
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh trong chương trình Địa lí cấp trung học phổ thông
lượt xem 6
download

Đề tài "Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh trong chương trình Địa lí cấp trung học phổ thông" nhằm cung cấp một số cơ sở lí luận về đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học liên quan đến nội dung tự học trong môn Địa lí, đồng thời đánh giá được thực trạng tổ chức hoạt động dạy học nói chung và rèn luyện năng lực tự học nói riêng trong chương trình Địa lí cấp THPT, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học góp phần hình thành, phát huy các phẩm chất, năng lực của HS, giúp các em thích nghi được với những thay đổi của hoàn cảnh sống, có kĩ năng để học tập suốt đời.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh trong chương trình Địa lí cấp trung học phổ thông
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Khi đánh giá quá trình DẠY HỌC, chúng ta đánh giá vào sản phẩm. Học sinh chính là sản phẩm và cũng là chủ thể của quá trình. Để quá trình DẠY HỌC được thành công thì học sinh phải biết tự học. Nghĩa là học sinh phải tự nỗ lực để chiếm lĩnh tri thức. Biết tự học thì tri thức xã hội mới biến thành sản phẩm của chính mình. Sản phẩm chỉ được đánh giá một cách chính xác khi học sinh biết tự học. Nếu sản phẩm không phải là do tự học mang lại thì thành tích chỉ để trang trí. Nguồn tri thức thì vô tận và đang bùng nổ nhanh chóng, bản thân giáo viên cũng không thể nào biết hết được và cũng không thể nào đi theo suốt cuộc đời các em học sinh mặc dù mình rất thương yêu chúng. Hôm nay, ta dạy học sinh biết tự học; ngày mai, học sinh mới biết lao động và sáng tạo. Giáo dục cho học sinh tính tự học là vấn đề rất thiết thực và mang tính thời sự trong giáo dục hiện nay. Thực tế cho thấy các em đạt kết quả cao trong các kì thi học sinh giỏi là những em dành rất nhiều thời gian cho việc tự học của mình. Để việc tự học của học sinh đem lại hiệu quả thì vai trò của giáo viên trong quá trình này rất quan trọng: “Người thầy dạy giỏi là người thầy biết giải thích; Người thầy xuất sắc là người thầy biết minh họa; Người thầy xuất chúng là người thầy biết truyền cảm hứng.” Thầy cô là người tạo môi trường và tình huống để học sinh có thể rèn luyện khả năng tự giải quyết vấn đề thông qua việc tổ chức hoạt động học và dạy cách học. Để làm được điều đó, giáo viên phải nắm vững quá trình hình thành nhận thức, thường xuyên cập nhật, thay đổi phương pháp, liên hệ chặt chẽ với phụ huynh, hướng dẫn học sinh biết sử dụng và áp dụng công nghệ thông tin, năng lực số vào trong quá trình tự học, liên hệ kiến thức với cuộc sống để hấp dẫn tạo hứng thú tìm tòi của học sinh. Như vậy việc giáo viên định hướng, tạo điều kiện học sinh biết tự học một cách hiệu quả là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá trình biến người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo dục). Tự học giúp nâng cao kết quả học tập của học sinh và chất lượng giáo dục của nhà trường, là biểu hiện cụ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông. Cùng với việc "Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời" cần "tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực…" (Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 4/11/2013). Để đạt được mục tiêu và thực hiện tốt giải pháp trên thì việc phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của 1
- học sinh là điều vô cùng cần thiết, cần thực hiện thường xuyên trong quá trình dạy học. Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và hình thức dạy học để phù hợp với những yêu cầu của công cuộc đổi mới giáo dục trong thời đại 4.0, phù hợp sự diễn biến phức tạp của dịch bệnh trong những năm trở lại đây, nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao nhận thức về dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực, nâng cao năng lực tự học của học sinh, tôi đã mạnh dạn xây dựng đề tài “Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh trong chương trình Địa lí cấp trung học phổ thông” 2. Mục đích nghiên cứu Trước hết đề tài nhằm cung cấp một số cơ sở lí luận về đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học liên quan đến nội dung tự học trong môn Địa lí, đồng thời đánh giá được thực trạng tổ chức hoạt động dạy học nói chung và rèn luyện năng lực tự học nói riêng trong chương trình Địa lí cấp THPT, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học góp phần hình thành, phát huy các phẩm chất, năng lực của HS, giúp các em thích nghi được với những thay đổi của hoàn cảnh sống, có kĩ năng để học tập suốt đời. 3. Điểm mới của đề tài. Cụm từ “tự học” không còn xa lạ đối với chúng ta, mặc dù đã có những tác giả khai thác về nội dung này, nhưng tôi xin khẳng định những giải pháp mà tôi nêu ra trong SKKN này hoàn toàn là những kinh nghiệm, những tâm huyết mà bản thân tôi đã đúc kết lại trong quá trình giảng dạy của mình và đã được kiểm định qua thực tế. Đề tài đã góp phần nâng cao tính hứng thú, hấp dẫn và hiệu quả cho các giờ học. Đồng thời phát huy tối đa khả năng chủ động, sáng tạo tiếp thu kiến thức của học sinh. Đặc biệt các giải pháp mà tác giả nêu ra có tính hệ thống, kết hợp các giải pháp truyền thống và hiện đại, phù hợp tâm sinh lý và lứa tuổi của HS, có tính thực tiễn cao, dễ áp dụng, có tính khả thi. Đề tài không chỉ áp dụng cho môn địa lí mà còn có thể áp dụng vào các môn học khác trong chương trình giáo dục phổ thông. Thích ứng với yêu cầu mới của nền giáo dục hiện đại, cũng như những thay đổi thất thường của Thế giới hiện nay (thiên tai, dịch bệnh...). PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận . 1.1. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới chương trình giáo dục và cùng với nó là đổi mới PPDH và đổi mới đánh giá là những phương diện thể hiện sự quyết tâm cách tân, đem lại những thay đổi về chất lượng và hiệu quả giáo dục. Về phương pháp dạy học, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; 2
- phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động tự học, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Bởi vậy một giờ học t ốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Về bản chất, đó là giờ học có sự kết hợp giữa học tập cá thể (hình thức học cá nhân) với học tập hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo lớp); Chú trọng kết hợp học với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các kỹ năng, gắn với thực tiễn cuộc sống; Phát huy thế mạnh của các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại; Các phương tiện, thiết bị dạy học và những ứng dụng của công nghệ thông tin…; Chú trọng cả hoạt động đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh. Mặt khác đổi mới phương pháp dạy học còn được cụ thể hóa trong các văn bản chỉ đạo về việc thực hiện nhiệm vụ năm học hàng năm của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của Sở Giáo dục và Đào tạo; Kế hoạch năm học của nhà trường, kế hoạch tổ, nhóm chuyên môn và kế hoạch giáo dục của mỗi giáo viên. Chính vì lẽ đó trong những năm gần đây, nhiều giáo viên đã có sáng kiến trong việc áp dụng kỹ thuật dạy học, đổi mới phương pháp dạy học đã góp phần tăng hiệu quả giờ dạy. 1.2. Quan niệm, vị trí, vai trò về tự học và sự cần thiết phải nâng cao năng lực tự học của học sinh. 1.2.1. Quan niệm về tự học và sự cần thiết phải nâng cao năng lực tự học của học sinh. Đến nay, còn có nhiều quan niệm về tự học, chẳng hạn như: Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức thuộc một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học. Tự học là quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV và sự quản lí trực tiếp của cơ sở giáo dục và đào tạo. Cụ thể hơn, tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung 3
- thực, khách quan có ý chí tiến thủ, không ngại khó, kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Theo quan điểm dạy học tích cực, bản chất của học là tự học, nghĩa là người học luôn là chủ thể nhận thức, tác động vào nội dung học một cách tích cực, tự lực, chủ động và sáng tạo để đạt được mục tiêu học tập. Hay nói cách khác, không ai học giúp cho người học được, vì thế muốn học được phải tự học. Theo đó, quá trình hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ, chủ yếu là do HS tự thực hiện, còn môi trường học chỉ đóng vai trò trợ giúp. Việc học chỉ có hiệu quả khi người học ý thức được việc học (có nhu cầu học tập) từ đó có động cơ, ý chí và quyết tâm để vượt qua những khó khăn, trở ngại trong học tập. Tự học là một quá trình chủ thể nhận thức tác động một cách tích cực, tự lực, chủ động và sáng tạo vào đối tượng học nhằm chuyển hoá chúng thành tài sản riêng, làm cho chủ thể thay đổi và phát triển. Có thể nói là con người ai cũng phải tự học, do vậy trong cuộc đời của mỗi người bao giờ cũng có hoạt động tự học, song vấn đề quan trọng là tự học ở mức độ nào và tự học như thế nào, hướng tới học suốt đời. Đặc điểm cơ bản quan trọng không thể thiếu của tự học là sự tự giác và kiên trì cao, sự tích cực, độc lập và sáng tạo của HS tự mình thực hiện việc học. Như vậy, tự học là sự tích cực, tự lực, chủ động của chủ thể nhận thức trong hoạt động học, quá trình tự học do người học tự thực hiện (mang sắc thái cá nhân). Tuy nhiên, cần chú ý rằng với HS phổ thông để việc tự học đạt hiệu quả thường cần phải có sự hướng dẫn, trợ giúp của GV hay người trợ giúp. Theo đó, GV cần tạo ra môi trường để HS phát huy nội lực của mình trong quá trình khám phá kiến thức. Xét về có hay không có sự trợ giúp từ các yếu tố bên ngoài, tự học có hai mức độ: tự học hoàn toàn và tự học có hướng dẫn. Tự học có hướng dẫn là hình thức tự học để chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng tương ứng với sự hướng dẫn tổ chức chỉ đạo của GV hay người hướng dẫn, thông qua bài giảng hoặc tài liệu hướng dẫn học. Tự học có hướng dẫn là việc học cá nhân và tự chủ, được sự giúp đỡ và tăng cường của một số yếu tố như GV hay người hướng dẫn hay công nghệ giáo dục hiện đại. Khi đó, người học là chủ thể, trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức, chân lí bằng hành động của mình. Người thầy là tác nhân hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn cho trò tự học trong sự hợp tác với bạn, với thầy, với học liệu,… Như vậy, tự học là tự mình thực hiện việc học. Tự học không thể thiếu trong hoạt động học, trong đó HS phải biết huy động hết khả năng trí tuệ, tình cảm và ý chí của mình để lĩnh hội một cách sáng tạo tri thức kĩ năng và hoàn thiện nhân cách của mình dưới sự hướng dẫn của GV. Kết quả tự học cao hay thấp phụ thuộc vào kĩ năng tự học của mỗi cá nhân và đặc biệt với HS THPT thì 4
- còn phải phụ thuộc rất lớn đến sự hướng dẫn của GV hay học liệu, phương tiện hỗ trợ,... 1.2.2. Vị trí, vai trò của tự học. Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có nêu lên mục tiêu cụ thể, trong đó có đề cập tới việc “phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”; trong các giải pháp có nêu “tập trung dạy cách học, cách nghĩ, ́ ự hoc, t khuyên khich t ́ ̣ ạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức hoc tâp đa d ̣ ̣ ạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoai khoá, nghiên c ̣ ứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy và học”. Tự học được xem là một mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình dạy học GV không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những kiến thức có sẵn, yêu cầu HS ghi nhớ,… mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho HS tự khám phá ra những quy luật, thuộc tính mới của các kiến thức hay các vấn đề khoa học. Qua đó, giúp HS không chỉ nắm bắt được kiến thức mà còn biết cách tìm ra những kiến thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại còn xác định rõ: càng ở trình độ cao thì tự học càng cần được coi trọng. Nói tới phương pháp dạy học thì cốt lõi là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Vì thế, muốn thành công trên bước đường học tập và nghiên cứu thì người học phải có khả năng tự phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc sống hay khoa học đặt ra. Rèn luyện kĩ năng tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực cho HS trong quá trình học tập: Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phải hình thành được phẩm chất đó cho người học. Khi đó giáo dục mới có thể đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (có nguồn gốc từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú, người học mới có được sự tự giác, say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập. Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời , học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với những biến đổi của sự phát triển kinh tế xã hội. Bằng con đường tự 5
- học mỗi người sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường, nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao, tạo đà cho tự học trong cuộc sống hay trong thực tiễn. 1.2.3. Một số yêu cầu đối với giáo viên và học sinh trong vấn đề tự học 1.2.3.1. Yêu cầu đối với giáo viên Để HS có thể tự học, tự nghiên cứu ở nhà được tốt thì đối với GV cũng cần đặt ra cho mình một số yêu cầu như sau: Giáo viên cần phải có đề cương chi tiết cho học sinh trước khi bắt đầu vào giảng dạy một nội dung nào đó. Trong đó có ghi rõ những phần học trên lớp, phần HS nghiên cứu tự học. Trong những bài, phần yêu cầu người học tự học GV nên nêu rõ mục tiêu của nội dung phần đó. Đặt ra các câu hỏi yêu cầu người học phải trả lời được sau khi học xong chương, phần đó. Yêu cầu HS đọc sách nào, nghiên cứu tài liệu nào hay phần nào và trả lời câu hỏi theo yêu cầu. Hướng dẫn HS kỹ năng đọc sách, nghiên cứu tài liệu, tóm tắt tài liệu đọc được, cách lập dàn bài, đề cương, kỹ năng phân tích bảng số liệu, sơ đồ, bảng biểu... Kiểm tra tự học của HS bằng các câu hỏi trắc nghiệm hoặc tự luận trên giảng đường hoặc qua các phần mềm tiện ích, phù hợp và lấy điểm làm điểm kiểm tra thường xuyên hoặc định kì. 1.2.3.2. Yêu cầu đối với học sinh Để có thể rèn luyện được phương pháp tự học, tự nghiên cứu, người học cần phải đảm bảo các yêu cầu sau: Học sinh phải cố gắng tự mình suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu nâng cao khả năng của mình. Điều đó đem lại lợi ích cho HS là tự động viên, nhắc nhở tinh thần cho chính bản thân mình. Phải làm cho HS hiểu rằng bất cứ việc gì, người nào biết dựa vào sức mình là chính, năng lực người đó mới nhanh chóng phát triển, sự thành công mới vững chắc. Điều quan trọng bậc nhất, độc lập suy nghĩ, làm việc sẽ khiến những kiến thức tiếp thu được sâu sắc, dễ vận dụng. Hiểu rõ mục đích học tập và xác định động cơ học tập đúng đắn. Khi hiểu rõ mục đích học tập và xác định động cơ học tập đúng đắn cần phân biệt sự khác nhau giữa phong cách học tập cũ và mới. Phong cách học tập mới là vừa 6
- học tập kiến thức khoa học vừa thông qua đó mà tự giác rèn luyện con người mình, nó chống lại việc chỉ lo nhồi nhét kiến thức mà không lo rèn luyện con người mới. Học phải có kế hoạch: người học phải lập kế hoạch cho việc tự học, tự nghiên cứu (Học lúc nào? Học ở đâu? Học môn gì, phần nào trước, môn gì, phần nào sau?), tốt nhất là rèn luyện được phương pháp học ở mọi nơi, mọi lúc. Khi bắt đầu tự học một môn hay một phần nào đó, HS phải xác định được nội dung cần đọc, cần nghiên cứu thông qua các câu hỏi của giáo viên. Khi xem xét một vấn đề, HS phải xuất phát từ định nghĩa, khái niệm và đặt vấn đề đó trong mối liên hệ với các vấn đề khác. Để tạo được hứng thú khi học thì HS nên bắt đầu từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ xa đến gần, từ cụ thể đến khái quát, trừu tượng. Bên cạnh đó HS phải rèn luyện kỹ năng đọc sách, kỹ năng nghiên cứu tài liệu cụ thể như sau: Khi đọc sách cần phải ghi chép: lập dàn bài cho những phần cần nghiên cứu, đầu tiên là dàn ý sơ lược, sau đó chi tiết hóa dần. Cố gắng nắm được cách bố trí, hệ thống của tài liệu, đọc những gì HS hiểu rõ nhất để xác định độ khó. Đừng nản chí nếu không hiểu. Dùng bút đánh dấu những chỗ quan trọng hay chưa hiểu để có thể xem lại. Trong khi đọc, thỉnh thoảng dừng đọc và đặt những câu hỏi kích thích và tự tìm câu trả lời. Sau khi tóm tắt được phần cần đọc thì trả lời các câu hỏi của giáo viên yêu cầu theo hiểu biết của mình dựa vào tài liệu đã được đọc. Để tìm ra được phương pháp giải quyết vấn đề, HS cần phát huy tư duy biện chứng, song trong quá trình giải quyết vấn đề thì lại cần vận dụng tới tư duy logic. Để đi đến kết quả trọn vẹn, HS cần rèn luyện tư duy về lựa chọn, lựa chọn những cách giải quyết giản dị, thấu đáo, trong sáng. HS phải học cách hệ thống hóa các kiến thức đã học từ trên lớp kết hợp với kiến thức đã học thông qua cách lập các sơ đồ về mối quan hệ giữa các kiến thức, lập các bảng so sánh, các bảng tổng hợp các nội dung đã học. Trong việc đẩy mạnh phương pháp tự học, cũng cần chú ý đến sự tương trợ, giúp đỡ nhau trong học tập tức là vấn đề "học thầy không tày học bạn" như ông cha ta đã từng đúc kết. Do đó, HS có thể kết hợp với những bạn khác thành nhóm học tập, trao đổi thông tin, học hỏi lẫn nhau để khắc sâu nội dung bài học. Trao đổi với giáo viên về những phần kiến thức khó, kiến thức không hiểu và những phần kiến thức người học muốn đi sâu tìm hiểu rõ hơn. 1.2.4. Một số phương pháp và hình thức hướng dẫn học sinh tự học. 7
- Để HS tự học có hiệu quả, ngoài việc tạo động cơ, hứng thú cho các em, cũng như hướng dẫn các em lập kế hoạch học tập hay tự kiểm tra đánh giá còn cần sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật tự học thông dụng. Một vài phương pháp và kĩ thuật tự học thông dụng được đề cập như phần dưới đây: a) Nghe hiệu quả Biết nghe giảng đúng cách hay nghe tích cực sẽ giúp HS rút ngắn thời gian học tập, làm bài tập nhanh chóng và dễ dàng hơn, tự tin, hứng thú hơn và không ngỡ ngàng khi gặp lại các nội dung học tập, nhất là trọng tâm bài học. Để luyện kĩ thuật nghe tích cực HS cần: Tập trung theo dõi bài giảng hay hướng dẫn học ngay từ lúc bắt đầu của tiết học, nhưng chưa nên nghĩ đến việc sẽ làm gì, vì điều đó có thể sẽ phá vỡ lôgic của nội dung cũng như quá trình nghe giảng. Tập trung nghe trọn vẹn nội dung chính, những điểm quan trọng nhất mà GV thường nhấn mạnh qua ngữ điệu hay qua việc nhắc lại nhiều lần, để hiểu vấn đề, rồi ghi chép ý chính theo cách hiểu của mình. Chú ý ghi theo dàn bài để nhìn được khái quát cấu trúc chung của bài học, chú ý tới trọng tâm, mấu chốt của vấn đề. Chú ý đến các bảng tóm tắt, các sơ đồ và các tài liệu trực quan khác đã giới thiệu, vì ở thời điểm này người thầy (hay người hướng dẫn) so sánh, phân tích, hệ thống hoá kiến thức,... nhờ đó ta có thể nắm được trình tự, tiến dần đến kết luận và rút ra cái mới. Nếu gặp chỗ nào khó, không hiểu, thì hãy tạm thời gác nó lại và sẽ cố gắng tìm hiểu những điều đó sau, để quá trình nghe giảng không bị gián đoạn. Trong hoặc cuối tiết học, có thể nêu câu hỏi với GV hay người hướng dẫn để làm rõ những chỗ chưa hiểu, khắc sâu kiến thức,... Lưu ý: Nên dành vài phút để đọc lướt qua tài liệu sẽ học trước khi nghe giảng. Nhờ đó, biết được những vấn đề khó để nhắc mình chăm chú hơn khi nghe giảng. b) Ghi chép hiệu quả Ghi chép không những có thể khiến tăng cường sự tập trung mà còn là một công cụ hỗ trợ ghi nhớ. Khả năng ghi chép phụ thuộc vào từng người và được bắt nguồn từ những kinh nghiệm có sẵn. Ghi chép còn giúp chúng ta nguồn lưu trữ thông tin để sau này dùng lại hay ôn lại nếu cần. Song để ghi chép được nhanh và hiệu quả nên sử dụng các thủ thuật như: dùng từ viết tắt, dùng chữ bắt đầu của một từ; dùng các kí hiệu hoặc tạo ra những từ viết tắt riêng cho mình; đặt tựa đề riêng cho đề mục và ghi lùi sang phải từng chi tiết liên quan với đề mục; dùng những chấm riêng cho từng dòng và xuống dòng cho mỗi chi tiết; chừa chỗ trống nhiều so với lề trái, khoảng 1/3 chiều ngang tờ 8
- giấy; ... Không cần ghi lại mọi thứ mà hãy tư duy, lắng nghe để hiểu và ghi được những điều quan trọng nhất. c) Đọc hiệu quả Đọc hiệu quả là đọc một cách tập trung và kĩ lưỡng để hiểu được chính xác những gì đọc được. Ta biết rằng một từ, một cụm từ hay một chữ, thường có hai phần là âm và nghĩa. Đứng về mặt kĩ thuật, đọc là một quá trình kết hợp lướt mắt qua các con chữ và nhập nghĩa của các con chữ đó vào đầu. Khâu thứ nhất xem như khâu nhận mặt chữ hay biết âm chỉ bao gồm việc nhận dạng kí tự, đọc thầm, phân tích ngữ pháp của câu để chuẩn bị cho việc hiểu nghĩa. Khâu thứ hai xem như khâu nhập nghĩa vào trong đầu là quá trình chuyển các kí tự đọc được thành nghĩa. Nó thường xảy ra theo hướng so sánh khái niệm hoặc ý nghĩa vừa đọc với nhận thức cũ của mình. Khi đó, nếu có sự phù hợp hay quen thuộc, thì việc hiểu này mang nghĩa củng cố kiến thức; còn nếu nó xa lạ hay trái với những gì mình đã biết thì việc nhập kiến thức sẽ mang nghĩa tiếp nhận, nạp cái mới. d) Ghi nhớ thông tin hiệu quả Ghi nhớ là quá trình tiếp nhận thông tin và lưu giữ thông tin ấy trong đầu, để sau đó có thể nhắc lại, dùng lại được. Ghi nhớ đòi hỏi yêu cầu cao với người học. Để có thể ghi nhớ thông tin nhanh và lâu, cần lưu ý các bước sau: Đọc đi đọc lại: Đọc lại những gì đã ghi chép sau buổi học sẽ giúp nhớ bài tốt hơn. Có thể đọc một tài liệu nhiều lần, mỗi lần với một mục tiêu khác nhau và đọc theo đúng mục tiêu đó. Nắm ý chính: Nắm được ý chính trong mỗi đoạn văn và hiểu nó theo cách của mình là điều cốt lõi của việc đọc có hiệu quả. Trích lược những chi tiết quan trọng: Mỗi ý chính trong một bài đều có liên quan đến một chi tiết quan trọng, vì thế, nếu càng nhớ và dẫn được càng nhiều chi tiết quan trọng hay các liên hệ giữa các chi tiết và các ý, hoặc giữa các ý với nhau, thì càng liên hệ được các ý tưởng với kiến thức nền tảng. Nhờ đó, ta dễ dàng huy động, sử dụng khi cần. Ghi thành dàn bài: bằng cách chia nội dung toàn bài thành các phần chính (Ví dụ là A, B hay C,…). Trong mỗi phần lại có thể chia thành một số mục nhỏ, bạn có thể sắp xếp các mục nhỏ ấy bằng những chữ số, như: 1, 2, 3,... và đặt những tiêu đề riêng; có thể gạch dưới hoặc viết đậm các phần quan trọng để dễ nhớ. Nhẩm trong óc: Là cách hệ thống lại và ôn từng phần một của bài, chỗ nào quên thì dừng lại và lật bài đã có ra xem. Tiếp đó nhẩm sang phần khác, chú ý các phần quan trọng cần ghi nhớ. Sau đó, tìm những nội dung còn sót để học lại cho thuộc và đặt thành câu hỏi rồi tự giải quyết trong óc câu hỏi ấy. 9
- Ghi ra giấy: Có thể ghi riêng ra giấy những từ mới, công thức, những định lí, tính chất,… sau đó đóng hay cất những tờ giấy này vào nơi dễ nhìn thấy, có thể mở ra xem để ghi nhớ. Khi ghi chỉ nên tóm tắt phần quan trọng, chính yếu nhất, tránh ghi rườm rà. Hỏi và tự trả lời: Tự đặt cho mình những câu hỏi và trả lời các câu hỏi để ghi nhớ được các thông tin cần tìm hiểu. Các loại câu hỏi như: Cái gì? Ở đâu? Khi nào? Tại sao? Như thế nào? Ai?... Cách này vừa giúp ta nhớ kiến thức, vừa tăng cường tính chủ động, tích cực trong học tập. đ) Liên tưởng trong tự học Liên tưởng giúp các em phát huy tính khám phá, tính sáng tạo bằng cách kết nối một vấn đề đang học, một vấn đề đang gặp phải, cần được ghi nhớ, một vấn đề chưa thật quen thuộc, chưa thật hiểu rõ với cái mà mình đã biết. Nhờ đó, ta sẽ dễ nhớ và dễ truy cập, sử dụng một vấn đề nào đó khi cần. g) Sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) trong tự học Trong việc học và đặc biệt là khi ôn tập, hệ thống hoá kiến thức, HS đã được làm quen với việc kẻ bảng, biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và thường HS có chung cách “ghi chép” giống GV hay người trợ giúp, hoặc mẫu trong tài liệu, nên việc ghi nhớ thường bị động, khó khăn, khó khắc sâu, khó nhớ. Đến nay, BĐTD được xem là hình thức ghi chép hỗ trợ tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề, một hệ thống bài tập hay một mạch kiến thức, các cách giải của một dạng bài tập,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, BĐTD còn là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau. Do đó, việc lập BĐTD còn giúp phát huy khả năng sáng tạo của mỗi người. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng của việc hướng dẫn học sinh tự học nói chung và bộ môn Địa lí nói riêng của giáo viên trung học phổ thông. Có thể nói rằng hiện nay khâu tự học của HS trong các trường chưa được coi trọng đúng mực. Thực ta tự học thì kiến thức sẽ sâu hơn, bền hơn và thực chất hơn. Do nhiều nguyên nhân, học sinh hiện nay hầu như phụ thuộc và thậm chí còn ỷ lại thầy cô giảng, không chịu tìm tòi, nghiên cứu. Chính vì vậy GV cần phải có những phương pháp hướng dẫn, kích thích học sinh tự học nhiều hơn. Giúp HS nâng cao kỹ năng tự học các môn học để phát huy được tính chủ động, sáng tạo, độc lập của học sinh. Đối với bộ môn Địa lí dựa vào những quy định của bộ môn trong quá trình xây dựng kế hoạch giảng dạy môn Địa lí thì thời lượng dạy trên lớp cho mỗi 10
- tiết học là rất ngắn, mỗi tuần chỉ dạy 1 tiết đến 2 tiết/ kì, trong khi nội dung tri thức cần truyền đạt ở một số bài của môn Địa lí thì khó, cần nhiều thời gian tìm hiểu, nghiên cứu. Do đó, việc HS phải tự học bài và chuẩn bị bài trước giờ lên lớp là điều tất yếu. Có thể nói rằng thời gian tự học ở nhà là rất quan trọng, đây là lúc HS có nhiều thời giờ suy ngẫm, đào sâu vấn đề, tiếp tục đề xuất những thắc mắc để thầy giải đáp, suy nghĩ liên hệ hoặc vận dụng vào thực tế. Đây cũng là cách để tri thức khắc sâu trong bộ óc, khó bị quên lãng và trở thành hữu ích, là cách học kết hợp với hành mà Bác Hồ luôn luôn nhắc nhở. Việc học ở nhà còn phải làm tốt việc chuẩn bị trước theo yêu cầu của từng bài giảng. Tuy nhiên, để học sinh trở thành những người học có khả năng tự học, chủ động sáng tạo không phải là một điều dễ dàng, do học sinh mới làm quen với cách học mới nên tính thụ động còn cao, phương pháp tự học, tự nghiên cứu còn chưa tốt do đó họ rất lúng túng trong việc tự học ở nhà. Mặt khác, giáo viên cũng gặp phải nhiều khó khăn khi yêu cầu học sinh tự học ở nhà môn Địa lí và quản lý cũng như đánh giá khả năng tự học của học sinh. 2.2. Thực trạng của việc học sinh tự học nói chung và tự học môn Địa lí cấp trung học phổ thông nói riêng hiện nay Để khách quan tôi đã tiến hành khảo sát việc thực hiện quá trình tự học của học sinh tại trường THPT Thái Hòa đem lại kết quả như sau: * Kết quả khảo sát đối với học sinh khối 10 (số lượng học sinh khảo sát 80 em) Câu 1: Em hiểu tự học là gì? Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Tự học là tự nghiên cứu sách 30 38 2. Tự học là tự tìm kiếm kiến thức 24 30 3. Tự học là cá nhân tự giác học tập. 26 32 Câu 2: Sự cần thiết của việc tự học Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Rất cần thiết 45 56 2. Cần thiết 20 25 3. Bình thường 10 13 4. Không cần thiết 5 6 Câu 3: Lý do cần phải tự học Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Giúp hiểu bài trên lớp sâu sắc hơn 35 44 11
- 2. Giúp nhớ bài học lâu hơn 25 31 3. Kích thích tính tích cực trong học tập 15 19 4. Rèn luyện khả năng cho bản thân 5 6 Câu 4: Khó khăn mà học sinh gặp phải khi tự học Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Chưa có phương pháp học tập hợp lí 55 69 2. Chưa có biện pháp để kiểm tra kiến thức mình 15 19 tự học 3. Thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho việc tự học 10 12 Câu 5: Cách thức tự học của học sinh Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Chỉ học bài khi cần thiết 32 40 2. Học theo nội dung câu hỏi bài tập của giáo viên 30 38 3. Chỉ học phần quan trọng 18 22 Câu 6: Hình thức tự học: Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Tự học một mình 60 75 2. Tự học theo nhóm 15 18,8 3. Tự học cùng người thân 5 6,2 Câu 7: Mức độ sự dụng kỹ năng tự học: Nội dung Số lượng Tỷ lệ % Sự dụng thành thạo các kỹ năng 20 25 Lúng túng khi sự dụng các kỹ năng 50 63 Chưa biết sự dụng các kỹ năng 10 12 Câu 8: Thời gian tự học của học sinh: Nội dung Số lượng Tỷ lệ % Mỗi ngày 1 đến 2 tiếng 39 49 Mỗi ngày 2 đến 3 tiếng 25 31 Mỗi ngày trên 3 tiếng 16 20 Câu 9: Suy nghĩ của học sinh về vấn đề tự học THPT Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 12
- 1. Chỉ cần học trên lớp là đủ 50 63 2. Chủ yếu tự nghiên cứu bài tập 10 12 3. Cần tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên 20 25 Câu 10: Để chuẩn bị cho nội dung tự học một bài học Địa lí, em thường: Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Học bài cũ và nghiên cứu trước bài mới theo nội 45 56 dung hướng dẫn của giáo viên 2. Học thuộc lòng bài cũ 20 25 3. Không chuẩn bị gì cả 15 19 Câu 11: Thái độ của học sinh đối với việc tự học Địa lí Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Rất nghiêm túc 20 25 2. Còn mang tính chất đối phó 52 65 3. Bình thường 8 10 * Nhận xét: Kết quả khảo sát cho thấy đa số học sinh đều hiểu và nhận thức đúng vai trò của tự học đối với quá trình học tập nói chung và môn Địa lí nói riêng. Tuy nhiên việc thực hiện tự học ở học sinh còn gặp phải nhiều khó khăn, lúng túng trong việc sự dụng các kỹ năng tự học. Mức độ sử dụng thành thạo các kỹ năng tự học con thấp. Thời gian tự học của học sinh còn quá ít, thái độ học tập còn mang tính đối phó cao, còn phụ thuộc nhiều vào sự hướng dẫn của giáo viên. Nguyên nhân một phần các em chưa có ý thức tự giác trong quá trình học tập, một phần khác do các em chưa định hướng được một cách cụ thể trong hoạt động tự học của bản thân. Chính vì vậy kết quả tự học của học sinh còn chưa đạt hiệu quả cao. Bởi vậy, vai trò của người giáo viên trong việc phát triển kỹ năng tự học của HS nhằm góp phần nâng cao chất lượng tự học của học sinh nói chung và tự học môn Địa lí nói riêng ở trường phổ thông là hết sức quan trọng. 2.3. Thực trạng của việc hướng dẫn nội dung tự học cho h ọc sinh trong các giờ học môn Địa lí tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thị xã Thái Hòa Và huyện Nghĩa Đàn. Trong quá trình thực hiện đề tài tôi cũng đã tiến hành khảo sát việc tự học của học sinh nói chung và việc hướng dẫn nội dung tự học cho học sinh trong việc dạy học môn Địa lí ở các trường THPT trên địa bàn Huyện Nghĩa 13
- Đàn và Thị xã Thái Hòa (bao gồm: Trường THPT Cờ Đỏ, Trườ ng THPT 1/5, Trường THPT Thái Hòa, Trườ ng THPT Tây Hiếu, Trường THPT Đông Hiếu. Tổng 5 trườ ng gồm 12 giáo viên) kết quả như sau: *Kết quả khảo sát như sau (số lượng GV khảo sát: 12 người) Câu 1: Cách thức hướng dẫn học sinh tự học Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Chỉ hướng dẫn một số bài cần thiết Có thực hiện 10 83 Không thực hiện 2 17 2. Hướng dẫn theo nội dung kế hoạch giáo dục Hướng dẫn chi tiết, cụ thể 8 67 Hướng dẫn chung chung 4 33 3. Nội dung hướng dẫn Chỉ hướng dẫn phần quan trọng 9 75 Hướng dẫn các nội dung theo yêu cầu 3 25 Câu 2: Những khó khăn mà giáo viên gặp phải khi hướng dẫn học sinh tự học Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Chưa có phương pháp hợp lí 4 33 2. Chưa có biện pháp để kiểm tra kiến thức học 5 41 sinh tự học 3. Thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho việc tự học 3 26 Câu 3: Việc tiến hành hướng dẫn hoạt động tự học cho học sinh Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Thực hiện hướng dẫn học sinh tự học Có 10 83 Không 2 17 2. Cơ sở tiến hành hướng dẫn tự học Xuất phát từ nội dung 5 42 Từ các nội dung liên quan đến bài học 4 33 Từ nội dung liên quan đến tên bài học 3 25 3. Mục đích việc hướng dẫn tự học Kiểm tra và thống kê kiến thức của học sinh 5 42 Tạo hứng thú cho học sinh 3 25 14
- Tạo tình huống có vấn đề để vào bài 4 33 4. Cách thức tiến hành hoạt động tự học Tổ chức thành hoạt động 5 42 Dẫn dắt 7 58 Khác 0 0 5. Mức độ thu hút và hiệu quả Cao 5 42 TB 5 42 Thấp 2 16 * Nhận xét: Kết quả khảo sát cho thấy đa số các giáo viên Địa lí trên địa bàn Huyện Nghĩa Đàn và Thị xã Thái Hòa đều đã có sự đổi mới đầu tư cải tiến phương pháp giảng trong việc hướng dẫn học sinh tự học. Tuy nhiên vẫn còn một số ít giáo viên có những hạn chế nhất định như: giáo viên vẫn chưa mạnh dạn vận dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực vào việc hướng dẫn học sinh tự học. Do đó đang tạo cảm giác thụ động đối với học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức. Một số giáo viên tâm lí môn mình là môn phụ nên chưa chịu đầu tư trong việc soạn giáo án, tìm hiểu những nội dung kiến thức mới thành ra bài dạy gây nhàm chán, không tạo được sự hứng thú cho người học. Chính vì lẽ đó bản thân tôi nghĩ người giáo viên dạy môn Địa lí luôn phải tìm tòi, đổi mới để tìm ra phương pháp phù hợp cho từng bài đặc biệt phải biết cách hướng dẫn học sinh tự học để đem lại hiệu quả khi giảng dạy. Bên cạnh đó nhiều bài học trong sách giáo khoa môn Địa lí còn khá trừu tượng, khó hiểu đối với học sinh phổ thông nên việc lựa chọn hình thức, phương pháp như thế nào để hướng dẫn học sinh tự học quả là vấn đề không mấy dễ dàng đối với mỗi giáo viên.Vi vây, ̀ ̣ trong qua trinh ́ ̀ daỵ , dù rât cô găng, nhiêu giao viên cung không ́ ́ ́ ̀ ́ ̃ ́ ự tâp thể lôi keo s ̣ ̉ ̣ ̣ trung cua hoc sinh, hiêu qua gi ̉ ơ h ̀ ọc bi giam sut. Chính vì l ̣ ̉ ́ ẽ đó bản thân tôi trong quá trình giảng dạy bộ môn Địa lí bậc THPT tôi luôn luôn trăn trở để tìm ra giải pháp hướng dẫn học sinh tự học một cách hiệu quả nhằm tạo hứng thú cho các em khi học bộ môn này. 2.4. Nguyên nhân của thực trạng. Thứ nhất: Ý thức học tập: Một số bạn học tập chủ yếu với tinh thần thi trước nhất, sau đó mới hiểu thêm về kiến thức mình học, điều này đã phần nào hạn chế ý thức tự học của các bạn. Theo kết quả khảo sát có đến 65,4 % các bạn chỉ thỉnh thoảng mới học Địa Lí và các bạn chỉ học trước khi thi vài ngày; 22,8 % các bạn học thường xuyên, số còn lại thì không biết học lúc nào. 15
- Chỉ có 22,8 % các bạn được khảo sát là học thường xuyên, như vậy ta thấy ý thức tự học của các bạn là chưa cao. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng kiến thức thu được. Thứ hai: Cách tự học Các bạn chưa phát huy hết hiệu quả cách học, hầu như các bạn chưa kết hợp được các cách học với nhau. Các bạn học thuộc khi thi có kết quả cao, nhưng sau đó kiến thức cũng ra đi rất nhanh. Các bạn tự học riêng lẻ bằng bản đồ, hiểu và nhớ, học nhóm lại có kết quả không cao lắm (đa số đạt điểm 5,6,7). Do các bạn chưa hiểu hết bản đồ nên chưa khai thác triệt để kiến thức trên bản đồ, còn các bạn học hiểu và nhớ nhưng chưa có cách hệ thống lại bài, nhiều kiến thức buộc phải nhớ chính xác thì không nhớ được nên làm bài lan man, thiếu trọng tâm. Kiến thức giữ được thì độ chính xác không cao lắm. Thứ 3: Cách truyền đạt của giáo viên cũng ảnh hưởng khá lớn đến kết quả học tập, tiếp thu kiến thức của học sinh . Kiến thức giáo viên cung cấp nhiều quá thì khiến cho học sinh lười suy nghĩ do một phần thì tiếp thu không kịp, một phần do ngại đào sâu khai thác, không có thời gian tự khai thác, trao đổi, thảo luận với nhau trên lớp nên kiến thức không được khắc sâu. Tuy nhiên đối với môn địa lý giáo viên đã có sự thay đổi về phương pháp giảng dạy, điều này phù hợp với nguyện vọng của học sinh, giúp cho học sinh tự đào sâu kiến thức hơn và không sợ kiến thức bị hổng, sai vì đã có giáo viên chuẩn kiến thức lại. Theo khảo sát cách truyền đạt này (hướng dẫn cho học sinh tự khai thác, sau đó chuẩn lại kiến thức) được 59,1 % ý kiến đồng tình, cao hơn rất nhiều so với cách truyền đạt cung cấp toàn bộ kiến thức (11,4% đồng ý) và học sinh tự khai thác hoàn toàn, không có sự hướng dẫn, chỉ kiểm tra kết quả. Cũng trong đợt khảo sát 75,8 % các bạn chưa hài lòng với cách học và kết quả đạt được của bản thân. 21,2 % hài lòng và 3 % chưa hài lòng lắm. Và khi được hỏi là nếu có một phương pháp tự học phù hợp các bạn có quyết tâm thực hiện không thì có đến 90,6 % đồng ý áp dụng. Như vậy ta thấy các bạn luôn mong muốn tìm ra một cách học phù hợp, đem lại kết quả cao trong học tập. Giải pháp đó là gì? 3. Một số giải pháp để xây dựng, tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh trong chương trình môn Địa lí cấp trung học phổ thông. 3.1. Giải pháp 1: Giúp học sinh nhận thức vai trò, ý nghĩa của tự học, xây dựng kế hoạch và phương pháp học tập. Bước 1: Giúp học sinh nhận thức vai trò, ý nghĩa của tự học Đa số học sinh trường THPT Thái Hòa còn có những hạn chế sau: 16
- Thói quen thụ động trong quá trình học tập, quen nghe, ghi, chép, nhớ và tái hiện lại những gì giáo viên nói. Do chưa hình thành kỹ năng, phương pháp tự học nên kiến thức của hầu hết học sinh tỏ ra hẫng hụt ngay từ đầu năm học, không nắm được các kiến thức đã học một cách hệ thống và khoa học và rất ít vận dụng được kiến thức. Giai đoạn chuẩn bị cho hoạt động tự học đa số học sinh không thực hiện được. Tôi đã làm khảo sát nhận thức về vai trò, ý nghĩa của tự học đối với nhóm học sinh khối 10 trường THPT Thái Hòa và thu được kết quả như sau: TT Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của tự học Tỉ lệ 01 Nắm chắc, hoàn thiện và hiểu sâu kiến thức. 65 02 Nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ, phát huy trí thông 61 minh. 03 Mở rộng vốn hiểu biết, tự bổ sung kiến thức và phát triển toàn 47 diện con người. 04 Phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo, tự giác 75 trong học tập. 05 Nâng cao khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát. 70 06 Nâng cao khả năng vận dụng kiến thức vào bài tập, vào thực 85 tế. 07 Nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập và có kết quả cao trong 70 kiểm tra, thi cử. 08 Hình thành tính kỷ luật tự giác và rèn luyện phong cách làm 58 việc khoa học. 09 Chuẩn bị những khả năng để học tập suốt đời. 43 10 Hình thành, biến đổi và phát triển nhân cách. 51 Qua khảo sát cho thấy vai trò tự học “Phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo, tự giác trong học tập” được học sinh cho rằng quan trọng hàng đầu. Các vai trò: Mở rộng vốn hiểu biết, tự bổ sung kiến thức và phát triển toàn diện con người; chuẩn bị những khả năng để học tập suốt đời; hình 17
- thành, biến đổi và phát triển nhân cách được đánh giá thấp cho thấy học sinh vẫn chưa hiểu rõ được vai trò, ý nghĩa của tự học. Như vậy muốn học sinh nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của tự học, giáo viên bộ môn cùng với giáo viên chủ nhiệm cần phải thường xuyên nhắc nhở học sinh trong các tiết học và có thể lồng ghép nội dung này vào các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp. Bước 2: Xây dựng kế hoạch học tập. Để tìm hiểu thực tế việc lập kế hoạch học tập của học sinh. Tôi đã tiến hành điều tra, quan sát, trò chuyện, trao đổi, thống kê…với một số giáo viên và học sinh. Kết quả như sau: * Ý kiến tự đánh giá của học sinh: Chỉ có 40% học sinh tự nhận là có lập kế hoạch tự học trong đó 71% học sinh tự làm kế hoạch còn lại 29% học sinh có sự giúp đỡ của giáo viên, cha mẹ, anh, chị. * Ý kiến của giáo viên: Có 35% giáo viên cho rằng học sinh có lập kế hoạch tự học. Trong (71% HS lập kế hoạch tự học) đó: HS lập kế hoạch tự học từng ngày: 64% HS lập kế hoạch tự học từng tuần: 3,5% HS lập kế hoạch tự học từng tháng: 2% HS lập kế hoạch tự học từng năm học: 1,5% Để thuận lợi trong quá trình học sinh lập kế hoạch học tập, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách xây dựng kế hoạch học tập, cung cấp đầy đủ kế hoạch dạy và học của bộ môn cho các em. Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, giáo viên cần phải giới thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để học sinh hiểu và từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp. Giáo viên làm cho học sinh hiểu rõ: kế hoạch phải được xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, học sinh có thể phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời gian được xây dựng chi tiết. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi chương, giáo viên sẽ cung cấp nội dung và thời gian học và kiểm tra để học sinh nắm rõ. Đồng thời, giáo viên có thể cho học sinh đánh dấu vào trong sách bài nào học ngày nào, đến tiết nào sẽ kiểm tra. Bước 3: Xây dựng phương pháp tự học. Sử dụng phiếu hỏi và trao đổi trực tiếp với một số học sinh về các phương pháp tự học đang sử dụng, chúng tôi thu được kết quả như sau: Thường Chưa Thỉnh TT Mức độ sử dụng phương pháp xuyên bao giờ thoảng (%) (%) (%) 01 Đọc tài liệu tham khảo và SGK 75,4 24,6 0 18
- 02 Học thuộc lòng bài giảng 86,3 13,7 0 03 Vận dụng kiến thức để giải bài tập 30,2 52,4 17,4 04 Hệ thống hóa và khái quát hóa kiến 12 60,5 27,5 thức 05 Làm đề cương và học theo đề 26,7 63,3 10 cương 06 Tự kiểm tra đánh giá quá trình tự 10 59,4 30,6 học Qua bảng điều tra cho thấy hầu hết HS đều biết sử dụng phương pháp tự học theo nhiều cách khác nhau. Trong đó phương pháp được sử dụng thường xuyên nhất là học thuộc lòng bài giảng trước khi lên lớp chiếm đến 86,3% . Phương pháp đọc tài liệu tham khảo và SGK thường xuyên chiếm tỉ lệ 75,4% và học sinh cho rằng tất cả các môn học chứa đựng dung lượng kiến thức nhiều trong lúc thời lượng của môn học trên lớp không tiếp thu đầy đủ được. Kết quả điều tra còn cho thấy việc sử dụng các phương pháp vận dụng kiến thức để giải bài tập, hệ thống hóa và khái quát hóa kiến thức, làm đề cương và học theo đề cương, tự kiểm tra đánh giá quá trình tự học chỉ sử dụng không thường xuyên. Những phương pháp này chỉ được sử dụng khi kiểm tra 1 tiết, thi học kì. Điều này cho thấy sự hứng thú trong học tập của một số đông học sinh chưa được chú trọng, chưa chịu khó động não, tìm tòi trong quá trình tự học, không phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập. Đặc biệt chưa biết phân tích, tổng hợp các vấn đề của bài học. Như vậy, để nâng cao hiệu quả tự học của học sinh thì: * Về phía GV: Chuẩn bị cho dạy học: Nghiên cứu tài liệu, soạn giáo án (Xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện..) gắn với đối tượng học sinh của trường, chú trọng đến việc thiết kế bài giảng theo hướng giúp học sinh ngay trong giờ học trên lớp. Thiết kế hệ thống các dạng bài tập nhận thức đảm bảo yêu cầu phù hợp mục tiêu bài học nhằm giúp học sinh lĩnh hội tri thức mới, củng cố, mở rộng, đào sâu kiến thức. Quy định về việc dạy học trên lớp: Kiểm tra kết quả tự học của học sinh, tổ chức giờ dạy trên lớp theo phương pháp dạy tự học để năng cao năng lực tự học cho học sinh. Kết thúc mỗi tiết giáo viên giao nhiệm vụ tự học cho học sinh tùy theo mức độ đối tượng học sinh và yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ tự học. 19
- Chùm ảnh minh họa: Học sinh hăng hái thực hiện các nhiệm vụ tự học Về kiểm tra đánh giá: Tăng cường việc kiểm tra bài, kết quả tự học của học sinh thông qua các hình thức trực tiếp như (kiểm tra miệng, viết (15 phút) trước khi vào bài mới, lồng ghép vào bài, củng cố) hoặc kiểm tra bằng hình thức gián tiếp thông qua các phần mềm. Nội dung kiểm tra bám sát vào những yêu cầu bài tập, nhiệm vụ tự học giáo viên đã giao. Sau các bài kiểm tra một tiết, kiểm tra kết thúc học kì, năm học cần bố trí tiết trả bài và giải quyết những vấn đề học sinh còn thắc mắc. Động viên, khuyến khích, kích thích các hoạt động tự học của học sinh. * Về phía học sinh: Cần biết xác định mục tiêu học tập, nội dung cần học, lên kế hoạch tự học. Xác định kiến thức, kĩ năng cơ bản thuộc mỗi nội dung hay chủ đề. Hệ thống hoá kiến thức. Học sinh cần biết tự thể hiện, tham gia quá trình thảo luận, biết tự đánh giá, tự điều chỉnh bản thân và biết vận dụng kiến thức đã học vào các tình huống thực tiễn. 20

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p |
297 |
62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p |
199 |
30
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p |
185 |
25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p |
47 |
14
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p |
150 |
11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p |
39 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p |
30 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p |
42 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p |
32 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p |
43 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p |
26 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p |
37 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p |
37 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p |
43 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p |
33 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p |
75 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p |
17 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p |
38 |
3


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
