intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ học sinh thông qua vai trò của giáo viên chủ nhiệm

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Một số giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ cho học sinh thông qua vai trò của giáo viên chủ nhiệm" được hoàn thành với mục tiêu nhằm phát huy vai trò tích cực của giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục các giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ cho học sinh; Đề tài góp phần giúp học sinh tìm hiểu kiến thức về bạo lực ngôn từ, các kĩ năng cần thiết khi gặp tình huống bạo lực ngôn từ; từ đó hình thành ý thức tích cực cho học sinh khi sử dụng ngôn ngữ, xây dựng môi trường học đường lành mạnh, hạnh phúc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ học sinh thông qua vai trò của giáo viên chủ nhiệm

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ĐẶNG THAI MAI SÁNG KIẾN ĐỀ TÀI MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC NGÔN TỪ CHO HỌC SINH THÔNG QUA VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM (Lĩnh vực chủ nhiệm) NHÓM TÁC GIẢ: 1. Nguyễn Thị Hằng Tổ: Ngữ văn Số điện thoại: 0976 368 819 2. Võ Thị Thanh Hải Tổ: Ngữ văn Số điện thoại: 0911 068 998 3. Trần Xuân Hoàng Tổ: Toán – Tin Số điện thoại: 098 890 5758 ĐƠN VỊ: TRƯỜNG THPT ĐẶNG THAI MAI NĂM HỌC 2023- 2024
  2. MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4. Giả thuyết khoa học 5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 6. Phương pháp nghiên cứu 7. Những luận điểm cần bảo vệ của đề tài 8. Tính mới của đề tài PHẦN II. NỘI DUNG CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. Bạo lực học đường 2. Bạo lực ngôn từ 3. Giáo viên chủ nhiệm CHƯƠNG 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Thực trạng bạo lực ngôn từ trong đời sống hiện nay 2. Thực trạng hiểu biết và sử dụng ngôn từ của HS trường THPT Đặng Thai Mai 3. Thực trạng hiểu biết và sử dụng ngôn từ của HS ở lớp 12C trường THPT Đặng Thai Mai CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC NGÔN TỪ THÔNG QUA VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM 1. Các giải pháp đã triển khai 1
  3. 1.1. Tăng cường bồi dưỡng năng lực chủ nhiệm của bản thân 1.2. Xây dựng nội quy lớp học 1.3. Tổ chức cho học sinh tìm hiểu về bạo lực ngôn từ 1.4. Giáo dục các kĩ năng mềm cho học sinh để phòng chống bạo lực ngôn từ 1.5. Sáng tác khẩu hiệu tuyên truyền phòng chống bạo lực ngôn từ 1.6. Vẽ tranh tuyên truyền phòng chống bạo lực ngôn từ 1.7. Thực hiện video phòng chống bạo lực ngôn từ 1.8. Phối hợp với nhà trường, đoàn trường giáo dục đạo đức cho học sinh 1.9. Phối hợp với phụ huynh để rèn luyện học sinh, phòng chống bạo lực ngôn từ 2. Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất 3. Hiệu quả của sáng kiến PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 2. Kiến nghị TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 2
  4. DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Chữ đầy đủ Chữ viết tắt Giáo viên GV Học sinh HS Giáo viên chủ nhiệm GVCN Trung học phổ thông THPT 3
  5. PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Tình trạng bạo lực học đường hiện nay có xu hướng gia tăng với nhiều diễn biến phức tạp. Từ những hậu quả nghiêm trọng mà nó để lại, bạo lực học đường đã trở thành mối lo ngại của rất nhiều gia đình, các nhà trường và là nỗi trăn trở của toàn xã hội. Tuy nhiên, lâu nay chúng ta thường nghĩ về bạo lực học đường gắn với những cú đấm, cái tát… nghĩa là những hành vi tác động vật lí lên đối phương mà ít quan tâm đến những biểu hiện khác của nó như vấn nạn bạo lực ngôn từ trong trường học. 1.2. Ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng trong đời sống. Theo H.S Crow “Lời nói là thứ vũ khí có thể truyền năng lượng và cứu lấy sự sống nhưng nó cũng mang lại sự tuyệt vọng và giết chết chúng ta”. Quả thật như vậy, ngôn ngữ là phương tiện diễn đạt suy nghĩ, cảm xúc của bản thân và đồng thời, chúng còn là công cụ giao tiếp giữa người với người. Sức mạnh của ngôn ngữ còn to lớn hơn nữa khi nó không chỉ thay đổi chính mình mà còn tác động đến mọi người xung quanh. Con người có thể sử dụng ngôn ngữ như một liều thuốc chữa lành nỗi đau, nhưng cũng có người lựa chọn biến chúng thành lưỡi dao bén nhọn làm tổn thương người khác. Một thực trạng đáng buồn hiện nay là việc sử dụng ngôn ngữ ít kiểm soát, hành vi bạo lực ngôn từ diễn ra ở nhiều nơi, trong cả đời sống thực và đời sống ảo. 1.3. Trong môi trường học đường, thời gian gần đây, những vụ bạo lực ngôn từ trở thành vấn đề nhức nhối. Tình trạng HS bị chấn động tâm lí vì bị nói xấu, cô lập dẫn đến tự tử; có những em tự nhốt mình trong phòng vì sợ tiếp xúc với mọi người xung quanh; tình trạng HS vô lễ với GV… làm cho môi trường học đường bị ô nhiễm, vấy bẩn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những câu chuyện đau lòng trên nhưng trong số đó chúng ta cần quan tâm đến văn hoá ứng xử và kiểm soát ngôn từ của giới trẻ. 1.4. Căn cứ theo quy định tại Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT có nêu rõ như sau: Chương trình giáo dục phổ thông hình thành và phát triển cho HS những năng lực cốt lõi sau: a) Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; b) Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất. Như vậy, chương trình 2018 đã chỉ ra yêu cầu giáo dục năng lực giao tiếp và năng lực ngôn ngữ cho người học; nghĩa là mục tiêu của giáo dục là đào tạo ra những thế hệ có văn hoá giao tiếp và biết sử dụng ngôn ngữ trong sáng, lành 4
  6. mạnh. Phòng chống bạo lực ngôn từ là một trong những cách thức để thực hiện mục tiêu đó. 1.5. Để đẩy lùi bạo lực học đường nói chung, bạo lực ngôn từ nói riêng và góp phần thực hiện thành công chương trình giáo dục 2018 cần có sự chung tay vào cuộc của toàn bộ hệ thống giáo dục, của nhiều tổ chức, cá nhân. Trong đó, GVCN có vai trò quan trọng. Bởi GVCN là người đảm nhiệm trách nhiệm chăm sóc, giáo dục và đào tạo HS trong một lớp học cụ thể; Quản lý lớp học; Điều hành các hoạt động giáo dục; Liên lạc với phụ huynh; Giúp đỡ HS trong việc phát triển các kỹ năng xã hội và sự tự tin trong bản thân; Định hướng tương lai cho HS… Với vai trò như một người quản lí, dẫn đường của một tập thể lớp học, GVCN sẽ có nhiều thời gian tìm hiểu, gần gũi với HS để từ đó điều chỉnh, định hướng cho các em cách phòng chống, đẩy lùi bạo lực ngôn từ. Trong vai trò là ban giám hiệu phụ trách công tác GVCN và những giáo viên trực tiếp làm công tác chủ nhiệm, chúng tôi nhận thức rằng ngôn ngữ có sức mạnh hồi sinh kì diệu nhưng cũng có sức huỷ diệt ghê gớm, vấn nạn bạo lực ngôn từ hiện nay đang là kẻ sát nhân vô hình bào mòn tâm hồn thế hệ trẻ. Chính vì vậy, chúng tôi luôn quan tâm đến những hoạt động phòng chống bạo lực ngôn từ, xây dựng một lớp học yêu thương, hạnh phúc. Từ những lí do trên đã thôi thúc chúng tôi viết sáng kiến “Một số giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ cho HS thông qua vai trò của GV chủ nhiệm”. 2. Mục đích nghiên cứu - Đề tài nhằm phát huy vai trò tích cực của GVCN trong việc giáo dục các giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ cho HS. - Đề tài góp phần giúp HS tìm hiểu kiến thức về bạo lực ngôn từ, các kĩ năng cần thiết khi gặp tình huống bạo lực ngôn từ; từ đó hình thành ý thức tích cực cho HS khi sử dụng ngôn ngữ, xây dựng môi trường học đường lành mạnh, hạnh phúc. - Đề tài đi sâu vào rèn luyện các kĩ năng sống cần thiết cho HS như: Kĩ năng giao tiếp và hợp tác; Kĩ năng sử dụng ngôn ngữ; Kĩ năng kiểm soát cảm xúc và ứng phó với căng thẳng; Kĩ năng lắng nghe tích cực; Kĩ năng đàm phán và trao đổi, truyền đạt vấn đề; Kĩ năng sử dụng mạng xã hội… - Đề tài góp phần rèn luyện, bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho HS: ý thức sử dụng ngôn ngữ có văn hoá, ý thức làm chủ bản thân, đoàn kết tương trợ trong công việc… 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Một số giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ cho HS thông qua vai trò của GVCN. 5
  7. - Đề tài thực hiện trên đối tượng là HS lớp 12C trường THPT Đặng Thai Mai năm học 2023 - 2024 thông qua việc tổ chức các hoạt động giáo dục giúp HS trang bị những kiến thức, kĩ năng cần thiết để phòng chống bạo lực ngôn từ. 4. Giả thuyết khoa học Nếu đề xuất và thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ có cơ sở khoa học và có tính khả thi này thì có thể ngăn chặn, đẩy lùi tiến tới chấm dứt nạn bạo lực ngôn từ trong môi trường học đường; từ đó, xây dựng văn hoá trường học ngày càng văn minh, lành mạnh. 5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu lí luận có liên quan đến đề tài: Một số giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ cho HS thông qua vai trò của GVCN. - Tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng của vấn đề bạo lực ngôn từ trong trường học nói chung và tại lớp chúng tôi chủ nhiệm nói riêng. - Đề xuất một số biện pháp giáo dục HS phòng chống bạo lực ngôn từ. 5.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ cho HS trên cơ sở khảo sát thực trạng sử dụng ngôn từ, vấn nạn bạo lực ngôn từ trong HS tại lớp chủ nhiệm. - Về thời gian: Sáng kiến được tiến hành nghiên cứu theo kế hoạch đã được đề ra: từ việc chọn đề tài, nghiên cứu tài liệu liên quan đến khảo sát thực tế, áp dụng qua thực tiễn để đi đến một sáng kiến hoàn chỉnh. Quá trình đó được thực hiện trong suốt cả năm học 2023-2024. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết - Phương pháp phân tích - tổng hợp - Phương pháp so sánh - đối chiếu - Phương pháp phân loại, hệ thống hoá lí thuyết 6.2. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm - Phương pháp thu thập tài liệu thông tin - Phương pháp điều tra phỏng vấn - Phương pháp thống kê toán học 7. Những luận điểm cần bảo vệ của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài tập trung vào một số vấn đề chính như sau: 6
  8. - Cơ sở lí luận của đề tài - Cơ sở thực tiễn của đề tài - Một số giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ cho HS thông qua vai trò của GVCN. - Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của đề tài. 8. Tính mới của đề tài - Đề tài đã phân tích và hệ thống nội dung từ cơ sở lí luận đến cơ sở thực tiễn, qua đó, đề xuất được một số giải pháp phòng chống bạo lực ngôn từ cho HS lớp chủ nhiệm. - Xác định được các nguyên tắc xây dựng giải pháp góp phần quan trọng trong việc giáo dục, hình thành nhân cách cho HS. 7
  9. PHẦN II. NỘI DUNG CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. Bạo lực học đường Bạo lực học đường được hiểu là hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập, xâm hại thân thể, sức khỏe, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, cô lập, xua đuổi và các hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh thần của người học xảy ra trong cơ sở giáo dục hoặc lớp học độc lập. Bạo lực học đường không phải là hiện tượng mới, song thời gian gần đây nó xảy ra liên tục và bộc lộ tính chất nguy hiểm, nghiêm trọng hơn, trở thành nỗi trăn trở của nhiều gia đình và là nỗi bức xúc của toàn xã hội. Theo số liệu mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong hội nghị “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2021-2030” cho thấy trong năm học 2022 - 2023, cả nước xảy ra gần 1.600 vụ việc HS đánh nhau ở trong và ngoài trường học. Trung bình, cứ 5.200 HS lại có một vụ đánh nhau; cứ hơn 11.000 HS có một em bị buộc thôi học vì đánh nhau; cứ 9 trường có một trường có HS đánh nhau. Trong khi đó, theo thống kê của Bộ Công an, mỗi tháng có hơn 1.000 thanh thiếu niên phạm tội. Trước đây, tội phạm giết người trong độ tuổi từ 30 đến dưới 45 chiếm số lượng cao nhất. Hiện giờ, tội phạm có dấu hiệu trẻ hóa và mức độ ngày càng nghiêm trọng, tội phạm giết người có độ tuổi 18 đến dưới 30 chiếm 41%. Trong đó, hơn 75% các trường hợp bạo lực có đối tượng là HS và sinh viên. Phần lớn các vụ HS xô xát, đánh nhau xảy ra gần đây xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ nhặt trên lớp, trong cuộc sống, nói xấu nhau trên mạng xã hội hay xuất phát từ sự kích động của bạn bè… Hậu quả của các vụ việc đánh nhau gây thương tích cho cơ thể, còn hành vi quay video và đưa lên mạng xã hội để làm nhục người khác gây hậu quả nghiêm trọng về tinh thần của nạn nhân. Bạo lực học đường không chỉ xuất hiện ở nam sinh mà còn lan rộng đến cả nữ sinh, đặc biệt là ở cấp THPT. Nó không chỉ giới hạn trong tình huống bạo lực giữa HS với HS mà còn liên quan đến các tình huống bạo lực giữa HS với GV cũng như giữa GV và HS. Bạo lực học đường ở nước ta không chỉ giới hạn ở hành động thể chất mà còn bao gồm nhiều biểu hiện tinh thần (bạo lực bằng ngôn từ), chẳng hạn như đe dọa và lăng mạ bằng lời nói, gây ra ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển toàn diện của các HS. 2. Bạo lực ngôn từ 2.1. Khái niệm: Bạo lực ngôn từ còn được gọi là hành vi “bạo hành lạnh” là một khái niệm còn mới ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Trong tiếng Anh, bản dịch gần nghĩa nhất với khái niệm bạo lực ngôn từ là verbal violence, cụ thể 8
  10. hơn chính là hành vi dùng ngôn từ để tấn công, công kích, xúc phạm một hay nhiều người (verbal abuse). Bạo lực ngôn từ là hành vi sử dụng ngôn ngữ vượt quá giới hạn, thể hiện khi nói hoặc viết nhằm đe dọa, xúc phạm, hạ thấp giá trị người khác, vô hình gây nên những tổn thương tâm lý cho người tiếp nhận. 2.2. Các hình thức bạo lực ngôn từ Bạo lực ngôn ngữ có thể được diễn ra ở bất kì hành động, lời nói nào trong quá trình giao tiếp cho dù người nói cố ý hoặc không cố ý. Có thể những hành vi bạo lực ngôn ngữ sẽ không được thể hiện một cách quá rõ ràng. Những người bạo lực ngôn từ có thể đang thực hiện hành vi bạo lực một cách gián tiếp. Nó có thể được biểu hiện ở các hình thức: Đặt biệt danh xấu cho người khác: Đối tượng bạo hành sẽ chú ý đến những đặc điểm xấu của người khác để cố tình đặt một biệt danh nào đó cho họ. Nếu biệt danh này khiến cho người đó cảm thấy tự ti với chính mình và mọi người xung quanh thì khi đó họ đang bị bạo hành lời nói. Luôn tìm mọi cách để khiến người khác cảm thấy ngượng ngùng: Những người bạo hành lời nói thường có xu hướng sử dụng những ngôn ngữ mỉa mai, châm biếm, chế nhạo về cách ăn mặc, vóc dáng, ngoại hình, sở thích của người khác nhằm mục đích hạ thấp và làm cho người đó cảm thấy xấu hổ. Hành động này có thể xảy ra ở những nơi riêng tư hoặc kể cả những chỗ đông người. Trêu ghẹo: Thông thường những đối tượng này sẽ có sở thích trêu đùa, chọc phá người khác bằng những câu nói mà họ cho rằng vui nhộn, hài hước. Tuy nhiên, nếu những từ ngữ mà họ sử dụng không thể khiến cho đối phương cảm thấy vui vẻ, thoải mái thì đó có thể gọi là bạo lực lời nói. Luôn chỉ trích: Cho dù là ở chỗ riêng tư hay là nơi công sở, đông người thì những lời nói chỉ trích không mang tính xây dựng cũng có thể khiến cho người khác cảm thấy bị xúc phạm và tổn thương. Đây cũng được xem là một trong các hành vi bạo hành lời nói mà nhiều người hay gặp phải. Thường xuyên lớn tiếng: Việc la hét, nói chuyện lớn tiếng hoặc sử dụng những từ ngữ, lời nói không lịch sự, thô lỗ để trò chuyện cùng người khác cũng là một hành vi bạo lực bằng lời nói. Đe dọa: Hình thức đe dọa dù chỉ bằng lời nói, ngôn ngữ cũng có thể được xem là hành vi bạo hành nghiêm trọng. Những lời nói mang tính chất đe dọa, 9
  11. khủng bố, tra tấn sẽ làm người khác cảm thấy lo lắng, sợ hãi, dễ dàng bị kiểm soát và thao túng. Buộc tội, đổ lỗi: Đây cũng được xem là một trong các hành vi bạo hành bằng lời nói khiến cho nhiều người cảm thấy bị tổn thương và hạ thấp danh dự. Người bạo hành thường sử dụng những lời nói nhằm mục đích buộc tội một ai đó với những tình huống vô lý hoặc ngoài ý muốn. Trong thực tế, bạo lực ngôn từ thường được chia làm hai loại: bạo lực có chủ định và bạo lực không chủ định. Hành vi bạo lực có chủ định là hành vi của những người cố tình dùng ngôn từ để tấn công, công kích ai đó. Hành vi bạo lực không chủ định là hành vi của những người vì kém hiểu biết mà sử dụng những ngôn ngữ cẩu thả, lệch chuẩn, vô tình làm tổn thương người khác, gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân và tập thể. Những lời nói miệt thị, xúc phạm, chế giễu trên nhiều phương diện như xúc phạm ngoại hình quá gầy, quá béo, lùn hay quá cao, xấu xí không ưa nhìn; xúc phạm về gia cảnh, xúc phạm về trình độ… bằng những ngôn từ xấu xí, thô tục… khiến người bị hại đau đớn, tổn thương. Những ngôn ngữ này vượt quá phạm vi của sự hợp lý thông thường, vượt ra khỏi ranh giới của đạo đức và pháp luật, uy tín của cá nhân, tổ chức trong xã hội… Đây chính là cách mà người bạo hành đang dần dần hủy hoại một ai đó, một cách từ từ nhưng lại rất tàn nhẫn. Những người thốt ra những câu nói đó không ai khác có khi lại chính là người thân, bạn bè và cộng đồng xung quanh. Đối với các bậc cha mẹ, họ hợp lý hóa “bạo lực ngôn ngữ” khi gọi nó là “dạy dỗ”, “nuôi nấng” đứa trẻ đó tốt nhất có thể, hay họ gọi nó là “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Còn đối với bạn bè những câu nói đó được biện minh là: “Mình chỉ đùa thôi. Mình không có ý xấu”. Tất cả những câu nói đó vô tình đã làm ảnh hưởng đến tinh thần, cảm xúc của người bị bạo lực ngôn ngữ. 2.3. Nguyên nhân của bạo lực ngôn từ “Nếu trái tim bạn là một đóa hoa hồng, miệng bạn sẽ thốt ra những lời ngát hương” (Ngạn ngữ Anh). Tuy nhiên, một thực tế hiện nay chúng ta phải đối mặt là con người đã sử dụng ngôn ngữ thiếu văn hoá, tạo nên những lưỡi dao bén nhọn đâm sâu vào tâm hồn người tiếp nhận. Vậy, nguyên nhân của bạo lực ngôn từ là do đâu? Thứ nhất, xuất phát từ ý thức của con người trong việc sử dụng ngôn ngữ dẫn đến thiếu sự cẩn trọng trong quá trình giao tiếp. Đặc biệt, những người trẻ tuổi còn hạn chế về nhận thức, khả năng nhận biết, phân biệt tốt xấu, đúng sai; tâm lý “đám đông”, “a dua” trong một bộ phận không nhỏ của giới trẻ. Thậm chí, có những người giao tiếp thiếu trách nhiệm, muốn thu hút sự chú ý của cộng đồng từ việc muốn khẳng định mình sớm; muốn được nổi tiếng; muốn được cho là sành điệu, “ngầu”, “dân chơi thứ thiệt”. Đặc biệt nguy hiểm nữa là có những 10
  12. người có hiểu biết, có tri thức, nhưng vẫn cố tình dùng lời lẽ thô tục, thiếu văn hóa, thổi phồng, nói sai sự thật, thiếu kiểm chứng, vô căn cứ nhằm gây mâu thuẫn. Sự phát triển thiếu toàn diện, thiếu hụt về nhân cách, thiếu khả năng kiểm soát hành vi ứng xử của bản thân mỗi người, non nớt trong kĩ năng sống, sai lệch trong quan điểm là môi trường khởi nguồn của bạo lực ngôn từ. Bởi bạo lực ngôn từ thường phát sinh từ sự tức giận, căm ghét, thù địch hoặc sự thất vọng. Khi người ta không kiểm soát được cảm xúc của mình, họ có thể sử dụng ngôn từ để trút giận và làm tổn thương người khác. Thứ hai, bạo lực ngôn từ do ảnh hưởng từ môi trường sống, nhất là môi trường gia đình. Đó có thể là do gia đình thiếu quan tâm đến con em mình. Cha mẹ chỉ lo làm ăn, cung cấp tiền bạc cho con cái tiêu xài, mà chưa để ý xem con mình học hành như thế nào? Quan hệ với bạn bè tốt xấu ra sao, quan hệ với thầy cô ở trường như thế nào? Chúng có những suy nghĩ như thế nào về cuộc sống, về xã hội? Từ đó, cha mẹ không hiểu được suy nghĩ của con, không kịp thời ngăn chặn, uốn nắn những tư tưởng, những hành động lệch lạc, sai trái của con em mình. Cũng có thể là do, phương pháp giáo dục con của một số bậc cha mẹ không khéo léo, thiếu mềm dẻo trong việc truyền tải thông điệp, nội dung; giáo dục con bằng cách so sánh đứa trẻ với bạn cùng lứa theo kiểu “con nhà người ta” nên vô tình để con trẻ nghĩ sai sự việc, dẫn đến những tổn thương không đáng có. Cũng có thể là môi trường gia đình thiếu sự đoàn kết, hoà thuận, thiếu tình cảm, các thành viên giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ thô bạo, thiếu văn hoá, doạ nạt, đánh đập nên tạo thành thói quen xấu trong sử dụng ngôn từ. Khi một đứa trẻ trưởng thành trong môi trường sống đầy sự cãi vã, đố kỵ, ganh ghét của những người thân trong gia đình lâu dần nó cho đó là điều bình thường, mình cũng phải đối xử với người khác như thế. Thứ ba, bạo lực ngôn từ do ảnh hưởng từ mạng xã hội. Thời đại 4.0 công nghệ thông tin hầu như có mặt ở mọi lúc, mọi nơi và bất kì ai cũng có khả năng truy cập mạng xã hội một cách nhanh chóng, đặc biệt là những bài viết về vấn đề bạo lực nói chung có thể được phát trực tiếp hoặc quay video và “phốt” lên mạng ngay lập tức. Các thế hệ HS hiện nay được tiếp xúc với thiết bị công nghệ thông tin quá sớm làm cho các em bị ảnh hưởng từ môi trường văn hóa xung quanh. Hầu hết các vụ bạo lực ngôn từ bắt đầu từ các trang mạng xã hội, từ những “comments” dạo trên Facebook hay những dòng tin nhắn miệt thị ngoại hình đều ảnh hưởng đến tâm lý người nghe. Gần như 100% HS THPT đều đã được bố mẹ cho phép sử dụng điện thoại mà không còn quản lý chặt chẽ như ở các lứa tuổi nhỏ hơn. Đây là một cơ hội thuận lợi để các em dễ tạo ra bạo lực ngôn ngữ học đường để lại những hậu quả khó lường trước. Hệ thống an ninh mạng của nhà nước đã được thắt chặt nhưng vẫn chưa thể quản lí đầy đủ các 11
  13. trang mạng nhạy cảm hoặc phản cảm, các thông tin đúng hoặc sai. Có thể nói, Youtube như một cái chợ nhưng ban quản lý chợ lại không phải ở Việt Nam mà ở nước ngoài. Điều này dẫn đến có nhiều thứ không tốt được xuất hiện trên đó. Ở đó có quá nhiều thông tin vừa tốt, vừa xấu… Sự tranh cãi tốt xấu (báo chí, mạng xã hội...) về các vấn đề đưa ra kéo theo sự tò mò của cộng đồng mạng, kích thích việc truy cập, theo dõi. Thông thường, cái gì hay nhắc tới, gây tranh cãi, xuất hiện nhiều thì sẽ càng thu hút người ta xem nó là gì. Giới trẻ không được định hướng, giáo dục về kỹ năng sống nên định hướng về thẩm mỹ, giá trị bị lệch lạc. Thứ tư, bạo lực ngôn từ do giáo dục và nền văn hóa không được chú trọng đúng mức, mọi người có thể không hiểu được tầm quan trọng của việc tôn trọng những người khác và sử dụng từ ngữ đúng mực, dẫn đến các hành vi bạo lực ngôn từ. Thứ năm, bản thân người dùng bạo lực ngôn ngữ đã từng bị đối xử không công bằng nên có tâm lý muốn người khác cũng rơi vào cảnh đó. Đây có thể là một dạng ám ảnh tâm lý. Cũng có thể xuất phát từ tâm lý ghen tị, hơn thua muốn lấy người khác ra làm trò đùa cười cợt để mua vui của các “anh hùng bàn phím” mà không ý thức được hậu quả của hành động này để lại. Chúng ta thấy rằng cả dưới góc độ khách quan và chủ quan, thì bạo lực ngôn ngữ đa số đều xảy ra vì những hiềm khích cá nhân. HS xảy ra bạo lực ngôn ngữ vì muốn thể hiện bản thân sớm, muốn gây sự chú ý để được nổi tiếng... Lứa tuổi học trò là lứa tuổi có nhiều biến động về mặt tâm, sinh lý. Sự quan tâm của gia đình, nhà trường sẽ giúp các em có được sự hiểu biết đầy đủ về kiến thức giới tính, kỹ năng sống để đối mặt với áp lực học hành, biết cách ứng xử với thầy cô, gia đình, bạn bè cũng như những cảm xúc với bạn khác giới, khác phái… Còn nếu không làm được như thế thì giới trẻ sẽ phải đối mặt với hậu quả nặng nề của bạo lực ngôn từ. 2.4. Hậu quả của bạo lực ngôn từ Theo diễn giả Nguyễn Hiểu Linh (Diễn giả, giảng viên trung tâm Kỹ năng sống SVN) cho rằng: “Ngày nay khi công nghệ mạng phát triển hơn, người ta vô tình trở thành kẻ sát nhân ẩn mình sau màn hình và làm tổn thương người khác. Không cần thượng cẳng tay, hạ cẳng chân mà họ chỉ cần dùng ngôn ngữ để lăng mạ làm tổn thương ai đó. Và vết thương nỗi đau mà ngôn ngữ kém duyên ấy mang lại thì đau hơn cả đòn roi”. Điều đó cho thấy, bạo lực ngôn từ để lại hậu quả rất nghiêm trọng cho con người. 12
  14. Bạo lực ngôn từ không để lại các hậu quả về mặt thể xác, không gây ra những tổn thương trên cơ thể của nạn nhân. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của hình thức bạo hành này lại rất nghiêm trọng đối với tâm lý của con người, nó làm cho chất lượng cuộc sống của nạn nhân bị giảm đi đáng kể. Biểu hiện của bạo hành bằng lời nói không dễ nhận biết như bạo hành thể xác. Các tổn thương mà nó để lại cũng tương tự thế. Thực chất, chỉ có bản thân nạn nhân mới là người hiểu rõ được những nỗi đau bên trong và các cảm xúc tiêu cực đang giằng xé họ. Đa phần những người xung quanh không thể thấu hiểu và đôi khi còn cho đó là sự nhạy cảm thái quá của nạn nhân. Nhưng trong thực tế, những đối tượng thường xuyên bị bạo hành bằng lời nói sẽ bị tác động rất nhiều về mặt cảm xúc. Họ sẽ trở nên buồn bã, lo âu, chán nản, tuyệt vọng và không còn sự tự tin vào bản thân, mất lòng tự trọng. Điều này khiến cho nhiều người không còn đủ dũng khí để thể hiện bản thân, họ dần đánh mất những cơ hội quý báu trong cuộc sống. Bên cạnh đó, những hậu quả mà bạo lực bằng lời nói để lại sẽ kéo dài rất lâu. Thậm chí nếu không được phát hiện và ứng phó kịp thời sẽ khiến nạn nhân gia tăng nguy cơ đối mặt với trầm cảm, rối loạn căng thẳng sau chấn thương hay thậm chí là tự sát. Trong một số nghiên cứu khoa học đã nhận thấy rằng, những đứa trẻ từng bị bạo hành bằng lời nói ở trường học hoặc ở nhà sẽ có nguy cơ bị rối loạn trầm cảm và lo âu cao hơn sau khi trưởng thành. Thậm chí, lâu dài nạn nhân còn có thể tin vào những lời nói bạo hành tiêu cực đó và nghĩ rằng những điều đó đúng với bản thân. Họ có thể cho rằng mình vô dụng, không có khả năng làm bất cứ điều gì, không đáng được tôn trọng… Tâm lý này sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hầu hết các yếu tố trong cuộc sống của nạn nhân. Có thể nói, họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc học tập, công việc, các mối quan hệ hoặc không thể nào đạt được thành công. Trong một số trường hợp, bạo lực ngôn từ có thể dẫn đến các vấn đề pháp lý, đặc biệt nếu nó vi phạm các quy định về nói xấu, đe dọa, hay phân biệt đối xử. Về xử lý hành chính, căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, người có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác thì phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng; Về việc truy cứu trách nhiệm hình sự, căn cứ vào Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) về tội “làm nhục người khác”, hành vi này có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 30 triệu đồng hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm. Trong trường hợp khiến nạn nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc làm nạn nhân tự sát, có thể bị phạt tù lên đến 5 năm. Như vậy, hành vi bạo lực ngôn từ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, sức mạnh của lời nói có thể cứu vớt một con người, tạo ra năng lượng tích cực động viên sự phát triển nhưng nó cũng có thể huỷ diệt cuộc sống. Việc định hướng cho HS - thế hệ tương lai của đất nước - về văn hoá giao tiếp là điều rất cần thiết. Đó là nhiệm vụ chung của ngành giáo dục trong đó có vai trò của GV chủ nhiệm. 13
  15. 3. Giáo viên chủ nhiệm Pháp luật hiện hành chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về GVCN. Tuy nhiên, thông qua các hoạt động thực tiễn, thông qua nhiệm vụ và vai trò có thể hiểu GVCN là người được phân công quản lý, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của một lớp học cụ thể. Trong nhà trường, đơn vị tổ chức cơ bản để giảng dạy và học tập là lớp học. Để quản lí trực tiếp một lớp học, nhà trường sẽ cử ra một GV có năng lực, trình độ làm chủ nhiệm lớp đó. Ở trường THPT, GVCN lớp có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục nhân cách HS. GVCN được xem là người thuyền trưởng, là nhân vật trung tâm, là linh hồn của lớp học, tập hợp và đoàn kết HS trong tập thể. GVCN lớp chủ động tổ chức, phối hợp với nhà trường, phụ huynh và các GV bộ môn khác trong việc điều hành lớp. Sẽ không quá đề cao khi nói rằng, ở trường phổ thông, GVCN có ảnh hưởng mang tính quyết định đến chất lượng lớp học. Hiệu quả công tác của người GVCN được thể hiện qua chính sản phẩm giáo dục của mình. Trong thực tế, các trường học rất quan tâm đến vai trò của GVCN. Khi chọn người cho vị trí quan trọng này, Ban giám hiệu nhà trường thường cân nhắc, tính toán kỹ xem trình độ, năng lực của GV ấy. Bởi, GVCN không chỉ giáo dục HS tại lớp, mà còn phải thiết lập mối quan hệ với gia đình, xã hội nhằm giúp từng HS giải quyết những khó khăn, vướng mắc cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi để các em thoải mái cắp sách đến trường… Từ yêu cầu đó đòi hỏi người GVCN phải có đầy đủ đức độ của một người thầy, trình độ chuyên môn tốt, khả năng thuyết phục cao. GVCN là người giúp hiệu trưởng quản lý lớp học, giám sát sự tu dưỡng và rèn luyện của HS; là người có trách nhiệm phản hồi tình hình lớp và từng HS đến phụ huynh. GVCN có vai trò của một nhà tâm lý, nhà quản lý trong nhà trường ở một tập thể thu nhỏ là lớp học. Như vậy, trong số tất cả các GV tham gia vào hoạt động giáo dục của lớp, GVCN lớp chính là người trực tiếp, thường xuyên gần gũi với HS nhất, là chỗ dựa tinh thần vững vàng cho các em trong cuộc sống để các em có thể nhận được hỗ trợ, giúp đỡ hoặc hướng dẫn, dạy dỗ cần thiết kịp thời. GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ HS quản lí và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện HS lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp. Đối với HS và tập thể lớp, GVCN là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần gũi nhất; người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự quản là cán bộ lớp, cán bộ Đoàn và tính tự giác của mọi HS trong lớp. Ngoài ra, GVCN là người cố vấn công tác Đoàn ở lớp chủ nhiệm. Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường, GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành và phát triển nhân cách HS và là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và ngoài xã hội 14
  16. Chức năng của người GVCN lớp là lãnh đạo, tổ chức, quản lí, giáo dục tập thể lớp trên cơ sở tổ chức các hoạt động giáo dục, các mối quan hệ giáo dục của HS theo mục tiêu giáo dục nhân cách HS toàn diện trong tập thể phát triển và môi trường học tập thân thiện. - Từ đó, có thể thấy, công tác của GVCN gồm có hai hoạt động lớn: hoạt động quản lí tập thể HS và hoạt động giáo dục HS. + Với tư cách là nhà quản lí, công tác quản lí tập thể HS của GVCN bao gồm những công việc sau: Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm; Triển khai kế hoạch chủ nhiệm; Tổ chức bộ máy tự quản; Giám sát, thu thập thông tin về lớp chủ nhiệm; Cập nhật hồ sơ công tác chủ nhiệm và hồ sơ HS; Cố vấn cho Ban chấp hành chi đoàn; Phối hợp với các lực lượng khác. + Với tư cách là nhà giáo dục, công tác giáo dục HS của GVCN bao gồm những hoạt động sau: Phát triển tập thể HS thành môi trường lớp học thân thiện; Triển khai các nội dung giáo dục toàn diện trong lớp chủ nhiệm; Tổ chức các hoạt động và giao lưu tập thể; Giáo dục giá trị sống và giáo dục kĩ năng sống cho HS; Thực hiện giáo dục kỉ luật tích cực; Giải quyết những tình huống bất ngờ; Tư vấn, tham vấn cho HS trong việc ra quyết định giải quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc sống. Tóm lại, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của GVCN là rất quan trọng, đòi hỏi người GVCN phải liên tục phát triển năng lực tổ chức quản lí giáo dục tập thể và cá nhân HS, năng lực giao tiếp với cha mẹ HS và HS cũng như phẩm chất đạo đức nhà giáo. Với vai trò như thế GVCN lớp có những lợi thế nhất định trong việc giáo dục kĩ năng phòng chống bạo lực ngôn từ cho HS. Nếu như ở nhà HS gần gũi, nghe lời hay “sợ” nhất là cha mẹ thì đến trường vị trí đó chuyển sang người GVCN lớp. Những yêu cầu, quy định, những lời nói của GVCN như “mệnh lệnh” mà các em sẽ nghiêm túc nghe theo. Hình ảnh, nhân cách, lời nói, hành động của GVCN lớp ảnh hưởng, chi phối rất lớn đến nhận thức và hành động của HS. Do vậy, nếu GVCN lớp là tấm gương về văn hoá giao tiếp, có nhiệt huyết truyền đạt kiến thức và giáo dục kĩ năng sử dụng ngôn từ có văn hoá cho HS sẽ có nhiều cơ hội để đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, công việc của một GVCN lớp là rất nhiều: quản lí lớp học, là cầu nối giữa lớp học với nhà trường, với phụ huynh, xử lí các băn khoăn, vướng mắc, các tình huống cụ thể của một tập thể thanh niên tuổi hiếu động… Ngoài ra GVCN lớp còn là một GV bộ môn đảm nhận một môn học của lớp nên thời gian để giáo dục kĩ năng phòng chống bạo lực ngôn từ cho HS không có nhiều, đòi hỏi sự kiên trì và khoa học. Qua quá trình chủ nhiệm, chúng tôi nhận thấy những buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giờ sinh hoạt lớp, lồng ghép trong các tiết học… là những khoảng thời gian rất hữu ích để đan xen kiến thức về bạo lực ngôn từ. Việc lựa chọn hình thức truyền đạt kiến thức đến cho HS cũng rất cần được quan tâm, GVCN nên là người định hướng còn HS mới là đối tượng đi tìm kiến thức, khai thác lợi thế của mạng 15
  17. internet và các ứng dụng công nghệ để khuyến khích HS tự tìm hiểu, sau đó GV tổ chức lớp học để các cá nhân, các nhóm có cơ hội trình bày những kiến thức đã thu nạp được cho nhau nghe. Điều này vừa giúp các em có kiến thức mà GV yêu cầu vừa giúp các em rèn luyện các kĩ năng sống cần thiết như kĩ năng thu thập và xử lí tài liệu, kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng giao tiếp… đồng thời, lúc các em được trình bày kiến thức cũng là lúc các em đang được thể hiện bản thân trước tập thể, sẽ làm cho các em tự tin hơn về mình. Các lời động viên, khuyến khích của GV đóng vai trò quan trọng để các em hoàn thành nhiệm vụ cao hơn. 16
  18. CHƯƠNG 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Thực trạng bạo lực ngôn từ trong đời sống hiện nay Bạo lực ngôn từ hiện đang trở thành một trong những vấn đề tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý và sức khỏe của giới trẻ. Trong xã hội hiện đại, khó ai có thể tránh khỏi tình trạng này. Chỉ cần tìm kiếm từ khoá “Bạo lực ngôn từ” trên công cụ tìm kiếm google sẽ cho khoảng 9.860.000 kết quả chỉ trong 0.26 giây; từ khoá “Dẫn chứng về bạo lực ngôn từ” sẽ cho khoảng 4.520.000 kết quả trong 0.32 giây. Qủa là những số liệu đáng suy ngẫm. Theo một cuộc điều tra của các nhà tâm lý, có những con số thật đáng lo ngại: cứ 20 người thì có một người phải chịu bạo lực ngôn từ, cứ 50 người lại có một người tự tử do bệnh tâm lý, từ nhẹ đến nặng. Điều này có thể làm nhiều người sửng sốt và nghi ngờ, nhưng sự thực là bất kỳ ai trong chúng ta cũng có thể từng trải qua sự tác động của bạo lực ngôn từ. Thời gian gần đây, dư luận chứng kiến sau nhiều cuộc thi hoa hậu, tình trạng này trở nên đáng báo động hơn khi nhiều thí sinh và hoa hậu trở thành mục tiêu của nạn bạo lực ngôn từ. Một ví dụ điển hình là Hoa hậu Đoàn Thiên Ân (đăng quang hoa hậu hoà bình 1/10/2022) bị miệt thị về cân nặng. Cô trải lòng, cách đây vài năm, bản thân nặng 75kg và đã phải nhận những bình luận cay nghiệt trên mạng xã hội, gây tổn thương. Câu chuyện trong quá khứ trở thành cảm hứng để Thiên Ân đưa vào bài thuyết trình của top 10 trong đêm chung kết. Cô nói: “Chúng ta luôn nói về hòa bình, về việc đấu tranh cho một thế giới tốt đẹp hơn. Thế nhưng, hòa bình sẽ không bao giờ bền vững nếu như vấn đề bạo lực không được giải quyết. Có rất nhiều người vẫn còn nghĩ rằng bạo lực là một cụm từ để chỉ về việc chúng ta tác động vật lý, hay làm tổn hại đến ai đó. Nhưng không, bạo lực được chia ra làm rất nhiều loại khác nhau, và tôi từng là nạn nhân của bạo lực ngôn từ, của body shaming sau khi tôi tăng cân”. Thực tế, việc chỉ trích về ngoại hình của người khác thường dựa trên những tiêu chuẩn không đúng về cái đẹp và dẫn đến những bình luận ác ý, thậm chí là hành động bắt nạt. Một trường hợp khác chúng tôi muốn nhắc đến là hoa hậu Huỳnh Trần Ý Nhi. Ngay sau khi đăng quang với những phát ngôn còn thiếu chín chắn của bản thân, nàng hậu Thế giới Việt Nam 2023 cũng phải chịu nhiều áp lực từ dư luận. Phải thẳng thắn thừa nhận lỗi sai của cô hoa hậu sinh năm 2002 nhưng chúng ta cũng không thể không nhìn thấy cộng đồng mạng đã tấn công rất mạnh mẽ đến cô. Dường như dư luận chỉ có một chiều, đám đông đổ xô vào tấn công 17
  19. bởi rất nhiều ngôn từ nặng nề. Giá như, dư luận mở con đường cho họ nhận sai và sửa sai thì có lẽ vết thương sẽ giảm đi nhiều phần. Không chỉ diễn ra với người nổi tiếng, trong cuộc sống hàng ngày, bạo lực ngôn từ cũng diễn ra khắp nơi, có mặt ở mọi môi trường sống. Không khó để chúng ta chứng kiến những lời thiếu văn hoá, chửi bới, lăng mạ, to tiếng, quát tháo ở trong các gia đình, môi trường công cộng, đường phố… Đặc biệt trong môi trường học đường, bạo lực ngôn từ đang len lỏi đến tận từng trường học, lớp học. Với từ khoá “Bạo lực ngôn từ trong trường học” chúng tôi đã tiến hành tìm kiếm trên thanh công cụ google, kết quả là trong 0.36 giây cho ra 10.700.000 kết quả. Điều đó cho thấy bạo lực ngôn từ trong trường học đang là vấn đề cần phải được quan tâm đúng mức. Muốn xây dựng môi trường thân thiện, hạnh phúc trong lớp/ trường học, điều đầu tiên, thiết nghĩ là phải xây dựng văn hoá giao tiếp lành mạnh, tích cực. Vậy mà thực tế hiện nay, bạo lực ngôn từ đang là vấn đề đáng báo động khiến phụ huynh đứng ngồi không yên, dư luận xôn xao. Ở Nghệ An, vào năm học 2022-2023 tại trường THPT Chuyên Đại học Vinh xảy ra một sự việc rất đáng tiếc. Nữ sinh N.T.Y.N là HS lớp 10 theo dư luận để lại là do bị nhóm bạn cùng lớp ngược đãi, đánh đập, lập hội nhóm “anti” để nói xấu khiến tâm lý em khủng hoảng nghiêm trọng nên đã tự tử ngay tại căn nhà của mình. Một HS học giỏi nhất nhì lớp bỗng dưng nghỉ học và tin nhắn gửi cho mẹ có nội dung “Con sợ đi học” khiến cho ta không khỏi suy ngẫm về vấn nạn bạo lực ngôn từ hiện nay. Năm 2023 trên cả nước có rất nhiều vụ việc bạo lực học đường để lại hậu quả nghiêm trọng. Xuất phát ban đầu của các sự việc ấy chưa phải là những cú đấm, cái tát mà thường là những hành động chửi bới, xúc phạm, nghĩa là khởi điểm là những hành vi bạo lực ngôn từ. Câu chuyện gây chấn động và đau lòng về cái chết tức tưởi của một nữ sinh vừa tốt nghiệp lớp 12 ở Thạch Thất (Hà Nội) vì bị ghép “ảnh nóng” trên facebook vẫn còn chưa nguôi ngoai thì vào những ngày đầu tháng 7/2023 vừa qua, một nữ sinh ở thành phố Đà Nẵng cũng suýt mất mạng do uống thuốc ngủ tự vẫn vì bị bôi nhọ danh dự trên trang facebook có tên “Bộ mặt…”. Tệ hại hơn nữa, hành vi bạo lực ngôn từ còn diễn ra giữa HS với GV. Những tưởng rằng, thầy cô là những con người được HS tuyệt đối tôn trọng 18
  20. nhưng đâu đó ở môi trường học đường vẫn có hiện tượng đáng buồn. Đó là những câu chuyện HS vô lễ với GV. Rõ ràng, bạo lực ngôn từ là vấn đề đáng quan ngại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho HS, gia đình, nhà trường và xã hội. Trước hết, về phía bản thân người bị hại, bạo lực tinh thần và bạo lực ngôn ngữ khiến họ thường cảm thấy tổn thương, tự ti, lo lắng, bị cách biệt và buồn rầu. Họ có thể cảm thấy bị suy sụp, mặc cảm, hoặc sống trong sự sợ hãi và ám ảnh. Thậm chí, tình trạng này có thể kéo dài suốt đời. Các em không dám ra ngoài chơi hoặc đến trường, không thể tập trung vào việc học hành. Đáng tiếc, hầu hết các em khó mở lòng kể về những áp lực và đe dọa từ bạo lực với phụ huynh hay GV. Không ít trường hợp bạo lực đã cướp đi cuộc sống của những con người vô tội, để lại sự đau khổ và thiệt hại không chỉ về mặt thể xác mà còn tinh thần. Bên cạnh đó, nó không chỉ ảnh hưởng đến HS mà còn gây xáo trộn, căng thẳng và lo lắng cho cả gia đình. Những đứa con khoẻ mạnh, ngoan ngoãn, yêu thương gia đình cuối cùng lại bị tổn thương bởi xã hội và chính xác là bạo lực ngôn từ. Ngoài ra, hành vi ấy còn ảnh hưởng đến các giá trị truyền thống trong học đường và chuẩn mực đạo đức quý báu của xã hội. Mỗi ngày, chúng ta chứng kiến những cuộc ẩu đả và xung đột ngay tại trường học hoặc những bài viết trên mạng xã hội chứa lời lẽ tục tĩu, bôi nhọ danh dự của người khác. Những hành vi này đang làm phai nhạt giá trị truyền thống và tạo ra một sự suy đồi đáng báo động về đạo đức và hành vi, gây ra sự mất trật tự trong xã hội. Vấn nạn bạo lực ngôn từ diễn ra ở nhiều môi trường sống khác nhau nhưng đậm đặc nhất là ở không gian mạng. Thế giới ảo, người nói dấu mặt sau màn hình đem đến cảm giác an toàn nhất định cho những phát ngôn thiếu văn hoá. Ở nước ta, tính đến nay có khoảng 455 trang mạng xã hội được cấp phép và con số này không ngừng tăng lên. Trong đó, face book, zalo, Youtobe, Instagram… là những trang được mọi người ưa dùng và cũng là nền tảng thường xuyên diễn ra bạo lực ngôn từ trực tuyến. Theo báo cáo chỉ số văn minh trên không gian mạng do hãng Microsoft công bố nhân ngày Quốc tế an toàn Internet, 11 tháng 2 năm 2023, Việt 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2