intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Tương Dương 1

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:33

79
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là giúp học sinh vui thích và hạnh phúc mỗi khi được đến trường. Giáo dục đạo đức, tình cảm,… cho học sinh THPT. Học sinh hứng thú, tích cực học tập. Giúp cho giáo viên có giải pháp để có thể giải tỏa được những áp lực, sự căng thẳng trong quá trình dạy học và giáo dục của mình. Từ đó trở nên yêu nghề và thành công trong sự nghiệp trồng người của mình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Tương Dương 1

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG LỚP HỌC HẠNH PHÚC TẠI TRƯỜNG THPT TƯƠNG DƯƠNG 1 SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác quản lý, xây dựng lớp chủ nhiệm 0
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT TƯƠNG DƯƠNG 1 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG LỚP HỌC HẠNH PHÚC TẠI TRƯỜNG THPT TƯƠNG DƯƠNG 1 SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác quản lý,xây dựng lớp chủ nhiệm Người thực hiện: Dương Thị Vinh Tổ Toán -Tin Số điện thoại : 0944370747 1 Năm học 2020-2021
  3. MỤC LỤC TT Nội dung Trang PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1.1. Lí do chọn đề tài 1 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 1.5. Tính mới của đề tài 3 PHẦN 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3 1. Cơ sở lý luận 3 1.1. Khái niệm hạnh phúc 3 1.2. Trường học hạnh phúc 3 1.3. Lớp học hạnh phúc 4 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 5 2.1. Về giáo viên 5 2.2. Về học sinh 6 3. Giải pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Tương 8 Dương 1. 3.1. Đổi mới tiết sinh hoạt lớp, tăng cường giáo dục đạo đức, giá trị sống 8 và kỹ năng sống cho học sinh. 3.2. Giáo viên phải mạnh dạn thay đổi bản thân để xây dựng lớp học 14 hạnh phúc. 3.3. Giáo viên giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm bằng phương pháp kỉ 21 luật tích cực, nói không với xâm phạm thân thể và xúc phạm nhân phẩm học sinh. 4. Tác động của sáng kiến kinh nghiệm 22 4.1. Đối với học sinh 22 4.2. Đối với bản thân và đồng nghiệp 25 2
  4. 4.3. Đối với nhà trường 25 PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 26 1. Kết luận 26 2. Kiến nghị 26 3
  5. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lí do chọn đề tài: Hàng loạt câu chuyện không vui xuất hiện trong học đường vừa qua: Tỉ lệ stress học đường tăng nhanh chóng, bạo lực học đường đáng báo động, mối quan hệ thầy trò căng thẳng, tình trạng học sinh bỏ học,... tất cả những điều đó được phản ánh thường xuyên qua các kênh truyền thông, là một điều nhức nhối trong xã hội nói chung và nền giáo dục nói riêng. khiến nhiều người hoang mang với câu hỏi điều gì đang diễn ra trong các nhà trường? làm thế nào để cho học sinh có môi trường giáo dục an toàn, ấm áp, yêu thương. Đại hội đồng liên hợp quốc lấy ngày 20 tháng 3 hàng năm làm ngày quốc tế hạnh phúc. Ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 2589/QĐ-TTg ngày 26/12/2013 phê duyệt Đề án “Tổ chức các hoạt động nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 hàng năm”. Ngày 12/11/2019 Công đoàn giáo dục Việt Nam đã ban hành công văn số 312/CĐN về việc hướng dẫn công đoàn các trường học tổ chức và tham gia xây dựng trường học hạnh phúc theo “ kế hoạch nâng cao ứng xử sư phạm, đạo đức nhà giáo, người lao động đáp ứng trong tình hình mới”. Đối với học sinh để có được hạnh phúc trước hết là được sống trong một gia đình hạnh phúc, được sự yêu thương của bố mẹ và người thân. Bên cạnh đó các em cần được trưởng thành trong một ngôi trường hạnh phúc- các em được học tập, được vui chơi, được chia sẻ, được thấu hiểu, được yêu thương và tôn trọng. Với giáo viên hạnh phúc là được truyền đạt được kiến thức, đào tạo được các thế hệ học trò vừa ngoan, vừa giỏi. Để có được những tiết dạy hay, làm cho các em yêu thích, chờ đợi giờ dạy của mình, mỗi thầy, cô giáo phải luôn ý thức mình là một “nghệ sĩ trên bục giảng”, phải luôn thương yêu, lo lắng, biết cách dạy dỗ, hướng dẫn cho học trò mình phát triển, tiến bộ từng ngày. Tiêu chí “học sinh sẽ thay đổi khi giáo viên thay đổi, “Người giáo viên hạnh phúc sẽ thay đổi cả thế giới” và mỗi học sinh khi đến trường đều cho rằng “trường là nhà, thầy cô như cha mẹ, bạn bè như anh em ruột thịt”. Câu hỏi lớn đặt ra lúc này là: Làm thế nào để mỗi ngày học sinh đến trường là một ngày vui, giáo viên đến trường mỗi ngày là một niềm hạnh phúc, quan hệ thầy trò là động lực để học sinh vươn tới tri thức? Xây dựng lớp học hạnh phúc là việc làm cấp thiết cần được các nhà giáo dục quan tâm lúc này. Tại trường THPT Tương Dương 1 là một trong những đơn vị hưởng ứng triệt để phong trào tham gia xây dựng trường học hạnh phúc. Nhà trường đã xây dựng kế hoạch cụ thể cho các thầy, cô giáo hưởng ứng tốt phong trào. Với vai trò là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi luôn theo dõi sát sao nhũng thái độ, hành động, việc làm của từng em học sinh trong lớp để có những biện pháp giáo dục các em 4
  6. vừa học tốt, vừa vui vẻ và rèn luyện trong một môi trường chan chứa giá trị nhân văn, giá trị sống. Chính những lý do đó mà tôi luôn trăn trở trong nhiều năm công tác, tôi muốn xây dựng cho lớp mình chủ nhiệm một môi trường học tập yêu thương, an toàn, tôn trọng và hiệu quả. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Tương Dương 1” để tìm câu trả lời thiết thực nhất cho các em học sinh, đồng nghiệp và nhà trường. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Tương Dương 1” với mục đích: - Giúp học sinh vui thích và hạnh phúc mỗi khi được đến trường. Giáo dục đạo đức, tình cảm,… cho học sinh THPT. Học sinh hứng thú, tích cực học tập. - Giúp cho giáo viên có giải pháp để có thể giải tỏa được những áp lực, sự căng thẳng trong quá trình dạy học và giáo dục của mình. Từ đó trở nên yêu nghề và thành công trong sự nghiệp trồng người của mình. - Giúp cho mục tiêu xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực thành công. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh đặc biệt là giảm tình trạng bỏ học của học sinh tại các trường học miền núi. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực trạng tâm lý của học sinh và giáo viên khi đến trường và giải pháp nhằm xây dựng lớp học hạnh phúc trường THPT Tương Dương 1 ở lớp 11A, 12A. Thời gian nghiên cứu đề tài từ năm học 2019-2020 đến năm 2020- 2021. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp: + Nhóm phương pháp lý thuyết: Nghiên cứu các văn bản tài liệu về khái niệm hạnh phúc,… có liên quan đến đề tài. + Nhóm phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Rút ra từ quá trình làm công tác chủ nhiệm và giảng dạy trong hai năm học + Phương pháp điều tra xã hội học. + Phương pháp sử dụng toán thống kê. + Phương pháp so sánh. 1.5. Tính mới của đề tài: - Giới thiệu cho giáo viên về một số vấn đề chung trường học hạnh phúc, lớp học hạnh phúc ở trường THPT. 5
  7. - Giới thiệu giải pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Tương Dương 1. - Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm / Đổi mới tiết sinh hoạt lớp, tăng cường giáo dục đạo đức, giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh. - Giới thiệu quá trình triển khai xây dựng và thực hiện lớp học hạnh phúc tại lớp 11A,12A trường THPT Tương Dương1. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý luận: 1.1. Khái niệm hạnh phúc: + “Hạnh phúc là cảm xúc vui sướng, hài lòng của con người trong cuộc sống khi được đáp ứng, thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần”. Hạnh phúc cá nhân gắn liền với hạnh phúc của xã hội, không có hạnh phúc riêng lẻ. + Hạnh phúc của học sinh trung học rất đơn giản và có thể thực hiện được như: - Luôn cố gắng và đạt được kết quả cao trong học tập không phụ lòng ông bà cha mẹ. - Luôn được sự động viên, khen ngợi của mọi người về thành tích học tập cũng như hành động, cư xử của mình. - Được sống và học tập trong một môi trường thân thiện, gia đình, người thân tạo điều kiện vật chất, tinh thần trong khả năng hiện có phục vụ cho học tập và rèn luyện. - Được thầy cô và bạn bè yêu mến, tôn trọng, được tiếp thu kiến thức tiên tiến của nhân loại và vận dụng nó vào đời sống, làm hành trang cho bản thân. Được chia sẻ với mọi người về những điều mà mình biết, được khẳng định và trải nghiệm… + Hạnh phúc cá nhân gắn liền với hạnh phúc xã hội. 1.2. Trường học hạnh phúc: Ngày 22/4/2019, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã chủ trì Lễ phát động “Triển khai kế hoạch nâng cao năng lực ứng xử sư phạm, đạo đức nhà giáo vì một trường học hạnh phúc”, đồng thời chỉ ra có rất nhiều những tiêu chí để xây dựng một trường học hạnh phúc nhưng tựu chung lại, quan trọng nhất, cốt lõi nhất để xứng đáng là một ngôi trường hạnh phúc ở Việt Nam cần 3 tiêu chí: yêu thương, an toàn và tôn trọng. Thứ nhất là tình yêu thương. Trường học hạnh phúc là nơi mà cả thầy cô, phụ huynh và học sinh đều cảm thấy hạnh phúc. Đó là nơi mà các thầy cô tìm được 6
  8. niềm đam mê, nhiệt huyết giảng dạy của mình. Họ tích cực đưa ra các phương pháp dạy học chủ động, sáng tạo, luôn hỗ trợ, giúp đỡ học trò của mình trong quá trình học tập, thiết lập được mối quan hệ thân thiết, gắn bó và chia sẻ với học sinh. Trường học hạnh phúc là nơi học sinh cảm thấy có hứng thú với những giờ học, không có áp lực, căng thẳng, mệt mỏi, được thỏa sức vui đùa, hòa đồng với bạn bè. Đối với phụ huynh, một trường học hạnh phúc là nơi họ muốn gửi gắm con em mình, để cho chúng được phát triển tốt nhất, nơi họ có thể tin tưởng giao phó tương lai của con em mình. Thứ hai là sự an toàn. Trường học hạnh phúc là nơi không có bạo lực học đường, không có những vụ đánh nhau, xô xát giữa học sinh, những tai nạn đáng tiếc như tự tử vì áp lực. Thứ ba là sự tôn trọng. Một ngôi trường được xem là hạnh phúc khi ở đó không có những hành vi, lời lẽ vi phạm đạo đức xã hội, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của nhà giáo. Đặc biệt, đó là nơi phải biết tôn trọng sự khác biệt, không áp đặt một cá nhân lên cái chung của tập thể. Trường học hạnh phúc là nơi mọi người đều cảm thấy hạnh phúc, học sinh có động lực, tích cực học tập; thầy cô không ngừng cải thiện, nâng cao trình độ sư phạm, sáng tạo ra những phương pháp giảng dạy mới nhằm khơi dậy hứng thú cho học sinh; phụ huynh tin tưởng vào nhà trường. Đó là một nơi không có bạo lực học đường, không có những tranh chấp, xô xát giữa học sinh với nhau, không có những mối quan hệ bất hòa giữa thầy và trò. Đồng thời, đó cũng là nơi mà tất cả mọi người nhận được sự tôn trọng tuyệt đối, học sinh lễ phép, kính trọng thầy cô, không có những lời lẽ xúc phạm, bôi nhọ danh dự và phẩm chất của nhà giáo. 1.3 Lớp học hạnh phúc: Lớp học hạnh phúc là nơi giúp giáo viên và học sinh hình thành và duy trì các trạng thái cảm xúc tích cực. Mỗi lớp học hạnh phúc sẽ tạo nên một môi trường học đường mà ai tham gia cũng cảm thấy hạnh phúc. Được tham gia vào các lớp học hạnh phúc sẽ giúp cho mỗi cá nhân thiết lập được các tình cảm lành mạnh, góp phần phát triển nhân cách tốt đẹp. Lớp học hạnh phúc là lớp học có sự tương tác chủ động, tích cực với xúc cảm dương tính từ hai phía: nhà tổ chức và chủ thể thực hiện. Lớp học hạnh phúc là điểm đến mà mỗi cá nhân cảm thấy muốn đến, khi đến có những hứng thú, có niềm vui, có sự mong chờ, có rung cảm,... Lớp học hạnh phúc là nơi có thể cảm nhận được sự an toàn, sự nâng đỡ hay sự thú vị khi có nhiều điều nằm trong nhu cầu được thỏa mãn... HS đến trường như thế nào là hạnh phúc, có thể quy thành một mệnh đề: mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Cần khẳng định không quá lý tưởng đến mức vui mà không nhớ hay không hiểu nhiệm vụ thay vào đó là thực hiện nhiệm vụ một cách chủ động, tích cực với sự thoải mái, khao khát, cố gắng tích cực nhất. Bên 7
  9. cạnh đó, người học cảm thấy có niềm tin, có rung động, có động lực khi đến lớp và dễ nhớ nhung nếu không đến lớp... Kết quả thống kê của Đại học Sư phạm TP HCM khảo sát trên 181 học sinh THCS, học sinh mong muốn 10 điều giáo viên sẽ thay đổi để việc học được hạnh phúc hơn cho kết quả khá bất ngờ.Kết quả thống kê như sau: • 92,8% mong giáo viên cười nhiều hơn. • 84% mong giáo viên nhẹ nhàng hơn khi học sinh làm sai. • 82,4% mong giáo viên đừng phê bình trước mặt bạn bè. • 82,4% được tổ chức học tập xen kẽ vui chơi. • 75,4% mong giáo viên đừng bắt học thuộc lòng quá nhiều. • 74% mong giáo viên đừng nhắc lại môn học này là quan trọng. • 70,2% mong giáo viên khen thưởng nhiều hơn trách móc. • 66,3% mong giáo viên bớt bài tập về nhà. • 62,4% mong được tăng cường thực tế, khám phá thực tiễn. • 60% mong giáo viên khác nhận suy nghĩ và hành vi của các em dù nó khác thường và không được như mong đợi. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 2.1. Về giáo viên: Trường THPT Tương Dương 1 đóng trên địa bàn của một huyện miền núi có đội ngũ giáo viên còn trẻ nên nhiệt tình trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh. Tuy nhiên đội ngũ giáo viên luôn biến động, một số năm gần đây do thiếu giáo viên mỗi giáo viên phải dạy thêm giờ nhiều, giáo viên còn trẻ nên kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục chưa nhiều. Số lượng giáo viên ở dưới xuôi lên công tác chiếm phần đông nên tính ổn định không cao. Qua buổi giao ban GVCN đầu năm tôi đã thực hiện điều tra khảo sát toàn bộ giáo viên với câu hỏi “Thầy cô có hạnh phúc khi đến trường không?” Kết quả đa số các thầy cô rất ít hạnh phúc khi đến trường, nguyên nhân chủ yếu là do giáo viên bị áp lực từ nhiều phía: + Trước hết, chúng ta không thể không nói tới áp lực đến từ nội dung kiến thức, chương trình. Thứ hai là áp lực từ kết quả thi, thành tích trong giáo dục. Thứ ba là áp lực đến từ phụ huynh học sinh, tâm lý giao khoán con cho giáo viên. Thứ tư là áp lực đến từ xã hội. Dư luận xã hội luôn đặt kì vọng cao cho giáo viên đứng lớp và ngành Giáo dục. Theo quan niệm từ xưa đến nay, giáo viên phải là những người chuẩn mực nhất, vừa có tài vừa có tâm. Thế nhưng, thực tế cho thấy, với sự phát triển của báo chí, của truyền thông mạng thì các tồn tại của ngành Giáo dục, của giáo viên dù là nhỏ nhất cũng được đưa lên với những tiêu đề giật gân. 8
  10. Và cuối cùng đó là áp lực đến từ chính bản thân mỗi giáo viên, mỗi giáo viên luôn muốn làm tròn các vai xã hội của mình. Do đó, chúng ta đã tự đưa chúng ta và học sinh vào những khuôn khổ, những đích do chúng ta tự đặt ra mà đôi khi không phù hợp với người học. Giáo viên luôn mong muốn học sinh phải yêu thích bộ môn của mình, phải học đều các môn, phải ngoan ngoãn lễ phép và phải thế này, thế kia... + Giáo viên luôn mong muốn học sinh phải hoàn thành tốt mọi điều mà mình lập trình sẵn. Có như vậy mới là con ngoan, trò giỏi. Và thế là, dồn tất cả mọi áp lực lên vai người giáo viên. Rồi giáo viên đã dồn tất cả những áp lực ấy lên đôi vai bé nhỏ của học trò lúc nào không hay. Đến khi thực tế học trò không đạt được những kì vọng: học tập không tiến bộ, không chăm chỉ và có thái độ không đúng đắn... Khiến cho chúng ta nhiều lúc cảm thấy chán nản, mệt mỏi, đam mê, nhiệt huyết với nghề giảm sút. Thậm chí có giáo viên còn định bỏ nghề,... Và thế là,… với giáo viên và học sinh mỗi ngày đến trường không còn là mỗi ngày vui; lớp học không còn là lớp học theo đúng nghĩa của giáo dục. 2.2. Về học sinh: Trường THPT Tương Dương 1 có tổng số học sinh 930 (tính đến 18/10/2020) trong đó dân tộc Thái chiếm 72,15%, dân tộc Mông chiếm 6,45%, dân tộc Kinh chiếm 9,14%, dân tộc Khơ mú chiếm 10,65%, dân tộc Tày poọng chiếm 1,40%, dân tộc Hoa 0,21%. Tỉ lệ học sinh nữ chiếm 42,24%. Do trường đóng trên địa bàn miền núi nên tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo chiếm gần 48%. Học sinh của nhà trường cơ bản các em ngoan. Tuy nhiên chất lượng đầu vào của học sinh còn thấp so với các huyện khác. Học sinh ở phân tán trên khắp địa bàn huyện, điều kiện đi lại khó khăn do đó việc duy trì sĩ số, nề nếp còn nhiều bất cập. Số lượng học sinh hộ nghèo gia tăng. Ý thức học tập của một bộ phận học sinh chưa cao, động cơ học tập chưa rõ ràng. Còn một bộ phận phụ huynh do mưu sinh nên chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em phó thác việc học tập cho nhà trường. Tôi đã tiến hành khảo sát về tâm lý của 32 HS lớp 11A (Năm học 2019-2020) vào tháng 9/2019 và 32 HS lớp 12A (Năm học 2019-2020) vào tháng 9/2020 với câu hỏi "Các em có hạnh phúc khi đến trường không?" thể hiện qua bảng sau: Mức độ 11A 12A 1Chưa bao giờ hạnh phúc % 6,25% 3,12% 2Hiếm khi hạnh phúc % 25% 15,63% 3Thỉnh Thoảng hạnh phúc % 56,25% 50% 4Thường xuyên hạnh phúc % 12,5% 31,25% Từ bảng kết quả cho thấy tỉ lệ học sinh vẫn có những học sinh hiếm khi hạnh phúc khi đến trường và tỉ lệ học sinh và thỉnh thoảng hạnh phúc cao hơn rất nhiều 9
  11. tỉ lệ học sinh thường xuyên hạnh phúc. Vẫn có học sinh thường xuyên hạnh phúc khi đến trường nhưng tỉ lệ chưa cao. + Nguyên nhân học sinh lớp ít hạnh phúc: - Nguyên nhân khách quan: Ý thức học tập của một bộ phận học sinh chưa cao, động cơ học tập chưa rõ ràng, đến trường chỉ vì bố mẹ mong muốn. Chất lượng đầu vào thấp, học sinh chậm tiếp thu, kiến thức nền tảng môn học rất thấp nên học lên bậc trung học cảm thấy khó khăn chán nản vì học kém. Bản thân học sinh luôn cảm thấy kém cỏi, thiếu tự tin, ngại giao tiếp, không biết thể hiện bản thân,… Một bộ phận không bao giờ hạnh phúc đến trường vì bị thú vui lôi kéo như nghiện game, chơi đánh bài… - Nguyên nhân chủ quan: Áp lực do khối lượng chương trình cho mỗi tiết học, thành tích từ nhà trường, phụ huynh, khiến thầy, cô cảm thấy “rất khó để đổi mới”. Trong một giờ học những lời khen ngợi, khuyến khích trong lớp học của các thầy, cô thường rất hiếm hoi. Thầy, cô thường chỉ ra những lỗi sai của các em từ cách làm bài, chữ viết, giữ gìn sách vở một cách khá nghiêm khắc và căng thẳng. Những lúc khi các thầy cô thường cho rằng việc đi lại kiểm tra bài của HS là bình thường thì các em lại cho rằng, mỗi lần cô kiểm tra bài, các em thấy sợ thót tim, hồi hộp, bối rối. Các thầy cô thường thiếu đi sự hài hước trong lớp học, ít khi cười. Đặc biệt, với lớp chọn, áp lực từ phía nhà trường và phụ huynh rất lớn nên giáo viên luôn tạo áp lực quá sức cho HS, khiến giờ học căng thẳng,… không có thời gian giúp các em thư giãn và cảm thấy thoải mái. Đối với lớp có nhiều học sinh cá biệt thầy cô hay quát mắng nặng lời với học sinh trước đám đông, nhất là HS phạm lỗi; Giáo viên dạy không gây hứng thú cho người học; khiến học sinh ủ rũ, buồn ngủ. Một số giáo viên không yêu nghề, một số giáo viên thiếu cái tâm, cái tình, một số thầy cô yếu vi tính, yếu ngoại ngữ, thiếu cập nhật thông tin thời đạt để trong lúc dạy truyền đạt gây hứng thú cho học sinh. Do bạo lực học đường, do không được chia sẻ, được quan tâm từ bạn bè và thầy cô. 3. Giải pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc tại trường THPT Tương Dương 1: Từ thực trạng nêu trên tôi đưa ra một số giải pháp để cải thiện hạnh phúc của giáo viên và học sinh ở trường học như sau: 3.1. Đổi mới tiết sinh hoạt lớp, tăng cường giáo dục đạo đức, giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh: - Tiên học lễ, hậu học văn - Giáo viên nên coi trọng việc rèn luyện đạo đức của học sinh trước khi truyền thụ kiến thức. Dạy các em biết lễ phép với người lớn, kính trên nhường dưới, tôn trọng thầy cô giáo, hòa đồng, giúp đỡ bạn bè,… thực hiện tốt nội quy của trường và của lớp đề ra. - Giá trị sống cần thiết với học sinh THPT được UNESCO công nhận như: Hòa bình, tôn trọng, yêu thương, khoan dung, trung thực, khiêm tốn, hợp tác, hạnh 10
  12. phúc, trách nhiệm, đoàn kết, giản dị và tự do. Các hoạt động giáo dục giá trị sống, kỹ năng giúp học sinh làm chủ kiến thức phổ thông, vận dụng hiệu quả vào đời sống và tự học suốt đời. Có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, biết xây dựng và phát triển hài hòa các mối quan hệ xã hội. Đồng thời trang bị kỹ năng sống cho học sinh như kỹ năng giao tiếp, sáng tạo, hòa nhập, ứng phó với các tình huống trong cuộc sống, kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, quan sát, chia sẻ trong nhóm, kiến thức giới tính, kỹ năng chống lại sự cám dỗ của tệ nạn xã hội, chống xâm phạm tình dục, kỹ năng ứng phó với tai nạn đuối nước, kỹ năng ứng phó với các tình huống bạo lực học đường,… Rèn luyện kỹ năng sống có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh cấp 3 lứa tuổi có những chuyển biến phức tạp về tâm sinh lý. Để xây dựng một lớp học hạnh phúc ngay khi nhận lớp chủ nhiệm tôi đã tiết hành: Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh đầy đủ, đây có thể là một trong những nội dung then chốt trong việc xây dựng lớp học thành một khối thống nhất vừa vui vẻ, gần gũi vừa có kỷ cương nề nếp chuẩn mực. Bởi khi hiểu được hoàn cảnh của từng học sinh tôi sẽ sự sắp xếp bố trí lớp học một cách đúng đắn nhất. Tìm hiểu thái độ, tâm lý học của học sinh thông qua việc trò chuyện để sắp xếp chỗ ngồi, phân công nhiệm vụ theo từng sở trường, sở thích, ước mơ của học sinh nhằm cổ vũ phát huy, khơi gợi tính sáng tạo, niềm đam mê, sự tự tin của các em. Xây dựng nội qui thi đua lớp học (thông qua buổi sinh hoạt đầu năm). Để tiết sinh hoạt lớp trở nên phong phú, ý nghĩa và tích cực hơn. Ngoài việc nhận xét tình hình hoạt động của lớp, triển khai kế hoạch mới, tôi dành nhiều thời gian cho việc tổ chức các hoạt động vừa vui vẻ vừa bổ ích. Mỗi ngày tôi dành 15 phút đầu giờ để gặp gỡ các em. Việc đầu tiên là tôi tìm hiểu tâm trạng của mỗi em, nếu có em nào gặp khó khăn của bản thân hoặc gia đình thì tôi kịp thời động viên và tìm cách giúp đỡ để học sinh luôn thấy thầy cô và bạn bè là chỗ dựa tinh thần lớn mỗi khi gặp khó khăn, sau đó là hoạt động khởi động mỗi ngày học. Đầu tiên tôi lập kế hoạch sinh hoạt (Sinh hoạt 15 phút đầu giờ, sinh hoạt cuối tuần) theo từng tuần, từng tháng vào thời gian cụ thể nào, giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống nào. Tiếp đến là xây dựng nội dung kịch bản, phân công nhiệm vụ, duyệt phần chuẩn bị của học sinh rồi tiến hành sinh hoạt. Ví dụ: KẾ HOẠCH SINH HOẠT TUẦN 1 Ngày Nội dung Giới thiệu bản thân Sinh hoạt Mục đích: Hiểu biết lẫn nhau, tạo không khí vui vẻ. Thứ 3 15 phút đầu Cách thực hiện: Tôi cho một vài bạn lên giới thiệu bản giờ thân, về sở thích, đam mê, năng khiếu, ước mơ,… sau đó thể hiện 1 đoạn nhỏ năng khiếu của mình. Thứ 4 Đọc sách về kiến thức giới tính 11
  13. Mục đích: Giáo dục giới tính và phòng chống nạn xâm Sinh hoạt phạm tình dục trẻ em. 15 phút đầu Tôi liên hệ với giáo viên phụ trách văn thư của trường giờ để mượn sách cho học sinh đọc vào đầu buổi 15 phút đầu giờ và giờ ra chơi giữa các tiết học, sau đó trả về thư viện vào cuối buổi học. Học sinh và giáo viên thảo luận vào buổi sinh hoạt sau. Trò chơi: Học sinh tập làm giáo viên Mục đích: tạo sân chơi cho học sinh có cơ hội thể hiện mình và hiểu được quá trình giảng dạy của giáo viên. Từ đó, mỗi học sinh ý thức hơn trong học tập để không phụ lòng thầy cô của mình. Sinh hoạt Thứ 5 15 phút đầu Cách chơi: Giáo viên cho học sinh đăng kí tham gia thi, giờ mỗi thí sinh cần chuẩn bị một chủ đề hay nội dung môn học mà mình yêu thích, chuẩn bị trước ở nhà với nội dung đơn giản trình bày trước lớp trong 10 phút với tư cách là 1 giáo viên. Đánh giá: Tất cả học sinh trong lớp bỏ phiếu lựa chọn bạn được yêu thích nhất. Trò chơi: Hãy làm theo tôi nói, không làm theo tôi làm Sinh hoạt Mục đích: Tạo không khí vui vẻ 15 phút đầu giờ Cách chơi: Bạn lớp phó văn thể thực hiện một động tác nhưng lại yêu cầu một động tác khác nếu ai làm sai sẽ thua. Thứ 6 Xây dựng mục tiêu và nội quy lớp học: Mục đích: Giáo dục giá trị hợp tác và trách nhiệm xây dựng tập thể lớp. Sinh hoạt cuối tuần Dựa vào nội quy chung của nhà trường, các em học sinh thảo luận cùng nhau đặt mục tiêu cho lớp ở năm học này và thống nhất nội quy riêng cho lớp học. Xây dựng mục tiêu cho bản thân. Sinh hoạt Sinh hoạt văn nghệ: Hát múa theo yêu cầu Thứ 7 15 phút đầu giờ Mục đích : Học sinh vui vẻ, gần gũi với nhau 12
  14. n Nội quy lớp học 12A trường THPT Tương Dương 1 Các buổi sinh hoạt có tổ chức với nội dung phong phú: các trò chơi khởi động, câu đố vui, các trò chơi phỏng theo các game show truyền hình đặc sắc, hay đơn giản là nghe và cảm nhận một bài hát, một mẩu chuyện hay một đoạn phim,… tổ chức diễn đàn để các em nêu lên cảm nhận, bài học hay ý nghĩa của mình về những gì mình được nghe, đã đọc và được thấy. Cho các em xem những video về tấm gương người tốt việc tốt trong cuộc sống để các em hiểu hơn về giá trị của cuộc sống, quý trọng những gì mình đang có, nuôi dưỡng sự biết ơn và sự bao dung, lòng thương cảm. Trong đó tôi đề việc nuôi dưỡng lòng biết ơn thì học sinh sẽ có động lực rất lớn để học tập tốt và trở thành con người có nhân cách tốt đẹp. Ví dụ, khi chiếu phim ngắn “Câu chuyện chiếc bình nứt”, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Sự khiếm khuyết có giá trị không? Hình ảnh chiếc bình nứt tượng trưng cho ai trong cuộc sống? Trong cuộc sống, khi gặp những khiếm khuyết của bản thân hay của người khác, chúng ta thường làm gì? Ai sẽ đóng vai trò "người gánh nước" trong cuộc sống của bạn? Em có suy nghĩ gì về việc chọn nghề liên quan đến khiếm khuyết của bản thân? - Các học sinh thảo luận, suy nghĩ, đưa ra câu trả lời cho tất cả các câu hỏi trên. Giáo viên sẽ phân tích thêm nội dung, ý nghĩa của từng đáp án để các em hiểu rõ hơn từ đó rút ra được bài học cho bản thân và vận dụng vào cuộc sống. - Bài học rút ra từ đoạn video là: Mỗi người trong chúng ta đều có những khuyết điểm riêng biệt. Ai cũng đều là "Chiếc bình nứt" cả. Nhưng chính các vết nứt và khuyết điểm đó của từng người mới khiến cho đời sống chung của chúng ta trở nên thú vị và làm chúng ta thỏa mãn. Chúng ta phải chấp nhận cá tính của từng người trong cuộc sống và tìm cho ra cái tốt trong họ. Ngoài ra, tôi luôn động viên và khích lệ cùng các em tham gia các hoạt động ngoại khóa do các Đoàn thanh niên, Công Đoàn,… tổ chức, sát cánh với các em 13
  15. trong các phong trào văn hóa, văn nghệ, TDTT nhân ngày 20/11, 26/3,… Các em được trải nghiệm, được vui chơi, được hợp tác và chia sẻ từ đó sẽ hiểu, yêu thương nhau, xây dựng một tập thể lớp đoàn kết, hạnh phúc. Qua các buổi sinh hoạt lớp hay các hoạt động cùng với lớp tôi có thể lắng nghe, cảm thông, hiểu được tính cách, tâm tư, tình cảm của các em và thấy được điều tốt đẹp trong chính mỗi học sinh và yêu mến các em hơn. Sự tiến bộ của các em hằng ngày qua cách cư xử, lời nói và thái độ trong giờ học sẽ tạo động lực cho mỗi giáo viên mỗi khi đến lớp. Từ đó tôi có thể dễ dàng định hướng sửa chữa lỗi lầm khi phạm lỗi, giải quyết vấn đề theo hướng tích cực. Ngược lại học sinh được tham gia các buổi sinh hoạt sinh động, hiểu được giá trị sống tốt đẹp sẽ là kim chỉ nam cho những hành động đúng đắn. Các em được trang bị đầy đủ kỹ năng sống sẽ biết bảo vệ bản thân, có khả năng hòa nhập với cuộc sống trong mọi hoàn cảnh,… không còn bị stress, biết cách quản lý cảm xúc, giải quyết các vấn đề tránh xảy ra bạo lực học đường. Khi đó cả thầy và trò sẽ muốn đến lớp mỗi ngày, đó là hạnh phúc. Buổi sinh hoạt cuối tuần tại lớp 12A về chủ đề trách nhiệm Một số hình ảnh vui chơi của các em học sinh tham gia trò chơi dân gian 14
  16. Đoàn trường kết hợp với các đơn vị trên địa bàn tuyên truyền giáo dục học sinh Trường học không chỉ là nơi để học, nơi để dạy mà là một thế giới, để tạo “không khí” cho lớp học đồng thời giáo dục kỹ năng sống tôi cho học sinh trang trí “lớp học hạnh phúc’’ sẽ giúp các em có một tâm trạng vui tươi nhẹ nhàng mỗi ngày đến lớp Lớp 12A trường THPT Tương Dương 1 trang trí lớp học hạnh phúc 15
  17. GV đồng hành cùng các em tham gia giáo dục kỹ năng sống ước mơ và khát vọng GVCN tham gia cùng học sinh phổ biến kiến thức nói không với rác thải nhựa và tái chế rác thải nhựa 16
  18. Việc giáo dục đạo đức, giá trị và kỹ năng sống của các em không chỉ không là nhiệm vụ riêng của nhà giáo dục mà cần sự hợp tác rất lớn từ gia đình và xã hội. Nên trong cuộc họp phụ huynh đầu năm học GVCN thống nhất với phụ huynh hợp tác chặt chẽ trong việc giáo dục học sinh, thường xuyên trao đổi thông tin với nhau về tình hình học tập và rèn luyện của học sinh, kịp thời tác động khi cần thiết. 3.2. Giáo viên giáo phải mạnh dạn thay đổi bản thân để xây dựng lớp học hạnh phúc: Qua số liệu điều tra nêu trên ta thấy rằng học sinh có hạnh phúc hay không phụ thuộc phần lớn vào giáo viên giảng dạy và giáo viên bộ môn trực tiếp giảng dạy lớp mình. Vì vậy mỗi giáo viên phải là người tiên phong cho việc thay đổi lớp học truyền thống, mạnh dạn thay đổi cái lối mòn cũ để hướng tới một phương pháp dạy học tích cực và phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của học sinh. Thầy cô thay đổi, học sinh hạnh phúc, thầy cô sẽ hạnh phúc và trường học hạnh phúc. Cụ thể: + Giáo viên nên cười nhiều hơn với học sinh để tạo một bầu không khí thân thiện, vui vẻ trong giờ học. Những nụ cười sẽ giúp cô và trò hạnh phúc trong từng tiết học Nụ cười đem lại nhiều lợi ích – nó khiến bạn trông thân thiện và dễ gần, hấp dẫn hơn, hạnh phúc hơn và ít căng thẳng hơn. Tiếng cười trong dạy học – giáo dục sẽ làm tan đi không khí căng thẳng của tiết học, không những thế, tiếng cười còn tạo ra sự hưng phấn để kích thích suy nghĩ. Việc này tưởng đơn giản không phải giáo viên nào cũng làm được vì giáo viên chưa biết cách quản cảm xúc của mình, 17
  19. không có tính hài hước, nhưng chúng ta sẽ làm được nếu chúng ta có tâm với nghề, thương yêu học sinh như những đứa con của mình. Đầu tiên hãy luôn chuẩn bị cho mình một tâm thế hứng khởi khi dạy học, bước vào lớp học bằng nụ cười thật tươi, dành thời gian 3 đến 5 phút để khởi động một tiết học bằng một lời đùa vui vẻ, một câu chuyện cười nhỏ, một trò chơi, một câu hát, một lời khen ngợi học sinh,… Việc đó giúp các em có một tinh thần hứng khởi, thỏa mái trước khi bước vào tiết học, việc tiếp thu kiến thức cũng dễ dàng hơn. Hai là lồng ghép sự hài hước vào trong lớp học bằng lời nói, biểu cảm, hành động của giáo viên. Ví dụ, khi các học sinh mắc lỗi khi đang nói, thay vì cắt ngang hay sửa lại, tôi thường làm gương mặt khôi hài (gương mặt cực kì sốc đối với những lỗi lớn như sử dụng sai thì của động từ), điều đó giúp các học sinh nhìn ra được lỗi của mình nhưng sẽ giảm bớt áp lực để họ “sửa sai”. Có thể là những lời nói đùa thú vị có thể diễn ra tự phát qua các tình huống xảy ra trong giờ học. Thỉnh thoảng buông những câu bình luận, nhận xét vui vẻ khi học sinh làm bài tập hoặc trả lời câu hỏi sẽ giúp cho học sinh thoải mái, không che dấu những lỗ hổng kiến thức của mình nữa. + Giáo viên hướng dẫn nhẹ nhàng khi học sinh làm bài sai, giữ bình tĩnh khi học sinh mắc lỗi và không phê bình quá nặng lời, gay gắt trước mặt người khác; khích lệ, khen thưởng các em nhiều hơn. Giáo viên học cách lắng nghe học sinh, đặc biệt là những học sinh cá biệt, GV cần quan tâm, động viên, giáo dục nhẹ nhàng tránh việc làm tổn hại đến thân thể và nhân phẩm học sinh. Không quá cầu toàn, cho phép học sinh được phạm lỗi và có quyền sửa lỗi. Mặt bằng chung của học sinh trong trường là khả năng tiếp thu kiến thức chậm nên luôn có tâm lý lo lắng mỗi khi giáo viên đặt câu hỏi, không dám phát biểu ý kiến vì sợ sai, đôi khi còn có học sinh hỏi “Làm sai có bị làm sao không cô ?”,… nắm bắt được tâm lý đó tôi luôn động viên và khích lệ học sinh trả lời và nói vui rằng “Sai à! Không sao. Cô cảm ơn”. Cảm ơn ở đây là cảm ơn các em đã dũng cảm, sửa lỗi sai cũng là một bài học sâu sắc cho mỗi học sinh khác trong lớp nữa. Tôi không đặt quá nặng chương trình trong mỗi tiết học, giảm nhẹ kiến thức, miễn là học sinh hiểu được kiến thức cơ bản, sau đó mới dễ nâng cao nếu cần, vì thế thời gian tôi và học sinh tương tác khá nhiều, học sinh tiếp thu bài dễ. GV nhận xét, góp ý một cách khéo léo về những điều mà các em chưa làm được hoặc làm chưa tốt, không nên chê bai, chỉ trích vì điều đó sẽ làm thui chột đi sự tích cực chủ động ở các em. Ngược lại nhận được sự khích lệ, động viên và khen ngợi đúng lúc của thầy cô giáo sẽ là nguồn động lực lớn để các em thay đổi theo hướng tích cực. Hãy để HS cảm nhận được sự tin tưởng của thầy cô dành cho mình. Mỗi lời nói, mỗi hành động, tác phong cũng như cách cư xử của Thầy cô trên lớp sẽ có tác động không nhỏ đến nhận thức và tình cảm của học trò. GV sẽ 18
  20. không thuyết phục được HS nghe theo sự chỉ dạy của mình nếu như bản thân không chuẩn mực và thiếu đi sự chân thành. Cho nên, mỗi GV phải là một tấm gương sáng về đạo đức nhân cách và trí tuệ để HS noi theo. + Giáo viên cần thường xuyên bỗi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và khả năng ứng dụng CNTT vào bài dạy, có phương pháp dạy học hiệu quả tạo hứng thú, lôi cuốn người học. Ngoài việc tạo dựng mối quan hệ thầy trò, mỗi giáo viên cần thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, có phương pháp dạy học hiệu quả để có nhiều tiết học tốt hơn, tạo hứng thú, chủ động tiếp thu kiến thức, không còn mệt mỏi và buồn ngủ. Có như vậy học sinh mới cảm phục và nghe lời thầy cô. Ngoài kiến thức trong sách giáo khoa, ngoài cách giảng dạy truyền thống, giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học sao cho hiệu quả, thu hút được sự chú ý của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, chủ động tìm tòi kiến thức hoặc tích hợp môn học của mình với môn học khác và đời sống thực tiễn để học sinh cảm thấy ý nghĩa và thiết thực hơn. Chẳng hạn trong các tiết dạy bộ môn Toán của mình tôi lồng ghép vào một số trò chơi như sau: - Trò chơi “Nhà nghiên cứu trẻ”: Giáo viên yêu cầu các nhóm học sinh về nhà nghiên cứu trước nội dung bài học hoặc tổng hợp một chuyên đề nào đó theo cách hiểu của mình,… sau một thời gian quy định nộp lại và tổ chức thảo luận, đánh giá kết quả. Dạy học stem học sinh thiết kế máy tạo hình mặt tròn xoay - Trò chơi Nhanh mắt, nhanh tay: Tùy vào lúc thích hợp của tiết học, giáo viên đưa các bài toán có lời giải sai ở một vài bước học sinh thường mắc phải, các nhóm thảo luận tìm ra chỗ sai và sửa sai. Nhóm nào tìm ra nhanh nhất và sửa lại cho đúng là đội chiến thắng. - Trò chơi “Tập làm họa sỹ”: Sau mỗi bài học hoặc mỗi chương, giáo viên yêu cầu các nhóm thảo luận lập “Sơ đồ tư duy” hệ thống kiến thức của bài hoặc chương đó vào giấy A0 với hình vẽ sáng tạo của nhóm mình. Nhóm nào nhanh, đẹp mắt và đảm bảo đúng và đủ kiến thức nhất sẽ chiến thắng. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1