Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp Phân luồng cho học sinh THPT sau tốt nghiệp cho học sinh trường THPT Nam Yên Thành
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp Phân luồng cho học sinh THPT sau tốt nghiệp cho học sinh trường THPT Nam Yên Thành" nhằm giúp học sinh nhận thức và định hướng chọn nghề và phân luồng hiện nay; Thực trạng của hoạt động giáo dục Hướng nghiệp cho học sinh THPT hiện nay. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức để các em lựa chọn nghề phù hợp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp Phân luồng cho học sinh THPT sau tốt nghiệp cho học sinh trường THPT Nam Yên Thành
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN == SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÂN LUỒNG HỌC SINH SAU TỐT NGHIỆP THPT TẠI TRƯỜNG THPT NAM YÊN THÀNH MÔN: HƯỚNG NGHIỆP
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NAM YÊN THÀNH ------------***--------------- KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÂN LUỒNG HỌC SINH SAU TỐT NGHIỆP THPT TẠI TRƯỜNG THPT NAM YÊN THÀNH MÔN: HƯỚNG NGHIỆP Người thực hiện: Nguyễn Văn Hải Tổ bộ môn: Thời gian thực hiện: Năm 2022 Số điện thoại: 0983 619 456 Yên Thành –Tháng 4/2022
- MỤC LỤC MỤC TRANG PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1 PHẦN 2. NỘI DUNG .............................................................................................. 5 5 I - CƠ SỞ LÝ LUẬN ...............................................................................................6 5 II – CƠ SỞ THỰC TIỄN. ......................................................................................... 7 7 III - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP. ............................................................. 7 8 8 8 1. Các khái niệm....................................................................................................... 2. So sánh sự phân luồng sau tốt nghiệp THCS và THPT ........................................ 8 8 3. Thực trạng công tác phân luồng, hướng nghiệp tại các trường THPT ..................8 3.1 Đặc điểm tình hình trường THPT Nam Yên Thành ......................................... 10 10 3.2 Thực trạng công tác phân luồng, hướng nghiệp tại các trường THPT ............... 15 12 4. Một số giải pháp Phân luồng cho học sinh THPT sau tốt nghiệp cho 15 học sinh trường THPT Nam Yên Thành: ........................................................................4. 4.1. Giải pháp 1: Nắm bắt nguyện vọng nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp 17 THPT của học sinh từ năm học lớp 10 của cấp học................................................. 18 4.2. Giải pháp 2: Đẩy mạnh nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, 18 giáo dục mũi nhọn trong nhà trường, tạo tiền đề thuận lợi cho công tác phân luồng, hướng nghiệp……………………………………………… 4.3. Giải pháp 3: Nâng cao trách nhiệm của cán bộ quản lý ở trường 19 trung học phổ thông Nam Yên Thành đối với công tác phân luồng, hướng nghiệp. .............................................................................................................. 4.4. Giải pháp 4. Nâng cao trách nhiệm, tính tự chủ của giáo viên 20 trường THPT Nam Yên Thành trong công tác giáo dục phân luồng, hướng nghiệp ............................................................................................................... 4.5. Giải pháp 5. Tuyên truyền nâng cao nhận thức của phụ huynh, học 23 sinh về tầm quan trọng của việc tìm hiểu kỹ về ngành nghề trước khi lựa chọn .............................................................................................................................. 27 4.6. Giải pháp 6. Đổi mới bộ máy tổ chức chỉ đạo và thực hiện công tác 24 giáo dục phân luồng, hướng nghiệp. …………………………………… 4.7. Giải pháp 7. Tăng cường xã hội hoá công tác giáo dục phân luồng, 27 hướng nghiệp. .............................................................................................................. 4.8. Giải pháp 8. Tăng cường sự ủng hộ của các cấp quản lý về chủ 27 trương, đường lối đổi mới công tác giáo dục phân luồng, hướng nghiệp...................
- MỤC TRANG 4.9. Giải pháp 9. Chủ động liên kết, phối hợp các tổ chức giáo dục, các trường TC, CĐ Nghề trong Tỉnh để hướng nghiệp, đào tạo nghề cho học 27 sinh ngay trong trường THPT. 4.10. Giải pháp 10. Chủ động liên kết, phối hợp các tổ chức giáo dục, các trường TC, CĐ Nghề trong Tỉnh để hướng nghiệp, đào tạo nghề cho 31 học sinh ngay trong trường THPT. 5. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC. ..................................................................... 35 45 5.1. Kết quả khảo sát hiệu quả của các giải pháp khi áp dụng.................................... 35 5.2. Một số kết quả nỗi bật đáng chú ý. ...................................................................... 38 PHẦN III. KẾT LUẬN .......................................................................................... 39 I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM .................................................................................... 39 II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN: .............................................................................. 39 III. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ : ............................................................................ 40 52 PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 41
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÂN LUỒNG HỌC SINH SAU TỐT NGHIỆP THPT TẠI TRƯỜNG THPT NAM YÊN THÀNH PHẦN I - MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Đất nước Việt Nam chúng ta đang trên đà đổi mới và phát triển, ngày càng khẳng định được vị thế và ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế. Để công cuộc đổi mới thu được thắng lợi hoàn toàn trong thời đại cách mạng 4.0 trách nhiệm nặng nề nhưng đầy vinh quang đặt lên vai của toàn Đảng, toàn dân và với mỗi người dân chúng ta.Với khí thế hoà chung vào xu thế đó, đòi hỏi mỗi người phải luôn trau dồi kiến thức và lựa chọn một hướng đi đúng đắn trong tương lai cho mình. Đặc biệt là đối với học sinh THPT hiện nay, lựa chọn nghề nghiệp đã trở thành mối quan tâm thường xuyên, chi phối suy nghĩ và hành động của các em. Việc lựa chọn nghề của học sinh không chỉ xác định hướng đi cuộc đời của mỗi cá nhân mà còn có tác dụng tới toàn xã hội vì sau đó nó thúc đẩy hoặc kìm hãm sự đóng góp của mỗi cá nhân đối với xã hội. Chọn nghề phù hợp với năng lực, nguyện vọng, hứng thú sẽ tạo một động lực lớn thúc đẩy cá nhân say sưa, miệt mài, tích cực khám phá và sáng tạo để hoạt động tốt trong nghề, ngược lại chọn sai nghề họ sẽ băn khoăn day dứt trong suốt cuộc đời, đã có những câu chuyện buồn xảy ra khi nhiều sinh viên phải cất dấu tấm bằng giỏi đại học của mình để được vào làm công nhân trong các nhà máy may, trong các khu công nghiệp, rồi những anh chàng Sinh viên phải gác tấm bằng thạc sỹ sau nhiều năm đèn sách để chạy xe ôm kiếm sống... Nhưng để có sự lựa chọn đúng ngành nghề cho bản thân thì quả là vấn đề rất khó đối với lứa tuổi này vì kinh nghiệm vốn có của học sinh chưa đủ để các em quyết định con đường lao động tương lai. Sự lựa chọn nghề của học sinh THPT không chỉ phụ thuộc vào các đặc điểm tâm, sinh lý của các em và những tác động sư phạm của nhà giáo dục mà còn phụ thuộc vào yếu tố gia đình, xã hội. Tâm lý sính bằng Đại học bằng mọi giá ở một số vùng miền vẫn chưa được thay đổi tư duy. Trước đây học sinh học xong chương trình THPT là ồ ạt nạp hồ sơ thi vào các trường Cao đẳng, Đại học để rồi tình trạng thừa Thầy thiếu Thợ diễn ra tràn lan và để lại nhiều hệ hụy về mất cân bằng cung cầu nhân lực cho xã hội hay phong trào xuất ngoại theo các con đường tiểu ngạch, bất hợp pháp không có ngành nghề để rồi sang đến xứ người phải bươn chải không nghề nghiệp cuộc sống được đánh đổi bằng mọi giá, phó mặc vào sự may rủi số phận. Việc đi ra nước ngoài là một xu hướng tất yếu khi sự hội nhập toàn cầu diễn ra ngày càng sâu rộng. Bên cạnh những người đi ra nước ngoài học nghề hay lao động có tay nghề đem lại cuộc sống hạnh phúc cho bản thân họ, tăng thu nhập và tô đẹp hình ảnh cho đất nước rất được hoan nghênh khuyến khích thì cũng có rất nhiều người đi ra nước ngoài không nghề nghiệp và rồi chính bản thân họ gặp rất nhiều rắc rối, thậm chí nhiều vụ việc lao động bất hợp pháp phải bỏ mạng điển hình như vụ 39 lao động chui thiệt mạng trong công ten nơ năm 2019 khi tìm cách sang nước Anh…Trước thực 1
- tế này Đảng và Nhà nước đã có chủ trương quan tâm tới công tác phân luồng, hướng nghiệp. Công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương được coi là một trong những nhiệm vụ của giáo dục phổ thông, được coi là nền tảng để phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Hàng năm Trường THPT Nam Yên Thành tiếp nhận trung bình 450 em học sinh vào học cấp THPT và cũng có gần 450 học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học mỗi năm, những học sinh này đều mong muốn tìm cho mình một nghề ổn định nhưng chọn nghề nào trong cơ chế thị trường hiện nay đã ảnh hưởng rất nhiều đến suy nghĩ của học sinh. Vốn hiểu biết thực của học sinh về nghề giúp các em lựa chọn đúng đắn một nghề phù hợp với mình và nghề đó có tồn tại lâu dài hay không? Việc lựa chọn nghề của các em chịu ảnh hưởng của những yếu tố nào và khả năng đáp ứng của họ ra sao? Và sau khi lựa chọn nghề các em có thoả mãn không? Tại trường THPT Nam Yên Thành, giáo dục hướng nghiệp những năm trước đây đã được thực hiện, tuy nhiên việc thực hiện còn nhiều bất cập cần quan tâm, bổ sung đúng mức. Vì vậy, hiệu quả mang lại chưa thực sự rõ nét. Xuất phát từ thực tiễn của xã hội trong việc con số cử nhân thất nghiệp ngày càng tăng (trong đó có không ít cử nhân nguyên là học sinh của nhà trường), trong khi đó nhu cầu nhân lực lao động nghề lại đang thiếu hụt trầm trọng, với trách nhiệm của một người làm quản lý bản thân tôi đã luôn trăn trở, tìm tòi để có thể giúp cho học sinh của mình sau khi tốt nghiệp THPT có thể biết để chọn con đường đi cho tương lai một cách đúng đắn nhất. Với sự vào cuộc quyết liệt của bản thân và đội ngũ nhà trường, trong hai năm trở lại đây, xu hướng lựa chọn nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp đã có sự chuyển biến tích cực, tạo được sự yên tâm, phấn khởi đối với phụ huynh và học sinh; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Từ các kết quả đã đạt được và xuất phát từ yêu cầu cấp bách của thực tế là cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác phân luồng, hướng nghiệp sao cho công tác phân luồng, hướng nghiệp tại trường THPT Nam Yên Thành nói riêng, các trường THPT nói chung đạt hiệu quả tốt, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp Phân luồng cho học sinh THPT sau tốt nghiệp cho học sinh trường THPT Nam Yên Thành”. II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Mục đích nguyên cứu: Ở Việt nam, từ sau khi thực hiện chính sách đổi mới (1985) đã có ba xu hướng chuyển đổi ảnh hưởng nhiều đến quan hệ kinh tế - xã hội, đó là: Quá trình chuyển từ xã hội bao cấp sang xã hội dịch vụ; chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường và chuyển từ kinh tế công – nông nghiệp sang kinh tế tri thức.Chuyển từ xã hội bao cấp sang xã hội dịch vụ đã ảnh hưởng không nhỏ đến giáo dục hướng nghiệp phổ thông. Những định hướng nghề nghiệp cứng nhắc trước đây, theo kiểu phân công lao động một cách hành chính và máy móc nay 2
- không còn phù hợp. Tuy nhiên, một bộ phận dân chúng vẫn chưa chuyển hoá để theo kịp sự chuyển đổi này. Đặc biệt vẫn còn những tâm lý chờ đợi hoặc thói quan liêu trong khâu lựa chọn nghề nghiệp. Cần hình thành trong tư duy của học sinh phổ thông một thói quen lao động của một xã hội dịch vụ. Sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của xã hội một cách linh hoạt và có trách nhiệm đối với công việc của mình. Để lao động trong một xã hội dịch vụ, mỗi người lao động phải có trình độ học vấn có tay nghề cao và có khả năng đáp ứng linh hoạt trong các dịch vụ. Như vậy, các nhà trường phải thay đổi mục tiêu đào tạo. Không còn những mục tiêu chung chung như “xây dựng những con người mới” mà phải cụ thể hoá những mục tiêu đào tạo hướng vào những ngành nghề của địa phương, đảm bảo cho học sinh sau này có khả năng thích ứng cao. Những đòi hỏi của xã hội về việc cung cấp nguồn lao động có trình độ, có tay nghề cao… đã tạo ra áp lực đối với giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp ở Việt Nam. Các nhà sử dụng nhân lực kỳ vọng vào ngành giáo dục đào tạo ra nguồn nhân lực có tư duy và có năng lực nghề nghiệp. Thông qua những con người có khả năng như vậy sẽ thực hiện được các hy vọng chính trị - kinh tế, chính trị - xã hội và cá nhân. Như vậy, một câu hỏi đặt ra là liệu phân luồng, hướng nghiệp và giáo dục nghề có thể đóng góp và thông qua cách nào cho việc đáp ứng các hy vọng như vậy? Sau nhiều cuộc hội thảo về giáo dục hướng nghiệp, đến nay các nhà giáo dục đã thống nhất mục tiêu giáo dục thực hành trong các nhà trường đã được công nhận. Những lý thuyết giáo dục cổ điển (giáo dục nhân cách không xét tới giá trị thực tiễn của nội dung giáo dục) cần được thay bằng những lý thuyết giáo dục theo lý tưởng của công dân đáp ứng yêu cầu của xã hội. Những mục tiêu cụ thể được đặt ra cho mỗi chương trình đào tạo. Sau quá trình đào tạo, người học phải đạt được những yêu cầu cụ thể về hiểu biết, về năng lực tư duy, về năng lực hành động và về thái độ - tình cảm. Mỗi cá nhân phải được cung cấp những kiến thức và kỹ năng để làm chủ được các tình huống trong cuộc sống. Tóm lại mục đích nghiên cứu là: Giúp học sinh nhận thức và định hướng chọn nghề và phân luồng hiện nay; Thực trạng của hoạt động giáo dục Hướng nghiệp cho học sinh THPT hiện nay. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức để các em lựa chọn nghề phù hợp. 2. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp tổng hợp tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài gồm các tài liệu tâm lí học, giáo dục học, lí luận dạy học, thông qua nhiều nguồn khác nhau như sách báo, báo cáo khoa học, mạng Internet, sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu bồi dưỡng giáo viên. - Phương pháp thống kê :Thống kê những số liệu đã thu thập được từ đó phân tích, đánh giá, rút ra kết luận. - Phương pháp kiểm tra : kiểm tra các em học sinh qua các hoạt động giáo dục hướng nghiệp, tư vấn tuyển sinh, các hoạt động trải nghiệm, các phong trào văn hóa, câu lạc bộ văn nghệ, thể dục thể thao, các hoạt động xã hội…. 3
- - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nhằm thu thập các nghiên cứu và tài liệu liên quan đến hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho học sinh. - Phương pháp điều tra bảng hỏi thông qua các tiện ích của google, các fanpage: nhằm thu thập thông tin liên quan đến nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh ở trường về nội dung, cách thức, thời gian tiến hành hoạt động tư vấn hướng nghiệp cũng như hiểu rõ hơn về nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của các em học sinh. III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI: - Hoạt động hướng nghiệp và phân luồng cho học sinh có liên quan đến môi trường học tập, môi trường sống được thể hiện qua nhiều môn học, cấp học nhưng có liên quan nhiều nhất là trong hoạt động hàng ngày của học sinh, nên giáo dục hướng nghiệpphân luồng cho học sinh trong nhà trường THPT sẽ giúp cho học sinh có thái độ nhận thức, định hướng nghề nghiệp một cánh tích cực, giúp các em có thể chọn nghề phù hợp, hiệu quả trước nhu cầu và thách thức của cuộc sống ngày nay. - Đề tài phục vụ cho công tác dạy - học hoạt động giáo dục Hướng nghiệp phân luồng cho học sinhcủa trường trung học phổ thông Nam Yên Thành. IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN : - Được nghiên cứu tại trường THPT Nam Yên Thành, thời gian thực hiện đề tài từ tháng 09 năm 2019 đến tháng 12 năm 2021. - Đề tài thực hiện trong năm học 2021 - 2022 4
- PHẦN II : NỘI DUNG. I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Từ lâu, Đảng và Nhà nước đã coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và ở từng địa phương. Nhưng trên thực tế hiện nay đang tồn tại nhiều bất cập trong công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những hạn chế của hoạt động giáo dục hướng nghiệp Phân luồng ở trường phổ thông, trong đó đáng chú ý là những nguyên nhân sau: - Thứ nhất: Từ sau khi Liên Xô tan rã (1991) đã có những khủng hoảng về lý luận giáo dục hướng nghiệp, điều này ảnh hưởng không nhỏ đối với giáo dục hướng nghiệp của Việt Nam. - Thứ hai: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội của Việt Nam đã làm cho những triết lý giáo dục hướng nghiệp trước đây không còn phù hợp nữa. Như vậy, phải nghiên cứu đổi mới toàn diện công tác giáo dục lao động - hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Trong đó, trước hết phải nghiên cứu cách tiếp cận phương pháp luận để xây dựng nội dung mới của giáo dục hướng nghiệp. Căn cứ vào đường lối mục tiêu giáo dục của Đảng. Đào tạo con người phát triển toàn diện để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Căn cứ vào các nghị quyết của Đảng bộ và công tác các đoàn thể về lãnh đạo sự nghiệp giáo dục ở điạ phương . Chỉ thị 10-CT/TW ngày 5/12/2011 của Bộ Chính trị về phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và THCS, tăng cường phân luồng học sinh sau THCS và xóa mù chữ cho người lớn. Thông báo số 242-TB/TW của BCH TW Đảng về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 2 (khóa 8). Nghị quyết số 29-NQ/TW của BCH TW khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Chương trình số 33-CTr/TU ngày 27/10/2014 của Tỉnh ủy Nghệ An về Chương trình hành động của BCH Đảng bộ Tỉnh thực hiện Nghị quyết số 29- NQ/TW về đổ mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Công văn số 3736-CV/TU ngày 28/11/2014 của Tỉnh ủy Nghệ An Về việc tăng cường chỉ đạo công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Thông báo số 42/TB-UBND ngày 22/01/2015 của UBND tỉnh Nghệ An về kết luận của đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Xuân Đường tại buổi làm việc để nghe và cho ý kiến về giải quyết việc làm cho học sinh sau khi ra trường, và tổ chức đào tạo nghề. 5
- Quyết định 3010/QĐ.UBND.VX của Ủy ban nhân dân Tỉnh Nghệ An ngày 15/7/2015 và Kế hoạch “ Phân luồng, hướng nghiệp, dạy nghề học sinh sau THCS và THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ an đến năm 2020 ”. Chỉ thị 04-CT/TU ngày 25 tháng 4 năm 2016 của Tỉnh ủy Nghệ An về tăng cường lãnh đạo thực hiện công tác phân luồng, hướng nghiệp, giáo dục đào tạo nghề học sinh sau THCS và THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020. Công văn số 670/SGD&ĐT-GDCN ngày 8/4/2010 của Sở GD&ĐT Nghệ An về công tác giáo dục hướng nghiệp, phân luồng sau THCS và THPT. Công văn số 2346/SGD&ĐT-GDCN ngày 24/11/2015 Về việc triển khai Kế hoạch “Phân luồng, hướng nghiệp, dạy nghề học sinh sau THCS và THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020” Quyết định của Thủ tướng chính phủ ngày 15/04/2018, Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025”. Căn cứ vào nhiệm vụ năm học ngành giáo dục các năm học vừa qua và những năm tiếp theo. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN : Một trong những mục tiêu quan trọng của giáo dục phổ thông là giúp học sinh “ Có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có khả năng phát huy năng lực cá nhân hoặc để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Với tầm quan trọng như vậy, tháng 10 năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành văn bản số 9971/BGD&ĐT-HSSV nhấn mạnh nội dung tư vấn hướng vào “hướng nghiệp, chọn nghề và thông tin tuyển sinh”. Chiến lược Phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 đề ra các giải pháp phát triển giáo dục, trong đó chú trọng đến việc phát triển đội ngũ giáo viên làm công tác tư vấn hướng nghiệp để phân luồng: “Đảm bảo từng bước có đủ giáo viên thực hiện giáo dục toàn diện… giáo viên tư vấn học đường và hướng nghiệp phân luồng”. Để giúp học sinh lựa chọn đúng ngành học phù hợp với năng lực, sở thích và điều kiện cá nhân, thì công tác tư vấn hướng nghiệp để phân luồng là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, hoạt động tư vấn và giáo dục hướng nghiệp hiện nay còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu của học sinh. Trong phạm vi cả nước, đặc biệt là ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã có các phòng tư vấn hoặc trung tâm tư vấn hướng nghiệp nhưng hoạt động mang tính tự phát với nội dung tư vấn và cách thức hoạt động khác nhau, chưa có sự thống nhất cho các trường phổ thông. Mặt khác, hoạt động tư vấn hướng nghiệp thường được tiến hành ở các trường trung học phổ thông mà ít được thực hiện ở các trường trung học cơ sở. Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tế của chúng tôi, nhiều học sinh bày tỏ nhu cầu mong muốn được tư vấn ngay từ bậc trường THCS hoặc ngay đầu cấp THPT để các em có thể chuẩn bị cho tương lai của mình tốt hơn. Muốn làm tốt công tác tư vấn hướng nghiệp phân luồng cho học sinh, chúng 6
- ta cần nghiên cứu, tìm hiểu những nhu cầu, mong muốn của học sinh, để từ đó tổ chức các hoạt động tư vấn có nội dung, hình thức và thời điểm phù hợp nhằm giúp các em lựa chọn được một nghề đúng với bản thân, góp phần vào việc phân luồng học sinh sau trường THCS và sau THPT. Do đó, tôi thấy cần thiết thực hiện đề tài “Một số giải pháp Phân luồng cho học sinh THPT sau tốt nghiệpcho học sinh trường THPT Nam Yên Thành”. Nhằm giúp cho công tác này đạt hiệu quả tốt hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp trung học phổ thông. III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP: 1. Các khái niệm. Như chúng ta đã biết, việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai hết sức quan trọng. Đặc biệt là các em học sinh chưa có cách nhìn đúng đắn về nghề nghiệp. Đôi khi giáo viên làm công tác hướng nghiệp hay giáo viên giảng dạy bộ môn lồng ghép giáo dục hướng nghiệp cũng phải ngỡ ngàng và suy nghĩ: - Hướng nghiệp là gì? - Tại sao phải hướng nghiệp? - Phân luồng là gì - Tại sao phải Phân luồng? - Quan hệ giữa Hướng nghiệp và Phân luồng + Hướng nghiệp là các hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân ( học sinh ) chọn lựa và phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của cá nhân, đồng thời thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực ( thị trường lao động ) ở cấp độ địa phương và quốc gia . Lâu nay chúng ta vẫn tưởng rằng hướng nghiệp chỉ là sự lựa chọn một nghề mà mình yêu thích, chọn một trường đại học phù hợp với mình. Tuy nhiên đây chỉ là phần ngọn của một quá trình, một hoạt động trong số rất nhiều hoạt động của hướng nghiệp. Thuật ngữ “ Hướng nghiệp” nó là sự kết hợp của nhiều lĩnh vực như: đánh giá nghề nghiệp, quản lý nghề nghiệp, phát triển nghề nghiệp…Trong đó lựa chọn nghề nghiệp chỉ là một giai đoạn đầu trong tiến trình hướng nghiệp của mỗi người. Hướng nghiệp là một quá trình liên tục tác động từ khi người học còn ngồi học ở bậc phổ thông, qua quá trình trao dồi chuyên môn nghề nghiệp và tìm được nơi lao động phù hợp. Công cụ cần thiết cho công tác tư vấn hướng nghiệp là nắm được bản đồ mô tả nghề hay còn gọi là bản họa đồ nghề. Thực chất, đó là bản mô tả nội dung, tính chất, phương pháp, đặc điểm tâm sinh lý cần phải có, những điều cần tránh khi lao động trong nghề. + Tại sao phải hướng nghiệp?:Nhằm tạo bước đột phá về chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông, góp phần chuyển biến mạnh mẽ công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông vào học các trình độ giáo dục nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương, đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực quốc gia, hội nhập khu vực và quốc tế. 7
- + Phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THPT là giải pháp thực hiện hợp lý hóa xu hướng phân hóa của học sinh sau tốt nghiệp THPT trên cơ sở năng lực học tập, nguyện vọng của học sinh và nhu cầu xã hội. + Tại sao phải phân luồng?: Thực hiện phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THPT lành mạnh, đúng hướng thông thoáng thực chất là nâng cao hiệu quả giáo dục và hiệu quả xã hội ( mặt bằng chất lượng Đại học được nâng lên, cơ cấu nhân lực được cải thiện, tránh được lãng phí của xã hội trong giáo dục,…). Thực hiện không tốt việc phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THPT cũng có nghĩa là chúng ta đã vô tình xô đẩy một bộ phận đông đảo học sinh sau tốt nghiệp THPT yếu thế về học lực, hoàn cảnh, công việc. Nó ảnh hưởng trực tiếp cuộc sống, tương lai sau này của họ. + Quan hệ giữa phân luồng là mối quan hệ biện chứng về mặt khoa học lẫn quan hệ mặt nhân văn xã hội. Phân luồng đúng vừa giảm được thất thoát lãng phí cho nguồn nhân lực của đất nước vừa tạo được sự bền vững cho xã hội. Hướng nghiệp đúng vừa làm thay đổi số phận của mỗi công dân, giúp họ cảm thấy hạnh phúc hơn vừa sống vui vẻ với bản thân sống có ích cho xã hội vừa góp phần xây dựng đất nước. 2. So sánh sự phân luồng sau tốt nghiệp THCS và THPT. Phân luồng ở hai cấp học thực chất là phân luồng ở hai lứa tuổi. Mỗi cấp học sự phân luồng có mặt ưu nhược của nó. Khi phân luồng cho đối tượng THCS thì có ưu điểm lớn nhất là chắt lọc được đối tượng học sinh chỉ có nhu cầu, khả năng, năng lực tiếp thu kiến thức chỉ đến cấp học này mà không thể học lên ở cấp học cao hơn ở cấp học này nguồn nhân lực có hạn chế là chất lượng không cao bằng chất lượng lao động khi phân luồng ở bậc THPT nhưng đổi lại phân luồng được đối tượng này đúng thời điểm, đúng lúc giúp nâng cao hiệu quả giáo dục và hiệu quả xã hội 3. Thực trạng của hoạt động giáo dục Hướng nghiệp phân luồng cho học sinh THPT hiện nay. 3.1. Đặc điểm tình hình trường THPT Nam Yên Thành. Trường Trung học phổ thông (THPT) Nam Yên Thành thuộc địa bàn xã Bảo Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Trường được thành lập theo quyết định số 2837 /QĐ- UBN-VX vào ngày 07 tháng 8 năm 2006 của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Nghệ An. Vùng tuyển sinh chủ yếu của trường gồm 6 xã phía Nam huyện Yên Thành gồm: Bảo Thành, Sơn Thành, Viên Thành, Long Thành, Vĩnh Thành, Khánh Thành. Tuy còn gặp nhiều khó khăn về điều kiện kinh tế của dân cư và đặc biệt là trình độ dân trí còn thấp nhưng nhờ sự cố gắng nỗ lực không ngừng, từ một ngôi trường non trẻ, THPT Nam Yên Thành đã trưởng thành và gặt hái được nhiều thành công. - Quy mô trường lớp: 8
- + Số lớp: 24 lớp, trong đó: khối lớp 10: 08 lớp; khối lớp 11: 08 lớp; khối lớp 12: 8 lớp; + Hội đồng sư phạm có 61 CB, GV, NV ( 36 nữ) , trong đó: lãnh đạo: 03; nhân viên: 05 và giáo viên có trình độ đạt chuẩn 100%, trên chuẩn 12 và được biên chế thành 04 tổ chuyên môn. + Chi bộ có 33 đảng viên nhiều năm liên tục đạt danh hiệu chi bộ trong sạch, vững mạnh. - Cơ sở vật chất (CSVC): + Khuôn viên: Tổng diện tích đất sử dụng là 19.463 m2(21,6 m2/ học sinh) đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường có tường bao, cổng trường, biển trường, biển lớp theo đúng Điều lệ trường trung học; tổng diện tích sân chơi và sân luyện tập thể dục thể thao là 14000 m²; có khu để xe, khu vệ sinh và hệ thống cấp thoát nước theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT). + Phòng học văn hóa: phòng học kiên cố đủ cho 24 lớp học 01ca/ngày. Phòng đảm bảo đủ ánh sáng, thoáng khí; có diện tích trung bình 60m² (1,5m²/học sinh); có đầy đủ hệ thống điện, quạt điện; + Phòng thực hành tin học: Nhà trường có 02 phòng (mỗi phòng có 20 máy kết nối internet) được sử dụng thường xuyên và hiệu quả; + Phòng Y tế học đường: Gồm 01 phòng với diện tích 20 m², nhân viên phụ trách là 01 cán bộ y tế , với các trang thiết bị tối thiểu và cơ số thuốc thông dụng đảm bảo được công tác sơ cấp cứu ban đầu. + Thư viện: Diện tích 95m2: trong đó có 01 phòng đọc cho giáo viên và học sinh có diện tích 55m2, kho để sách, báo, tạp chí diện tích 40m2. Thư viện cung ứng đầy đủ sách giáo khoa cho giáo viên và học sinh đảm bảo phục vụ cho việc dạy và học. - Những thành tích nổi bật đã đạt được: + Đối với tập thể trường. Năm học Danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng 2015-2016 Tập thể lao đông tiên tiến, Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh 2016-2017 Tập thể lao động tiên tiến 2017-2018 Tập thể lao động tiên tiến 2018-2019 Hoàn thành nhiệm vụ 9
- + Đối với cá nhân Danh hiệu thi đua Danh hiệu giáo viên dạy giỏi Năm học CSTĐ cấp Cấp Cấp Cấp LĐTT CSTĐCS tỉnh trường huyện tỉnh 2015-2016 39 7 1 8 05 2016-2017 47 7 1 26 2017-2018 44 7 0 16 2018-2019 40 2 0 20 2019-2020 43 2 0 11 3 2020-2021 50 7 0 14 1 cơ sở vật chất được tăng cường song chưa đồng bộ. Đội ngũ giáo viên cốt cán còn mỏng. Một số cán bộ, GV còn chưa cố gắng trau dồi trong công việc, chưa cầu thị, thiếu sự học hỏi. Chất lượng đầu vào của học sinh lớp 10 vẫn còn thấp hơn các trường trong huyện (dao động từ 12,5 đến 15,5). Trường đóng trên địa bàn có phong trào đi xuất khẩu lao động nhiều, một bộ phận không nhỏ học sinh có cả bố và mẹ đi làm ăn xa, học sinh có xu hướng bỏ học đi làm cao (theo đòi đi XKLĐ hoặc đi buôn bán với người lớn), một bộ phận phụ huynh mải lo kiếm tiền, thiếu sự quan tâm trong việc giáo dục con cái. Vượt lên các khó khăn, tập thể cán bộ, giáo viên nhà trường đã đoàn kết, quyết liệt, năng động, sáng tạo, dồn hết tâm huyết của mình vì sự nghiệp giáo dục, vì sự nghiệp trồng người, nên trong các năm gần đây trường THPT Nam Yên Thànhđã có nhiều bước tiến vượt bậc trên tất cả các mặt; đặc biệt là HSG cấp tỉnh trong 3 năm gần đây đều có tỷ lệ đậu từ 68% trở lên; xếp hạng HSG tỉnh nằm trong tốp khá của tỉnh, năm học 2013-2014 xếp thứ 36, năm học 2014-2015 xếp thứ 28, năm học 2018-2019 xếp thứ 19. Học sinh đậu TN THPT trong 3 năm qua từ 98,9% đến 100%. Học sinh đạt điểm cao trong kỳ thi Đại học hàng năm nằm trong tốp khá của huyện Yên Thành. Học sinh đi du học theo diện có học bổng tăng nhanh, năm học 2014-2015 có nhiều em đi du học Đại học Hàn Quốc và Nhật Bản năm học 2018-2019 đã có 13 em hoàn thành hồ sơ đi du học diện có học bổng tại Nhật Bản, Hàn Quốc. Số lượng đi học nghề sau tốt nghiệp THPT tăng nhanh và là xu thế chủ đạo của đa số học sinh nhà trường lựa chọn sau tốt nghiệp. 3.2. Thực trạng công tác phân luồng, hướng nghiệp tại các trường THPT. Trên cơ sở khảo sát, phân tích thực trạng hoạt động giáo dục hướng nghiệp, phân luồng và quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp, phân luồng ở trường THPT Nam Yên Thành chúng tôi đánh giá công tác quản lý giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT Nam Yên Thành như sau: 10
- * Thuận lợi: Trường có cơ sở vật chất khang trang với hệ thống các phòng học chức năng hiện đại, đáp ứng được các yêu cầu phục vụ cho công tác giảng dạy nói chung, hoạt động phân luồng hướng nghiệp nói riêng. Đội ngũ giáo viên của nhà trường đang còn trẻ với ưu điểm là năng động, nhiệt tình, tích cực, sáng tạo và khá thành thạo trong sử dụng công nghệ thông tin. Học sinh của trường là những học sinh được tuyển chọn từ những học sinh của 6 xã phía Nam huyện Yên Thành gồm: Bảo Thành, Sơn Thành, Viên Thành, Long Thành, Vĩnh Thành, Khánh Thành. Đa số các em có tư chất tốt, ngoan, nhanh nhẹn, năng động và sáng tạo. Các em luôn hào hứng với các hoạt động của nhà trường khi hoạt động đó thực sự là có ích và thiết thực. Đối với vấn đề phân luồng, hướng nghiệp, các em có cái nhìn nghiêm túc. Các em luôn thể hiện sự trách nhiệm đối với tương lai của mình. Phụ huynh học sinh trường THPT Nam Yên Thành đa phần đều quan tâm đến việc học hành, thi cử cho con em mình. * Khó khăn: Đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo về giáo dục hướng nghiệp, kỹ năng phân luồng, chưa có kiến thức một cách khoa học, hệ thống nên việc phân luồng, hướng nghiệp mới chỉ dừng ở việc giáo dục theo kinh nghiệm hoặc biết đến đâu chỉ đến đó. Các hoạt động phân luồng, hướng nghiệp mới chỉ được tiến hành dựa trên kinh nghiệm và hiểu biết xã hội của bản thân giáo viên. Đội ngũ giáo viên thực hiện nhiệm vụ phân luồng, hướng nghiệp trong nhà trường còn thiếu và ít quan tâm đến việc cải tiến hình thức hoạt động. Bên cạnh đó một số cán bộ, giáo viên ngại đổi mới, có lúc lo lắng chất lượng giáo dục nhà trường sẽ bị ảnh hưởng nếu tập trung vào công tác phân luồng, hướng nghiệp. Nội dung về phân luồng, hướng nghiệp ở trường THPT Nam Yên Thành trong những năm qua cũng mới chỉ tập trung vào định hướng nghề nghiệp chứ chưa tập trung vào tư vấn nghề, trong khi để học sinh lựa chọn được đúng đắn nghề nghiệp tương lai thì các nội dung liên quan đến tư vấn nghề đóng vai trò vô cùng quan trọng. Kinh phí chi cho các hoạt động hướng nghiệp như hội thảo, tham quan cơ sở sản xuất, chuẩn bị tài liệu hướng nghiệp cho học sinh… còn hạn hẹp nên không thể tổ chức nhiều buổi sinh hoạt hướng nghiệp, tham quan, hoạt động ngoại khoá… dù các hoạt động này mang lại hiệu quả trong giáo dục hướng nghiệp cho học sinh. Việc lên kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo tiến hành hoạt động giáo dục hướng nghiệp chưa được thực hiện một cách đầy đủ, chưa có sự phân công cụ thể cho giáo viên và các bộ phận liên quan trong hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Học sinh trường THPT Nam Yên Thành đã có nhận thức về hướng nghiệp, song việc chọn nghề còn mang tính tự phát là chủ yếu do thiếu sự hướng dẫn của hoạt động tư vấn hướng nghiệp chuyên nghiệp. Tâm lý chuộng “đại học” vẫn đang phổ biến ở một bộ phận lớn phụ huynh học sinh. Nhiều phụ huynh, học sinh quyết 11
- tâm phải đậu bằng được đại học, còn tương lai đi đâu, về đâu, làm gì chưa cần biết, đây cũng là một khó khăn không nhỏ cho công tác phân luồng, hướng nghiệp. Khi nhìn vào thực tế, chúng ta đã thấy không ít các bạn trẻ đã có sự lựa chọn rất rõ ràng, đó là: "Sau 12 năm học tập, rèn luyện vất vả trên ghế nhà trường, con đường tiếp theo sẽ là cổng trường Đại học!". Vâng! "Cổng Trường Đại Học" đó vừa là ước mơ, vừa là cái đích của biết bao học sinh chúng ta. Vào được Đại học nghĩa là 12 năm đèn sách không hề bị uổng phí. Vào được Đại học cũng có nghĩa là bạn đã đền đáp được phần nào công lao vào sự vất vả của cha mẹ, thầy cô.... Vậy thì điều đáng quan tâm ở đây là gì? Vào Đại học là phải thi vào các trường Kinh tế quốc dân, Học viện tài chính, Ngoại thương, Quốc gia, Bách khoa... Đó quả thực là những suy nghĩ hết sức tiêu cực và thực dụng. Mặt khác, không phải ai ai cũng đều có khả năng bước qua được cánh cổng trường Đại học. Mỗi người đều có những hạn chế riêng của bản thân. Và đâu phải chỉ có mỗi con đường Đại học là duy nhất? Mỗi học sinh còn có rất nhiều con đường khác để lựa chọn sao cho phù hợp với trình độ và năng lực bản thân như vào các trường Cao đẳng, trung cấp, các trường hướng nghiệp dạy nghề... Vậy, điều quan trọng ở đây là gì? Quan trọng là bạn phải có sự say mê, hứng thú với nghề nghiệp mà mình đã lựa chọn! Một điều đáng nói nữa ở đây, đó là một số phụ huynh coi việc con cái mình thi đỗ các trường Đại học nổi tiếng là danh dự của cả gia đình. Có trường hợp còn bắt buộc con mình phải thi trường nọ, trường kia mà không hề nhìn vào thực lực học tập của con cái. Đây đúng là một vấn đề mà tất cả chúng ta cần phải nhìn nhận và xem xét lại một cách nghiêm túc và khách quan hơn. Chỉ mới đây vài năm thôi, chúng ta đã thấy tình trạng là rất nhiều bạn trẻ đổ xô vào các trường như: Đại học Luật, Đại học Bách Khoa, Đại học Kinh tế, Đại học Cần Thơ, Đại học Y dược TP. HCM, Đại học Y dược Cần Thơ, ... Họ ngày đêm học tập, dùi mài kinh sử ở các trung tâm luyện thi. Người trượt thì không nói làm gì, nhưng những người đỗ thì cũng thật đau xót không kém khi mà suốt bao năm miệt mài đèn sách, để rồi cầm tấm bằng tốt nghiệp loại ưu trong tay, nhưng vẫn thất nghiệp, không xin được việc làm và những câu chuyện buồn được nêu ở trên đã xuất hiện ngày càng nhiều. Một trào lưu suy nghĩ của đại bộ phận Phụ huynh vùng phía Nam Yên Thành nói rằng:” Mày chỉ cần gắng học để lấy cái bằng cấp 3 thôi, rồi về đây tau chạy cho suất đi nước ngoài. Điều này đã áp đặt lên người những học sinh sinh viên, khiến họ không có động lực phấn đấu học tập mà rơi vào suy nghĩ:”Dù gì cũng không có đi học đại học ,bố mẹ tau nói học xong cho đi xuất khẩu lao động, nên không cần học cũng được, chẳng sao”. Đây hoàn toàn là một suy nghĩ sai lầm, nhưng nó lại đang rất phổ biến hiện nay. Biểu hiện rõ nét nhất qua các số liệu: Trong năm 2016, Nghệ An tiếp tục dẫn đầu cả nước về số người đi xuất khẩu lao động với gần 13.000 người và con số này đến nay đang tăng lên một cách nhanh chóng. Theo khảo sát của chúng em tại các hộ gia đình ở địa bàn Yên Thành-Nghệ An thì hơn 90% hộ gia đình có người thân đi xuất khẩu lao động , điển hình là các thanh niên mới tốt nghiệp THPT. Ngày nay XKLĐ khồng còn là một phương án dự phòng khi thất nghiệp ở trong nước mà bây giờ nó đã trở thành một lựa chọn 12
- thạm chí là một mong ước, khát khao của một số bạn trẻ.Tâm lý muốn làm giàu nhanh mà lại tốn ít chi phí đầu tư khiến lượng cung lao động xuất khẩu sang nước ngoài “ồ ạt” đăng ký tham gia mà không biết rủi ro sẽ phải đối mặt. * Thời cơ: Xu thế hội nhập quốc tế về tất cả các mặt của đất nước ngày càng sâu rộng. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã chọn Việt Nam làm điểm đến, nhiều Hiệp định đã được ký kết trong đó nổi bật là Hiệp định TPP, Hiệp định về thị trường lao động ASEAN, các Hiệp định tự do thương mại…Trên địa bàn tỉnh Nghệ An hàng loạt dự án đầu tư với số vốn rất lớn; hàng loạt khu công nghiệp được mở, nhu cầu nhân lực lao động qua đào tạo, có tay nghề rất lớn. Đây là thời cơ để chúng ta có thể làm tốt công tác phân luồng, hướng nghiệp, từ đó góp phần cùng với xã hội giải bải toán “thừa thầy thiếu thợ” của đất nước ta hiện nay. Bản thân các thầy trong BGH và nhà trường xác định công tác phân luồng hướng nghiệp là rất quan trọng, nó ngang tầm với việc giáo dục học sinh về văn hóa và hạnh kiểm. BGH đã xác định nếu mỗi học sinh tốt nghiệp mà Nhà trường và GVCN chưa biết được nguyện vọng của học sinh là chưa làm tròn trách nhiệm của mình. * Thách thức: Công tác phân luồng hướng nghiệp ở các trường phổ thông vẫn đang tình trạng “mạnh ai nấy chạy” và chưa được đặt đúng vai trò, vị trí, tầm quan trọng của nó, có nơi còn xem nhẹ vấn đề này. Hầu hết cán bộ quản lý, giáo viên của các trường phổ thông chỉ coi bản thân mình giúp các em đậu tốt nghiệp, những em học khá giỏi thì đậu đại học là xem như xong nhiệm vụ. Bên cạnh đó việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, nhân viên làm công tác phân luồng, hướng nghiệp còn nhiều khó khăn. Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn của trường có nhiều nhiệm vụ phải làm nên thời gian và công sức đầu tư cho công tác phân luồng, hướng nghiệp còn hạn hẹp.Vấn đề nghề nghiệp và việc làm đang tạo nên mối quan tâm cấp bách và trực tiếp nhất của lứa tuổi học sinh chuẩn bị rời ghế nhà trường. Vấn đề này, trước đây công tác phân luồng hướng nghiệp cho học sinh đã được nhà trường triển khai nhưng kết quả còn rất thấp. Bởi, nhận thức của học sinh về nghề nghiệp, nhất là học sinh vùng nông thôn và cả phụ huynh còn hạn chế, trong khi giáo viên được giao nhiệm vụ này không coi trọng hoặc không có nhiều kiến thức về Hướng nghiệp. Thực tế cho thấy việc thực hiện hoạt động giáo dục Hướng nghiệp thời gian qua nhà trường còn gặp nhiều khó khăn chưa mang lại hiệu quả cao. Nguyên nhân là thiếu giáo viên Hướng nghiệp chuyên trách và giáo dục Hướng nghiệp chưa có nội dung, chương trình mang tính thực tiễn. Nhà trường mới chỉ quan tâm đến phần hướng dẫn hoàn thiện hồ sơ tuyển sinh mà ít chú trọng đến tư vấn tuyển sinh. Từ trước đến nay, giáo viên làm công tác này phần lớn chỉ kiêm nhiệm dạy thiếu tiết, giáo viên làm công tác Đoàn…. chỉ được tập huấn vài buổi chưa có kỹ năng về Hướng nghiệp, ít hiểu biết về hệ thống trường Đại học, 13
- Cao đẳng nhất là những ngành học mới và những dự báo ngành nghề nào phù hợp với nhu cầu lao động trong tương lai…Bên cạnh đó, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ giảng dạy Hướng nghiệp ở trường còn thiếu học sinh không tìm hiểu thực tế, tìm hiểu ngành nghề ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp…nên các em chọn ngành nghề phần nhiều còn do cảm tính. Truyền thống con người vùng trường đóng nói riêng và con người xứ Nghệ nói chung luôn coi trọng tinh thần hiếu học, việc con cháu trong họ hàng đậu vào các trường ĐH,CĐ là một vinh dự cho gia đình, dòng họ, thôn xóm. Đó cũng là trở ngại cho việc phân luồng, hướng nghiệp cho học sinh hiện nay. Khó khăn trong cân đối tài chính để chi cho các hoạt động phân luồng, hướng nghiệp như: chi cho việc tổ chức sinh hoạt hướng nghiệp, việc in ấn tài liệu, chi cho những người làm công tác hướng nghiệp. Thực tế hiện nay, mặc dù công tác tư vấn chọn trường cho học sinh đã được nhiều trường Đại học, Cao đẳng trong và ngoài tỉnh chú trọng và “triển khai” đến tận trường học mặc dù trường vùng sâu. Thông qua tư vấn mùa thi, thế nhưng đa phần là “ quảng bá” hình ảnh nhà trường để thu hút học sinh hơn là mang đến học sinh những “ thông điệp” về việc làm hay sẽ tạo việc làm cho các em sau khi thi tốt nghiệp một ngành nào đó của trường! Qua thăm dò, điều tôi nhận thấy là đa phần học sinh của trường “ thích” chọn các ngành kinh tế, ngân hàng, tài chính… mà “ lắc đầu” khi hỏi sao không chọn những những ngành xã hội, những ngành sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp hay học nghề? Hoá ra, theo suy nghĩ của các em là nhóm ngành kinh tế nói chung sau khi tốt nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tìm được việc làm với thu nhập cao hơn các ngành khác! Và không thích học nghề vì nó không hot, không kêu. Với suy nghĩ quá đơn giản như vậy đã dẫn đến hệ luy là hoặc chọn ngành quá sức học, hoặc không phù hợp với năng lực “ loay hoay” mãi vẫn không tìm được việc làm ưng ý, thu nhập như mong muốn.Tốt nghiệp Đại học loại khá, giỏi vẫn thất nghiệp. Việc xác định được nghề nghiệp và việc làm vừa phản ánh nhận thức xã hội của các em vừa cho thấy yêu cầu xã hội đối với các hoạt động nghề nghiệp. Định hướng giá trị của học sinh trong lĩnh vực nghề nghiệp và việc làm không chỉ phản ánh quá trình đào tạo họ được tiếp nhận, mà còn cho thấy tính chất lao động xã hội được các em hướng tới. Vì vậy, định hướng giá trị nghề nghiệp vừa là kết quả của một quá trình hoạt động sống của học sinh, vừa là nguyên nhân để duy trì các chuẩn mực sống của họ. Đối với học sinh THPT nói chung và học sinh trường THPT Nam Yên Thành nói riêng thời gian qua các em có suy nghĩ về nghề nghiệp rất muộn và suy nghĩ đó luôn thay đổi, thiếu ổn định. Các nghề mà các em chọn đều hướng về phân phối lưu thông và dịch vụ. Đáng chú ý là ngành chủ chốt phát triển kinh tế của huyện, tỉnh nhà là Nông – Lâm - Ngư nghiệp và khối kỹ thuật thì các em chưa coi là nghề yêu thích, chọn một số ngành vì thấy người ta rất dễ kiếm tiền từ ngành đó. Nhận thức về việc lựa chọn nghề 14
- nghiệp của học sinh còn quá mơ hồ. Tại sao? Nhận thức về mục tiêu, vai trò của công tác giáo dục hướng nghiệp chưa rõ, chưa đúng tầm. Có em thẳng thắn bộc bạch “Giá như trước khi thi Đại học biết nghe lời khuyên của những người đi trước mà không phải “khăng khăng” theo ý mình thì có lẽ sẽ tốt hơn!” ; “Tôi đã đi quá tầm, giờ thì…..đã muộn !”; “Mình không lượng được sức của mình….” Trên đây, là một số khó khăn mà bản thân cũng như một số giáo viên của trường đã và đang phụ trách công tác hoạt động giáo dục Hướng nghiệp. Đi xuất khẩu lao động thì nên đi theo hướng nào Nên tôi đề ra một số biện pháp cần thiết để thực hiện hoạt động giáo dục Hướng nghiệp ngày càng hiệu quả hơn. 4. Một số giải pháp Phân luồng cho học sinh THPT sau tốt nghiệp cho học sinh trường THPT Nam Yên Thành: 4.1. Giải pháp 1: Nắm bắt nguyện vọng nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp THPT của học sinh từ năm học lớp 10 của cấp học. Việc nắm bắt tình hình nguyện vọng của học sinh từ năm học lớp 10 của cấp học là hết sức quan trọng, đây cũng là cơ sở để thực hiện các giải pháp khác có hiệu quả. Từ việc này, ban hướng nghiệp, phân luồng có thể phân luồng học sinh đi theo các hướng ngành nghề khác nhau một cách khoa học. Giải pháp này, đòi hỏi nhà trường phải điều tra, khảo sát một cách nghiêm túc, tránh hình thức. Kết quả điều tra thăm dò cần được đối chiếu với năng lực và điều kiện của học sinh, phối hợp các yếu tố đó, chúng ta có thể nhìn được bức tranh về nghề nghiệp của học sinh sau tốt nghiệp THPT. Từ đó, có những giải pháp tác động đến suy nghĩ, tư tưởng của học sinh, phụ huynh. Không thể kỳ vọng vào một lần điều tra, khảo sát để nắm bắt tình hình chọn nghề của học sinh trong quá trình học THPT. Bởi lẽ, qua quá trình tư vấn hướng nghiệp tại trường, học sinh có thể thay đổi cách suy nghĩ của mình về nghề nghiệp trong tương lai. Như vậy, đòi hỏi nhà trường phải tiến hành điều tra thăm dò định kỳ các năm tiếp theo (tốt nhất là đầu năm học lớp 11, lớp 12), từ kết quả này nhà trường cần phải tiếp tục phân luồng, hướng nghiệp cho những học sinh chưa hài hòa giữa các yếu tố: Nguyện vọng, năng lực, điều kiện và nhu cầu nhân lực của xã hội. Kết quả khảo sát trong 3 năm học gần đây cho thấy tính hiệu quả của công tác phân luồng, hướng nghiệp đi theo chiều hướng tích cực. Tỷ lệ học sinh xác định sau tốt nghiệp có nguyện vọng học lên đại học giảm dần từ 71,67% năm học 2019-2020 xuống còn 56,80% năm học 2020-2021. Bên cạnh đó nguyện vọng học nghề tăng lên rõ rệt từ 14,32% năm học 2019-2020lên 22,60% năm học 2020-2021. Bên cạnh đó nhờ nắm bắt nguyện vọng sớm nên nhà trường đã tổ chức phân luồng cho riêng từng đối tượng nên số học sinh có nguyện vọng đi du học, xuất khẩu lao động tăng nhanh; số học sinh có nguyện vọng đi làm ngay không qua các lớp đào tạo giảm mạnh. 15
- Kết quả khảo sát năm học 2019-2020 Tha Học Học Học Sơ m gia Sĩ ĐH Du học Du Xuất CĐ,TCCNcấp nghề, lao TT Lớp số trong có học học khẩu nghề động Khác nước TC nghề. bổng tự túc LĐ ngắn sản hạn. xuất 1. 12A1 40 38 0 1 0 0 0 0 2 12A2 36 28 0 2 0 4 2 0 3 12A3 34 24 0 2 3 4 3 0 4 12A4 36 25 0 3 3 2 2 2 5 12A5 35 20 0 1 4 3 2 6 6 12A6 33 22 0 3 3 4 4 3 7 1 12C 39 20 0 4 3 2 3 0 8 1 12D 40 33 0 0 3 4 5 3 Tổng 29 3 210 0 16 19 23 21 3 4 11,6 % 71,67 0 5,50 6,48 7,84 7,16 0 Bảng 1. Tổng hợp khảo sát phân luồng sau tốt nghiệp THPT năm học 2020-2021 Kết quả khảo sát năm học 2020-2021 Tha Học Học Học Sơ m gia Sĩ ĐH Du học Du Xuất CĐ,TCCNcấp nghề, lao TT Lớp số trong có học học khẩu nghề động Khác nước bổng tự túc LĐ TC nghề. ngắn sản hạn. xuất 1. 12A1 30 25 0 1 0 2 0 0 2 12A2 31 20 0 2 0 6 3 0 3 12A3 36 22 0 2 3 7 3 1 4 12A4 36 18 0 3 3 5 5 2 5 12A5 39 15 0 1 4 4 2 2 6 12A6 35 17 0 3 3 4 4 3 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 276 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 177 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p | 42 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 24 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 38 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 35 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p | 42 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p | 71 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn