intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh trong chương trình Địa lí cấp trung học phổ thông

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:50

22
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh trong chương trình Địa lí cấp trung học phổ thông" nhằm cung cấp một số cơ sở lí luận về đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học liên quan đến nội dung tự học trong môn Địa lí, đồng thời đánh giá được thực trạng tổ chức hoạt động dạy học nói chung và rèn luyện năng lực tự học nói riêng trong chương trình Địa lí cấp THPT, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học góp phần hình thành, phát huy các phẩm chất, năng lực của HS, giúp các em thích nghi được với những thay đổi của hoàn cảnh sống, có kĩ năng để học tập suốt đời.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của học sinh trong chương trình Địa lí cấp trung học phổ thông

  1. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Khi đánh giá quá trình DẠY ­ HỌC, chúng ta đánh giá vào sản phẩm. Học   sinh chính là sản phẩm và cũng là chủ  thể  của quá trình. Để  quá trình DẠY ­  HỌC được thành công thì học sinh phải biết tự  học. Nghĩa là học sinh phải tự  nỗ lực để chiếm lĩnh tri thức. Biết tự học thì tri thức xã hội mới biến thành sản   phẩm của chính mình. Sản phẩm chỉ được đánh giá một cách chính xác khi học   sinh biết tự học. Nếu sản phẩm không phải là do tự học mang lại thì thành tích  chỉ để trang trí. Nguồn tri thức thì vô tận và đang bùng nổ nhanh chóng, bản thân giáo viên   cũng không thể nào biết hết được và cũng không thể  nào đi theo suốt cuộc đời  các em học sinh mặc dù mình rất thương yêu chúng. Hôm nay, ta dạy học sinh   biết tự học; ngày mai, học sinh mới biết lao động và sáng tạo.  Giáo dục cho học sinh tính tự  học là vấn đề  rất thiết thực và mang tính   thời sự trong giáo dục hiện nay. Thực tế cho thấy các em đạt kết quả cao trong   các kì thi học sinh giỏi là những em dành rất nhiều thời gian cho việc tự học của   mình. Để  việc tự  học của học sinh đem lại hiệu quả  thì vai trò của giáo viên   trong quá trình này rất quan trọng:  “Người thầy dạy giỏi là người thầy biết giải thích; Người thầy xuất sắc là người thầy biết minh họa; Người thầy xuất chúng là người thầy biết truyền cảm hứng.” Thầy cô là người tạo môi trường và tình huống để  học sinh có thể  rèn   luyện khả năng tự giải quyết vấn đề thông qua việc tổ chức hoạt động học và   dạy cách học. Để  làm được điều đó, giáo viên phải nắm vững quá trình hình  thành nhận thức, thường xuyên cập nhật, thay đổi phương pháp, liên hệ  chặt  chẽ  với phụ  huynh, hướng dẫn học sinh biết sử  dụng và áp dụng công nghệ  thông tin, năng lực số  vào trong quá trình tự  học, liên hệ  kiến thức với cuộc   sống để hấp dẫn tạo hứng thú tìm tòi của học sinh. Như  vậy việc giáo viên định hướng, tạo điều kiện học sinh biết tự  học   một cách hiệu quả là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là   quá trình biến người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo  dục). Tự  học giúp nâng cao kết quả  học tập của học sinh và chất lượng giáo  dục của nhà trường, là biểu hiện cụ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học  ở các trường phổ thông.  Cùng  với việc "Phát triển khả  năng sáng tạo, tự  học, khuyến khích học  tập suốt đời" cần "tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo   cơ sở người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực…"  (Nghị quyết số 29­NQ/TW ngày 4/11/2013). Để đạt được mục tiêu và thực hiện  tốt giải pháp trên thì việc phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học của   1
  2. học sinh là điều vô cùng cần thiết, cần thực hiện thường xuyên trong quá trình   dạy học. Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và hình thức dạy học để  phù hợp   với những yêu cầu của công cuộc đổi mới giáo dục trong thời đại 4.0,  phù hợp  sự diễn biến phức tạp của dịch bệnh trong những năm trở lại đây, nhằm đưa ra  các giải pháp nâng cao nhận thức về dạy học theo hướng phát triển phẩm chất,   năng lực, nâng cao năng lực tự học của học sinh, tôi đã mạnh dạn xây dựng đề  tài “Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học   của học sinh trong chương trình Địa lí cấp trung học phổ thông” 2. Mục đích nghiên cứu Trước hết đề tài nhằm cung cấp một số cơ sở lí luận về đổi mới  phương  pháp, kĩ thuật dạy học liên quan đến nội dung tự học trong môn Địa lí, đồng thời  đánh giá được thực trạng tổ  chức hoạt động dạy học nói chung và rèn luyện   năng lực tự học nói riêng trong chương trình Địa lí cấp THPT, từ đó đưa ra các   giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, nâng cao năng lực tự học góp phần  hình  thành, phát huy  các phẩm chất, năng lực của HS, giúp các em thích nghi được  với những thay đổi của hoàn cảnh sống, có kĩ năng để học tập suốt đời. 3. Điểm mới của đề tài. Cụm từ  “tự  học” không còn xa lạ  đối với chúng ta, mặc dù đã có những  tác giả khai thác về nội dung này, nhưng tôi xin khẳng định những giải pháp mà   tôi nêu ra trong SKKN này hoàn toàn là những kinh nghiệm, những tâm huyết mà  bản thân tôi đã đúc kết lại trong quá trình giảng dạy của mình và đã được kiểm   định qua thực tế. Đề  tài đã góp phần nâng cao tính hứng thú, hấp dẫn và hiệu   quả  cho các giờ  học.  Đồng thời phát huy tối đa khả  năng chủ  động, sáng tạo   tiếp thu kiến thức của học sinh. Đặc biệt các giải pháp mà tác giả nêu ra có tính  hệ thống, kết hợp các giải pháp truyền thống và hiện đại, phù hợp tâm sinh lý  và lứa tuổi của HS, có tính thực tiễn cao, dễ áp dụng, có tính khả thi. Đề  tài không chỉ  áp dụng cho môn địa lí mà còn có thể  áp dụng vào các  môn học khác trong chương trình giáo dục phổ  thông. Thích  ứng với yêu cầu  mới của nền giáo dục hiện đại, cũng như  những thay đổi thất thường của Thế  giới hiện nay (thiên tai, dịch bệnh...).    PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận . 1.1. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới chương trình giáo dục và cùng với nó là đổi mới PPDH và đổi  mới đánh giá là những phương diện thể  hiện sự  quyết tâm cách tân, đem lại  những thay đổi về  chất lượng và hiệu quả  giáo dục. Về  phương pháp  dạy  học, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại;  2
  3. phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của  người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập  trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự  cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ  yếu trên lớp sang tổ  chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động tự  học, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Bởi vậy một giờ học t ốt là một giờ học   phát huy được tính tích cực, tự  giác, chủ  động, sáng tạo của cả  người dạy và  người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận  dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự  học, tác động tích cực  đến tư  tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Về  bản  chất, đó là giờ  học có sự  kết hợp giữa học tập cá thể  (hình thức học cá nhân)   với học tập hợp tác (hình thức học theo   nhóm, theo lớp); Chú trọng kết hợp  học với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các kỹ  năng, gắn với thực tiễn  cuộc sống; Phát huy thế  mạnh của các  phương pháp dạy học tiên tiến, hiện  đại; Các phương tiện, thiết bị  dạy học và những  ứng dụng của công nghệ  thông tin…; Chú trọng cả hoạt động đánh giá của giáo viên và tự  đánh giá của  học sinh. Mặt khác đổi mới phương pháp dạy học còn được cụ  thể  hóa trong  các văn bản chỉ  đạo về  việc thực hiện nhiệm vụ  năm học hàng năm của Bộ  Giáo dục và Đào tạo;  Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ  năm học của Sở  Giáo  dục và Đào tạo; Kế hoạch năm học của nhà trường, kế hoạch tổ, nhóm chuyên   môn và kế hoạch giáo dục của mỗi giáo viên.  Chính vì lẽ đó trong những năm gần đây, nhiều giáo viên đã có sáng kiến   trong việc áp dụng kỹ  thuật dạy học, đổi mới phương pháp dạy học đã góp  phần tăng hiệu quả giờ dạy. 1.2. Quan niệm, vị trí, vai trò về tự học và sự cần thiết phải nâng cao  năng lực tự học của học sinh. 1.2.1. Quan niệm về tự học và sự cần thiết phải nâng cao năng lực tự  học của học sinh. Đến nay, còn có nhiều quan niệm về tự học, chẳng hạn như: Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự  mình động não, suy nghĩ, sử  dụng các năng lực trí tuệ  (quan sát, so sánh, phân  tích, tổng hợp,…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức  thuộc một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của   nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học. Tự  học là quá trình tự  mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn  luyện kĩ năng thực hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV và sự quản lí  trực tiếp của cơ  sở  giáo dục và đào tạo. Cụ  thể  hơn, tự  học là tự  mình động  não, suy nghĩ, sử  dụng các năng lực trí tuệ  (quan sát, so sánh, phân tích, tổng   hợp) và có khi cả  cơ  bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của  mình, rồi cả  động cơ, tình cảm, cả  nhân sinh quan, thế  giới quan (như  trung   3
  4. thực, khách quan có ý chí tiến thủ, không ngại khó, kiên trì nhẫn nại, lòng say   mê khoa học) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến  lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Theo quan điểm dạy học tích cực, bản chất của học là tự  học, nghĩa là  người học luôn là chủ  thể nhận thức, tác động vào nội dung học một cách tích  cực, tự  lực, chủ động và sáng tạo để  đạt được mục tiêu học tập. Hay nói cách  khác, không ai học giúp cho người học được, vì thế  muốn học được phải tự  học. Theo đó, quá trình hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ, chủ yếu là do HS  tự thực hiện, còn môi trường học chỉ đóng vai trò trợ giúp. Việc học chỉ có hiệu   quả khi người học ý thức được việc học (có nhu cầu học tập) từ đó có động cơ,   ý chí và quyết tâm để vượt qua những khó khăn, trở ngại trong học tập.  Tự học  là một quá trình chủ thể nhận thức tác động một cách tích cực, tự lực, chủ động   và sáng tạo vào đối tượng học nhằm chuyển hoá chúng thành tài sản riêng, làm  cho chủ thể thay đổi và phát triển. Có thể  nói là con người ai cũng phải tự  học, do vậy trong cuộc đời của   mỗi người bao giờ cũng có hoạt động tự học, song vấn đề quan trọng là tự học  ở mức độ nào và tự học như thế nào, hướng tới học suốt đời.  Đặc điểm cơ bản quan trọng không thể thiếu của tự học là  sự tự giác và  kiên trì cao, sự tích cực, độc lập và sáng tạo của HS tự mình thực hiện việc học.  Như vậy, tự  học là sự  tích cực, tự  lực, chủ  động của chủ  thể  nhận thức trong   hoạt động học, quá trình tự  học do người học tự  thực hiện (mang sắc thái cá  nhân). Tuy nhiên, cần chú ý rằng với HS phổ thông để việc tự học đạt hiệu quả  thường cần phải có sự  hướng dẫn, trợ  giúp của GV hay người trợ  giúp. Theo   đó, GV cần tạo ra môi trường để HS phát huy nội lực của mình trong quá trình   khám phá kiến thức. Xét về có hay không có sự trợ giúp từ các yếu tố bên ngoài, tự học có hai   mức độ: tự  học hoàn toàn và tự  học có hướng dẫn. Tự  học có hướng dẫn là   hình thức tự học để chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng tương ứng với sự  hướng dẫn tổ chức chỉ đạo của GV hay người hướng dẫn, thông qua bài giảng   hoặc tài liệu hướng dẫn học. Tự  học có hướng dẫn là việc học cá nhân và tự  chủ, được sự  giúp đỡ  và tăng cường của một số  yếu tố  như  GV hay người   hướng dẫn hay công nghệ  giáo dục hiện đại. Khi đó, người học là chủ  thể,   trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức, chân lí bằng hành động của mình. Người   thầy là tác nhân hướng dẫn, tổ  chức, đạo diễn cho trò tự  học trong sự  hợp tác  với bạn, với thầy, với học liệu,… Như  vậy, tự  học là tự  mình thực hiện việc học. Tự  học không thể  thiếu   trong hoạt động học, trong đó HS phải biết huy động hết khả  năng trí tuệ, tình  cảm và ý chí của mình để  lĩnh hội một cách sáng tạo tri thức kĩ năng và hoàn   thiện nhân cách của mình dưới sự  hướng dẫn của GV. Kết quả tự học cao hay   thấp phụ thuộc vào kĩ năng tự học của mỗi cá nhân và đặc biệt với HS THPT thì  4
  5. còn phải phụ thuộc rất lớn đến sự hướng dẫn của GV hay học liệu, phương tiện  hỗ trợ,... 1.2.2. Vị trí, vai trò của tự học. Nghị quyết số 29­NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khoá XI  về  đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có nêu lên mục tiêu cụ  thể,  trong đó có đề cập tới việc “phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích  học tập suốt đời”; trong các giải pháp có nêu “tập trung dạy cách học, cách nghĩ,  ́ ự hoc, t khuyên khich t ́ ̣ ạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ   năng, phát triển năng lực. Chuyển từ  học chủ  yếu trên lớp sang tổ  chức hình  thức hoc tâp đa d ̣ ̣ ạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoai khoá, nghiên c ̣ ứu khoa   học. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy và học”. Tự  học được xem là một mục tiêu cơ  bản của quá trình dạy học.  Từ  lâu  các nhà sư  phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự  học. Trong  quá trình dạy học GV không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những kiến thức có  sẵn, yêu cầu HS ghi nhớ,… mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho   HS tự  khám phá ra những quy luật, thuộc tính mới của các kiến thức hay các  vấn đề  khoa học. Qua đó, giúp HS không chỉ  nắm bắt được kiến thức mà còn   biết cách tìm ra những kiến thức  ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học  hiện đại còn xác định rõ: càng ở trình độ cao thì tự học càng cần được coi trọng.   Nói tới phương pháp dạy học thì cốt lõi là dạy tự  học. Phương pháp tự  học là   cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Vì thế, muốn thành công trên  bước đường học tập và nghiên cứu thì người học phải có khả năng tự phát hiện  và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc sống hay khoa học đặt ra.  Rèn luyện kĩ năng tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực cho   HS trong quá trình học tập: Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá  nhân là tính tích cực, sự  chủ  động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Một trong  những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phải hình thành được phẩm chất đó   cho người học. Khi đó giáo dục mới có thể  đào tạo ra những lớp người năng  động, sáng tạo, thích  ứng với thị  trường lao động, góp phần phát triển cộng  đồng. Có thể xem tính tích cực (có nguồn gốc từ năng lực tự học) như một điều   kiện, kết quả  của sự  phát triển nhân cách thế  hệ  trẻ  trong xã hội hiện đại.   Trong đó hoạt động tự  học là những biểu hiện sự  gắng sức cao về  nhiều mặt   của từng cá nhân trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà  hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú, người  học mới có được sự  tự  giác, say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là   động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên   cơ sở sự phối hợp giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính  độc lập trong học tập. Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời , học tập để  khẳng định năng lực phẩm chất và để  cống hiến. Tự  học giúp con người thích  ứng với những biến đổi của sự  phát triển kinh tế  ­ xã hội. Bằng con đường tự  5
  6. học mỗi người sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt   nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể  cả  những thách thức to lớn từ  môi trường, nghề  nghiệp. Nếu rèn luyện cho   người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những  điều đã học vào thực tiễn thì sẽ  tạo cho họ  lòng ham học, nhờ  đó kết quả  học   tập sẽ  ngày càng được nâng cao, tạo đà cho tự  học trong cuộc sống hay trong  thực tiễn. 1.2.3.  Một số  yêu cầu đối với giáo viên và học sinh trong vấn đề  tự  học 1.2.3.1. Yêu cầu đối với giáo viên Để HS có thể tự học, tự nghiên cứu  ở  nhà được tốt thì đối với GV cũng   cần đặt ra cho mình một số yêu cầu như sau: ­ Giáo viên cần phải có đề cương chi tiết cho học sinh trước khi bắt đầu   vào giảng dạy một nội dung nào đó. Trong đó có ghi rõ những   phần học  trên  lớp, phần HS nghiên cứu tự học.  ­ Trong những bài, phần yêu cầu người học tự  học GV nên nêu rõ mục  tiêu của nội dung phần đó. Đặt ra các câu hỏi yêu cầu người học phải trả  lời  được sau khi học xong chương, phần đó.  ­ Yêu cầu HS đọc sách nào, nghiên cứu tài liệu nào hay phần nào và trả  lời câu hỏi theo yêu cầu.  ­ Hướng dẫn HS kỹ  năng đọc sách, nghiên cứu tài liệu, tóm tắt tài liệu  đọc được, cách lập dàn bài, đề  cương, kỹ  năng phân tích bảng số  liệu, sơ  đồ,  bảng biểu...  ­ Kiểm tra tự học của HS bằng các câu hỏi trắc nghiệm hoặc tự luận trên  giảng đường hoặc qua các phần mềm tiện ích, phù hợp và lấy điểm làm điểm  kiểm tra thường xuyên hoặc định kì. 1.2.3.2. Yêu cầu đối với học sinh Để có thể rèn luyện được phương pháp tự học, tự nghiên cứu, người học  cần phải đảm bảo các yêu cầu sau: ­ Học sinh phải cố  gắng tự  mình suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu nâng cao   khả  năng của mình. Điều đó đem lại lợi ích cho HS là tự  động viên, nhắc nhở  tinh thần cho chính bản thân mình. Phải làm cho HS hiểu rằng bất cứ  việc gì,  người nào biết dựa vào sức mình là chính, năng lực người đó mới nhanh chóng   phát triển, sự thành công mới vững chắc. Điều quan trọng bậc nhất, độc lập suy  nghĩ, làm việc sẽ khiến những kiến thức tiếp thu được sâu sắc, dễ vận dụng.  ­ Hiểu rõ mục đích học tập và xác định động cơ  học tập đúng đắn. Khi  hiểu rõ mục đích học tập và xác định động cơ học tập đúng đắn cần phân biệt   sự khác nhau giữa phong cách học tập cũ và mới. Phong cách học tập mới là vừa  6
  7. học tập kiến thức khoa học vừa thông qua đó mà tự  giác rèn luyện con người   mình, nó chống lại việc chỉ  lo nhồi nhét kiến thức mà không lo rèn luyện con  người mới. Học phải có kế  hoạch: người học phải lập kế  hoạch cho việc tự  học, tự nghiên cứu (Học lúc nào? Học ở đâu? Học môn gì, phần nào trước, môn  gì, phần nào sau?), tốt nhất là rèn luyện được phương pháp học ở mọi nơi, mọi   lúc. ­ Khi bắt đầu tự  học một môn hay một phần nào đó, HS phải xác định  được nội dung cần đọc, cần nghiên cứu thông qua các câu hỏi của giáo viên.  ­ Khi xem xét một vấn đề, HS phải xuất phát từ định nghĩa, khái niệm và  đặt vấn đề đó trong mối liên hệ với các vấn đề khác.  ­ Để tạo được hứng thú khi học thì HS nên bắt đầu từ dễ đến khó, từ đơn   giản đến phức tạp, từ xa đến gần, từ cụ thể đến khái quát, trừu tượng. Bên cạnh đó HS phải rèn luyện kỹ năng đọc sách, kỹ năng nghiên cứu tài  liệu cụ thể như sau:  ­ Khi đọc sách cần phải ghi chép: lập dàn bài cho những phần cần nghiên  cứu, đầu tiên là dàn ý sơ lược, sau đó chi tiết hóa dần. ­ Cố  gắng nắm được cách bố  trí, hệ  thống của tài liệu, đọc những gì  HS hiểu rõ nhất để xác định độ khó. Đừng nản chí nếu không hiểu. ­ Dùng bút đánh dấu những chỗ quan trọng hay chưa hiểu để có thể xem  lại. Trong khi đọc, thỉnh thoảng dừng đọc và đặt những câu hỏi kích thích và tự  tìm câu trả lời. ­ Sau khi tóm tắt được phần cần đọc thì trả lời các câu hỏi của giáo viên  yêu cầu theo hiểu biết của mình dựa vào tài liệu đã được đọc. Để tìm ra được phương pháp giải quyết vấn đề, HS cần phát huy tư duy  biện chứng, song trong quá trình giải quyết vấn đề  thì lại cần vận dụng tới tư  duy logic. Để  đi đến kết quả  trọn vẹn, HS cần rèn luyện tư  duy về  lựa chọn,   lựa chọn những cách giải quyết giản dị, thấu đáo, trong sáng. HS phải học cách hệ thống hóa các kiến thức đã học từ trên lớp kết hợp   với kiến thức đã học thông qua cách lập các sơ  đồ  về  mối quan hệ  giữa các   kiến thức, lập các bảng so sánh, các bảng tổng hợp các nội dung đã học.  Trong việc đẩy mạnh phương pháp tự học, cũng cần chú ý đến sự tương   trợ, giúp đỡ nhau trong học tập tức là vấn đề "học thầy không tày học bạn" như  ông cha ta đã từng đúc kết. Do đó, HS có thể kết hợp với những bạn khác thành  nhóm  học tập, trao đổi thông tin, học hỏi lẫn nhau để  khắc sâu nội dung bài  học.  Trao đổi với giáo viên về  những phần kiến thức khó, kiến thức không  hiểu và những phần kiến thức người học muốn đi sâu tìm hiểu rõ hơn.  1.2.4. Một số phương pháp và hình thức hướng dẫn học sinh tự học. 7
  8. Để HS tự học có hiệu quả, ngoài việc tạo động cơ, hứng thú cho các em,  cũng như hướng dẫn các em lập kế hoạch học tập hay tự kiểm tra đánh giá còn  cần sử  dụng một  số   phương  pháp  và kĩ   thuật  tự   học thông  dụng.  Một  vài  phương pháp và kĩ thuật tự học thông dụng được đề cập như phần dưới đây: a)  Nghe hiệu quả  Biết nghe giảng đúng cách hay nghe tích cực sẽ  giúp HS rút ngắn thời   gian học tập, làm bài tập nhanh chóng và dễ  dàng hơn, tự  tin, hứng thú hơn và   không ngỡ ngàng khi gặp lại các nội dung học tập, nhất là trọng tâm bài học. Để luyện kĩ thuật nghe tích cực HS cần: ­ Tập trung theo dõi bài giảng hay hướng dẫn học ngay từ lúc bắt đầu của   tiết học, nhưng chưa nên nghĩ đến việc sẽ  làm gì, vì điều đó có thể  sẽ  phá vỡ  lôgic của nội dung cũng như quá trình nghe giảng. ­  Tập trung nghe trọn vẹn nội dung chính, những điểm quan trọng nhất   mà GV thường nhấn mạnh qua ngữ  điệu hay qua việc nhắc lại nhiều lần, để  hiểu vấn đề, rồi ghi chép ý chính theo cách hiểu của mình. Chú ý ghi theo dàn  bài để nhìn được khái quát cấu trúc chung của bài học, chú ý tới trọng tâm, mấu  chốt của vấn đề. ­ Chú ý đến các bảng tóm tắt, các sơ  đồ  và các tài liệu trực quan khác đã   giới thiệu, vì ở thời điểm này người thầy (hay người hướng dẫn) so sánh, phân   tích, hệ thống hoá kiến thức,... nhờ đó ta có thể nắm được trình tự, tiến dần đến  kết luận và rút ra cái mới. ­ Nếu gặp chỗ nào khó, không hiểu, thì hãy tạm thời gác nó lại và sẽ  cố  gắng tìm hiểu những điều đó sau, để quá trình nghe giảng không bị gián đoạn. ­ Trong hoặc cuối tiết học, có thể  nêu câu hỏi với GV hay người hướng   dẫn để làm rõ những chỗ chưa hiểu, khắc sâu kiến thức,...  Lưu ý: Nên dành vài phút để đọc lướt qua tài liệu sẽ học trước khi nghe   giảng. Nhờ  đó, biết được những vấn đề  khó để  nhắc mình chăm chú hơn khi   nghe giảng.  b) Ghi chép hiệu quả Ghi chép không những có thể  khiến tăng cường sự  tập trung mà còn là  một công cụ  hỗ  trợ  ghi nhớ. Khả  năng ghi chép phụ  thuộc vào từng người và  được bắt nguồn từ  những kinh nghiệm có sẵn. Ghi chép còn giúp chúng ta  nguồn lưu trữ  thông tin để  sau này dùng lại hay ôn lại nếu cần. Song để  ghi  chép được nhanh và hiệu quả  nên sử  dụng các thủ  thuật như: dùng từ  viết tắt,   dùng chữ  bắt đầu của một từ; dùng các kí hiệu hoặc tạo ra những từ  viết tắt  riêng cho mình; đặt tựa đề  riêng cho đề  mục và ghi lùi sang phải từng chi tiết  liên quan với đề mục; dùng những chấm riêng cho từng dòng và xuống dòng cho   mỗi chi tiết; chừa chỗ  trống nhiều so với lề  trái, khoảng 1/3 chiều ngang tờ  8
  9. giấy; ... Không cần ghi lại mọi thứ  mà hãy tư  duy, lắng nghe để  hiểu và ghi   được những điều quan trọng nhất.  c) Đọc hiệu quả ­ Đọc hiệu quả  là đọc một cách tập trung và kĩ lưỡng để hiểu được chính  xác những gì đọc được. Ta biết rằng một từ, một cụm từ hay một chữ, thường có   hai phần là âm và nghĩa. Đứng về mặt kĩ thuật, đọc là một quá trình kết hợp lướt  mắt qua các con chữ và nhập nghĩa của các con chữ đó vào đầu.  Khâu thứ nhất ­ xem như khâu nhận mặt chữ hay biết âm ­ chỉ bao gồm việc  nhận dạng kí tự, đọc thầm, phân tích ngữ pháp của câu để chuẩn bị cho việc hiểu   nghĩa.  Khâu thứ hai ­ xem như khâu nhập nghĩa vào trong đầu ­ là quá trình chuyển  các kí tự  đọc được thành nghĩa. Nó thường xảy ra theo hướng so sánh khái niệm   hoặc ý nghĩa vừa đọc với nhận thức cũ của mình. Khi đó, nếu có sự  phù hợp hay  quen thuộc, thì việc hiểu này mang nghĩa củng cố kiến thức; còn nếu nó xa lạ hay   trái với những gì mình đã biết thì việc nhập kiến thức sẽ mang nghĩa tiếp nhận, nạp  cái mới. d) Ghi nhớ thông tin hiệu quả Ghi nhớ là quá trình tiếp nhận thông tin và lưu giữ thông tin ấy trong đầu,  để  sau đó có thể  nhắc lại, dùng lại được. Ghi nhớ  đòi hỏi yêu cầu cao với   người học. Để có thể ghi nhớ thông tin nhanh và lâu, cần lưu ý các bước sau: ­ Đọc đi đọc lại: Đọc lại những gì đã ghi chép sau buổi học sẽ giúp nhớ  bài tốt hơn. Có thể  đọc một tài liệu nhiều lần, mỗi lần với một mục tiêu khác  nhau và đọc theo đúng mục tiêu đó. ­  Nắm ý chính:  Nắm được ý chính trong mỗi đoạn văn và hiểu nó theo  cách của mình là điều cốt lõi của việc đọc có hiệu quả.  ­ Trích lược những chi tiết quan trọng: Mỗi ý chính trong một bài đều có  liên quan đến một chi tiết quan trọng, vì thế, nếu càng nhớ  và dẫn được càng   nhiều chi tiết quan trọng hay các liên hệ giữa các chi tiết và các ý, hoặc giữa các  ý với nhau, thì càng liên hệ được các ý tưởng với kiến thức nền tảng. Nhờ đó, ta  dễ dàng huy động, sử dụng khi cần.  ­ Ghi thành dàn bài: bằng cách chia nội dung toàn bài thành các phần chính  (Ví dụ là A, B hay C,…). Trong mỗi phần lại có thể chia thành một số mục nhỏ,  bạn có thể sắp xếp các mục nhỏ  ấy bằng những chữ số, như: 1, 2, 3,... và đặt   những tiêu đề  riêng; có thể  gạch dưới hoặc viết đậm các phần quan trọng để  dễ nhớ. ­ Nhẩm trong óc: Là cách hệ thống lại và ôn từng phần một của bài, chỗ  nào quên thì dừng lại và lật bài đã có ra xem. Tiếp đó nhẩm sang phần khác, chú  ý các phần quan trọng cần ghi nhớ. Sau đó, tìm những nội dung còn sót để học   lại cho thuộc và đặt thành câu hỏi rồi tự giải quyết trong óc câu hỏi ấy.  9
  10. ­ Ghi ra giấy: Có thể  ghi riêng ra giấy những từ   mới, công thức, những  định lí, tính chất,… sau đó đóng hay cất những tờ giấy này vào nơi dễ nhìn thấy,   có thể  mở  ra xem để  ghi nhớ. Khi ghi chỉ  nên tóm tắt phần quan trọng, chính   yếu nhất, tránh ghi rườm rà.  ­ Hỏi và tự trả lời: Tự đặt cho mình những câu hỏi và trả lời các câu hỏi   để  ghi nhớ  được các thông tin cần tìm hiểu. Các loại câu hỏi như:  Cái gì? Ở  đâu? Khi nào? Tại sao? Như thế nào? Ai?... Cách này vừa giúp ta nhớ kiến thức,  vừa tăng cường tính chủ động, tích cực trong học tập. đ) Liên tưởng trong tự học Liên tưởng giúp các em phát huy tính khám phá, tính sáng tạo bằng cách  kết nối một vấn đề  đang học, một vấn đề  đang gặp phải, cần được ghi nhớ,  một vấn đề chưa thật quen thuộc, chưa thật hiểu rõ với cái mà mình đã biết. Nhờ  đó, ta sẽ dễ nhớ và dễ truy cập, sử dụng một vấn đề nào đó khi cần. g) Sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) trong tự học Trong việc học và đặc biệt là khi ôn tập, hệ thống hoá kiến thức, HS đã   được làm quen với việc kẻ bảng, biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và thường HS có  chung cách “ghi chép” giống GV hay người trợ  giúp, hoặc mẫu trong tài liệu,   nên việc ghi nhớ thường bị động, khó khăn, khó khắc sâu, khó nhớ. Đến nay, BĐTD được xem là hình thức ghi chép hỗ  trợ  tìm tòi, đào sâu,  mở  rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ  thống hoá  một chủ  đề, một hệ  thống bài tập hay một mạch kiến thức, các cách giải của  một  dạng  bài  tập,…  bằng  cách  kết  hợp  việc  sử   dụng   đồng  thời  hình   ảnh,  đường nét, màu sắc, chữ  viết với sự  tư  duy tích cực. Đặc biệt, BĐTD còn là  một sơ đồ  mở, không yêu cầu tỉ  lệ, chi tiết khắt khe, có thể  vẽ  thêm hoặc bớt   các nhánh, mỗi người vẽ  một kiểu, dùng màu sắc, hình  ảnh, các cụm từ  diễn  đạt khác nhau. Do đó, việc lập BĐTD còn giúp phát huy khả năng sáng tạo của  mỗi người. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng của việc hướng dẫn học sinh tự học nói chung và bộ  môn Địa lí nói riêng của giáo viên trung học phổ thông. Có thể nói rằng hiện nay khâu tự học của HS trong các trường chưa được  coi trọng đúng mực. Thực ta tự  học thì kiến thức sẽ  sâu hơn, bền hơn và thực   chất hơn. Do nhiều nguyên nhân, học sinh hiện nay hầu như phụ thuộc và thậm  chí còn ỷ lại thầy cô giảng, không chịu tìm tòi, nghiên cứu. Chính vì vậy GV cần  phải có những phương pháp hướng dẫn, kích thích học sinh tự  học nhiều hơn.   Giúp HS nâng cao kỹ năng tự học các môn học để phát huy được tính chủ động,   sáng tạo, độc lập của học sinh. Đối với bộ môn Địa lí dựa vào những quy định của bộ môn trong quá trình   xây dựng kế  hoạch giảng dạy môn Địa lí thì thời lượng dạy trên lớp cho mỗi   10
  11. tiết học là rất ngắn, mỗi tuần chỉ dạy 1 tiết đến 2 tiết/ kì, trong khi nội dung tri   thức cần truyền đạt ở một số bài của môn Địa lí thì khó, cần nhiều thời gian tìm  hiểu, nghiên cứu. Do đó, việc HS phải tự học bài và chuẩn bị bài trước giờ  lên   lớp là điều tất yếu. Có thể nói rằng thời gian tự học ở nhà là rất quan trọng, đây   là lúc HS có nhiều thời giờ suy ngẫm, đào sâu vấn đề, tiếp tục đề  xuất những   thắc mắc để  thầy giải đáp, suy nghĩ liên hệ  hoặc vận dụng vào thực tế. Đây  cũng là cách để tri thức khắc sâu trong bộ óc, khó bị quên lãng và trở thành hữu  ích, là cách học kết hợp với hành mà Bác Hồ  luôn luôn nhắc nhở. Việc học  ở  nhà còn phải làm tốt việc chuẩn bị trước theo yêu cầu của từng bài giảng. Tuy nhiên, để  học sinh trở  thành những người học có khả  năng tự  học,   chủ  động sáng tạo không phải là một điều dễ  dàng, do học sinh mới làm quen   với cách học mới nên tính thụ động còn cao, phương pháp tự học, tự nghiên cứu  còn chưa tốt do đó họ rất lúng túng trong việc tự học ở nhà. Mặt khác, giáo viên   cũng gặp phải nhiều khó khăn khi yêu cầu học sinh tự học ở nhà môn Địa lí và   quản lý cũng như đánh giá khả năng tự học của học sinh. 2.2. Thực trạng của việc học sinh tự  học nói chung và tự  học môn  Địa lí cấp trung học phổ thông nói riêng hiện nay  Để  khách quan tôi đã tiến hành khảo sát việc thực hiện quá trình tự  học  của học sinh tại trường THPT Thái Hòa đem lại kết quả như sau: * Kết quả khảo sát đối với học sinh khối 10 (số lượng học sinh khảo sát 80  em)  Câu 1: Em hiểu tự học là gì?  Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Tự học là tự nghiên cứu sách  30 38 2. Tự học là tự tìm kiếm kiến thức 24 30 3. Tự học là cá nhân tự giác học tập. 26 32 Câu 2: Sự cần thiết của việc tự học Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Rất cần thiết 45 56 2. Cần thiết 20 25 3. Bình thường 10 13 4. Không cần thiết 5 6 Câu 3: Lý do cần phải tự học  Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Giúp hiểu bài trên lớp sâu sắc hơn 35 44 11
  12. 2. Giúp nhớ bài học lâu hơn 25 31 3. Kích thích tính tích cực trong học tập 15 19 4. Rèn luyện khả năng cho bản thân 5 6 Câu 4: Khó khăn mà học sinh gặp phải khi tự học  Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Chưa có phương pháp học tập hợp lí 55 69 2. Chưa có biện pháp để kiểm tra kiến thức mình  15 19 tự học 3. Thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho việc tự học 10 12 Câu 5: Cách thức tự học của học sinh Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Chỉ học bài khi cần thiết 32 40 2. Học theo nội dung câu hỏi bài tập của giáo viên 30 38 3. Chỉ học phần quan trọng 18 22 Câu 6: Hình thức tự học: Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Tự học một mình 60 75 2. Tự học theo nhóm 15 18,8 3. Tự học cùng người thân 5 6,2 Câu 7: Mức độ sự dụng kỹ năng tự học: Nội dung Số lượng Tỷ lệ % Sự dụng thành thạo các kỹ năng 20 25 Lúng túng khi sự dụng các kỹ năng 50 63 Chưa biết sự dụng các kỹ năng 10 12 Câu 8: Thời gian tự học của học sinh: Nội dung Số lượng Tỷ lệ % Mỗi ngày 1 đến 2 tiếng 39 49 Mỗi ngày 2 đến 3 tiếng 25 31 Mỗi ngày trên 3 tiếng 16 20 Câu 9: Suy nghĩ của học sinh về vấn đề tự học THPT Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 12
  13. 1. Chỉ cần học trên lớp là đủ 50 63 2. Chủ yếu tự nghiên cứu bài tập 10 12 3. Cần tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên 20 25 Câu 10: Để chuẩn bị cho nội dung tự học một bài học Địa lí, em thường: Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Học bài cũ và nghiên cứu trước bài mới theo nội  45 56 dung hướng dẫn của giáo viên 2. Học thuộc lòng bài cũ 20 25 3. Không chuẩn bị gì cả 15 19 Câu 11: Thái độ của học sinh đối với việc tự học Địa lí Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Rất nghiêm túc 20 25 2. Còn mang tính chất đối phó 52 65 3. Bình thường 8 10 * Nhận xét:  Kết quả khảo sát cho thấy đa số học sinh đều hiểu và nhận thức đúng vai  trò của tự học đối với quá trình học tập nói chung và môn Địa lí nói riêng. Tuy  nhiên việc thực hiện tự học  ở học sinh còn gặp phải nhiều khó khăn, lúng túng  trong việc sự dụng các kỹ năng tự học. Mức độ sử dụng thành thạo các kỹ năng  tự  học con thấp. Thời gian tự học của học sinh còn quá ít, thái độ  học tập còn  mang tính đối phó cao, còn phụ  thuộc nhiều vào sự  hướng dẫn của giáo viên.  Nguyên nhân một phần các em chưa có ý thức tự  giác trong quá trình học tập,   một phần khác do các em chưa định hướng được một cách cụ  thể  trong hoạt  động tự học của bản thân. Chính vì vậy kết quả tự  học của học sinh còn chưa   đạt hiệu quả cao. Bởi vậy, vai trò của người giáo viên trong việc phát triển kỹ  năng tự  học của HS nhằm góp phần nâng cao chất lượng tự  học của học sinh   nói chung và tự  học môn Địa lí nói riêng  ở  trường phổ  thông là hết sức quan   trọng. 2.3. Thực trạng của việc hướng dẫn nội dung tự học cho h ọc sinh   trong các giờ  học môn Địa lí tại các trường trung học phổ  thông trên địa   bàn Thị xã Thái Hòa Và huyện Nghĩa Đàn. Trong quá trình thực hiện đề  tài tôi cũng đã tiến hành khảo sát việc tự  học của học sinh nói chung và việc hướng dẫn nội dung tự  học cho học sinh  trong việc dạy học môn Địa lí  ở  các trường THPT trên địa bàn Huyện Nghĩa  13
  14. Đàn và Thị  xã Thái Hòa (bao gồm: Trường THPT Cờ Đỏ, Trườ ng THPT 1/5,  Trường THPT Thái Hòa, Trườ ng THPT Tây Hiếu, Trường THPT Đông Hiếu.  Tổng 5 trườ ng gồm 12 giáo viên) kết quả như sau: *Kết quả khảo sát như sau (số lượng GV khảo sát: 12 người)  Câu 1: Cách thức hướng dẫn học sinh tự học  Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Chỉ hướng dẫn một số bài cần thiết ­ Có thực hiện 10 83 ­ Không thực hiện 2 17 2. Hướng dẫn theo nội dung kế hoạch giáo dục ­ Hướng dẫn chi tiết, cụ thể 8 67 ­ Hướng dẫn chung chung 4 33 3. Nội dung hướng dẫn ­ Chỉ hướng dẫn phần quan trọng 9 75 ­ Hướng dẫn các nội dung theo yêu cầu 3 25 Câu 2: Những khó khăn mà giáo viên gặp phải khi hướng dẫn học sinh tự học  Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Chưa có phương pháp hợp lí 4 33 2. Chưa có biện pháp để  kiểm tra kiến thức học   5 41 sinh tự học 3. Thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho việc tự học 3 26 Câu 3: Việc tiến hành hướng dẫn hoạt động tự học cho học sinh Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1. Thực hiện hướng dẫn học sinh tự học ­ Có 10 83 ­ Không 2 17 2. Cơ sở tiến hành hướng dẫn tự học ­ Xuất phát từ nội dung 5 42 ­ Từ các nội dung liên quan đến bài học 4 33 ­ Từ nội dung liên quan đến tên bài học  3 25 3. Mục đích việc hướng dẫn tự học ­ Kiểm tra và thống kê kiến thức của học sinh 5 42 ­ Tạo hứng thú cho học sinh 3 25 14
  15. ­ Tạo tình huống có vấn đề để vào bài 4 33 4. Cách thức tiến hành hoạt động tự học  ­ Tổ chức thành hoạt động 5 42 ­ Dẫn dắt 7 58 ­ Khác 0 0 5. Mức độ thu hút và hiệu quả ­ Cao 5 42 ­ TB 5 42 ­ Thấp 2 16 * Nhận xét:  Kết quả  khảo sát cho thấy đa số các giáo viên Địa lí trên địa bàn Huyện  Nghĩa Đàn và Thị  xã Thái Hòa đều đã có sự  đổi  mới đầu  tư  cải tiến phương  pháp giảng trong việc hướng dẫn học sinh tự học. Tuy nhiên vẫn còn một số ít  giáo viên có những hạn chế  nhất định như: giáo viên vẫn chưa mạnh dạn vận  dụng phương pháp, kỹ  thuật dạy học tích cực vào việc hướng dẫn học sinh tự  học. Do đó đang tạo cảm giác thụ  động đối với học sinh trong việc tiếp nhận   kiến thức. Một số  giáo viên tâm lí môn mình là môn phụ  nên chưa chịu đầu tư  trong việc soạn giáo án, tìm hiểu những nội dung kiến thức mới thành ra bài dạy  gây nhàm chán, không tạo được sự hứng thú cho người học. Chính vì lẽ đó bản  thân tôi nghĩ người giáo viên dạy môn Địa lí luôn phải tìm tòi, đổi mới để tìm ra  phương pháp phù hợp cho từng bài đặc biệt phải biết cách hướng dẫn học sinh   tự  học để  đem lại hiệu quả  khi giảng dạy. Bên cạnh đó nhiều bài học trong  sách giáo khoa môn Địa lí còn khá trừu tượng, khó hiểu đối với học sinh phổ  thông nên việc lựa chọn hình thức, phương pháp như thế nào để hướng dẫn học  sinh tự  học quả  là vấn đề  không mấy dễ  dàng đối với mỗi giáo viên.Vi vây, ̀ ̣   trong qua trinh  ́ ̀ daỵ , dù  rât cô găng, nhiêu giao viên cung không  ́ ́ ́ ̀ ́ ̃ ́ ự tâp thể  lôi keo s ̣   ̉ ̣ ̣ trung cua hoc sinh, hiêu qua gi ̉ ơ h ̀ ọc bi giam sut. Chính vì l ̣ ̉ ́ ẽ đó bản thân tôi trong   quá trình giảng dạy bộ môn Địa lí bậc THPT tôi luôn luôn trăn trở để tìm ra giải  pháp hướng dẫn học sinh tự học một cách hiệu quả nhằm tạo hứng thú cho các  em khi học bộ môn này. 2.4. Nguyên nhân của thực trạng. Thứ nhất: Ý thức học tập: Một số bạn học tập chủ yếu với tinh thần thi   trước nhất, sau đó mới hiểu thêm về kiến thức mình học, điều này đã phần nào   hạn chế  ý thức tự  học của các bạn. Theo kết quả  khảo sát có đến 65,4 % các  bạn chỉ thỉnh thoảng mới học Địa Lí và các bạn chỉ  học trước khi thi vài ngày;   22,8 % các bạn học thường xuyên, số còn lại thì không biết học lúc nào. 15
  16. Chỉ có 22,8 % các bạn được khảo sát là học thường xuyên, như vậy ta thấy  ý thức tự  học của các bạn là chưa cao. Điều này  ảnh hưởng rất lớn đến chất   lượng kiến thức thu được. Thứ hai: Cách tự  học  Các bạn chưa phát huy hết hiệu quả cách học, hầu như  các bạn chưa kết  hợp được các cách học với nhau. Các bạn học thuộc khi thi có kết quả  cao,  nhưng sau đó kiến thức cũng ra đi rất nhanh. Các bạn tự học riêng lẻ bằng bản   đồ, hiểu và nhớ, học nhóm lại có kết quả không cao lắm (đa số đạt điểm 5,6,7).   Do các bạn chưa hiểu hết bản đồ nên chưa khai thác triệt để kiến thức trên bản   đồ, còn các bạn học hiểu và nhớ  nhưng chưa có cách hệ  thống lại bài, nhiều  kiến thức buộc phải nhớ  chính xác thì không nhớ  được nên làm bài lan man,   thiếu trọng tâm. Kiến thức giữ được thì độ chính xác không cao lắm. Thứ  3: Cách truyền đạt của giáo viên cũng  ảnh hưởng khá lớn đến kết   quả học tập, tiếp thu kiến thức của học sinh . Kiến thức giáo viên cung cấp  nhiều quá thì khiến cho học sinh lười suy nghĩ do một phần thì tiếp thu không  kịp, một phần do ngại đào sâu khai thác, không có thời gian tự  khai thác, trao   đổi, thảo luận với nhau trên lớp nên kiến thức không được khắc sâu. Tuy nhiên đối với môn địa lý giáo viên đã có sự  thay đổi về  phương pháp  giảng dạy, điều này phù hợp với nguyện vọng của học sinh, giúp cho học sinh   tự  đào sâu kiến thức hơn và không sợ  kiến thức bị  hổng, sai vì đã có giáo viên  chuẩn kiến thức lại. Theo khảo sát cách truyền đạt này (hướng dẫn cho học sinh tự  khai thác,  sau đó chuẩn lại kiến thức) được 59,1 % ý kiến đồng tình, cao hơn rất nhiều so   với cách truyền đạt cung cấp toàn bộ  kiến thức (11,4% đồng ý) và học sinh tự  khai thác hoàn toàn, không có sự hướng dẫn, chỉ kiểm tra kết quả. Cũng trong đợt khảo sát 75,8 % các bạn chưa hài lòng với cách học và kết  quả  đạt được của bản thân. 21,2 % hài lòng và 3 % chưa hài lòng lắm. Và khi   được hỏi là nếu có một phương pháp tự học phù hợp các bạn có quyết tâm thực   hiện không thì có đến 90,6 % đồng ý áp dụng. Như  vậy ta thấy các bạn luôn mong muốn tìm ra một cách học phù hợp,  đem lại kết quả cao trong học tập. Giải pháp đó là gì? 3. Một số  giải pháp để  xây dựng, tổ  chức dạy học   nhằm phát huy  tính tích cực, nâng cao năng lực tự  học của học sinh trong chương trình  môn Địa lí cấp trung học phổ thông. 3.1. Giải pháp 1: Giúp học sinh nhận thức vai trò, ý nghĩa của tự học,   xây dựng kế hoạch và phương pháp học tập. Bước 1:  Giúp học sinh nhận thức vai trò, ý nghĩa của tự học  Đa số học sinh trường THPT Thái Hòa còn có những hạn chế sau: 16
  17. ­ Thói quen thụ động trong quá trình học tập, quen nghe, ghi, chép, nhớ và  tái hiện lại những gì giáo viên nói.  ­ Do chưa hình thành kỹ năng, phương pháp tự học nên kiến thức của hầu   hết học sinh tỏ  ra hẫng hụt ngay từ  đầu năm học, không nắm được các kiến   thức đã học một cách hệ thống và khoa học và rất ít vận dụng được kiến thức. ­ Giai đoạn chuẩn bị cho hoạt động tự học đa số học sinh không thực hiện  được. Tôi đã làm khảo sát nhận thức về vai trò, ý nghĩa của tự học đối với nhóm  học sinh khối 10 trường THPT Thái Hòa và thu được kết quả như sau:  TT Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của tự học Tỉ lệ 01 ­ Nắm chắc, hoàn thiện và hiểu sâu kiến thức. 65 02 ­ Nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ, phát huy trí thông  61 minh. 03 ­ Mở rộng vốn hiểu biết, tự bổ sung kiến thức và phát triển toàn   47 diện con người. 04 ­ Phát huy tính tích cực, chủ  động, độc lập, sáng tạo, tự  giác  75 trong học tập. 05 ­ Nâng cao khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát. 70 06 ­ Nâng cao khả  năng vận dụng kiến thức vào bài tập, vào thực   85 tế. 07 ­ Nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập và có kết quả cao trong  70 kiểm tra, thi cử. 08 ­ Hình thành tính kỷ  luật tự  giác và rèn luyện phong cách làm   58 việc khoa học. 09 ­ Chuẩn bị những khả năng để học tập suốt đời. 43 10 ­ Hình thành, biến đổi và phát triển nhân cách. 51 Qua khảo sát cho thấy vai trò tự  học “Phát huy tính tích cực, chủ  động,  độc lập, sáng tạo, tự  giác trong học tập” được học sinh cho rằng quan trọng  hàng đầu. Các vai trò: Mở  rộng vốn hiểu biết, tự  bổ  sung kiến thức và phát  triển toàn diện con người; chuẩn bị những khả năng để  học tập suốt đời; hình  17
  18. thành, biến đổi và phát triển nhân cách được đánh giá thấp cho thấy học sinh   vẫn chưa hiểu rõ được vai trò, ý nghĩa của tự học.  Như vậy muốn học sinh nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của tự học,   giáo viên bộ  môn cùng  với giáo viên chủ  nhiệm cần phải thường xuyên nhắc  nhở  học sinh trong các tiết học và có thể  lồng ghép nội dung này vào các tiết  hoạt động ngoài giờ lên lớp.  Bước 2:  Xây dựng kế hoạch học tập.  Để tìm hiểu thực tế việc lập kế hoạch học tập của học sinh. Tôi đã tiến   hành điều tra, quan sát, trò chuyện, trao đổi, thống kê…với một số  giáo viên và  học sinh. Kết quả như sau:  * Ý kiến tự đánh giá của học sinh: Chỉ có 40% học sinh tự nhận là có lập  kế hoạch tự học trong đó 71% học sinh tự  làm kế  hoạch còn lại 29% học sinh  có sự giúp đỡ của giáo viên, cha mẹ, anh, chị. * Ý kiến của giáo viên: Có 35% giáo viên cho rằng học sinh có lập kế  hoạch tự học. Trong (71% HS lập kế hoạch tự học) đó: ­ HS lập kế hoạch tự học từng ngày: 64% ­ HS lập kế hoạch tự học từng tuần: 3,5% ­ HS lập kế hoạch tự học từng tháng: 2% ­ HS lập kế hoạch tự học từng năm học: 1,5% Để thuận lợi trong quá trình học sinh lập kế hoạch học tập,  giáo viên cần  hướng dẫn cho học sinh cách xây dựng kế hoạch học tập, cung cấp đầy đủ kế  hoạch dạy và học của bộ  môn cho các em. Ngay từ  tiết học đầu tiên của môn   học, giáo viên cần phải giới thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương  pháp học một cách khái quát nhất để  học sinh hiểu và từ  đó, tự  xây dựng cho   mình kế hoạch học tập phù hợp. Giáo viên làm cho học sinh hiểu rõ: kế hoạch  phải được xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ  thể, học sinh có  thể  phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế  hoạch thời gian được  xây dựng chi tiết. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi chương, giáo viên  sẽ  cung cấp nội dung và thời gian học và kiểm tra để  học sinh nắm rõ. Đồng   thời, giáo viên có thể cho học sinh đánh dấu vào trong sách bài nào học ngày nào,   đến tiết nào sẽ kiểm tra.  Bước 3:  Xây dựng phương pháp tự học. Sử  dụng phiếu hỏi  và trao   đổi trực  tiếp  với một số  học sinh về  các  phương pháp tự học đang sử dụng, chúng tôi thu được kết quả như sau: Thường  Chưa  Thỉnh  TT Mức độ sử dụng phương pháp xuyên bao giờ  thoảng (%) (%) (%) 01 Đọc tài liệu tham khảo và SGK 75,4 24,6 0 18
  19. 02 Học thuộc lòng bài giảng 86,3 13,7 0 03 Vận dụng kiến thức để giải bài tập 30,2 52,4 17,4 04 Hệ  thống hóa và khái quát hóa kiến  12 60,5 27,5 thức 05 Làm   đề   cương   và   học   theo   đề  26,7 63,3 10 cương 06 Tự   kiểm   tra   đánh   giá   quá   trình   tự  10 59,4 30,6 học Qua bảng điều tra cho thấy hầu hết HS đều biết sử dụng phương pháp tự  học theo nhiều cách khác nhau. Trong đó phương pháp được sử  dụng thường   xuyên nhất là học thuộc lòng bài giảng trước khi lên lớp chiếm đến 86,3% .   Phương pháp đọc tài liệu tham khảo và SGK thường xuyên chiếm tỉ lệ 75,4% và  học sinh cho rằng tất cả  các môn học chứa đựng dung lượng kiến thức nhiều   trong lúc thời lượng của môn học trên lớp không tiếp thu đầy đủ được.  Kết quả  điều tra còn cho thấy việc sử  dụng các phương pháp vận dụng  kiến thức để  giải bài tập, hệ  thống hóa và khái quát hóa kiến thức, làm đề  cương và học theo đề cương, tự kiểm tra đánh giá quá trình tự học chỉ sử dụng   không thường xuyên. Những phương pháp này chỉ được sử dụng khi kiểm tra 1   tiết, thi học kì. Điều này cho thấy sự  hứng thú trong học tập của một số  đông  học sinh chưa được chú trọng, chưa chịu khó động não, tìm tòi trong quá trình tự  học, không phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập. Đặc biệt chưa biết   phân tích, tổng hợp các vấn đề của bài học.  Như vậy, để nâng cao hiệu quả tự học của học sinh thì: * Về phía GV:  ­ Chuẩn bị cho dạy học: Nghiên cứu tài liệu, soạn giáo án (Xác định mục   tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện..) gắn với đối tượng học sinh của  trường, chú trọng đến việc thiết kế  bài giảng theo hướng giúp học sinh ngay   trong giờ học trên lớp. Thiết kế hệ thống các dạng bài tập nhận thức đảm bảo   yêu cầu phù hợp mục tiêu bài học nhằm giúp học sinh lĩnh hội tri thức mới,   củng cố, mở rộng, đào sâu kiến thức. ­ Quy định về  việc dạy học trên lớp: Kiểm tra kết quả  tự  học của học  sinh, tổ chức giờ dạy trên lớp theo phương pháp dạy ­ tự học để  năng cao năng  lực tự học cho học sinh. Kết thúc mỗi tiết giáo viên giao nhiệm vụ  tự  học cho   học sinh tùy theo mức độ đối tượng học sinh và yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ tự  học.  19
  20. Chùm ảnh minh họa: Học sinh hăng hái thực hiện các nhiệm vụ tự học ­ Về kiểm tra đánh giá: Tăng cường việc kiểm tra bài, kết quả tự học của   học sinh thông qua các hình thức trực tiếp như  (kiểm tra miệng, viết (15 phút)  trước khi vào bài mới, lồng ghép vào bài, củng cố) hoặc kiểm tra bằng hình  thức gián tiếp thông qua các phần mềm. Nội dung kiểm tra bám sát vào những  yêu cầu bài tập, nhiệm vụ  tự  học giáo viên đã giao. Sau các bài kiểm tra một  tiết, kiểm tra kết thúc học kì, năm học cần bố  trí tiết trả  bài và giải quyết  những vấn đề học sinh còn thắc mắc. ­  Động viên, khuyến khích, kích thích các hoạt động tự học của học sinh. * Về phía học sinh:  ­ Cần biết xác định mục tiêu học tập, nội dung cần học, lên kế hoạch tự  học.  ­ Xác định kiến thức, kĩ năng cơ bản thuộc mỗi nội dung hay chủ đề.  ­ Hệ thống hoá kiến thức.  ­ Học sinh cần biết tự thể hiện, tham gia quá trình thảo luận, biết tự đánh   giá, tự  điều chỉnh bản thân và biết vận dụng kiến thức đã học vào các tình  huống thực tiễn.  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2