nhằm kích thích động cơ học tập ở các em. Ví dụ ở môn Tiếng Anh, GV có thể làm được điều này thông qua cách đặt vấn đề bằng những câu chuyện hay đơn giản chỉ là những câu chuyện thú vị về phong tục tập quán của một dân tộc nào đó trên thế giới, hướng tư duy so sánh với những nét văn hóa của dân tộc Việt. Câu chuyện vừa đặt ra tưởng chừng rất đơn giản nhưng để trình bày được học sinh cần có vốn từ mới nhất định đòi hỏi học sinh cần tăng cường bổ sung vốn từ về chủ đề này. Thứ hai, GV cần hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ ban đầu. Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, GV không cần phải dạy ngay mà cần giới thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để HS hiểu và từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp. GV phải làm cho HS hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể và HS hoàn toàn có thể phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời gian được xây dựng chi tiết. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi chương, GV sẽ cung cấp nội dung và thời gian học và kiểm tra để HS nắm rõ. Đồng thời, GV có thể cho HS đánh dấu vào trong sách bài nào học ngày nào, đến tiết nào sẽ kiểm tra. Muốn HS tự xây dựng kế hoạch học tập thì GV phải là người cung cấp đầy đủ kế hoạch dạy và học của bộ môn. Thứ ba, GV hướng dẫn cho HS cách tìm và đọc sách hoặc tài liệu liên quan đến môn học. GV cần nhấn mạnh cho HS thấy rằng, kiến thức môn học không chỉ gói gọn trong nội dung SGK, trong bài giảng của GV mà đến từ nhiều nguồn khác nhau. Do đó, GV cần giới thiệu cho HS những cuốn sách hay, những tài 11
- liệu bổ ích liên quan đến môn học và khuyến khích các em tự tìm kiếm, tự phân tích và tổng hợp kiến thức. GV cũng có thể giới thiệu địa chỉ một số trang web chuyên ngành, hoặc các trang diễn đàn trao đổi kinh nghiệm học tập để HS tham khảo thêm. Ngoài ra học sinh còn tự tìm nguồn tài liệu báo cáo lại GV, GV nghiên cứu và điều chỉnh, xác nhận lại cho HS các nội dung chính xác, chưa chính xác trong tài liệu để học sinh tự học, tự nghiên cứu. Thứ tư, GV nên dạy cho HS cách ghi chép và nghe giảng vì đây là những kỹ năng học tập vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập của HS. Trình độ nghe và ghi chép của người học ở mỗi môn học khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào đặc thù của từng môn học và phương pháp giảng dạy của từng giáo viên. HS thường mang lối học thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều HS chỉ chờ GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung bài học, nếu ngược lại thì bỏ trống vở. Điều này khiến HS có tâm lí ức chế, ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức.Để khắc phục vấn đề này này, GV nên xây dựng bộ giáo trình mẫu, bên cạnh nội dung của bài học có chừa khoảng trắng cho HS ghi chép những vấn đề mà GV mở rộng. Đối với các vấn đề mà HS còn chưa rõ, có thể đánh dấu để hỏi lại GV hoặc tìm hiểu thêm. GV phải rèn luyện cho HS cách ghi chép nhanh bằng các hình thức gạch chân, tóm lược bằng sơ đồ hình vẽ những ý chính. Đối với các vấn đề quan trọng, GV cần nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần để HS tiếp thu dễ dàng hơn. Thứ năm, GV hướng dẫn cách học bài. GV nên giới thiệu và hướng dẫn cho HS tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Benjamin S.Bloom. Theo cách phân chia trong thang nhận thức của Bloom, HS có thể học cách phân tích, tổng hợp, vận dụng tri thức vào từng tình huống thực tiễn, học cách nhận xét, đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức khác… Cách tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom sẽ giúp cho HS có thể học được cách rèn luyện được năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng và phát triển tư duy sáng tạo trong việc tìm ra những hướng tiếp cận mới đối với các vấn đề khoa học. Thứ sáu, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS ở tiết học tiếp theo. Để phát huy tối đa năng lực tự học và thúc đẩy HS tận dụng hết thời gian tự học, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS. Có như thế, các em mới định hướng được cụ thể các nhiệm vụ mình cần làm tiếp theo. Sau khi đã tiếp nhận được kiến thức cũ, các em có thể tìm hiểu kiến thức mới. Khi có sự chuẩn bị trước ở nhà, việc học trên lớp sẽ trở nên có hiệu quả hơn rất nhiều. Vấn đề tự học ở HS là một vấn đề không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập đạt kết quả cao, đòi hỏi HS phải tự giác, không ngừng tìm tòi học hỏi. 12
- Ngoài ra, sự định hướng của người thầy đóng vai trò quyết định thúc đẩy sự thành công trong việc chiếm lĩnh tri thức của người học. 2.3. Những khó khăn mà học sinh cần nỗ lực vượt qua trong việc rèn luyện kỹ năng tự học. 2.3.1. Thiếu tập trung trong quá trình tự học Học sinh trong thế giới hiện đại ngày nay có quá nhiều thứ cám dỗ xung quanh. Đặc biệt là mạng xã hội. Các em có thể dành hàng giờ lướt Facebook, Instagram…để like, để comment. Nhưng lại không tự tạo cho mình động lực học tập chăm chỉ. Nhiều em cứ thế trượt dài trong sự lười biếng, kết quả học tập ngày càng sa sút. Nhiều em nhận thức được vấn đề nhưng lại gặp khó khăn trong việc tạo động lực học. Khi học bài thường khó tập trung và dễ chán nản giữa chừng. Vậy làm sao tạo động lực thật mạnh mẽ, giúp bản thân chăm chỉ hơn mỗi ngày. Biện pháp đơn giản để tập trung trong khi học là sử dụng giấy nháp và vận dụng các giác quan trong khi học: mắt, tay, miệng… để thực hiện cùng một hoạt động học. Ở giai đoạn đầu cải thiện sự tập trung học sinh cần chú ý khi học một đoạn thông tin, học sinh phải sử dụng mắt và miệng đọc nhẩm, não suy nghĩ rút ra ý chính, tay viết nhanh các ý chính ra giấy nháp. Nếu là các môn khoa học tự nhiên học sinh phải ôn lại lý thuyết, dẫn dắt ra công thức và ứng dụng vào giải những ví dụ cơ bản. Nếu là môn học ngoại ngữ học sinh vận dụng rất nhiều để đọc bằng mắt, đọc to, suy nghĩ, tra từ điển, tìm lại cấu trúc câu viết ra giấy nháp rất nhiều. Những hoạt động song song liên tục này sẽ cuốn hút suy nghĩ của chúng ta vào nội dung học, không có cơ hội cho ta suy nghĩ lan man mất tập trung. Mỗi người đều nên chọn cho mình một nơi học tập và làm quen với chúng. Đó có thể là một góc trong nhà, một quán cà phê, hoặc khu tự học ở trường. Yêu cầu chỉ đơn giản là phải sáng sủa, yên tĩnh và có bàn ghế. Càng quen thuộc với vị trí ngồi học, mình sẽ càng nhanh đạt được trạng thái tập trung. Khi học, một số học sinh thường không chuyên tâm mà vừa học vừa làm việc khác, thậm chí ăn uống, lướt facebook… Một giải pháp thiết thực nhất là hãy chặn các mạng xã hội, thói quen ăn vặt lúc học. Khi đó não không bị phân tán bởi nhiều điều khác nhau, chỉ chú tâm vào việc học nên khả năng tiếp thu sẽ tốt hơn rất nhiều. Đây chính là một trong những cách giúp học sinh tập trung trong thời gian ngắn nhất để đạt được hiệu quả cao nhất. Học sinh cần gắn chặt việc học của mình với giờ giấc đó. Điều này cũng tương tự như ý 1, để não bộ “như một thói quen” đạt tới trạng thái tập trung cao . 13
- 2.3.2. Tính kiên trì không cao, gặp bài khó hay nản chí. Muốn lấy lại cảm hứng học tập, bước đầu chúng ta đừng vội lao vào những môn học, chủ đề "khó nhằn", điều này có thể gây phản tác dụng. Vì chúng ta dễ rơi vào thế bế tắc, không giải quyết được vấn đề dẫn đến việc chán nản. Mọi thứ đều nên diễn ra một cách từ từ, đi từ đơn giản đến phức tạp. Hãy bắt đầu từ những môn học nhẹ nhàng, "dễ thở". Thêm một điều nữa là, thay vì chỉ học một môn duy nhất trong suốt một thời gian dài, chúng ta nên đan xen nhiều môn học nếu học trong khoảng thời gian dài (tốt nhất là từ 3 đến 4 môn). Việc này sẽ giúp não bộ duy trì được sức bền. Một trong những nguyên nhân phổ biến nhất khiến chúng ta lười hoặc chán học là không có cho mình một kế hoạch học tập lẫn mục tiêu rõ ràng. Đừng chỉ cắm đầu vào học, mà trước mỗi buổi học, hãy tự xác định những phần việc mình cần hoàn tất. Ví dụ chúng ta có thể ghi ra một danh sách gồm số lượng bài tập cần hoàn thành trong vòng 3 tiếng đồng hồ. Từ đó, phân bổ thời gian 15-20 phút cho từng bài. Và phải cố gắng làm sao cho không quá giờ. Đây là cách hiệu quả giúp tăng cường sự tập trung học tập. Sau khoảng hai giờ liên tục ngồi học, hãy đứng dậy đi lại và thư giãn tầm 15 phút. Việc này không chỉ làm đầu óc mình bớt căng thẳng, mà còn giúp cơ thể mình tránh được những chứng, tật do ngồi quá lâu như đau mỏi cơ bắp hay thoát vị đĩa đệm. Tuy nhiên, cũng đừng nghỉ ngơi quá lâu, vì như vậy khiến mình mất nhiều thời gian để tập trung học tập khi ngồi lại vào bàn. Cũng tương tự như vậy. Khi học sinh có học lực không tốt, thường xuyên cảm thấy chán nản hãy tìm những người bạn chăm chỉ, có thành tích cao trong học tập. Họ sẽ giúp đỡ những học sinh yếu này, cùng học với họ. Tự học sinh yếu sẽ muốn được như họ và động lực học sẽ tự xuất hiện. 2.3.3. Tập đánh giá hiệu quả việc học Người học giỏi không chỉ chăm học, mà còn biết đánh giá hiệu quả học tập của mình nữa. Chúng ta không nên mải miết theo đuổi mục tiêu, mà phải dành thời gian để xem thử cách làm của mình đã tối ưu hay chưa; Có cách giảm bớt thời gian, công sức mà vẫn giữ nguyên, hoặc tăng hiệu quả học tập hay không. Sau một thời gian ngắn đánh giá lại kết quả học tập giúp chúng ta suy nghĩ đến những điểm yếu chưa khắc phục để tiếp tục quyết tâmtrong thời gian tới đồng thời ghi nhận những kết quả đã đạt được để tạo động lực trong học tập. Nâng dần kết quả học tập theo thời gian. 2.3.4. Tính trì hoãn việc học Rất nhiều học sinh có thói quen trì hoãn việc học tập với câu nói “chơi nốt tối nay, chơi nốt tuần này, chơi nốt tết này, chơi nốt mùa hè này…” Có rất nhiều 14
- lý do giải thích cho việc vì sao học sinh lại trì hoãn học của mình. Tất cả những điều đó đều xuất phát từ sự thiếu tập trung và chưa có động lực trong học tập của học sinh. Học sinh nên luyện cho mình tính kỷ luật khi học trên lớp cũng như lúc tự học. Không thể vừa học, vừa nói chuyện, vừa học vừa chơi game hay làm một việc khác. Khi học cần dành toàn bộ tâm trí, tập trung cao độ, không xao nhãng. Không nên tập cho mình những thói quen xấu khi học, nếu không những thói quen này sẽ theo học sinh ở bất kỳ hoàn cảnh nào trong đời sống cũng như công việc. Hãy đặt kỷ luật khi học, đó cũng là cách tốt nhất để bạn rèn luyện tính kỹ luật cho bản thân mình sau này. Ví dụ cho sự trì hoãn của mình bằng khẩu hiệu : “Chưa học bài xong chưa đi ngủ, chưa học bài đủ chưa đi chơi”. Coi đây là kim chỉ nam trong quá trình học tập của mình. Học sinh chưa thấy được tầm quan trọng của việc học cũng như chưa đặt nó lên vị trí ưu tiên số một thì sẽ không thể làm tốt bất cứ điều gì nếu không quyết tâm, chiến thắng sự lười biếng của bản thân. 3. Đánh giá về công tác định hướng, bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh ở trường THPT Thanh Oai A, Thành phố Hà Nội. Những kết quả bước đầu Chuyên môn nhà trường phối hợp với tổ chức Đoàn thanh niên, Ban hoạt động ngoài giờ lên lớp, Hội phụ huynh, các tổ chức trong nhà trường xây dựng được bản kế hoạch chuyên môn có chiến lược phát triển năng lực tự học cho học sinh thông qua các hoạt động bồi dưỡng chuyên môn của giáo viên, các tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch triển khai trong các giờ lên lớp. Giáo viên chủ nhiệm lớp tổ chức phối hợp hoạt động với cha mẹ, gia đình học sinh. Phụ trách chuyên môn trong nhà trường tổ chức các cuộc khảo sát thu thập thông tin về khả năng học sinh tự học và đã tổ chức các buổi tuyên truyền, hướng dẫn kỹ năng tự học, tổ chức buổi nói chuyện chia sẻ những khó khăn và giúp đỡ học sinh tháo gỡ khó khăn trong quá trình tự học của học sinh. Những buổi nói chuyện này đã lôi cuốn được học sinh và giáo viên nhiệt tình tham gia, tạo hứng thú và phát huy được tính tích cực trong khi tổ chức các hoạt động giáo dục. Từ ba năm học 2018-2019, 2019-2020, 2021 đến nay dựa trên kế hoạch đã xây dựng, triển khai các hoạt động học tập đều đặn phù hợp với tâm lý lứa tuổi và nhu cầu hiểu biết, rèn luyện của các em học sinh. Các tổ chuyên môn, các giáo viên là tổ trưởng chuyên môn, nhóm trưởng chuyên môn, giáo viên giỏi, giáo viên tham gia bồi dưỡng các đội tuyển học sinh giỏi là nòng cốt cho công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh trong nhà trường. Các tập thể lớp học sinh có nhiều thành tích trong học tập, các học sinh 15
- tham gia các đội tuyển học sinh giỏi và đặc biệt những em học sinh đã đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp Trường, cấp Tỉnh, cấp Quốc gia là những nhân tố tích cực trong công tác tuyên truyền và hướng dẫn các bạn học sinh khác tham gia vào phong trào tự học. Thực sự năng lực tự học của cán bộ, giáo viên và học sinh của nhà trường đã được cải thiện và nâng cao rất nhiều trong những năm gần đây góp phần cơ bản trong phát triển giáo dục toàn diện như mục tiêu các năm học đã đề ra. Chất lượng giáo dục toàn diện và chất lượng giáo dục mũi nhọn của nhà trường đều tăng nhanh và đi vào chiều sâu. Những mặt tồn tại, hạn chế trong công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh. + Về nhận thức: Một số ít cán bộ, giáo viên, nhân viên còn xem nhẹ công tác bồi đưỡng năng lực tự học cho bản thân giáo viên và cho học sinh, xem đó là hoạt động "tự bản thân" mà chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của nó nên chưa có động thái tìm hiểu tâm tư, khó khăn mà học sinh gặp để giúp định hướng tháo gỡ cho các em. Bởi vậy việc triển khai thực hiện và tham gia giúp đỡ học sinh nhất là học sinh có năng lực yếu chưa đồng bộ dẫn tới chất lượng học tập của một số học sinh này còn thấp. Nhận thức của một số bậc phụ huynh và học sinh về tự học chưa đúng đắn. Gia đình chỉ cung cấp tiền cho con em tham gia quá nhiều buổi học thêm kiến thức tại các lò luyện thi mà chưa chú trọng tới việc dành thời gian vào việc tự ôn bài, tự tìm hiểu kiến thức. Điều này đã tác động không nhỏ tới chất lượng học tập của một bộ phận học sinh trong nhà trường. Nhận thức của một số học sinh về tự học còn thấp, chỉ coi trọng đến các giờ học để thi cử; chú trọng vào các bài học để thi, các giờ học gần giờ kiểm tra và thi. Mong muốn đạt điểm cao trong các kỳ thi, tâm lí thi cử còn nặng nề mà chưa chú ý đến bồi dưỡng cho mình khả năng tự tìm tòi kiến thức, tìm thấy niềm vui trong học tập. + Về đội ngũ thực hiện: Do thời gian triển khai còn ngắn nên việc tổng kết, rút kinh nghiệm chưa được thường xuyên; Có nhiều hạn chế nhưng chưa khắc phục được dẫn tới chất lượng và hiệu quả một số hoạt động giáo dục cần tính tự học của học sinh chưa được nâng cao. Do đội ngũ cán bộ giáo viên thực hiện chủ yếu lấy từ giáo viên chủ nhiệm và một số giáo viên bộ môn chưa có kỹ năng chuyên sâu để tổ chức các buổi 16
- hướng dẫn, tuyên truyền nêu những tấm gương tự học cho học sinh nên nhiều lúc còn khó khăn trong tổ chức trên diện rộng. Một số vấn đề đặt ra trong công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh ở trường THPT Thanh Oai A. Trên cơ sở phân tích thực trạng về công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh, tìm ra những mặt đã làm được, những mặt còn tồn tại hạn chế, bản thân tôi rút ra những vấn đề như sau: Coi trọng công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh từ đó xây dựng kế hoạch khả thi để tổ chức tuyên truyền, định hướng bồi dưỡng cho học sinh. Nâng cao nhận thức đối với đội ngũ cán bộ công nhân viên, phụ huynh học sinh và học sinh toàn trường về kỹ năng tự học, học tập suốt đời. Đổi mới và nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động giáo dục phát huy vai trò tự học của học sinh kể cả về nội dung và hình thức. Đẩy mạnh công tác kiểm tra đánh giá hoạt động tự học của học sinh. Cần tăng cường về thời gian, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ hoạt động tự học của học sinh với những giờ học trên lớp và tại gia đình, ngoài cộng đồng. Có chương trình bồi dưỡng, tự bồi đưỡng nâng cao kiến thức kỹ năng tự học và hướng dẫn học sinh tự học. Để giải quyết những hạn chế, nâng cao việc chỉ đạo công tác bồi dưỡng ý thức tự học cho học sinh tại trường THPT Thanh Oai A, Thành phố Hà Nội tôi đề xuất một số giải pháp. 4. Một số giải pháp cho công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh tại trường THPT Thanh Oai A a. Nâng cao nhận thức về kỹ năng tự học - Đối với đội ngũ cán bộ giáo viên tuyên truyền qua nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể, Hiệu trưởng quán triệt thông qua hội nghị công nhân viên chức xây dựng nghị quyết năm học, trong đó có lưu ý đến việc bồi dưỡng năng lực tự học và những quy chế về tổ chức hoạt động này trong nhà trường. - Đối với Hiệu trưởng nhà trường: Cần xác định rõ công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh là một bộ phận của quá trình dạy học nhằm mục tiêu đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện. Mặt khác đối với chương trình mới, năng lực tự học trở thành một yếu tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục của nhà trường theo yêu cầu mới hiện nay. Từ đó Hiệu trưởng đưa ra những biện pháp thích hợp trong việc phân công nhiệm vụ, lập kế hoạch và tổ chức thực hiện. Song song với nó là định hướng bồi dưỡng nâng cao nhận 17
- thức cho đội ngũ cán bộ giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh của nhà trường về công tác này. - Đối với học sinh và cha mẹ học sinh: + Học sinh đóng vai trò chủ thể của hoạt động, là người trực tiếp thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản của bfồi dưỡng năng lực tự học. Để đạt được hiệu quả, cần phải có biện pháp nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh như thông qua giáo viên chủ nhiệm lớp, tổ chức Đoàn; Tổ chức các hoạt động thực sự hấp dẫn và có tác dụng để lôi cuốn học sinh tham gia, từ đó tác động đến suy nghĩ của các em. + Vai trò của phụ huynh học sinh chiếm vị trí quan trọng trong nhà trường. Cần tuyên truyền để lực lượng này nắm được về chương trình, kế hoạch hoạt động thông qua Ban đại diện hội cha mẹ học sinh của trường, lớp, từ đó tác động đến từng phụ huynh học sinh. b. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo tổ chức hoạt động bồi dưỡng năng lực tự học Căn cứ vào mục tiêu giáo dục, chương trình kế hoạch năm học của từng khối lớp do Bộ giáo dục và Đào tạo quy đinh, tình hình thực tế của nhà trường để xây dựng kế hoạch tổ chức bồi dưỡng năng lực tự học. Trong kế hoạch cần cân đối các hoạt động từ đầu năm đến cuối năm và trong hè; Có kế hoạch cụ thể, có phân công, phân cấp, phân nhiệm cụ thể rõ ràng. Khi xây dựng kế hoạch cần chọn lọc những hoạt động cụ thể phù hợp với đối tượng học sinh, với đặc thù môn học; xác định mục tiêu và thời gian nhất định; có ý thức cập nhật thông tin, phục vụ kịp thời những nhiệm vụ đột xuất; cần kết hợp khéo léo giữa các hình thức và nội dung sinh hoạt với nhau để các hoạt động trở thành nền nếp; Có kế hoạch kiểm tra, đánh gia kịp thời, có tác dụng tích cực. Xây dựng kế hoạch cụ thể: trong nhà trường, ngoài nhà trường, tại gia đình. - Sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, sinh hoạt các câu lạc bộ trực tuyến. - Tổ chức diễn đàn thanh niên với phong trào tự học và sáng tạo vào các tiết sinh hoạt lớp (thứ 7) với các nội dung phong phú phù hợp với lứa tuổi như chia sẻ kinh nghiệm học tập, chia sẻ những cuốn sách hay... - Tổ chức xem phim về lịch sử, công nghệ mới để tìm hiểu công nghệ mới. - Tổ chức giao lưu dự giờ học, lồng ghép với giao lưu văn nghệ với học sinh các trường bạn, 18

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p |
330 |
62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p |
214 |
30
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p |
200 |
25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p |
61 |
15
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p |
170 |
11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p |
47 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p |
68 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p |
67 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p |
49 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p |
47 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p |
56 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p |
56 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả daỵ - học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh qua tiết 07 - bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia
45 p |
29 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p |
52 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp tính khoảng cách trong hình học không gian lớp 11
35 p |
27 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p |
90 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p |
57 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p |
31 |
3


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
