intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp quản lý phòng, chống, ngăn chặn hành vi bạo lực học đường, góp phần xây dựng trường đạt chuẩn An toàn về an ninh, trật tự tại trường THPT Đô Lương 4

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:56

25
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp quản lý phòng, chống, ngăn chặn hành vi bạo lực học đường, góp phần xây dựng trường đạt chuẩn An toàn về an ninh, trật tự tại trường THPT Đô Lương 4" nhằm đưa ra một vài biện pháp quản lý để giải quyết những mâu thuẫn tiềm ẩn trong các em học sinh nhằm xử lí, hòa giải những mâu thuẫn đó một cách triệt để, đồng thời triển khai các hoạt động ngoài giờ lên lớp thông qua mô hình “Trường học an toàn, thân thiện chấp hành tốt luật giao thông”n. Với những cách làm này nó sẽ ngăn chặn, răn đe các em còn lại và đồng thời xóa hết những mâu thuẫn mà các em đã gây ra.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp quản lý phòng, chống, ngăn chặn hành vi bạo lực học đường, góp phần xây dựng trường đạt chuẩn An toàn về an ninh, trật tự tại trường THPT Đô Lương 4

  1. SƠ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 4   SÁNG KIẾM KINH NGHIỆM      “Một số giải pháp quản lý phòng, chống, ngăn chặn hành vi  bạo lực học đường, góp phần xây dựng trường đạt chuẩn ‘An  toàn về an ninh, trật tự’ tại trường THPT Đô Lương 4”.                                 Người thực hiện: Nguyễn Quốc Dũng Chức vụ: Hiệu trưởng Lĩnh vực: Quàn lý        Số điện thoại: 0914559598 1
  2. Năm  2022 2
  3. PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU      1. Bối cảnh của đề tài: Nhằm tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc Chỉ  thị  48 /CT ­ TW của  bộ  chính trị  gắn với thực hiện nghị quyết số 09/1998 NQ ­ CP ngày 31/7/1998  của chính phủ, giao cho lực lượng Công an, Quân sự  tăng cường công tác tuần  tra phát hiện kịp thời xử lý và thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin   của xã và của các xóm trên địa bàn nhằm giáo dục, răn đe những đối tượng có ý   đồ  phạm tội; Chỉ  thị  số  09 – CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban bí thư  Trung   ương Đảng; Quyết định số  57/2006/ QĐ – UBND ngày 09/06/2006 của UBND   tỉnh Nghệ  An về  việc “ Ban hành quy chế  tổ  chức và hoạt động tự  quản về  ANTT”; Kế hoạch số 05/KH/UBND, ngày 04/01/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh   về “ Xây dựng bảo vệ ANTQ”.Thực hiện có hiệu quả thông tư số 23/TT – BCA   ngày 27/4/2012 của Bộ Công an quy định về khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ  quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt tiêu chuẩn   "An toàn về  An ninh trật tự”.  Quyết định số  79/QĐ­UBND ngày 02/11/2012 của UBND Tỉnh Nghệ  An về  việc ban hành Quy định khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp,  nhà trường trên địa bàn tỉnh Nghệ  An đạt tiêu chuẩn "An toàn về  an ninh, trật   tự";   Hướng   dẫn   số   2437/HD­CAT­PV28   ngày   25/11/2012   của   Công   an   tỉnh   Nghệ An về hướng dẫn thực hiện xây dựng khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ  quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt tiêu chuẩn "An toàn về  an ninh, trật tự";  mới nhất là quyết định số  510 /QĐ­BCA.V05 ngày 20/1/2022 của Bộ  Công an  về ban hành “Quy định tiêu chí đánh giá, phân loại phong trào toàn dân bảo về an  ninh tổ quốc. Đồng thời góp phần thực hiện hiệu quả mô hình “Trường học an   toàn, thân thiện, chấp hành tốt luật giao thông”, trong đó ngăn chặn, phòng,  chống được bạo lực học đường là một trong những tiêu chí phải đạt được mà   quy chế hoạt động của mô hình đã đề ra.   Mặt khác sinh thời Bác Hồ luôn quan tâm và dành nhiều tình cảm thương   yêu sâu sắc đối với thế  hệ  trẻ. Trong “Thư  gửi các bạn thanh niên” ngày   12/8/1947, Bác viết: “… Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn   là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ  tương lai cho xứng đáng thì  ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc  để  chuẩn bị  cái tương lai đó”. Trong “Di chúc”, Bác cũng dành những lời lẽ  tâm huyết nói về thanh niên: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi  việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần  3
  4. phải chăm lo giáo dục đào tạo cách mạng cho họ, đào tạo họ  thành những   người  thừa kế  xây dựng chủ  nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi   dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”.   Bác xem đạo đức là yếu tố  quan trọng hình thành nhân cách con người. Đối  với học sinh thì việc giáo dục đạo đức lại là việc cần quan tâm trước tiên, như  ông bà ta thường nói “dạy con từ thuở còn thơ”. Ý thức được tầm quan trọng  trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra   chủ đề là “Học làm người trước khi học lấy chữ”. Chủ đề  này được sự đồng  tình của nhiều người, bởi những năm gần đây hạnh kiểm của một số em học   sinh có chiều hướng giảm sút gây nỗi lo âu cho xã hội cũng như những người   công tác trong ngành giáo dục. Trong những năm gần đây vấn đề bạo lực học đường đang được dư luận   rất quan tâm và được coi là một hiện tượng xã hội đã đến mức nguy hiểm và   nghiêm trọng. Có rất nhiều cuộc hội thảo về chuyên đề phòng chống bạo lực  trong nhà trường để đưa ra những biện pháp nhầm giải quyết hiện tượng bạo   lực trong học sinh. Có ý kiến cho rằng “Một trong những nguyên nhân cơ bản  dẫn tới hiện tượng trên đó chính là tình trạng nặng về  dạy chữ, nhẹ  về  dạy   người làm giảm hiệu quả  của việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh,   chưa quan tâm đầy đủ  và huy động các nguồn lực cần thiết cho công tác giáo  dục đạo đức học sinh”. Việc giáo dục đạo đức, nhân cách, kỹ  năng sống cho  học sinh là việc làm thường xuyên và cần phải thực hiện bằng nhiều kênh   khác nhau. Tuy nhiên, trong nhà trường vấn đề tu dưỡng đạo đức cho học sinh  là trách nhiệm của các thầy cô giáo, không thể phủ nhận vai trò của Ban Giám  hiệu, đứng đầu là Hiệu trưởng, tổ chức Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm   lớp trong việc hình thành nhân cách của học sinh. Với thực trạng bạo lực trong   học đường hiện nay, nhà trường cần phải làm gì để phòng, chống, ngăn chặn   kịp thời và giúp học sinh phát triển nhân cách trở  thành những con người lao   động sáng tạo, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước, có đức có tài. 2. Lý do chọn đề tài:  Góp phần xây dựng nhà trường đạt tiêu chuẩn "An toàn về  an ninh, trật  tự". Mặt khác thời gian gần đây chúng ta đã nghe và đọc rất nhiều đến cụm từ  “Bạo lực học đường”; sách báo đã dành rất nhiều trang để  nói về  điều này.   “Bạo lực học đường”: đó là những hành vi xâm phạm có chủ  ý, có ý đồ,   thường gây hậu quả  nghiêm trọng và xảy ra trong phạm vi nhà trường. Nếu  4
  5. nhìn từ góc độ lấy học sinh làm trung tâm thì bạo lực học đường là sự xâm hại   của học sinh đối với học sinh, sự  xâm hại của học sinh   đối với người bên  ngoài nhà trường và ngược lại, là sự xâm hại của giáo viên đối với học sinh và  ngược lại… Bạo lực  ấy xâm phạm đến sức khoẻ hoặc danh dự của người bị  hại, hoặc xâm phạm đến tính mạng và nhân phẩm của người bị hại. Bạo lực   ấy không chỉ xảy ra trong phạm vi nhà trường mà còn xảy ra ngoài nhà trường.   Bên cạnh đó ngoài việc phòng chống, ngăn chặn bạo lực học đường, chúng ta  phải tập trung giáo dục toàn diện cho học sinh. Do đó tôi chọn đề tài “Một số  giải pháp quản lý phòng, chống, ngăn chặn hành vi bạo lực học đường, góp  phần xây dựng trường đạt chuẩn ‘An toàn về  an ninh, trật tự’ tại trường  THPT Đô Lương 4”.       3. Mục đích nghiên cứu của đề tài:  Đứng trước những bức xúc của xã hội về  bạo lực học đường ngày càng  diễn ra phức tạp và nguy hiểm. Nếu chúng ta không có biện pháp ngăn chặn  thì các mâu thuẫn sẽ đẩy đến chỗ gay gắt hơn. Ở đây tôi đưa ra một vài biện   pháp quản lý để  giải quyết những mâu thuẫn tiềm  ẩn trong các em học sinh   nhằm xử  lí, hòa giải những mâu thuẫn đó một cách triệt để, đồng thời triển  khai các hoạt động ngoài giờ  lên lớp thông qua mô hình “Trường học an toàn,  thân thiện chấp hành tốt luật giao thông”n. Với những cách làm này nó sẽ ngăn  chặn, răn đe các em còn lại và đồng thời xóa hết những mâu thuẫn mà các em  đã gây ra. Đồng thời triển khai tổ  hợp các giải pháp xây dựng trường đạt   chuẩn “An toàn về an ninh trật tự”, duy trì ổn định, đẩy mạnh chất lượng giáo   dục toàn diện.    4. Phạm vi và đối tượng của đề tài:  Đề  tài tập trung nghiên cứu “Một số  giải pháp quản lý phòng, chống,   ngăn chặn hành vi bạo lực học đường, góp phần xây dựng trường đạt chuẩn   “An toàn về  an ninh, trật tự” nhằm giải quyết tình trạng bạo lực đang leo   thang trong các trường phổ  thông, giúp để  giải quyết những mâu thuẫn của  học sinh THPT nói chung và tập trung tại trường THPT Đô Lương 4, đồng thời  tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, rèn luyện, phát triển các kỹ năng cho   học sinh vùng nông thôn, vùng khó xa trung tâm huyện Đô Lương. Đối tượng nghiên cứu là học sinh  ở  bậc THPT, tập trung chủ  yếu tại   trường THPT Đô Lương 4. 5
  6. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu: ́ ̣ 5.1. Xac đinh cơ sở khoa hoc cua viêc quan ly chi đao hoat đông giao duc hoc ̣ ̉ ̣ ̉ ́ ̉ ̣ ̣ ̣ ́ ̣ ̣   ̣ ̣ ức, kỹ  năng sống và nâng cao trí lực, phòng chống, ngăn   sinh ren luyên đao đ ̀ chặn bạo lực học đường cho hoc sinh. ̣ 5.2. Phân tich, đi ́ ều tra thực trang viêc quan ly, chi đao hoat đông giao duc ̣ ̣ ̉ ́ ̉ ̣ ̣ ̣ ́ ̣   ̣ ̣ ̣ ức, kỹ năng sống và nâng cao trí lực, phòng chống, ngăn  hoc sinh ren luyên đao đ ̀ chặn bạo lực học đường cho hoc sinh ̣ ở trương THPT Đô L ̀ ương 4, Tỉnh Nghệ  An. ́ ̀ ́ ̉ ̣ ́ ̣ ̉ ̣ 5.3. Đề  xuât va ly giai môt sô biên phap chi đao nh ́ ằm  phòng, chống, ngăn  chặn bạo lực học đường  cho học sinh vùng khó, vùng xa trung tâm thông qua   hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên trong giai đoan hiên nay. T ̣ ̣ ừ  đó có cơ  sở  để  từng bước xây dựng trường đạt chuẩn  “An toàn về  an ninh, trật tự” lớp  ở  trương THPT Đô L ̀ ương 4, tỉnh Nghệ An. 6. Phương pháp nghiên cứu. 6.1. Nhom ph ́ ương phap nghiên c ́ ứu ly luân ́ ̣ ­ Nghiên cưu cac Văn kiên Đai hôi Đang, Hiên phap, Luât Giao duc, Điêu lê ́ ́ ̣ ̣ ̣ ̉ ́ ́ ̣ ́ ̣ ̀ ̣  trương trung hoc, H ̀ ̣ ương dân th ́ ̃ ực hiên cḥ ương trinh giao duc nói chung và ̀ ́ ̣   ̉ ̣ ̣ HĐGDNGLL nói riêng cua Bô Giao duc và Đào t ́ ạo, Sở  GD­ĐT tỉnh Nghệ  An,  Trương THPT Đô L ̀ ương 4. ́ ̀ ̉ ̉ ́ ́ ̣ ­ Giao trinh, cac bai giang vê công tac quan ly giao duc. ́ ̀ ̀ ́ ̀ ̣ ̣ ́ ết về bạo lực học đường... ­ Tai liêu, Tap chi vi 6.2. Nhom ph ́ ương phap nghiên c ́ ứu thực tiên ̃ ̣ ̉ ̉ ­ Quan sat, đam thoai, trao đôi, khao sat... ́ ̀ ́ ­ Triển khai bài bản các hoạt động ngoài giờ lên lớp. ­ Tổ  chức các hoạt động  mô hình  “Trường học an toàn, thân thiện, chấp  hành tốt luật giao thông”. ­ Tổ chức các câu lạc bộ “Văn học dân gian”; “Tiếng Anh”… ̉ ̣ ̉ ́ ́ ̣ ­ Tông kêt kinh nghiêm quan ly giao duc. ́ ­ Thông tin từ các chính quyền, địa phương, thực tế địa bàn… ­ Thông tin từ  Công An 5 xã có học sinh học tại trường (Hiến Sơn, Trù   Sơn, Đại Sơn, Mỹ Sơn, Thượng Sơn); Công An Huyện Đô Lương. 6.3. Nhom ph ́ ương phap nghiên c ́ ứu hô tr ̃ ợ ­ Thông kê, t ́ ổng hợp, toan hoc, biêu bang, s ́ ̣ ̉ ̉ ơ đô... ̀     7. Khẳng định tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của vấn đề:  6
  7. Đây là một trong những biện pháp quản lý mà tôi, cùng ban Giám hiệu,   Đoàn thanh niên đã áp dụng trong công tác quản lý, chỉ đạo theo dõi việc thực  hiện nội qui của học sinh và trực tiếp xử lí các mâu thuẫn đánh nhau của học   sinh THPT, nhất là tại trường THPT Đô Lương 4, thuộc vùng nông thôn, vùng   khó, xa trung tâm huyện Đô Lương. Các biện pháp quản lý này nó đã giúp cho  nhà trường rất nhiều và đã hạn chế đến mức thấp nhất những hành vi bạo lực   trong trường, góp phần quan trọng trong việc xây dựng trường đạt chuẩn “An   toàn về  an ninh, trật tự”, duy trì  ổn định, nâng cao chất lượng giáo dục toàn  diện.  Đồng thời tạo tiền đề cho việc tổ chức thành công các hoạt động ngoài  giờ lên lớp. 8. Kết cấu của đề tài:  Đề tài gồm có ba phần: ­ Phần một: Phần mở đầu. ­ Phần hai: Phần nội dung ­ Phần ba: Bài học kinh nghiệm­kết luận­kiến nghị. PHẦN HAI: PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC QUẢN LÝ PHÒNG, CHỐNG CÁC HÀNH VI BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG, GÓP PHẦN  XÂY DỰNG TRƯỜNG ĐẠT CHUẨN “AN TOÀN VỀ AN NINH, TRẬT  TỰ” 1. Cơ sở lý luận của vấn đề bạo lực học đường.        1.1. Vì sao chúng ta phải quan tâm giáo dục học sinh có hành vi không   mong đợi: ­ Trong tập thể  nhà trường luôn tồn tại những học sinh dễ  giáo dục và   những học sinh khó giáo dục, hay có những hành vi không mong đợi. Những  học sinh khó giáo dục là những em thường có những thái độ, hành vi không   phù hợp với giá trị, nội quy, truyền thống của tập thể, không thực hiện tròn  bổn phận và trách nhiệm của người học sinh, hoặc thiếu văn hóa, thiếu đạo  đức trong quan hệ   ứng xử  với mọi người mặc dù đã được nhà trường, gia  đình quan tâm chỉ  dẫn, giáo dục… Nếu hành vi không mong đợi của các em  7
  8. lặp lại thường xuyên và trở  thành hệ  thống thì trong thực tiễn nhà trường  hiện nay được gọi là học sinh cá biệt. Những học sinh này được giáo viên coi  là khó dạy, thậm chí hư hỏng. ­ Trách nhiệm của giáo dục nói chung và giáo viên nói riêng về lý thuyết   không được để còn những học sinh  có hành vi chưa phù hợp với giá trị, chuẩn  mực xã hội và những qui định chung của nhà trường, lớp học, cộng đồng. Bởi   giáo dục có sứ  mạng là hình thành và phát triển nhân cách vừa có cá tính   (mang bản sắc riêng của mình) nhưng phải biết sống hài hòa với các giá trị  chung của loài người, dân tộc và cộng đồng để có cuộc sống hạnh phúc. ­ Nếu trong lớp tồn tại những học sinh cá biệt, luôn có những hành vi tiêu  cực, không phù hợp thì sẽ   ảnh hưởng đến tập thể, những thành viên khác.  Trong thực tế  nhiều giáo viên chủ  nhiệm cảm thấy rất bị  áp lực, có khi bất   lực khi trong lớp có những học sinh được gọi là cá biệt. Bởi vì giáo viên chủ  nhiệm không chỉ  gặp khó khăn trong  ứng phó với chính học sinh đó , mà đôi   khi còn gây  ảnh hưởng đến học sinh khác, đến tập thể  lớp. Biểu hiện phổ  biến của học sinh được coi là cá biệt có thể như sau: + Có những thay đổi khác lạ trong thái độ, cách cư xử: trở nên lãnh đạm,  không chan hòa, không muốn hòa đồng, cáu kỉnh, xúc phạm người khác, thậm   chí gây gổ dẫn đến đánh nhau. + Không quan tâm, hứng thú với những trường học và việc học, học sa   sút, thậm chí là bỏ học. + Thiếu tự tin vào bản thân. Không tin cậy người khác. + Thường xuyên vi phạm nội qui của lớp, trường. + Cố thu hút sự chú ý của người khác bằng những hành vi như phá phách,   vô lễ, ăn cắp, nói dối… + Hay đánh đập bạn, hay ồn trong giờ học, bỏ học trốn học để đi chơi. + Thậm chí có những em rơi vào con đường nghiện ngập ma túy và các   tệ nạn xã hội khác… Tóm lại học sinh cá biệt là những học sinh có sự bất thường về tính cách,   không có động cơ học tập, tâm lý không ổn định. + Trong số  những học sinh được coi là cá biệt, đôi khi có những em có  tiềm năng về cá tính, do giáo viên không hiểu được, không có cách tiếp cận và   8
  9. tác động phù hợp hoặc không được sự  giúp đỡ  kịp thời, đúng cách… mà dẫn  đến sự biểu hiện những hành vi không phù hợp của học sinh. Vì vậy, đối với học sinh cá biệt, cán bộ  quản lý, giáo viên chủ  nhiệm  thực sự cần là kỹ sư tâm hồn, có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng giáo  dục trong và ngoài nhà trường, mà trước hết là với tập thể lớp giúp những em   này điều chỉnh, thay đổi niềm tin, thái độ, hành vi của mình để  các em có  tương lai tốt đẹp hơn. 1.2. Tìm hiểu các căn nguyên của hành vi không mong đợi: 1.2.1. Để hiểu được nội dung và biện pháp giáo dục học sinh cá biệt cần   tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng này. a. Nguyên nhân do yếu tố sinh học:  Một số  em sinh ra đã có vấn đề, bản thân tính hay gây gổ, hung hăng…   do tình trạng cha mẹ yếu về thể chất, tinh thần, học sinh kém dinh dưỡng… b. Nguyên nhân do yếu tố tâm lí – xã hội:   Các chuyên gia tâm lí và những người nghiên cứu về hành vi của học sinh   ở trường học kết luận rằng những vấn đề  thái độ  và cách cư  xử  bất thường   của các em phần lớn bắt nguồn từ những vấn đề thực tế mà các em phải đối  mặt trong cuộc sống. Đó là những vấn đề  có liên quan đến môi trường, hoàn  cảnh sống của các em. Có thể  các em gặp các vấn đề  trong gia đình, hoặc   trong quan hệ  với bạn bè, thầy cô, hoặc những trở  ngại khác… nên luôn gây  khó chịu trong các mối quan hệ khiến mọi người không bằng lòng. Do đó mọi  người lại đối xử  khắt khe, không thông cảm. Chính sự  khắt khe, thiếu  quan   tâm, bỏ mặc, không lắng nghe, thiếu thông cảm và tha thứ của mọi người lại   càng làm cho các em thấy cô đơn,d  ẫn đến sa sút trong học tập, buông thả  trong lối sống. Trong số những học sinh có những hành vi không mong đợi , thậm chí trở  thành học sinh cá biệt có cả những học sinh tiềm năng  nhưng vì nguyên nhân  nào đó cảm thấy chán nản về năng lực của mình, mất dần hứng thú, động cơ  học tập, hoạt động. Học sinh đó tin rằng mình không thể  “khá” lên được,   đánh giá thấp về  bản thân mình, không vượt qua được khó khăn, dễ  bỏ  giữa  chừng, kém tự tin. Các nhà nghiên cứu về giáo dục đã kết luận rằng “tất cả những học sinh  9
  10. “hư” hay có hành vi không phù hợp đều là những học sinh chán nản”. Khi   chán nản, học sinh không còn hứng thú hoạt động và động cơ hoạt động nữa.  Chán nản là nguyên nhân của hầu hết những thất bại học đường, đặc biệt với   những học sinh mới lớn. Một số em cho rằng mình không đáp ứng được mong  mỏi của thầy cô, cha mẹ. Cảm giác, tâm trạng chán nản của học sinh nảy   sinh còn do những nhu cầu cơ  bản như: an toàn, yêu thương, tôn trọng…  không được đáp  ứng, hoặc gặp những vấn đề  trong tình cảm, học sinh sẽ  buồn rầu, có cảm xúc tiêu cực, cảm thấy bất hạnh, có thể  không kiềm chế  được bản thân. 1.2.2. Mục đích hành vi tiêu cực của học sinh: Giáo viên cần phải tìm hiểu mục đích hành vi tiêu cực của học sinh. Có  rất nhiều lí do được đưa ra nhưng lại không giúp lí giải được mục đích hành   vi tiêu cực của học sinh. Xét cho cùng tất cả các hành vi đều có mục đích và  có lí do, nó không xảy ra một cách ngẫu nhiên. Giáo viên cần xác định được  mục đích hành vi tiêu cực hay cư  xử  không phù hợp   của học sinh để  hiểu   được tại sao học sinh lại làm như vậy và có cách xử trí thích hợp, hiệu quả. Mục đích hành vi tiêu cực của học sinh thường tồn tại dưới các dạng sau: 1.2.2.1 Thu hút sự chú ý: Đằng sau hành vi thu hút sự chú ý là suy nghĩ sai  lệch của học sinh “Mình chỉ cảm thấy quan trọng khi nhận được sự quan tâm,  chú ý của cha mẹ, thầy cô”. Đến tuổi mới lớn, học sinh thường hướng hành   vi này tới bạn cùng tuổi nhiều hơn. Muốn được chú ý là nhu cầu, động cơ  phổ  biến ở bất cứ học sinh nào. Nếu không thu hút được sự  chú ý thông qua  việc được điểm cao, thành tích thể  thao, hoạt động nhóm lành mạnh thì học   sinh sẽ làm bằng cách tiêu cực khác. 1.2.2.2. Thể  hiện quyền lực: Học sinh liên tục cố  gắng khám phá xem  mình “mạnh” đến mức nào. Đằng sau hành vi chứng tỏ mình cũng có “quyền  lực” có thể  để  ra oai với bạn bè, hoặc muốn chứng tỏ  mình xứng đáng làm   thủ  lĩnh… “Mình chỉ  cảm thấy quan trọng nếu là người điều khiển và có   những gì mình muốn” là suy nghĩ sai lệch của học sinh. Hoặc là một số  học  sinh chỉ cảm thấy quan trọng khi chúng thách thức quyền lực của người lớn,   vi phạm nội quy, không làm theo lời cha mẹ, thầy cô. 1.2.2.3. Trả  đũa:  Học sinh cho rằng “Mình cảm thấy bị  tổn thương và  không được yêu quý, không được đối xử  tôn trọng, công bằng, bị  trừng phạt,  10
  11. mình phải đáp trả”. Học sinh làm người khác (anh chị  em hay bạn cùng lớp)   và  cha  mẹ,  thầy  cô  bị  tổn  thương  vì  trước   đó  học  sinh  cảm  thấy  bị   tổn  thương, bị  đối xử  không công bằng. Do đó để  tránh học sinh có thái độ  và  hành vi với mục đích là trả  đũa nhà trường, cha mẹ  học sinh cần rất thận   trọng trong ứng xử với các em sao cho không để lại những ấn tượng tiêu cực   này. 1.2.2.4. Thể  hiện sự  không thích hợp: Hành vi thể  hiện sự  không thích  hợp chính là hành vi rút lui, né tránh thất bại của học sinh vì cảm thấy nhiệm   vụ  quá sức so với mong mỏi của thầy cô. Trong trường hợp này học sinh sẽ  thiếu tự giác, không muốn thực hiện các nhiệm vụ, bổn phận của người học   sinh, có thể có biểu hiện của sự tự ti trước những yêu cầu chung của lớp. 1.2.3. Những dạng suy nghĩ không hợp lí cũng dẫn đến  học sinh có hành  vi không mong đợi trong quan hệ với người khác hoặc đối với những sự việc,  hiện tượng hay những việc cần làm. ­ Suy nghĩ trắng – đen: nhìn sự vật, hiện tượng một cách tuyệt đối hoặc  trắng hoặc đen. ­ Khái quát hóa quá mức: Nhìn sự  vật hiện tượng như  một khuôn mẫu  luôn như vậy. ­ Định kiến: Chỉ tập trung vào điểm tiêu cực, bỏ qua điểm tích cực. ­ Hạ thấp các điểm tích cực: Cho rằng những gì đã đạt được là không đáng  kể. ­ Kết luận vội vã: Nhanh chóng cho rằng người khác phản ứng với mình   một cách tiêu cực khi chưa có bằng chứng rõ ràng. ­ Phóng đại hoặc đánh giá thấp:Phóng đại sự  việc, hiện tượng hoặc hạ  thấp tầm quan trọng của sự việc, hiện tượng. ­ Suy đoán cảm tính: Suy đoán từ trạng thái cảm xúc. ­  Suy nghĩ là “phải” thế  này hay thế  kia: phê phán bản thân hay người  khác, cho rằng mình hay người khác “phải” hay “không được” thế này hay thế  kia. ­ Chụp mũ: Đồng nhất mình với những khiếm khuyết của bản thân. Đáng  lẽ nghĩ “mình có sai lầm” thì lại nghĩ “mình đúng là thằng ngu”. 11
  12. ­ Cá nhân hóa và đổ lỗi: Đổ lỗi cho bản thân và người khác về những gì   mà bản thân hay họ không phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. 1.3. Nội dung và biện pháp giáo dục học sinh có hành vi không mong   đợi: 1.3.1. Nội dung cần giáo dục học sinh có hành vi không mong đợi: Từ nguyên nhân và mục đích của những hành vi không mong đợi, để cho   các em có thể tự thấy cần phải thay đổi… cho phép đề xuất nội dung cốt lõi   cấn giáo dục các em bao gồm: * Nhận thức đúng điểm mạnh và điểm yếu của bản thân: Để học sinh có những ứng xủ phù hợp trong mối quan hệ, trong các tình   huống, trước hết cần giúp học sinh nhận thức đúng được bản thân, trong đó  xác định được đúng mình là ai? Mình có điểm mạnh, điểm yếu gì. Đây vừa là  một kĩ năng sống quan trọng của mỗi cá nhân, nó càng trở nên quan trọng đối  với những người hay có những thái độ, hành vi  ứng xử  không phù hợp, gây   khó chịu, phản cảm cho mọi người. * Nhận thức được những giá trị  đối với bản thân: Việc nhận thức được điều gì có nghĩa và quan trọng đối với mình và  những điều đó có phải thực sự  là chân giá trị  của con người và đời người   không? Rất quan trọng nữa là cần nhận thấy bên cạnh những hạn chế  nhất   định, mình là người có giá trị  thì học sinh mới có nhu cầu, động lực để  hoàn  thiện bản thân. * Tự  tin về  giá trị  và những điểm mạnh của mình để  làm điểm tựa cho  những hành vi và ứng xử một cách tích cực: Trên cơ  sở  làm cho học sinh nhận thức được những điểm mạnh, giá trị  của bản thân khích lệ để  các em tự  tin phát huy những điểm mạnh và giá trị  đó, đồng thời cố gắng khắc phục những hạn chế, những niềm tín vào cái phi   giá trị  hoặc phản giá trị  để  thay đổi hành vi, thói quen xấu, tiêu cực theo   hướng lành mạnh và tích cực lên. * Nhận thức được hậu quả  của những hành vi tiêu cực và tất yếu phải   thay đổi thói quen hành vi cũ: Giáo viên phối hợp với tập thể  lớp giúp học sinh dần nhận thức được   12
  13. nếu cứ hành động, ứng xử theo cách làm mọi người khó chịu, làm mọi người  tổn thương, cản trở  sự  phát triển chung… thì không chỉ  làm khổ, làm hại  người khác, mà nguyên tắc sống trong tập thể, xã hội không cho phép bất cứ  ai làm cũng vậy. Nếu không thay đổi hành vi, thói quen tiêu cực   thì sẽ   ảnh hưởng đến   tương lai, đến sự thành công và chất lượng cuộc sống của bản thân. Thay đổi  hay là chấp nhận mọi sự rủi ro, thất bại? Sau khi nhận thức được điều này và học sinh có nhu cầu thay đổi hành vi,  thói quen tiêu cực thì giáo viên cần giúp các em xây dựng kế  hoạch thay đổi   hành vi,  thói  quen  cũ.  Thay  đổi  thói quen,  hành vi  tiêu cực  không phải  là  chuyện dễ, không chỉ cần có kế hoạch thực hiện mà còn phải có ý chí, quyết  tâm, kiên định thực hiện kế hoạch để  biến kế  hoạch thành hiện thực, do đó  giáo viên và tập thể  lớp cần luôn theo dõi sự  tiến bộ  để  khích lệ  và phòng  ngừa hoặc hỗ trợ, giúp đỡ khi có dấu hiệu lập lại thói quen cũ. * Suy nghĩ tích cực và suy nghĩ trước khi hành động: Cùng với việc khắc phục những suy nghĩ, niềm tin, thói quen, hành vi tiêu  cực của học sinh, giáo viên cần tạo cho học sinh thói quen suy nghĩ cẩn trọng   trước khi hành động để  tránh những hành vi không mong đợi và các hậu quả  đáng tiếc khác. * Giáo dục kỉ luật tích cực: Thông thường đối với những học sinh có hành vi không mong đợi, giáo  viên thường khó kiểm soát cảm xúc nên rất dễ có những lời nói hoặc hành vi  gây tổn thương cho học sinh  về  tinh thần hoặc thể chất. Cách  ứng xử  này   đang bị ngành giáo dục nghiêm khắc xử lý. Để tránh xảy ra những trường hợp   đáng tiếc như  giáo viên sử  dụng   hình thức trừng phạt đối với học sinh có  hành vi tiêu cực, một mặt giáo viên cần học cách kiểm soát cảm xúc, mặt   khác cần giáo dục kỉ  luật tích cực cho các em. Giáo dục kỉ  luật tích cực thay  thế cho trừng phạt là giải pháp không chỉ có ý nghĩa nhân văn, mà còn đem lại  hiệu quả giáo dục cao. Triết lý của giáo dục kỉ  luật tích cực dựa trên sự  điều chỉnh bên trong  hơn là kiểm soát bên ngoài.  Giáo dục kỉ  luật tích cực là giáo dục  dựa trên  nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của học sinh, mang tính phòng ngừa, tôn trọng   trẻ, không làm tổn thương đến thể  xác và tinh thần của các em, có sự  thỏa  13
  14. thuận của giáo viên và học sinh và phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí của học   sinh. 1.3.2. Giáo viên cần phải làm như  thế  nào để  thay đổi thái độ, hành vi   tiêu cực của học sinh: 1.3.2.1. Giáo viên cần phải quan tâm đến những khó khăn của học sinh.  Việc tìm hiểu những trở  ngại trong học tập và những khó khăn về  mặt   tâm lí của học sinh để kịp thời hỗ trợ, khích lệ các em hành động đúng sẽ giúp  các em tránh được những hành vi không mong đợi. 1.3.2.2. Giáo viên cần phải tìm hiểu mục đích hành vi tiêu cực của học   sinh để có cách ứng xử phù hợp.  Nhiều người cho rằng học sinh hư vì bản thân học sinh có tính hay gây  gổ hoặc được nuông chiều quá mức, hư vì cha mẹ hay anh chị đều hư, vì gia   đình quá nghèo hoặc quá giàu… có rất nhiều lí do được đưa ra nhưng lại  không giúp lí giải được mục đích hành vi tiêu cực của học sinh. Xét cho cùng   tất cả  các hành vi đều có mục đích và lí do, nó không xảy ra một cách ngẫu  nhiên. Hành vi tiêu cực hay cư xử không phù hợp của học sinh cũng vậy. Giáo   viên cần xác định được mục đích hành vi tiêu cực của học sinh để hiểu được   tại sao học sinh lại làm như  vậy và có cách xử  trí thích hợp, hiệu quả. Điều  đáng lưu ý là nhiều khi học sinh không ý thức được những suy nghĩ, niềm tin   sai lệch của mình. Nếu sau này giáo viên  có hỏi học sinh tại sao lại cư  xử  như  vậy, các em thường trả  lời là “không biết” hoặc đưa ra một vài lí do,   nguyên cớ  để  bao biện. Nguyên tắc chủ  yếu là trong các tình huống đó, giáo  viên cần cố  gắng bình tĩnh, hiểu học sinh, tôn trọng học sinh và dùng các  phương pháp kỷ luật tích cực, lắng nghe tích cực, khích lệ, kiềm chế bản thân  để giải quyết. Cách ứng xử đối với những hành vi không mong đợi của học sinh * Với loại hành vi nhằm thu hút sự chú ý giáo viên nên: ­ Giảm thiểu hoặc không để  ý đến hành vi của học sinh khi có thể, chủ  động  chú ý học sinh vào lúc khác, những lớp phù hợp dễ chịu hơn. ­ Nhìn nghiêm nghị  nhưng không nói gì. Hướng học sinh vào hành vi có ích  hơn. ­ Nhắc nhở  cụ  thể  (tên, công việc phải làm), cho học sinh lựa chọn có giới  14
  15. hạn. ­ Dùng hệ quả lôgic. ­ Lập nội quy hay lịch trình mà giáo viên sẽ  thường xuyên dành thời gian  cho học sinh. * Với hành vi nhằm thể hiện quyền lực, giáo viên nên: ­ Bình tĩnh, rút khỏi cuộc đôi co, xung đột, không “tham chiến” để học sinh  nguôi dần. ­ Sử dụng các bước khuyến khích học sinh hợp tác (hiểu cảm xúc của học  sinh, thể hiện mình hiểu cảm xúc đó, chia sẽ cảm xúc của mình về tình huống   đó, cùng nhau trao đổi để phòng tránh vấn đề tương tự trong tương lai). ­ Giúp học sinh thấy có thể  sức mạnh, quyền lực theo cách thức tích cực.   Giáo viên cần biết rằng tham gia đôi co quyền lực hoặc nhượng bộ chỉ làm học   sinh mong muốn có “quyền lực” hơn. ­ Quyết định xem mình sẽ làm gì, chứ không phải sẽ bắt học sinh làm gì. ­ Lập nội quy hay kế hoạch mà giáo viên sẽ  thường xuyên dành thời gian   cho học sinh. * Với hành vi nhằm trả đũa thì giáo viên nên: ­ Kiên nhẫn, rút khỏi vòng luẩn quẩn “trả  miếng” lẫn nhau. Tránh những  hình thức trừng phạt học sinh. ­ Duy trì tâm lí bình thường trong khi đợi học sinh nguôi dần. ­ Khích lệ sự hợp tác, xây dựng lòng tin từ học sinh. ­ Tâm sự riêng với học sinh để giải quyết khó khăn. ­ Sử dụng kỹ năng khích lệ, cho học sinh thấy học sinh được thương yêu tôn  trọng. ­ Lập nội quy hay kế hoạch mà giáo viên thường xuyên dành thời gian cho   học sinh. * Với loại hành vi thể hiện sự không thích hợp giáo viên nên: ­ Không phê phán, chê bai học sinh. ­ Dành thời gian rèn luyện, phụ đạo cho học sinh, đặc biệt về học tập. 15
  16. ­ Chia nhỏ nhiệm vụ, bắt đầu từ việc dễ để học sinh có thể đạt thành công ban  đầu. ­ Sử  dụng kỹ  năng khích lệ, tập trung vào điểm mạnh, vốn quý của học   sinh. ­ Không thể hiện thương hại, không đầu hàng. ­ Dành thời gian thường xuyên cho học sinh, giúp học sinh. 1.3.2.3. Tiếp cận cá nhân đối với những học sinh có hành vi không mong   đợi theo quan điểm tích cực: Giáo viên một mặt cần phát huy tối đa được những điểm mạnh, phát triển   tiềm năng, mặt khác phải hạn chế, phòng ngừa những hành vi không mong đợi của   từng học sinh. Muốn đạt được điều đó, giáo viên cần quán triệt cách tiếp cận cá  nhân. 1.3.2.4. Trong tình huống học sinh thực  hiện các hành vi không mong đợi,  giáo viên cần đặt mình vào vị thế của các em để lắng nghe tích cực các vấn đề  của các em, khích lệ những suy nghĩ và thái độ hành vi tích cực đối với những   vấn đề các em đang phải đương đầu. Tôn trọng quyền tự  ra quyết định và giải quyết vấn đề  của các em. Giáo   viên chỉ giữ vai trò khơi gợi những hướng giải quyết tích cực, hoặc phản biện   những suy nghĩ, thái độ có thể dẫn đến hành vi có nguy cơ rủi ro. Nguyên tắc chủ yếu là trong các tình huống đó, giáo viên cần cố gắng bình   tĩnh, hiểu học sinh, tôn trọng học sinh và dùng các phương pháp kỷ  luật tích  cực, khích lệ, kiềm chế bản thân để giải quyết. Giáo viên cần kiềm chế, không  nên thể  hiện thái độ  quá nóng nảy, căng thẳng trước mặt học sinh. Nếu giáo   viên không kiểm soát được cảm xúc thì có thể khiến học sinh trở nên tức giận   hơn, làm học sinh suy nghĩ tiêu cực dẫn đến hậu quả  không lường. Đồng thời  cũng cần tránh hồ  đồ  và quan liêu đưa ra những lời chỉ  trích chưa tìm hiểu  nguyên nhân, mục tiêu của hành vi không mong đợi. 1.3.2.5. Muốn thay đổi hành vi của học sinh một cách hiệu quả, giáo viên  cần có sự hợp tác của học sinh, được học sinh tin cậy. Do đó, giáo viên cần chủ  động tiếp xúc với học sinh để  nắm bắt về  điều kiện, hoàn cảnh, tâm sự, sức   khỏe… của học sinh. Học sinh cần được giáo viên hiểu những khó khăn, nhu  cầu tình cảm của mình. Do đó giáo viên cần quan sát và tìm ra nguyên nhân  16
  17. không được đáp ứng những nhu cầu tình cảm của các em và phải quan tâm đến  những khó khăn của học sinh. Việc tìm hiểu những trở  ngại trong học tập và  những khó khăn về mặt tâm lí của học sinh sẽ giúp giáo viên không phải dùng  biện pháp xử phạt mà vẫn giáo dục học sinh có kết quả. 1.3.2.6 Sử dụng biện pháp khích lệ và củng cố tích cực: Khi giáo viên giao cho các em nhiệm vụ gì cần thức tỉnh lòng tự trọng, kết  hợp với tin tưởng và tôn trọng học sinh, kể cả trong quá trình các em thực hiện  bằng những câu hỏi mang tính khích lệ  như: “thầy/cô tin tưởng  ở  em  đấy;  thầy/cô nghĩ em có thể làm được hơn thế.” 1.3.2.7. Phương pháp sử dụng hệ quả tự nhiên và hệ quả lôgic: Mục đích chủ yếu của việc sử dụng hệ quả tự nhiên và hệ quả lôgic dạy  cho học sinh có ý thức trách nhiệm về các hành vi của chính mình, khích lệ học  sinh đưa ra những quyết định có trách nhiệm, do đó cách làm này có thể  thay   thế cho trừng phạt: học sinh vẫn học được cách ứng xử tốt giúp cho mối quan   hệ ấm áp hơn, ít xung đột hơn. 1.3.2.8. Những hình thức xử phạt phù hợp nhất quán: Khi những yêu cầu, mong đợi đã được đặt ra rõ ràng thì cũng cần có những  biện  pháp xử  phạt cụ thể, rõ ràng đối với những hành vi vi phạm và các biện   pháp phải được áp dụng một cách nhất quán. Giáo viên cần lưu ý  những điều  sau đây khi sử dụng các biện pháp xử phạt: Các biện pháp xử  phạt phải nhằm mục đích dạy học sinh biết rằng thái  độ, hành vi của các em như vậy là sai. Không bao giờ sử dụng những hình phạt   khiến học sinh cảm thấy mình là đồ bỏ  đi, vô dụng. Tuyệt đối không sử  dụng  hình thức phạt mang tính bạo lực. Sử  dụng những hình phạt bạo lực không  những không có tác dụng đối với học sinh mà chỉ thể hiện sự bất lực  và còn vi   phạm những điều giáo viên không được làm và vi phạm pháp luật. Các hình  thức phạt cần phù hợp với mức độ  vi phạm. Những hình phạt nên mang tính tích cực để thông qua những hình phạt học  sinh có thể học thêm được một kỹ năng nào đó. Biện pháp xử phạt có thể vận dụng là: ­ Tước bỏ hoạt động yêu thích cho đến khi khắc phục được lỗi. ­ Tạm dừng việc học tập để học sinh tự kiểm điểm bản thân với mục đích  17
  18. để giúp học sinh thoát ra khỏi trạng thái căng thẳng để  kiềm chế   bản thân và   tạo điều kiện cho học sinh bình tĩnh trở lại. ­ Yêu cầu viết báo cáo hằng ngày với mục đích là để  học sinh nhận biết   được những lỗi thường xuyên  mắc phải và tạo cho các em cơ hội điều chỉnh. Lưu ý: không nên phạt học sinh bằng cách giao thêm bài tập, hoặc nhiệm  vụ lao động cho học sinh sẽ khiến cho các em nghĩ rằng học tập hay lao động  là sự trừng phạt. 1.3.2.9. Phát huy tối đa vai trò của tập thể thân thiện, các mối quan hệ gắn   bó, chia sẻ, thiện chí, tạo điều kiện  để  các em tham gia vào các hoạt động đa  dạng của lớp để các em được trãi nghiệm những cảm xúc tích cực. 1.3.2.10. Giáo viên cần phải nói chuyện với cha mẹ các em về vấn đề của  các em để cùng phối hợp hỗ trợ. Trong những trường hợp đó, tình yêu thương,  sự động viên của cha mẹ, thầy cô sẽ có sức thuyết phục giúp các em phát triển  những suy nghĩ tích cực khắc phục được những tâm trạng căng thẳng. 1.3.2.11. Những điều cần tránh trong giáo dục học sinh có hành vi không  mong đợi, học sinh cá biệt: ­ Không dùng các biện pháp trừng phạt thể chất hoặc tinh thần đối với học  sinh. Nếu giáo viên trừng phạt học sinh thì không những không mang lại hiệu   quả  mà còn gây hại cho học sinh, làm học sinh lo âu và hạn chế  kết quả  học   tập và phát triển của bản thân. Nếu dùng các hình phạt mang tính xúc phạm sẽ  đẩy học sinh đi xa hơn, làm cho học sinh muốn chống đối hơn là hợp tác. Nếu  học sinh có thay đổi thì có thể  vì ép buộc nhiều hơn là muốn hay tự  nguyện   thay đổi. ­ Đánh giá học sinh thiếu khách quan, thiếu thận trọng. Trong trường hợp  bị đánh giá không đúng, học sinh sẽ quyết định không đáp lại các mong mỏi, các   yêu cầu do người lớn đặt ra cho học sinh nữa. Học sinh mất dần hứng thú và   cố  gắng. Hầu hết người lớn thường nhìn nhận học sinh đang có vấn đề  về  cảm xúc hoặc hành vi một cách tiêu cực hơn thực tế (“bôi đen”). Khi đó, các em  có thể  biểu hiện sự  chán nản, cảm thấy giận dữ, bất lực, có khi trầm cảm.  Học sinh cảm thấy chán đến trường, dần dần học sinh sợ đi học và không cố  gắng nữa. Học sinh mất dần động cơ hoạt động. Khi các hành vi của người lớn   ở nhà và ở  trường tạo cho học sinh cảm xúc bất lực, đau đớn, sợ  h ãi, ngượng  ngùng và bất an thì học sinh khó phát triển bình thường, khỏe mạnh. Giáo viên  18
  19. cũng cảm thấy căng thẳng và bất lực khi có những học sinh hư, gây rối trong   lớp. ­ Tập thể  lớp không nên có thái độ  thiếu thiện chí đối với bạn. Nếu một   học sinh cảm thấy bất lực và gặp thêm những thất bại, học sinh sẽ càng cảm   thấy không có hy vọng. Nếu bị bạn học trêu chọc thêm, học sinh càng cảm thấy   chán nản hơn. Nếu giáo viên trừng phạt, đánh giá không đúng, bạn bè thiếu thiện chí sẽ  làm động cơ  của các em học sinh giảm dần, học sinh càng ngày càng ít cố  gắng, chán nản, bất lực và buồn bả, thậm chí bị  tổn thương. Càng ít cố  gắng  học sinh lại càng dễ thất bại. Trong trường hợp này, vòng xoắn tròn ốc sẽ tiến  triển theo chiều đi xuống. Điều đó tạo ra sự củng cố tiêu cực. Những tiêu cực sau đây khiến cho một vòng xoắn tiêu cực ở học sinh tiếp   tục đi xuống: + Môi trường sống trong gia đình tiêu cực. + Bị coi thường, chê trách, sỉ nhục, la mắng, đánh phạt. + Khi cần không được ai giúp đỡ. + Những lời nhận xét không hay của bạn bè. + Bị bạn bè gán tội hay tẩy chay. 2. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 2.1. Mục tiêu giáo dục của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp Chương trình “Hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp” (HĐGDNGLL) cho  học sinh THPT nhằm thực hiện các mục tiêu sau: 2.1.1. Củng cố, bổ sung những kiến thức trong giờ học trên lớp: Với   các   chủ   điểm   hoạt   động   giáo   dục   trong   12   tháng,   chương   trình  HĐGDNGLL giúp củng cố  và mở  rộng sự  hiểu biết của các em qua các môn  học trên lớp. Đặc biệt với hình thức hoạt động phong phú, đa dạng và hệ  thống trong  suốt năm học, HĐGDNGLL nhằm nâng cao trí lực của học sinh, là điều kiện   giúp học sinh liên hệ kiến thức lý thuyết với thực tế, phát triển vốn sống thực  tế về mọi mặt ở học sinh. 2.1.2. HĐGDNGLL góp phần phát triển tình cảm, niềm tin  đạo đức và   pháp luật ở học sinh: 19
  20. Thái độ, tình cảm, niềm tin đạo đức là động lực bên trong, có khả  năng  quyết định điều chỉnh hành vi, hoạt động của mỗi cá nhân. Song niềm tin vào   bản thân, vào người khác và tin vào cuộc sống được hình thành không chỉ thông  qua việc học tập trên lớp, mà còn nhờ các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, khi cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái ác,  mặt tích cực và tiêu cực đang đan xen tồn tại thì rất cần cho các em tham gia  vào các hoạt động xã hội, hoạt động tập thể. Kết quả hoạt động sẽ tạo ra cho   học sinh lòng ham muốn, sự say mê học tập để trở thành một con người có ích   cho xã hội. HĐGDNGLL còn góp phần bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm đạo  đức trong sáng, biết tôn trọng những cái tốt, cái đẹp, biết ghét những cái xấu,   cái lạc hậu, xây dựng lối sống phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật,   với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. HĐGDNGLL còn đồng thời giáo dục cho học sinh tình đoàn kết hữu nghị  với bạn bè quốc tế, với các dân tộc khác trên thế  giới. Qua HĐGDNGLL, học  sinh sẽ được rèn luyện ý thức tự  giác tham gia các hoạt động xã hội, sống hòa  đồng với tập thể, với mọi người . 2.1.3. HĐGDNGLL nhằm rèn luyện các kỹ năng sống, phát triển các năng   lực hoạt động ở học sinh: Chúng ta đang bước vào thế  kỷ  bùng nổ  thông tin, hội nhập cùng phát  triển, vì vậy rất cần hình thành ở học sinh những kỷ năng sống cụ thể để  phát  triển năng lực tự hoàn thiện, năng lực tổ chức, năng lực giao tiếp, năng lực hoạt   động nghề  nghiệp. Các kỹ  năng, năng lực đó chỉ  có thể  được phát triển khi  tham gia, rèn luyện qua các loại hình hoạt động tập thể. Nội dung và các hình thức hoạt động trong chương trình HĐGDNGLL  ở  trường THPT bước đầu góp phần hình thành kỹ năng tự quản, kỹ năng tổ chức  trong hoạt động tập thể, hoạt động giao tiếp, vui chơi giải trí và hoạt động xã  hội ở học sinh. 2.2. Nội dung chương trình hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: Các hoạt động có thể lựa chọn bao gồm: - Hoạt động của các câu lạc bộ học sinh như: Câu lạc bộ văn thơ, Câu lạc   bộ Toán học, Câu lạc bộ Vật lý, Câu lạc bộ Tiếng Anh v.v… - Các hội diễn văn nghệ - Hoạt động của các đội thể  thao theo lớp, khối lớp hay toàn trường như:   đội bóng đá, điền kinh, cờ vua v.v… - Tổ  chức các cuộc cắm trại, du lịch, tham quan danh lam thắng cảnh hay  di tích lịch sử. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2