Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số nguyên tắc và phương pháp dạy – học văn bản ký qua hai tác phẩm Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông trong chương trình ngữ văn 12 THPT nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh huyện miền núi Quỳ Châu
lượt xem 2
download
Đề tài “Một số nguyên tắc và phương pháp dạy - học văn bản kí qua hai tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”trong chương trình ngữ văn 12 THPT nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh huyện miền núi Quỳ Châu ” sẽ khiến cho bài học không khô khan, nhàm chán mà nó luôn tạo được nhu cầu, hứng thú, thẩm mỹ cho học sinh. Tạo bầu không khí dân chủ trong lớp học, kích thích sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài, và sẽ tạo ra nhiều mới mẻ trong nhận thức của các em.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số nguyên tắc và phương pháp dạy – học văn bản ký qua hai tác phẩm Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông trong chương trình ngữ văn 12 THPT nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh huyện miền núi Quỳ Châu
- SỞ GD & ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲ CHÂU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP DAY HOC ̣ ̣ VĂN BẢN KÍ QUA HAI TÁC PHẨM “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” VÀ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG” TRONG CHƯƠNG TRINH NG ̀ Ư VĂN 1 ̃ 2 THPT NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH HUYỆN MIỀN NÚI QUỲ CHÂU. MÔN: NGỮ VĂN Tác giả : Trần Thị Thu Hà Tổ : Văn Ngoại ngữ
- Số ĐT cá nhân : 0906104567 Năm học: 2020 – 2021
- MUC LUC ̣ ̣
- A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài Dạy đọc hiểu văn bản ký là một hoạt động được tiến hành thường xuyên trong các nhà trường phổ thông từ trước đến nay.Các văn bản ký trong chương trình ngữ văn THPT tuy chiếm số lượng ít nhưng là các tác phẩm trọng tâm và chủ đạo trong chương trình thi cử hiện nay. Mặt khác những văn bản ký trong chương trình còn giúp chúng ta hiểu biết sâu rộng về lịch sử của một đất nước có bề dày truyền thống văn hoá như nước Việt Nam ta khi dạy học ngữ văn nói chung và dạy học văn bản nói riêng, không thể tách rời những đặc trưng vốn có của văn bản. Mục đích dạy học ngữ văn nói riêng và dạy học trong trường phổ thông nói chung là góp phần phát triển một cách toàn diện nhân cách học sinh. Theo tiêu chí của UNESCO, sự phát triển giáo dục của nhân loại cần hướng tới bốn vấn đề cơ bản: “Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để làm người”. Với mục đích cao quý đó của giáo dục đòi hỏi mỗi một người giáo viên không chỉ là một nhà thiết kế tài ba mà còn là một nhà định hướng phát triển cho thế hệ tương lai của đất nước. Để làm được điều đó trong mỗi giờ lên lớp của mình, người thầy không chỉ cung cấp kiến thức cho học sinh, mà phải đưa tri thức về với thực tiễn, gắn tác phẩm văn học với đời sống, tạo cho các em những rung cảm thẩm mĩ.Từ đó có thể giải quyết được những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Từ bài dạy của thầy cô các em có thể đọc hiểu một văn bản cùng thể loại ngoài chương trình. Để làm được những điều đó đòi hỏi người thầy phải đi từ điểm chung nhất của văn bản đó chính là đi từ đặc trưng loại thể. Đây cũng chính là yêu cầu của dạy học ngữ văn trong trường phổ thông. Mặc dù được tiến hành dạy và học từ nhiều năm nay, nhưng dạy kiểu bài đọc hiểu văn bản ký trong nhà trường phổ thông hiện nay là một hoạt động ít được quan tâm như những tác phẩm văn chương khác. Phần lớn giáo viên thường không có hứng thú và cảm tình với loại văn bản này. Còn người học cũng cảm thấy đó là những văn bản rất khô khan, nặng nề, khó hiểu cho nên học sinh tiếp nhận văn bản một cách gượng ép, đối phó chưa có ý thức say mê lĩnh hội những giá trị của văn bản. Để khắc phục và giải quyết những hạn chế nêu trên chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số nguyên tắc và phương pháp dạy – học văn bản ký qua hai tác phẩm “ Người lái đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” trong chương trình ngữ văn 12 THPT nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh huyện miền núi Qùy Châu”. Đây là đề tài mới mẻ về khoa học, cách trình bày có hệ thống, dễ vận dụng trong chương trình dạy học, kiểm tra, đánh giá và thi cử hiện nay. II. Phương pháp tiến hành 1
- Đề tài kết hợp nhiều phương pháp: Phương pháp phân tích tổng hợp Phương pháp so sánh, đối chiếu Phương pháp thống kê… III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Do bài viết ở góc độ là một sáng kiến kinh nghiệm cho nên chúng tôi chỉ đề xuất hướng khai thác cách dạy đọc – hiểu các văn bản kí trong sách Ngữ văn 12 Cụ thể gồm các văn bản sau: Số Học TT Tên bài Tác giả Ghi chú tiết kì Người lái đò sông Đà Nguyễn Đoạn trích 1 4 1 Tuân Ai đã đặt tên cho dòng Hoàng Phủ Đoạn trích 2 sông Ngọc 4 1 Tường IV. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần đặt vấn đề, phần kết luận, phần giải quyết vấn đề có các nội dung sau: Đánh giá thực trạng của việc dạy học các văn bản ký trong chương trình Ngữ văn 12 THPT hiện nay. Nội dung chính của đề tài. Khả năng ứng dụng của đề tài. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Đánh giá thực trạng của quá trình dạy – học văn bản ký ở các trường THPT hiện nay nói chung và ở huyện Quỳ Châu nói riêng 1. Người dạy Khi tiếp cận với văn bản ký đa số giáo viên cảm đều có cảm nhận đây là những tác phẩm dung lượng kiến thức lớn khô khan và khó tìm ra phương pháp để giúp học sinh lĩnh hội được tác phẩm. Vì thế khi dạy thường đối phó, qua loa “dạy cho xong”. Chính vì thế mà các văn bản ký dù có nội dung phong phú, sâu sắc mang tính thời đại cũng dần dần bị xem nhẹ. Có thể nói rằng việc giáo viên giúp học sinh chiếm lĩnh được các giá trị của tác phẩm văn học đã khó, thì việc dạy đọc hiểu văn bản ký lại càng khó hơn. Thực tế ở vùng miền núi hiện nay khi đối mặt với loại văn bản này trong chương trình đa số giáo viên chỉ chuyên tâm vào việc cung cấp những kiến thức mình hiểu được từ văn bản cho 2
- học sinh, không bám vào cách dạy đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại cho học sinh. Đặc biệt khi dạy chuyên đề hoặc thao giảng giáo viên ít khi chọn các tác phẩm này để thể hiện, điều đó cũng chứng tỏ người dạy không mặn mà, không có cảm tình với văn bản ký. Đó là một tồn tại chung trong việc dạy các tác phẩm ký ở trường THPT hiện nay 2. Đối với người học Về phía học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá tác phẩm bởi việc đọchiểu văn bản ký luôn là vấn đề khó khăn đối với học sinh. Cách viết của hai tác giả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường rất tài hoa uyên bác có sự kết hợp giữa chất trí tuệ và chất trữ tình,tác giả vận dụng linh hoạt kiên thức của nhiều nghành khoa học nên học sinh cảm thấy khó. Đa số học sinh đều thụ động khi tiếp nhận văn bản, thầy cung cấp nội dung gì thì trò lĩnh hội nội dung ấy. Đó cũng là một tồn tại trong cách dạy học truyền thống hiện nay. 3. Đối với vùng đặc thù miền núi Để thực hiện được chương trình có hiệu quả ngoài vốn hiểu biết sâu rộng và phương pháp truyền đạt của giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào trình độ nhận thức, hiểu biết của học sinh. Trên thực tế việc tiếp nhận văn bản ký đối với học sinh vùng trung tâm thành phố, vùng đồng bằng có thể dễ dàng. Bản thân học sinh là những đối tượng vừa yếu,vừa thiếu nhận thức nên việc tìm ra một “chìa khoá” để mở được cánh cửa đến với thế giới văn chương là hết sức cần thiết. Thực tế nhiều trường miền núi trình độ học sinh đang ở “dưới chuẩn”, nên khi tiếp xúc và lĩnh hội những giá trị của văn bản ký lại càng gặp khó khăn hơn. Lượng thời gian dành cho loại văn bản này quá ít so với nội dung văn bản yêu cầu. Phần lớn giáo viên cùng với học sinh phải “ chạy đua” với thời gian. Giáo viên không thể cắt nghĩa tỉ mỉ hay lí giải những thuật ngữ khó hiểu một cách thấu đáo cho các em. Sách giáo khoa có chú thích nhưng không phải từ nào cũng đọc và hiểu được. Do bị khống chế thời lượng lên lớp nên các đơn vị bài học không được khám phá một cách đầy đủ và có chiều sâu. Đối chiếu lại vai trò, chức năng của văn bản ký mà SGK lựa chọn tôi cho rằng không còn cách nào khác là giáo viên phải trăn trở, tìm cách tiếp cận loại văn bản này một cách tốt nhất và làm sao để học sinh có hứng thú, yêu thích văn . Là người tâm huyết với nghề lại là người con vùng núi Quỳ Châu , bản thân tôi luôn suy ngẫm và trăn trở nhiều đến đối tượng học sinh của mình. (Trường THPT Quỳ Châu, nơi tôi công tác có đến gần 80% học sinh người dân tộc thiểu số và học sinh vùng sâu, vùng xa). Vì vậy mà tôi cố gắng đưa ra những phương án cụ thể, nhằm tháo gỡ những bế tắc trong cách dạy học hiện nay ở các trường miền núi để nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh. Một trong những cách ấy đó là những nguyên tắc và phương pháp dạy học văn bản ký dựa 3
- ttheo đặc trưng thi pháp thể loại để học sinh nắm bắt một cách chủ động và hiệu quả hơn. II. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI PHẦN MỘT: MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY – HỌC VĂN BẢN KÍ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 THPT NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH HUYỆN MIỀN NÚI QUỲ CHÂU 1. Một số nguyên tắc dạy đọc hiểu văn bản ký ở trường THPT hiện nay Để dạy đọc hiểu văn bản ký ở trường THPT hiện nay đạt được hiệu quả như mong muốn, chúng tôi đưa ra một số nguyên tắc cụ thể như : Nguyên tắc đảm bảo đặc trưng thể loại, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, gắn hoạt động cung cấp tri thức về văn bản với hoạt động rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản. 1.1. Nguyên tắc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của chủ thể học sinh Nói đến nguyên tắc là nói đến những qui định, những qui tắc và cơ sở có tính bắt buộc qui định việc dạy học văn phải tuân theo, đảm bảo cho hoạt động dạy học tuân theo nguyên tắc cũng có nghĩa là tuân theo những qui định cần thiết để hoạt động đó đạt hiệu quả cao nhất. Việc dạy đọc hiểu văn bản ký ở trong nhà trường phổ thông cũng vậy, cũng phải dựa trên những nguyên tắc nhất định. Một trong những nguyên tắc hàng đầu là phát huy tính tích cực của chủ thể học sinh . Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của chủ thể học sinh có nghĩa là phải làm cho học sinh thay đổi tâm thế chiếm lĩnh tác phẩm, làm cho học sinh chủ động, hoà nhập vào giờ học, làm cho học sinh chịu khó xây dựng bài, mạnh dạn phát biểu suy nghĩ, ý kiến của mình trong giờ học để nắm kiến thức một cách chủ động, chắc chắn. Phát huy tính tích cực, chủ động của chủ thể học sinh trong giờ đọc hiểu văn bản ký cũng đồng nghĩa với việc yêu cầu người thầy phải giữ vai trò là người hướng dẫn, chỉ đường, tức là người thầy phải linh hoạt xây dựng tình huống cho học sinh để học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức. Nguyên tắc phát huy tính tích cực của chủ thể học sinh là một nguyên tắc cơ bản quyết định hiệu quả dạy học. Nguyên tắc này có liên quan hữu cơ đến các nguyên tắc khác nhưng cũng là đầu mối quy tụ, là thước đo thực sự của các nguyên tắc khác cũng như của bất cứ một phương pháp nào được sử dụng trong dạy đọc hiểu văn bản ký. Đây là nguyên tắc triển vọng, nâng cao hiệu quả của giờ đọc hiểu văn bản. Mục tiêu cuối cùng của dạy học Văn nói chung và đọc 4
- hiểu văn bản ký nói riêng là đào tạo học sinh thành nhũng con người có phẩm chất, năng lực, biết chủ động sáng tạo để xây dựng đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu này chỉ đạt được khi học sinh là một chủ thể tích cực trong giờ học. Yêu cầu phát huy tính tích cực của học sinh gắn với tài năng của người thầy, đòi hỏi ở giáo viên một kĩ năng sư phạm vững vàng, một tinh thần trách nhiệm cao cũng như tính sáng tạo thường xuyên trong giờ đọc hiểu văn bản. Khi tiến hành một giờ đọc hiểu văn bản ký, giáo viên cho học sinh chuẩn bị trước ở nhà bằng việc cho học sinh làm việc với sách giáo khoa. Thông qua văn bản trong sách giáo khoa học sinh đọc văn bản, chú ý hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài trong sách giáo khoa, lần lượt trả lời các câu hỏi. Từ đó các em tự rút ra những luận điểm cơ bản trong bài học, cũng như chỉ ra những yếu tố, những chi tiết quan trọng cần phải tập trung khai thác trong văn bản . Chẳng hạn khi tiến hành đọc hiểu văn bản Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, trước khi lên lớp giáo viên yêu cầu học sinh về nhà đọc trước văn bản, trả lời câu hỏi ở trong phần đọc hiểu từ đó rút ra được những luận điểm cơ bản để học sinh dễ dàng tiếp cận .Trên cơ sở của sự phân công, chuẩn bị ở nhà của học sinh, khi tiến hành giờ đọc hiểu trên lớp, giáo viên cần nêu ra câu hỏi để học sinh trả lời tìm ra hệ thống luận điểm, ghi các ý kiến phát biểu của học sinh lên bảng sau đó cho các em so sánh, đối chiếu các ý kiến đã trình bày xem đã đầy đủ chưa. Cuối cùng giáo viên tổng kết rút ra luận điểm chung cho bài học. Thông qua hệ thống câu hỏi, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định ý chính, ý cơ bản của bài học. Ví dụ như ở văn bản “Người lái đò Sông Đà” Giáo viên có thể đưa ra hệ thống câu hỏi như :Xác định hình tượng trung tâm chính của tác phẩm? Mỗi hình tượng hãy tìm các luận điểm chính?Theo em hình tượng nào là trọng tâm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm? Nhận xét cách viết của Nguyễn Tuân qua tùy bút “Người lái đò Sông Đà”Để thấy nét riêng trong phong cách nghệ thuật của tác giả? Sau khi học sinh lần lượt trả lời hệ thống câu hỏi, giáo viên ghi các ý kiến đó lên bảng, tổ chức cho các em thảo luận, trao đổi, cuối cùng tổng kết lại luận điểm chính. Sau khi hệ thống hoá văn bản bằng luận điểm, tìm hiểu kĩ văn bản, giáo viên cho học sinh đề xuất những thắc mắc, hoặc cho học sinh bình luận một số câu văn tiêu biểu về hình tượng con Sông Đà và người lái đò sông Đà : “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình ,đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”... “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió ghùn ghè suốt năm như muốn đòi nợ suýt”... Như vậy bằng hàng loạt thao tác, giáo viên đã hướng dẫn học sinh chủ động tiếp cận văn bản, nắm được nội dung văn bản một cách chủ động, chắc chắn, tạo ra không khí giờ học sôi nổi, thoải mái, kích thích hứng thú học tập 5
- của học sinh. Song để tạo ra hiệu quả cao hơn trong đọc hiểu văn bản ký còn đòi hỏi một sự tổ chức, hướng dẫn sáng tạo của người giáo viên và nỗ lực của người học sinh . Trong giờ đọc hiểu văn bản ký ở nhà trường THPT, khi áp dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của chủ thể học sinh, dựa trên một số cơ sở khoa học nhất định. Trước hết là dựa vào một trong những đặc điểm qui luật nhận thức của con người đó là nhận thức của con người về thế giới chỉ thật sự sâu sắc và bền lâu khi tự nhận thức. Khi tìm hiểu thế giới xung quanh, con người phải tự tìm hiểu bằng nỗ lực của mình, phải tham gia một cách chủ động, tích cực mới mang lại hiệu quả như mong muốn. Dựa trên quan điểm của giáo dục hiện đại đề cao vai trò chủ động của người học gắn liền với phát huy tính tích cực của người học tạo ra sự chuyển biến trong tổ chức giờ học. Ngoài ra khi nói đến nguyên tắc phát huy tính tích cực của chủ thể học sinh còn dựa trên đặc điểm tâm sinh lí, trình độ tư duy của học sinh để từ đó có kế hoạch và phương pháp tổ chức giờ học đạt hiệu quả cao hơn. 1.2. Nguyên tắc đảm bảo đặc trưng thể loại Dạy đọc hiểu văn bản ký phải xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của thể ký đó là tính xác thực. Tác phẩm ký thường không hư cấu mà tác giả chỉ lựa chọn ngay những sự việc những con người đã có giá trị nổi bật trong cuộc sống để phóng bút.Nếu giáo viên chỉ thỏa mãn những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa thì giờ học sẽ rất khô khan học sinh khó tiếp nhận tác phẩm.Bên cạnh đó tác phẩm ký còn có sự đan xen cảm xúc suy tưởng của nhà văn trước cuộc đời.Vì vậy sức hấp dẫn của thể ký chính là khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của tác giả.Ký ít chấp nhận hư cấu do đó phải dựa trên những liên tưởng bất ngờ tài hoa của tác giả.Và thêm nữa tác phẩm ký chính là tính chủ quan,tính trữ tình sâu đậm của tác giả thường là cái tôi uyên bác phóng túng và tài hoa của tác giả. Khi nắm vững được đặc trưng thể loại văn bản ký sẽ tạo ra hiệu quả cao trong giờ đọc hiểu văn bản, bởi nó quy định cách thức tổ chức giờ dạy cũng như phương pháp, cách triển khai bài học một cách hợp lí nhất. Điều đó cũng yêu cầu một năng lực sư phạm và tính sáng tạo của người thầy. Đối với hai tác phẩm ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” và “ Người lái đò sông Đà” việc áp dụng nguyên tắc dạy học theo đặc trưng thể loại ta có thể vận dụng như sau: Thứ nhất giáo viên tổ chức cho học sinh phát hiện ra nét tương đồng và khác biệt đối tượng được phản ánh trong tác phẩm ký và đối tượng tương tự có thật ngoài đời .Con sông Đà và sông Hương của Nguyễn Tuân và Hoàng phủ Ngọc Tường đi vào trong hai tác phẩm trở thành đối tượng thẩm mỹ của nhà văn.Nếu nhà văn chỉ ghi chép đơn thuần thì chỉ giống như tái hiện kiến thức địa lý,nó sẽ mất đi phần hồn dịu dàng sâu lắng, hung bạo của con sông.Thứ hai phát hiện và đánh giá được óc quan sát liên tưởng,tưởng tượng năng lực sử dụng ngôn ngữ của nhà văn trong tác phẩm.Chẳng hạn ở tùy bút “Người lái đò sông Đà” khi khám phá vẻ hung bạo của con sông nhà văn nhìn 6
- con sông như một loài thủy quái là kẻ thù số một của con người.Còn khi khám phá vẻ thơ mộng trữ tình của sông Đà nhà văn nhìn sông Đà như một người tình nhân,thi nhân và cố nhân.Thứ ba giáo viên cho học sinh phát hiện những đặc điểm cái tôi tác giả, một cái tôi tài hoa uyên bác và phóng túng của tác giả trong hai tác phẩm ký.Với tùy bút “Người lái đò sông Đà” Ta bắt gặp một cái tôi tự do phóng túng say mê của Nguyễn Tuân suốt đời đi tìm cái đẹp.Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường ta bắt gặp một cái tôi mê đắm tài hoa của tác giả. Sở dĩ dạy đọc hiểu văn bản ký phải đảm bảo nguyên tắc đặc trưng thể loại vì xuất phát từ nguyên tắc dạy học nói chung và dạy học Văn nói riêng là phải tôn trọng đặc trưng bộ môn. Một nguyên tắc không thể không lưu ý trong dạy học là phải nắm vững đối tượng cần tìm hiểu. Có nắm vững đối tượng mới có một phương pháp, cách thức phù hợp để khám phá đối tượng đó. 1.3. Nguyên tắc gắn liền hoạt động cung cấp tri thức văn bản với hoạt động rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản Dạy đọc – văn bản ký ở nhà trường THPT cần dựa trên nguyên tắc: Gắn liền hoạt động cung cấp tri thức về văn bản với hoạt động rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản . Có nghĩa là các hoạt động đó được tiến hành đan xen, hỗ trợ cho nhau. Đọc là một hoạt động bao gồm hàng loạt các thao tác như liên tưởng, phân tích, tổng hợp nhằm thâm nhập, lí giải được giá trị của văn bản kết quả của hàng loạt các thao tác đó phản ánh sự hiểu biết về văn bản. Hoạt động đọc – hiểu văn bản sẽ cung cấp cho chủ thể những tri thức cần thiết về văn bản . Đây là điều cần thiết khi tiến hành một giờ đọc hiểu văn bản ký để tạo ra hiệu quả cao nhất. Trong giờ đọc hiểu văn bản ký, cung cấp tri thức về văn bản cần tiến hành xen kẽ và đồng thời với hoạt động rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản. Trong tiết học giáo viên có thể tận dụng tối đa các thao tác để đọc văn bản, sau đó cho học sinh tìm hệ thống luận điểm của văn bản đó, như vậy qua việc tìm hiểu văn bản học sinh vừa nắm được nội dung, giá trị của bài ký vừa biết được kĩ năng cần thiết khi tìm hiểu một văn bản ký. Chẳng hạn, đưa ra một văn bản cụ thể, giáo viên yêu cầu học sinh xác định nội dung cơ bản của văn bản qua hệ thống câu hỏi nêu vấn đề hướng dẫn học sinh. Các em trả lời câu hỏi và tiến hành thao tác tìm hiểu hệ thống ý của văn bản. Có nghĩa là đã thực hiện khả năng tìm ý thông qua tìm ý nắm được nội dung tư tưởng. Chẳng hạn: Khi tìm hiểu văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông, giáo viên cho học sinh đọc văn bản sau đó bằng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc hiểu: Xác định hình tượng chính của văn bản? Hình tượng sông Hương được miêu tả qua những góc độ nào?Ở mỗi góc độ nhà văn đã khám phá những nét đặc sắc gì của sông Hương? Từ đó anh chị cảm nhận được điều gì về vẻ đẹp của sông Hương? Qua hàng loạt câu hỏi nêu vấn đề, giáo viên từng bước dẫn dắt học sinh khám phá được giá trị văn bản, học sinh có được tri thức, hiểu biết về văn bản. 7
- Đồng thời rèn luyện cho các em các thao tác cần thiết khi tìm hiểu một văn bản ký. Như vậy, hai hoạt động : Cung cấp tri thức và rèn luyện kĩ năng là không tách rời, mà cần phối hợp chặt chẽ trong đọc hiểu văn bản ký . Việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản ký còn bao gồm kĩ năng phân tích một nhận định hay phân tích một ý kiến nào đó, kĩ năng lập ý trong văn. Những kĩ năng đó có thể được thực hiện qua hệ thống bài tập thực hành. Để tiến hành cho học sinh thực hiện các kĩ năng đó, giáo viên có thể chia thành nhóm nhỏ với những bài tập tương ứng để các em thực hành, cũng có thể tiến hành trên lớp hoặc ra bài tập ở nhà. Giáo viên cho các nhóm, tổ thảo luận, trao đổi với nhau để các em tự học hỏi nhau. Cuối cùng giáo viên tổng kết lại những kĩ năng cần thiết. Sở dĩ dạy đọc hiểu văn bản ký trong nhà trường THPT dựa trên nguyên tắc gắn liền hoạt động cung cấp tri thức về văn bản với hoạt động rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản là dựa vào những căn cứ khoa học nhất định. Đó là xuất phát từ quan niệm dạy học hiện đại là phải giáo dục con người toàn diện, bên cạnh tri thức cần thiết là hệ thống kĩ năng tương ứng để giúp học sinh chủ động, tích cực không chỉ trong nhà trường mà còn trong cuộc sống xã hôị. Đồng thời việc áp dụng nguyên tắc này còn xuất phát từ qui luật nhận thức của con người: Nhận thức của con người chỉ có chất lượng hiệu quả cao khi tự nhận thức, tự bản thân tham gia vào thực hành. 2. Đề xuất một số phương pháp cơ bản khi dạy đọc hiểu văn bản ký qua hai tùy bút “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. 2.1. Phương pháp gợi mở, nêu vấn đề Phương pháp gợi mở, nêu vấn đề có ưu điểm nổi bật là kích thích mạnh mẽ tinh thần độc lập suy nghĩ tìm tòi của học sinh, thói quen giao tiếp xã hội được phát huy một cách tích cực. Nó còn tạo ra bầu không khí tự do, học tập sôi nổi, học sinh trực tiếp bộc lộ nhận thức của mình. Đồng thời qua hệ thống câu hỏi gợi mở tạo điều kiện để giáo viên nắm bắt học sinh một cách cụ thể. Giáo viên thu nhận được tín hiệu ngược từ phía học sinh, từ đó có sự điều chỉnh hoạt động dạy cho phù hợp với mục tiêu bài học và trình tiếp nhận của học sinh. Ngoài ra, trong giờ đọc hiểu văn bản ký nếu vận dụng tốt phương pháp này sẽ đảm bảo được tính đặc thù của sự tiếp nhận tri thức: Quá trình tiếp nhận tri thức là quá trình phân tích bộ phận cấu thành đến nắm bắt tác phẩm trong tính chỉnh thể của nó. Nhờ đó mà tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hình thành và phát triển tư duy học sinh. Tuy vậy, khi sử dụng phương pháp gợi mở, giáo viên thiếu kinh nghiệm, không linh hoạt, khéo léo thì sẽ khó khăn trong tổ chức giờ dạy, làm cho giờ dạy trở nên vụn vặt, dễ bị xé bỏ, việc gợi mở cảm thụ là hạn chế. Song nhược điểm ấy có thể khắc phục được trong quá trình tổ chức giảng dạy. Phương pháp gợi mở, nêu vấn đề đòi hỏi giáo viên phải thiết kế được hệ thống câu hỏi phù hợp với nội dung bài học đồng thời dự tính được những hoạt 8
- động cần thiết trong giờ học. Câu hỏi phải đảm bảo tính chính xác, ngắn gọn, có tính hệ thống, phong phú về kiểu dạng và phải phù hợp với trình độ tiếp nhận của học sinh. Để giờ đọc hiểu văn bản ký thành công, nhất thiết phải xây dựng được một hay những tình huống có vấn đề và được học sinh tiếp nhận một cách có ý thức. Muốn làm được điều đó trước hết giáo viên phải xây dựng được một hệ thống câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề là loại câu hỏi mang tính chất tổng hợp, phức tạp về nội dung.Nó vạch ra được mối liên hệ hữu cơ giữa những yếu tố cụ thể, những vấn đề tổng hợp của văn bản đặc biệt là nó sát hợp với văn bản và khêu gợi hứng thú ở bản thân học sinh. Khi nêu được câu hỏi nêu vấn đề đòi hỏi một nghệ thuật ở người giáo viên là dự tính được mọi khả năng có thể xảy ra và tìm ra được phương thức hoạt động tối ưu để học sinh tìm kiếm. Giáo viên không chỉ có tài năng mà còn phải có năng lực sư phạm cần thiết. Chẳng hạn như khi đọc hiểu văn bản “ Người lái đò sông Đà” sau khi cho học sinh đọc xong văn bản giáo viên đưa ra hàng loạt câu hỏi có vấn đề để xác định hình tượng trung tâm của văn bản: Em hãy ghi lại những câu văn nói về sự hung bạo, trữ tình của sông Đà ? Hình tượng người lái đò sông Đà được miêu tả qua những cụm chi tiết nào? Từ đó em thấy được nét độc đáo gì trong ngòi bút của nguyễn Tuân? Thông qua hàng loạt câu hỏi nêu vấn đề, giáo viên dẫn dắt học sinh tìm hiểu nội dung văn bản, đặc biệt là mở rộng, nâng cao dần để kích thích hứng thú học tập ở học sinh phát triển tư duy sáng tạo ở người học. Nó có sức công phá mạnh mẽ vào lối dạy học tái hiện, đơn điệu kìm hãm những tài năng trí tuệ, tâm hồn tuổi trẻ nhà trường. 2.2. Phương pháp diễn giảng Diễn giảng vẫn là việc làm quen thuộc đối với những giáo viên văn học. Hình như nó đã trở thành thứ bí quyết trong giảng văn đặc biệt là các tác phẩm trữ tình. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là diễn giảng không phù hợp với hoạt động đọc hiểu văn bản ký ở nhà trường THPT, mà để cho giờ đọc hiểu thêm sâu sắc, đạt hiệu quả cao, người giáo viên nên sử dụng phương pháp diễn giảng. Diễn giảng là giảng giải, cắt nghĩa, nhận xét, đánh giá phẩm chất thẩm mĩ, đặc sắc nghệ thuật của văn bản. Sự bình phẩm, đánh giá trong văn bản ký phải thấy được sự thuyết phục và cảm thụ sâu sắc đựơc giá trị của văn bản. Có nghĩa là việc diễn giảng phải cho thấy được một nguyên tắc cảm thụ, tiếp cận văn bản, tuy nhiên không thể bỏ qua yếu tố cảm xúc trong quá trình bình. Phương pháp diễn giảng có một vị trí quan trọng, nhất là trong hoạt động dạy học tác phẩm văn chương. Trong cơ chế dạy học văn mới, đặc biệt là ở hoạt động đọc hiểu văn bản, diễn giảng không giữ được vị trí độc tôn như trước đây nhưng mặt nổi trội của nó thì vẫn được khẳng định. * Cách vận dụng phương pháp diễn giảng trong giờ đọc hiểu văn bản ký: 9
- Khi tiến hành giờ đọc hiểu văn bản ký, giáo viên vận dụng diễn giảng một cách linh hoạt và tích cực nhất.Giáo viên không giảng giải, cắt nghĩa tất cả các nội dung, chi tiết trong văn bản mà chỉ thực hiện ở một số chi tiết, vấn đề trọng tâm, quan trọng cần phải khai thác để nhận biết được giá trị tác phẩm, khai thông những trở ngại trong quá trình chiếm lĩnh văn bản. Giáo viên chỉ bình những chi tiết, hệ thống ý, luận điểm được xem là điểm sáng của văn bản, nơi kết tinh giá trị tư tưởng, nội dung và nghệ thuật của văn bản. Có khi chỉ cần bình một từ, một câu văn hay mà làm nổi bật được tư tưởng của toàn văn bản, cuốn hút, vẫy gọi học sinh vào chiếm lĩnh văn bản. Chẳng hạn khi đọc hiểu văn bản ký “ Ai đã đặt tên dòng sông”– Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo viên cho học sinh xác định hình tượng trọng tâm của văn bản,từ hình tượng ấy giáo viên chọn những câu văn là linh hồn của tác phẩm để giảng bình giúp cho học sinh có cái nhìn sâu sắc về hình tượng sông Hương.Ví dụ đoạn miêu tả sông Hương dữ dội mãnh liệt ,thơ mộng trữ tình giáo viên chọn câu văn “Sông Hương giống như một cô gái Di Gan phóng khoáng và man dại...Sông Hương dịu dàng đằm thắm trong màu đỏ của hoa Đỗ Quyên rừng...”.Có lúc sông Hương giống như một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” Nhưng trong quá trình thực hiện giáo viên nên chú ý kết hợp với giảng giải, phân tích, cắt nghĩa; để tạo căn cứ cho lời diễn giảng, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề hướng dẫn học sinh trả lời.Sau đó khái quát, tổng hợp lại nội dung cơ bản bằng việc phân tích, cắt nghĩa, giảng giải có thể qua hệ thống câu hỏi tu từ.Chẳng hạn,để tạo không khí cho sự thâm nhập vào văn bản của học sinh, giáo viên cần vận dụng những biện pháp hỗ trợ: đọc diễn cảm, dựng không khí cho tác phẩm. * Những yêu cầu đối với lời diễn giảng: Lời diễn giảng phải xoáy sâu vào điểm sáng của văn bản và chứa đựng cảm xúc sâu sắc, có như thế mới lôi cuốn được học sinh, mới gợi được những tâm hồn đồng điệu. Tuy nhiên không phải vì thế mà tỏ ra ướt át một cách không cần thiết, lời bình phải có tác dụng tác động vào lí trí người đọc, thuyết phục được học sinh qua đó làm nổi rõ tư tưởng, quan điểm của tác giả. Lời diễn giảng trong giờ đọc hiểu văn bản ký phải diễn đạt chính xác, đúng ý, độc đáo và đa dạng. Lời diễn giảng không nên quá dài mà cần ngắn gọn, cô đúc phù hợp với trình độ tiếp nhận của học sinh nếu không sẽ trở thành phản tác dụng. Phương pháp diễn giảng nếu sử dụng hợp lí trong giờ đọc hiểu văn bản ký sẽ đem lại hiệu quả cao thúc đẩy quá trình thâm nhập văn bản ở cả thầy và trò. Phương pháp diễn giảng tạo cho giờ đọc hiểu văn bản ký một không khí tươi mát làm cho cảm xúc học sinh được nảy nở tốt đẹp, làm cho học sinh đánh giá được chúng. Lời diễn giảng độc đáo, hấp dẫn của giáo viên còn là điều kiện khiến cho học sinh hứng thú khi tìm hiểu văn bản ký vốn đang xa lạ với học sinh miền núi . 2.3. Phương pháp làm việc với SGK 10
- Làm việc với SGK thực chất là hoạt động sử dụng sách giáo khoa như thế nào cho có hiệu quả để phát huy, khai thác được hết ưu thế của SGK. Việc sử dụng SGK yêu cầu sự chủ động, tích cực của cả giáo viên và học sinh. SGK là một tài liệu trực quan cơ bản và bắt buộc không thể thiếu trong giờ đọc hiểu văn bản nhất là những văn bản mới như văn bản ký thì tầm quan trọng của SGK là cần thiết và tất yếu,góp phần hình thành tri thức một cách hệ thống, khoa học, chính xác và có định hướng. Vấn đề là giáo viên và học sinh sử dụng như thế nào để đạt được hiệu quả cao trong giờ đọc hiểu các văn bản. Việc sử dụng SGK trong giờ đọc hiểu văn bản ký có thể nói là đem lại tính khả thi cao. Bởi các văn bản kí phần lớn dài đặc biệt hai tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” và “Người lái đò Sông Đà” là những tác phẩm có cách viết tài hoa,uyên bác ngôn ngữ đa dạng linh hoạt nên đòi hỏi học sinh phải đọc kĩ sách giáo khoa. Sử dụng SGK, học sinh có sự đối chiếu giữa văn bản SGK với bài dạy của giáo viên. Đặc biệt phương pháp này còn có khả năng rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh. Bởi vì SGK là tài liệu cơ bản luôn luôn tuân thủ theo nguyên tắc viết cho học sinh tự học. Hiện nay nhìn chung trình độ tư duy của học sinh phổ thông còn yếu. Do vậy sử dụng phương pháp làm việc với SGK sẽ góp phần nâng cao năng lực, tư duy nghiên cứu khoa học cho người học. Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chú ý tới một số điểm cụ thể sau: Nếu ta chỉ xem SGK là công cụ duy nhất trong dạy học rất dễ dẫn đến cái nhìn sơ cứng, phiến diện. Học sinh nếu chỉ dựa vào nội dung tri thức trong SGK mà không có sự mở rộng sách tham khảo sẽ khó phát triển được năng lực tự học. Nếu như quá lệ thuộc vào SGK thì tư duy của học sinh sẽ bị hạn chế và giờ đọc hiểu sẽ đơn điệu, tẻ nhạt. Khi sử dụng phương pháp làm việc với SGK đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Giáo viên phải nắm vững được nội dung văn bản từ đó có biện pháp sử dụng hợp lí. Đặc biệt khi thiết kế giáo án, giáo viên nhất thiết phải lưu ý tới nội dung SGK. Khi tìm văn bản chú ý sử dụng và khai thác tốt hệ thống câu hỏi trong SGK,kết hợp với các tài liệu tham khảo để bổ sung thông tin mới, tránh được sự cứng nhắc trong quan niệm cũng như sự nghèo nàn về kiến thức. Sử dụng SGK đòi hỏi giáo viên phải có sự sáng tạo và khả năng xử lí thông tin linh hoạt. Với một số văn bản được trình bày trong SGK, nếu giáo viên thấy không hợp lí có thể cấu trúc và triển khai giờ giảng theo hướng hợp lí hơn. Với người học cần sử dụng SGK trên tinh thần chủ động, sáng tạo. Học sinh cũng không nên xem SGK là tài liệu học tập duy nhất để tránh sự thụ động trong tìm hiểu tri thức. Khi làm việc với SGK giáo viên và học sinh có thể tiến hành một số thao tác để tìm hiểu văn bản ký như: Dựa vào nội dung văn bản để thiết kế giáo án cho phù hợp với nội dung bài giảng của giáo viên, dựa trên cơ sở văn bản của SGK nhưng không có nghĩa là chỉ nói lại SGK. 11
- Sau khi sử dụng SGK tìm hiểu được nội dung văn bản giáo viên có thể dùng bài tập ở cuối sách để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh 2.4. Phương pháp thực hành Một trong những mục tiêu cao nhất của đổi mới day học ở chương trình và SGK (thí điểm) là đào tạo con người phát triển toàn diện cả bốn năng lực nghe, nói, đọc, viết, vừa cung cấp tri thức lại vừa rèn luyện kĩ năng cho học sinh, không chỉ kĩ năng trong nhà trương phổ thông mà còn hình thành năng lực giao tiếp xã hội. Vì vậy mà khi dạy đọc hiểu văn bản ký bên cạnh các phương pháp nhằm cung cấp tri thức cho học sinh nắm được văn bản giáo viên phải rèn luyện thêm kĩ năng thực hành cho học sinh như kĩ năng cảm nhận một đoạn văn tiêu biểu,kĩ năng lựa chọn những chi tiết nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm để viết bài.Trên cơ sở những kiến thức về văn bản đã có được từ việc đọc hiểu ở cả hai mặt nội dung hình thức, ta áp dụng phương pháp này thông qua hệ thống bài tập để rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản cho học sinh. Chẳng hạn như đưa ra bài tập giáo viên có thể cho một đoạn văn tiêu biểu trong hai bài ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” và “Người lái đò Sông Đà” để học sinh phát hiện và từ đó có thể viết đoạn nghị luận xã hội trình bày quan điểm của mình về việc giữ gìn và phát huy nhưng danh lam thắng cảnh của đất nước.Từ đó giúp học sinh củng cố kĩ năng thực hành trong bài làm của mình Chẳng hạn sau khi học xong văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường giáo viên có thể cho học sinh viết đoạn văn nghị luận xã hội trình bày trách nhiệm của em về giữ gìn những danh lam thắng cảnh của đất nước.Sau đó cho học sinh trình bày trước lớp để các em rèn luyện kĩ năng giao tiếp cũng như kĩ năng tạo lập văn bản. Giáo viên cũng có thể chuẩn bị chủ đề phù hợp với nội dung của hai văn bản ký để học sinh thực hiện nhưng phải kích thích hứng thú học tập của học sinh, lôi cuốn các em vào các chủ đề đó. Để làm được điều này, yêu cầu người giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo và công phu, phải trang bị không chỉ những kiến thức cơ bản.Cần thiết mà còn phải có được một kĩ năng sư phạm nhuần nhuyễn, thành thục, hơn ai hết người thầy giáo phải là người ý thức rõ tầm quan trọng của phương pháp thực hành trong quá trình đọc hiểu văn bản. 2.5. Phương pháp tiếp cận liên văn bản Hướng khai thác những thông tin ngoài văn bản, liên văn bản như tiểu sử tác giả, ngữ cảnh sản sinh văn bản, so sánh văn bản cùng thể loại, cùng đề tài để soi chiếu vào nội dung tác phẩm, góp phần giải mã các lớp ý nghĩa tiềm ẩn trong văn bản. Soi chiếu vấn đề từ ngoài văn bản kết hợp với góc nhìn bên trong văn bản sẽ mang lại một hiệu ứng tổng hợp, toàn diện đối với thông điệp mà tác giả muốn hướng tới người tiếp nhận. Do đó giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp cận vấn đề trong tính liên thông sẽ tạo được một phản xạ tâm lý tích cực đến người học, các em sẽ có lối tư duy về vấn đề đặt ra trong tác phẩm với hơi thở, nhịp sống đương đại. Từ đây tính thời sự được học sinh tự đánh thức, 12
- tránh được lối dạy áp đặt một chiều từ phía người thầy. Tiến xa hơn nhận thức là học sinh có kỹ năng đọc đúng thể loại và phương pháp tạo lập sản sinh văn bản khi có yêu cầu.Giáo viên có thể thu thập các tranh ảnh bài viết liên quan đến sông Đà và sông Hương để cho học sinh quan sát và làm giờ dạy thêm sống động. Chẳng hạn khi tìm hiểu về tùy bút “Người lái đò sông Đà” ta có thể so sánh với “Chữ người tử tù” để thấy điểm tương đồng và khác biệt,vẫn phong cách tài hoa uyên bác khám phá đối tượng ở phương diện cái đẹp nhưng trước cách mạng cái tôi Nguyễn Tuân bất mãn trước thực tại nhưng sau cách mạng lại hòa mình trong cuộc sống con người. Khi tìm hiểu về sông Hương giáo viên có thể sử dụng kiến thức của mình về nền văn hóa Huế như: Nhạc cung đình Huế,tính cách dịu dàng của những con người xứ Huế hoặc giáo viên có thể so sánh với những con sông đã đi vào trong văn học và để lại dấu ấn không quên trong lòng bạn đọc như hình ảnh sông Đuống,con sông Hương trong thơ Hàn Mặc Tử… 2.6. Phương pháp dạy học theo nhóm với kĩ thuật mảnh ghép,kĩ thuật “Sơ đồ tư duy”,kĩ thuật trình bày 1 phút. Dạy học theo nhóm còn gọi là dạy học hợp tác,một hình thức tổ chức dạy học lấy học sinh làm trung tâm.Trong hoạt động nhóm,các thành viên không chỉ có trách nhiệm với nhiệm vụ học tập của mình mà còn có trách nhiệm quan tâm đến các thành viên khác của nhóm.Trong hoạt động hình thành kiến thức giáo viên đưa ra một số tình huống có vấn đề chia nhóm và học sinh thảo luận để rút ngắn thời gian đồng thời cho học sinh phát huy kĩ năng hợp tác,thuyết trình Ví dụ khi dạy tùy bút “Người lái đò Sông Đà” Nói về cuộc chiến của người lái đò và con sông Đà hung bạo giáo viên có thể chia nhóm: Bước 1:Giáo viên chia lớp thành 6 nhóm theo các nội dung sau: Nhóm 1,2: Ông lái đò đã làm gì để vượt qua trùng vi thạch trận thứ 1của Sông Đà? Trong cuộc chiến ông đò giống như đối tượng nào trong chiến trân? Nhóm 3,4 :Ông lái đò đã làm gì để vượt qua trùng vi thạch trận thứ 2? Tìm những câu văn hấp dẫn để cảm nhận? Nhóm 5,6: Ông lái đò đã làm gì để vượt qua trùng vi thạch trận thứ 3? Hãy nêu cảm nhận của ông đò trong cuộc vượt thác? Bước 2: Các nhóm lần lượt thảo luận để hoàn thiện bài tập. Bước 3: Các nhóm có cùng nội dung trao đổi hoàn thiện với nhau. Bước 4: Học sinh đại diện treo bảng thuyết trình. Bước 5: Học sinh các nhóm trình bày phản biện bổ sung. Sau khi học sinh trình bày giáo viên nhận xét bổ sung hoàn chỉnh câu trả lời Ví dụ cho hoạt động nhóm theo hình thức cặp đôi trong phần tìm hiểu bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường 13
- Bước 1:Giáo viên nêu vấn đề: Qua đọc bài và sự cảm nhận của em về tác phẩm.Hãy nêu sự cảm nhận của tác giả qua các góc độ khi miêu tả về sông Hương? Bước 2: Thảo luận theo cặp đôi để chứng minh vấn đề. Bước 3: Giáo viên mời đại diện trình bày. Bước 4 :Các nhóm khác bổ sung hoàn thiện câu trả lời. Bước 5:Giáo viên nhận xét chung,cho điểm khích lệ động viên và bổ sung chỗ còn thiếu và sử dụng sơ đồ tư duy để học sinh dễ nắm bắt về tác phẩm.Ví dụ như các góc nhìn về sông Hương: Góc nhìn địa lý,góc nhìn lịch sử và văn hóa.. 2.7. Phương pháp đóng vai: Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hiện một vấn đề trong tình huống giả định.Giáo viên có thể cung cấp tư liệu để học sinh xây dựng kịch bản và diễn trên bục giảng sân khấu.Phương pháp này được thực hiện khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiến thức về thể loại,kiến thức về tác giả,tác phẩm.Yêu cầu của phương pháp này giáo viên phải cung cấp tài liệu về thể kí chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh viết kịch bản và diễn.Sau khi trả lời giáo viên phải nhận xét cho điểm và định hướng lại nội dung cần thiết. Ví dụ: Kịch bản lớp trao đổi với tác giả Nguyễn Tuân về thể loại tùy bút qua “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân. MC”Chào các bạn! Hôm nay chúng ta sẽ đến với câu lạc bộ văn học những người yêu thơ văn.Chủ đề hôm nay của chúng ta sẽ là “Thể loại tùy bút qua tác phẩm người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân” Nguyễn Tuân(Chào khán giả) PV: Xin hỏi nhà văn có rất nhiều tác phẩm ký như tùy bút sông Đà,Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi.Nhà văn có thể cho người đọc biết một số kinh nghiệm viết kí? Nguyễn Tuân:Muốn viết kí thì phải đi nhiều,quan sát tường tận và ghi chép tỉ mỉ những gì mình quan sát được PV: Thưa nhà văn kí có những đặc điểm gì? Nguyễn Tuân: Kí vừa ghi chép trung thực vừa bộc lộ cảm xúc cái tôi của người viết.... PV: Thưa nhà văn khi viết về tùy bút “Người lái đò Sông Đà” điều mà nhà văn cảm thấy tâm đắc nhất là gì? Nguyễn Tuân: Đó chính là cảm xúc tha thiết với quê hương đất nước và tình yêu lòng ngưỡng mộ với con người trong công cuộc xây dựng xã hội mới. PV: Xin cảm ơn nhà văn. Phương pháp này tạo cho giờ học sinh động hấp dẫn học sinh không bị nhàm chán mà tạo hứng thú trong giờ học. 14
- Trên đây chúng tôi chỉ đưa ra một số nguyên tắc và phương pháp để vận dụng vào giờ đọc hiểu văn bản ký ở nhà trường phổ thông qua hai tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Với những phương pháp đã nêu, chúng tôi hi vọng sẽ giúp ích cho các giáo viên ở nhà trường phổ thông trong tỉnh Nghệ An nói chung và huyện miền núi Quỳ Châu chúng tôi nói riêng chủ động hơn trong khi giảng dạy các văn bản ký. Nhưng để cho giờ dạy đọc hiểu văn bản ký mang lại hiệu quả cao nhất, chúng ta nên vận dụng thêm một số phương pháp khác như: Đọc diễn cảm, phương pháp trực quan và nên có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phương pháp. PHẦN HAI: NỘI DUNG TIẾN TRÌNH BÀI DẠY THỂ NGHIỆM VĂN BẢN KÝ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 THPT Trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc và phương pháp dạy học văn bản ký trong chương trình Ngữ văn 12 THPT,chúng tôi thiết kế các nội dung tiến trình bài dạy thể nghiệm nhằm cụ thể hoá những vấn đề lý thuyết đã được trình bày ở phân 1.(Chúng tôi không có ý đ ̀ ịnh thiết kế giáo án mẫu mà chỉ nêu những nội dung, hoạt động dạy – học chính nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh ở các huyện miền núi tinh Nghệ An nói chung và huyện Quỳ Châu nói riêng) 1. Phương pháp thực hiện Chúng tôi xin đưa ra những đề xuất về hướng tiếp nhận các văn bản ký như sau: 1.1. Các căn cứ đề xuất hướng khai thác: + Dựa vào đặc trưng thể loại văn bản ký. + Quy định Chuẩn kiến thức, kỹ năng của từng bài. + Tình hình thực tế của đối tượng tiếp nhận. + Văn bản trong SGK Ngữ văn 12 . + Các phương pháp dạy học tích cực. 1.2. Đề xuất hướng khai thác cụ thể văn bản GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM: CHỦ ĐỀ KÍ Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học Kĩ năng đọc hiểu kí hiện đại Việt Nam. Bước 2: Nội dung chủ đề của bài học Tìm hiểu văn bản: Người lái đò Sông ĐàNguyễn Tuân,Ai đã đặt tên cho dòng sôngHoàng Phủ Ngọc Tường. Tìm hiểu đặc điểm cơ bản của thể ký. 15
- Tích hợp với môn tiếng việt và làm văn. Bước 3:Mục tiêu bài học 1.Kiến thức: Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật tác phẩm kí hiện đại Việt Nam và sự đóng góp của thể loại kí sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX. Đặc trưng phản ánh hiện thực đời sống của thể loại kí: Chân thực,đa dạng và phong phú. 2.Kĩ năng: Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại. Kĩ năng tự nhận thức. +Qua bài “ Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, học sinh nhận thức được vẻ đẹp người lao động trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước,thấy được tấm lòng nâng niu,trân trọng giá trị con người.Rút ra bài học cho bản thân về ý nghĩa công việc và giá trị con người. +Với Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường,học sinh nhận thức và trân trọng trước những giá trị văn hóa của dân tộc,rút ra bài học về sự gắn bó của của mỗi cá nhân với quê hương đất nước. Kĩ năng tư duy sáng tạo: + Phân tích bình luận cá tính độc đáo trong cách thể hiện hình tượng sông Đà,người lái đò sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân và sự thể hiện dòng sông Hương ở tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”của HPNT. Kĩ năng hợp tác: Học sinh biết bày tỏ ý kiến,tham gia xây dựng các hoạt động và nhiệm vụ được giao,nỗ lực phát huy năng lực bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ. c.Thái độ: Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm yêu quê hương đất nước Có thái độ ngưỡng mộ trân trọng tài năng nhân cách tác giả. Biết trân trọng cái đẹp và sự sáng tạo của người nghệ sĩ. D.Năng lực: Dạy tác phẩm ký theo chủ đề hình thành và phát triển năng lực: Năng lực tự học,năng lực tự giải quyết vấn đề,thu thập thông tin liên quan đến chủ đề,năng lực tư duy, năng lực hợp tác,năng lực trình bày vấn đề, năng lực thẩm mỹ,năng lực vận dụng liến thức liên môn: Lịch sử,địa lý,âm nhạc,hội họa,du lịch,thi ca,tích hợp kiến thức sách vở đời sống,tích hợp đọc vănTiếng việtLàm văn 16
- Bước 4 :MỨC ĐỘ YÊU CẦU MỖI LOẠI CÂU HỎI/ BÀI TẬP CÓ THỂ SỬ DỤNG ĐỂ KIỂM ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC VÀ PHẨM CHẤT CỦA HỌC SINH TRONG TRƯỜNG HỌC. Vận dụng thấp/vận Nhận biết Thông hiểu dụng cao Kể tên một số tác phẩm Chỉ ra đặc trưng cơ bản Xác định đặc điểm của ký đã học? của thể ký.Phân biệt sự thể loại kí được sử khác nhau giữa tùy bút dụng trong văn bản? và bút kí? Nêu những nét chính về Chỉ ra những biểu hiện Làm rõ phong cách tác tác giả? về phong cách tác giả? giả qua tác phẩm? Chỉ ra ngôn ngữ,biện Phân tích nét đặc sắc Đánh giá việc sử dụng pháp nghệ thuật được trong ngôn từ,biện pháp ngôn từ của tác giả sử dụng để nhà văn xây nghệ thuật,giải thích trong tác phẩm? dựng hình tượng nghệ một số từ,hình ảnh thuật? nghệ thuật? Xác định hình tượng Phân tích đặc điểm của Đánh giá cách xây dựng nghệ thuật được xây hình tượng? hình tượng nghệ thuật? dựng trong bài kí? Tác dụng nghê thuật Nêu cảm nhận/ấn tượng giúp tác giả thể hiện cái riêng của bản thân về nhìn về cuộc sống và hình tượng nghệ thuật? con người? xác định tư tưởng của Lý giải tưởng của nhà Liên hệ thực tế rút ra bài tác giả trong tác phẩm? văn gửi gắm trong tác học nhận thức và hành phẩm? động qua tác phẩm đã học? Bước 5: CÁC CÂU HỎI/BÀI TẬP CỤ THỂ THEO CÁC MỨC ĐỘ YÊU CẦU ĐÃ MÔ TẢ Nhận biết Thông hiểu Vận dụng thấp/Vận dụng cao Trình bày những hiểu Phong cách nghệ thuật Bài “Người lái đò sông biết của em về tác giả của Nguyễn Tuân có gì Đà” giúp em hiểu thêm Nguyễn Tuân? Kể tên đặc biệt? gì về đặc trưng phong các tác phẩm tiêu biểu? cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân? Tác phẩm được viết Qua bài kí sự em hiểu Sau khi đã được xem kí 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 285 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 194 | 29
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 179 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p | 46 | 14
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 33 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 24 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 19 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 40 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 32 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 23 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p | 42 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 35 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp tính khoảng cách trong hình học không gian lớp 11
35 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả daỵ - học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh qua tiết 07 - bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia
45 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 32 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn