Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông môn Giáo dục công dân ở trường THPT Dân tộc nội trú Nghệ An
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là đưa ra được một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp THPT môn GDCD ở trường THPT DTNT Tỉnh. Ngoài ra còn được áp dụng tại 2 trường THPT trên địa bàn thành phố Vinh tỉnh Nghệ An. Các biện pháp đưa ra đảm bảo tính khoa học, tính khả thi và tính thực tiễn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông môn Giáo dục công dân ở trường THPT Dân tộc nội trú Nghệ An
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH NGHỆ AN ---------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN: GIÁO DỤC CÔNG DÂN TÊN ĐỀ TÀI: “NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÔN THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH NGHỆ AN” Vinh, 03/2010 1
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH NGHỆ AN ---------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN: GIÁO DỤC CÔNG DÂN TÊN ĐỀ TÀI: “NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÔN THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH NGHỆ AN” Tác giả : Nguyễn Thị Hương Đơn vị : Trường THPT DTNT Tỉnh Nghệ An Điện thoại : 0915146696 Vinh, 03/2010 2
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT GV : Giáo viên HS : Học sinh PPDH : Phương pháp dạy học THPT : Trung học phổ thông DTNT : Dân tộc nội trú NL : Năng lực TN : Tốt nghiệp 3
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................. 6 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 6 2. Giới hạn nội dung và phạm vi áp dụng .............................................................. 7 3. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 7 4. Tính mới của đề tài ............................................................................................ 7 5. Ý nghĩa của đề tài............................................................................................... 7 NỘI DUNG ..................................................................................................... 8 1. Cơ sở lí luận và thực trạng dạy ôn thi tốt nghiệp môn GDCD ở trường THPT nói chung và trường THPT DTNT nói riêng ......................................................... 8 1.1. Cơ sở lí luận .................................................................................................... 8 1.1.1. Các khái niệm liên quan ............................................................................ 8 1.1.2. Các văn bản chỉ đạo liên quan ................................................................... 8 1.2. Thực trạng dạy ôn thi tốt nghiệp môn GDCD ở trường THPT nói chung và trường THPT DTNT nói riêng ............................................................................... 8 1.2.1. Thực trạng dạy ôn thi tốt nghiệp môn GDCD ở các trường THPT hiện nay ....................................................................................................................... 8 1.2.2.Thực trạng dạy ôn thi tốt nghiệp môn GDCD ở trường THPT Dân tộc nội trú Tỉnh.............................................................................................................. 10 2. Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp môn GDCD ở trường THPT Dân tộc nội trú Tỉnh .................................................................................. 12 2.1. Thay đổi nhận thức cho học sinh về tầm quan trọng môn GDCD ............ 12 2.2. Hệ thống hóa kiến thức cơ bản trên cơ sở bám sát tài liệu GDCD, chuẩn kiển thức kĩ năng và giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo. ............................ 16 2.3. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực phù hợp kích thích tính sáng tạo của học sinh trong quá trình ôn thi TN THPT............................................ 17 2.4. Xây dựng bộ đề thi theo các cấp độ trên cơ sở phân tích ma trận đề minh họa của Bộ Giáo dục......................................................................................... 24 2.5. Tổ chức luyện đề thi cho học sinh dưới nhiều hình thức ........................... 37 2.6. Rèn luyện kĩ năng làm bài thi cho học sinh ............................................... 45 3. Kết quả đạt được và bài học kinh nghiệm ....................................................... 47 3.1. Kết quả đạt được ........................................................................................ 47 3.2. Bài học kinh nghiệm................................................................................... 48 4. Hướng phát triển của đề tài .............................................................................. 50 4
- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 52 1. Kết luận ............................................................................................................ 52 2. Kiến nghị. ......................................................................................................... 52 TƯ LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 53 5
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cùng với các môn khoa học khác, môn Giáo dục công dân (GDCD) góp phần hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của người công dân trong thời đại mới. Môn GDCD góp phần quan trọng trong việc nhân cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại.Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang có những biến đổi nhanh chóng, mọi mặt của đời sống xã hội đang ngày càng quốc tế hóa mạnh mẽ, trên đất nước ta đang có những biến đổi toàn diện sâu sắc, thì việc đào tạo được những thế hệ công dân có lập trường vững vàng, có ý thức tự tôn dân tộc, giỏi dang là điều hết sức cần thiết. Điều đó cho thấy môn GDCD có vị trí hết sức quan trọng, vì vậy phải nhận thức đúng đắn vị trí của môn học này thì mới góp phần thực hiện chiến lược con người mà chúng ta đang triển khai cả tư duy và hành động. Ngày 28 -9 -2016 Bộ Giáo dục đã công bố phương án thi THPT quốc gia gồm 5 bài thi: Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ, Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội (tổ hợp Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân). Như vậy từ năm 2016 đến nay môn GDCD trở thành môn thi tốt nghiệp. Với tư cách là một môn trong tổ hợp khoa học xã hội trong kì thi THPT vì vậy môn GDCD cần được coi trọng đúng mức. Trong thực tế những nhận thức, những quan niệm hết sức sai lệch về môn GDCD coi đây là một môn học phụ, nên bất kì giáo viên nào cũng có dạy môn học này. Nhận thức như vậy cho nên sẽ dẫn đến những sai lầm khiến cho quá trình dạy học khó đạt được mục tiêu đề ra, đặc biệt để nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) lại càng khó đạt được kết quả như mong muốn. Nâng cao chất lượng môn học là yêu cầu chung trong các nhà trường để đáp ứng với yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn ngành giáo dục. Thực tế việc đổi mới phương pháp dạy học tại trường THPT Dân tộc nội trú (DTNT) Tỉnh nói riêng và toàn tỉnh Nghệ An nói chung đang có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Trong đó sử dụng các biện pháp dạy học để nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp THPT là yêu cầu cấp thiết của giáo viên trong các nhà trường hiện nay bởi đó vừa là mục tiêu vừa và kết quả của quá trình dạy học. Là giáo viên giảng dạy môn GDCD ở mái trường DTNT, hơn ai hết bản thân tôi hiểu rõ được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng môn học mà mình đảm nhiệm là việc làm hết sức cần thiết. Thực tế giảng dạy tôi đã áp dụng một số biện pháp để nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp THPT môn GDCD và bước đầu nhận thấy đem lại hiệu quả rõ rệt. Từ những lý do trên trong thực tiễn công tác của bản thân tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm về "Nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông môn Giáo dục công dân ở trường THPT Dân tộc nội trú Nghệ An". 6
- 2. Giới hạn nội dung và phạm vi áp dụng - Đề tài đã được áp dụng ở 3 trường THPT trên địa bàn thành phố Vinh. - Khách thể nghiên cứu: học sinh trường THPT DTNT tỉnh Nghệ An, học sinh trường THPT DTNT số 2, học sinh trường THPT Lê Viết Thuật. - Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng tại trường THPT DTNT tỉnh Nghệ An, trường THPT Lê Viết Thuật và THPT Dân tộc nội trú số 2. 3. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm bản thân tôi sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu lí luận - Tìm hiểu các tài liệu liên quan sau đó tổng hợp lại để xây dựng nên cơ sở lí luận của đề tài. - Phương pháp thực tiễn - Điều tra xã hội thông qua các học sinh, giáo viên trên địa bàn bằng phiếu khảo sát - Phương pháp đàm thoại: Trao đổi trò chuyện với một số học sinh và một số thầy cô giáo trường DTNT, THPT Lê Viết Thuật về các nội dung liên quan đến kĩ năng giao tiếp để kết quả nghiên cứu phong phú hơn. - Phương pháp nghiên cứu bổ trợ - Phương pháp nghiên cứu thống kê toán học: tôi đã tiến hành khảo sát, thống kê rồi đưa vào excel để tính phần trăm, tính trung bình cộng. - Phương pháp phân tích số liệu Trong quá trình thực hiện đề tài tôi sử dụng phương pháp phân tích số liệu để đánh giá thực trạng và kết quả thu được. 4. Tính mới của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng sáng kiến kinh nghiệm đã đưa ra được một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp THPT môn GDCD ở trường THPT DTNT Tỉnh. Ngoài ra còn được áp dụng tại 2 trường THPT trên địa bàn thành phố Vinh tỉnh Nghệ An. Các biện pháp đưa ra đảm bảo tính khoa học, tính khả thi và tính thực tiễn. 5. Ý nghĩa của đề tài Sáng kiến kinh nghiệm góp phần nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT môn GDCD cho học sinh đồng thời có thể áp dụng rộng rãi ở các trường THPT và làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu các nội dung liên quan đến bộ môn. 7
- NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận và thực trạng dạy ôn thi tốt nghiệp môn GDCD ở trường THPT nói chung và trường THPT DTNT nói riêng 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Các khái niệm liên quan - Ôn thi: ôn lại chương trình học, giúp học sinh ghi nhớ kiến thức để tham gia kì thi (Từ điển Tiếng Việt Trang 115- NXBGD) - Tốt nghiệp trung học phổ thông: hoàn thành chương trình giáo dục và trình độ hết lớp 12.( Từ điển Tiếng Việt Trang 245- NXBGD) 1.1.2. Các văn bản chỉ đạo liên quan - Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế thi tốt nghiệp Trung học phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số 15/2020/TT-BGDĐT ngày 26/5/2020. - Các văn bản triển khai về việc ôn thi TNTHPT của Sở giáo dục và đào tạo Nghệ An. - Qui chế chuyên môn của trường THPT DTNT Tỉnh 1.2. Thực trạng dạy ôn thi tốt nghiệp môn GDCD ở trường THPT nói chung và trường THPT DTNT nói riêng 1.2.1. Thực trạng dạy ôn thi tốt nghiệp môn GDCD ở các trường THPT hiện nay Xuất phát từ mục tiêu môn học GDCD ở cấp THPT góp phần củng cố, phát triển ở HS lý tưởng sống đúng đắn, những phẩm chất và năng lực cơ bản của con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện ở nhận thức, hành vi và tình cảm, niềm tin với tư cách là một chủ thể của sự phát triển nhân cách. Môn GDCD góp phần phát triển cân đối, hài hòa giữa kiến thức, kĩ năng, thái độ; giữa nhận thức và hành động của HS để hình thành ở các em tình cảm, niềm tin và ý thức trách nhiệm của tuổi trẻ trước sự phát triển đất nước. Nội dung môn GDCD ở cấp THPT là hệ thống các kiến thức về nhiều lĩnh vực, giúp HS có đủ những hiểu biết cơ bản để hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, góp phần giúp HS có cơ sở giải quyết những vấn đề của cuộc sống. Vì vậy, GV môn GDCD khi sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để giúp HS tiếp cận các tri thức gắn với thực tiễn một cách dễ dàng hơn, học sinh sẽ hứng thú tự giác khám phá tri thức, kích thích trí sáng tạo từ đó hiệu quả bài dạy được nâng cao. Môn GDCD là một trong 3 môn thi thuộc tổ hợp KHXH nên trong những năm gần đây các nhà trường đã bắt đầu chú ý quan tâm hơn đến môn giáo dục công dân. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không nhỏ vẫn tỏ ra thờ ơ, coi thường môn học. Chẳng hạn họ không muốn học sinh của mình, con em mình thi học sinh giỏi môn giáo dục công dân, giành nhiều thời gian để học môn này kể cả khi môn giáo dục 8
- công dân đã được bộ giáo dục và đào tạo đưa vào thi trung học phổ thông quốc gia và xét tuyển ở một số trường đại học… Bên cạnh một số giáo viên tâm huyết, tích cực tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra những giải pháp, cách dạy hay để nâng cao chất lượng, hiệu quả tiết học thì vẫn còn một bộ phận giáo viên tỏ ra thờ ơ, ít đầu tư cho chuyên môn. Nhiều giáo viên còn có thái độ dạy đối phó, chưa sử dụng nhiều phương pháp hiện đại, chưa sáng tạo, chưa đáp ứng được yêu cầu của giáo dục hiện nay. Giáo viên chuẩn bị bài lên lớp còn sơ sài, chưa đầu tư thời gian công sức và tâm huyết nên việc áp dụng những phương pháp mới để tạo ra sự hứng thú cho học sinh chưa được nhiều và thường xuyên. Về phía học sinh thường vẫn có tư tưởng học đối phó là chính, vì HS cho rằng môn GDCD là môn phụ, lại có kiến thức khó, trừu tượng. Môn GDCD cũng chưa phải là môn chính để xét tuyển phổ biến ở các trường ĐH trên cả nước. Nội dung môn GDCD có nhiều bất cập. Một số bài học còn quá tải nên giáo viên không có nhiều cơ hội để tổ chức các hoạt động cho học sinh. Một số kiến thức, đặc biệt là Phần 1 “Công dân với việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học” của lớp 10 và Phần 1 “Công dân với kinh tế” của lớp 11 hơi khó và trừu tượng đối với học sinh THPT. Khác với các môn học khác, môn GDCD có tính thời sự cao nên đòi hỏi giáo viên phải cập nhật thường xuyên, kịp thời. Điều đó cũng có nghĩa là giáo viên môn GDCD phải chịu khó đầu tư nhiều thời gian cho chuyên môn của mình. Tài liệu và phương tiện dạy học mà Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhà trường đầu tư cho môn học còn rất ít và chưa thật phù hợp. Phương tiện chủ yếu là do giáo viên tự làm nên vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn. Đặc thù của môn học đòi hỏi phải có thời gian, điều kiện để cập nhật thường xuyên những thông tin mới phục vụ hoạt động dạy và học. Do đó mà giáo viên môn GDCD cần phải có nhiều thời gian và phương tiện hiện đại. Đây cũng là môn học được lồng ghép khá nhiều nội dung như: Kỹ năng sống, phòng chống tham nhũng, môi trường…nên giáo viên môn giáo dục công dân phải dành thời gian để lấy thông tin, tiết chế thời lượng của một tiết dạy nhằm đảm bảo được yêu cầu đặt ra. Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay được xem là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Đổi mới PPDH phải đạt yêu cầu phát huy tính tích cực, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho người học. Có GV lại quan niệm đổi mới PPDH là phải có hoạt động nhóm nhưng lại lúng túng trong việc tổ chức điều khiển, phối hợp hoạt động của HS trong nhóm để tạo nên kết quả tổng hợp của cả nhóm. Mặc khác, vẫn còn không ít GV do chưa đầu tư nhiều cho giáo án nên kết quả lên lớp giảng bài theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều. GV thuyết trình cung cấp kiến thức, áp đặt những kinh nghiệm hiểu biết của mình tới HS con đường tích cực, chủ động khám phá tri thức. Không ít các trường học, việc đổi mới PPDH không được thực hiện thường xuyên chỉ tập trung ở một số giờ thao giảng, thi Gv giỏi, các giờ học chuyên đề mang tình trình diễn GV mới thực sự đầu tư. 9
- Qua khảo sát một số trường ở thành phố và các huyện phụ cận kết quả cho thấy vẫn còn khoảng 30- 40 % GV còn phụ thuộc vào sách giáo khoa, sách thiết kế mẫu mà chưa chủ động xây dựng, tổ chức hoạt động dạy học, lựa chọn phương pháp và cách đánh giá theo định hướng tích cực hóa hoạt động học tập của HS đặc biệt là tiết ôn tập thì hầu như chỉ phát đề cho HS làm mà không có sự khái quát đề theo dạng và ma trận. Với tư cách là một môn khoa học ở trường phổ thông, bộ môn GDCD cũng hướng vào mục tiêu chung của nền giáo dục. Cùng với chủ đề đổi mới phương pháp dạy học, đợt bồi dưỡng chuyên môn về bồi dưỡng các phương pháp dạy học tích cực đã được chuyển tải đến đội ngũ GV, nên càng ngày giáo viên GDCD nói riêng và các GV bộ môn nói chung đã đổi mới phương pháp dạy học rõ nét. Tuy nhiên, hiện tượng dạy học lệ thuộc vào sách giáo khoa và sách giáo viên còn phổ biến. Việc rèn luyện các kĩ năng, thái độ trong dạy học môn GDCD thực hiện chưa đạt yêu cầu đề ra của chương trình. Thời gian gần đây khi môn GDCD đã được đưa vào tổ hợp thi THPT quốc gia nên GV đã đầu tư nhiều hơn trong giảng dạy nhưng để thực sự đổi mới mạnh mẽ thì nhiều GV vẫn còn sức ì. Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực hiệu quả còn thấp, sử dụng hình thức còn đơn điệu, chưa phù hợp với bài học, với thực tiễn, với đối tượng học sinh nên hiệu quả giờ dạy chưa cao. Một số GV còn lúng túng trong việc sử dụng phương pháp dạy học. GV đã sử dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng chưa có kĩ năng thành thạo để sử dụng phương pháp đó. Những điều bất cập trên đưa đến hệ lụy là việc giảng dạy chưa thực sự đảm bảo chất lượng môn học, GV trong giờ dạy còn mang tình chất tuyên truyền thuyết minh thuần túy, áp đặt, chưa biết sử dụng phương pháp dạy học tích cực một cách bài bản và hiệu quả nên chất lượng bộ môn chưa được như mong muốn. 1.2.2.Thực trạng dạy ôn thi tốt nghiệp môn GDCD ở trường THPT Dân tộc nội trú Tỉnh 1.2.2.1.Thuận lợi Về bề dày truyền thống của trường thì trường THPT DTNT Tỉnh là một trong 5 trường trọng điểm của ngành đã có thương hiệu trong nhiều năm qua và đã đạt nhiều thành tích cao trong dạy và học nên được nhiều học sinh và phụ huynh tin tưởng. Nhà trường rất quan tâm đến việc nâng cao đến chất lượng dạy và học, đổi mới phương pháp dạy học. Trong thời gian qua BGH luôn quan tâm và chỉ đạo sát sao đối với hoạt động chuyên môn của nhà trường, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Mỗi năm nhà trường tổ chức rất nhiều đợt thao giảng tập trung, dự giờ thăm lớp đột xuất, mỗi tháng sinh hoạt chuyên môn theo đúng qui định, tổ chức hội nghị báo cáo sáng kiến kinh nghiệm 2 lần, mỗi năm kiểm tra hồ sơ chuyên môn của từng giáo viên không dưới 2 lần trong một năm… Tất cả các hoạt động đó không ngoài mục đích nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả dạy và học, đáp ứng yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. 10
- Đội ngũ giáo viên trường có trình độ chuyên môn vững, khiêm tốn học hỏi lẫn nhau và đặc biệt là rất say sưa tâm huyết với chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc được giao. Điều kiện cơ sở vật chất khang trang, đáp ứng được yêu cầu dạy và học. Nhà trường đã trang bị phòng dạy ti vi kết nối intonet phục vụ cho việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học có thể đáp ứng được phương pháp dạy học mới, hiện đại. 1.2.2.2. Khó khăn Mặc dù năm học 2016-2017 môn GDCD đã được đưa vào thi THPT quốc gia nhưng một số học sinh vẫn còn thờ ơ, chưa thật sự quan tâm nhiều đến môn học. Do học sinh không chú trọng đến môn học và do kiến thức môn học khô khan trừu tượng nên đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực, trăn trở để tìm ra nhiều giải pháp, nhiều cách dạy hấp dẫn nhằm kích thích sự hứng thú của học sinh. Thực trạng việc dạy và học môn GDCD ở trường THPT nói chung và trường THPT DTNT nói riêng chúng ta nhận thấy người GV, đặc biệt là GV giảng dạy môn GDCD luôn được xã hội nhìn nhận ở hai vai trò vừa là nhà khoa học giáo dục, vừa là hình mẫu chuẩn mực về nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống là tấm gương sáng để HS noi theo. Hơn bất cứ bộ môn khoa học nào, GV giảng dạy môn GDCD cần ý thức được điều đó. Tri thức của môn học không dừng lại ở kiến thức hàn lâm, sách vở trong kho tàng tri thức đồ sộ của nhân loại mà quan trọng hơn là GV giảng dạy môn GDCD phải xây dựng cho HS lý tưởng, ước mơ, hoài bão, chuẩn bị cho các em hành trang để bước và cuộc sống một cách tự tin và xứng đáng là người công dân chân chính giàu lòng nhân ái, biết chia sẻ, trung thực, vị tha, sáng tạo, quyết đoán. Để môn học thực sự là môn học giáo dục con người và học để làm người trong hệ thống các môn học ở trường phổ thông môn GDCD giữ vai trò là thế giới quan, giúp các em biết phân biệt phải trái. Mặc dù có tầm trong trọng như vậy, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, chất lượng dạy - học môn học này trong thời gian qua còn nhiều bất cập. Đã đến lúc phải có những đánh giá, nhìn nhận thực sự nghiêm túc từ phía người dạy lẫn người học để từ đó có giải pháp nâng cao chất lượng dạy học môn học có vị trí quan trọng này. Với tư cách là một môn khoa học ở trường phổ thông, bộ môn GDCD cũng hướng vào mục tiêu chung của nền giáo dục. Cùng với chủ đề đổi mới phương pháp dạy học, đợt bồi dưỡng chuyên môn về bồi dưỡng các phương pháp dạy học tích cực đã được chuyển tải đến đội ngũ GV, nên càng ngày giáo viên GDCD nói riêng và các GV bộ môn nói chung đã đổi mới phương pháp dạy học rõ nét. Tuy nhiên, hiện tượng dạy học lệ thuộc vào sách giáo khoa và sách giáo viên còn phổ biến. Việc rèn luyện các kĩ năng, thái độ trong dạy học môn GDCD thực hiện chưa đạt yêu cầu đề ra của chương trình. Thời gian gần đây khi môn GDCD đã được đưa vào tổ hợp thi THPT quốc gia nên GV đã đầu tư nhiều hơn trong giảng dạy nhưng để thực sự đổi mới mạnh mẽ thì nhiều GV vẫn còn sức ì. Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực hiệu quả còn thấp, sử dụng hình thức còn đơn điệu, 11
- chưa phù hợp với bài học, với thực tiễn, với đối tượng học sinh nên hiệu quả giờ dạy chưa cao. Chất lượng giáo dục được quyết định bởi nhiều yếu tố, các yếu tố quan trọng thuộc phía chủ thể tổ chức hoạt động giáo dục như: mục tiêu giáo dục xác định phù hợp hay không, chương trình giáo dục tiên tiến hay lạc hậu, phương pháp giáo dục phù hợp hay không phù hợp, đội ngũ giáo viên có đáp ứng không, cơ sở vật chất, môi trường giáo dục...trong đó phương pháp giảng dạy đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng môn học nói chung, môn GDCD nói riêng. Lựa chọn phương pháp ôn thi phù hợp nó sẽ quyết định kết quả thi về môn học mà GV đảm nhiệm. Vì vậy, trong quá trình ôn thi tốt nghiệp cho học sinh lớp 12 tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm sau: 2. Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp môn GDCD ở trường THPT Dân tộc nội trú Tỉnh 2.1. Thay đổi nhận thức cho học sinh về tầm quan trọng môn GDCD 2.1.1. Mục tiêu: Để cho học sinh yêu thích môn học thì trước tiên GV phải thay đổi nhận thức về vai trò vị trí bộ môn. Hứng thú có một vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động, là động lực thúc đẩy chủ thể tạo ra những sản phẩm góp phần vào sự phát triển của xã hội. Trong hoạt động học tập, hứng thú có vai trò hết sức quan trọng, thực tế cho thấy hứng thú đối với các bộ môn của học sinh tỉ lệ thuận với kết quả học tập của các em. Đổi mới từ nội dung, chương trình; đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo; đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; coi trọng quản lý chất lượng; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội để phát triển giáo dục và đào tạo. Vấn đề đặt ra là đổi mới giáo dục Việt Nam phải chú trọng đổi mới để làm gia tăng cảm xúc, hứng thú tích cực học tập của người học theo quan điểm “Giáo dục không nhằm nhồi nhét kiến thức mà là thắp sáng niềm tin”. 2.1.2. Nguyên nhân: Bàn về thực trạng học tập môn Giáo dục công dân của học sinh THPT hiện nay, bên cạnh những học sinh vui thích, đam mê với việc học tập thì cũng có một bộ phận không nhỏ các em không thích học, chán học, nguyên nhân là do mất hứng thú học tập. Tình trạng chán học, không thích học do mất hứng thú học này đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập của các em nói riêng và chất lượng Giáo dục công dân ở bậc THPT nói chung Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu của sự chán, lười học của học sinh THPT qua khảo sát điều tra ở một số trường THPT là xuất phát từ nhiều lý do. Tình trạng lớp học môn Giáo dục công dân tương đối trầm ở 12
- các trường THPT khá phổ biến hiện nay. Khi khảo sát ngẫu nhiên các lớp THPT, tôi nhận thấy tỷ lệ phát biểu ít chiếm quá 52%, rồi đến tỷ lệ những học sinh chưa bao giờ phát biểu khá cao (xấp xỉ 41%), còn lại lượng học sinh hăng hái phát biểu không đáng kể. Nguyên nhân gây nên hiện tượng này khá phức tạp, bắt nguồn từ tâm lý chung của học sinh đối với môn học Giáo dục công dân: khá nhiều học sinh cho rằng môn Giáo dục công dân đơn thuần chỉ là môn học thuần túy hay chỉ là môn học bổ trợ thêm kiến thức. Tình trạng không chuẩn bị bài trước khi đến lớp vẫn tồn tại khá phổ biến. Ở hầu hết các trường lớp, học sinh thường khá bị động trong việc tự chuẩn bị bài ở nhà, kể cả khi giáo viên kiểm tra, các em vẫn có xu hướng làm hình thức đối phó. Nguyên nhân sâu xa của thực trạng phổ biến này là: học sinh có rất ít thời gian học ở nhà trong khi lượng kiến thức học nhiều môn quá lớn, học sinh chưa chú tâm tới môn học cho rằng môn Giáo dục công dân là môn học phụ hay chưa hiểu rõ tác dụng của phương pháp học này. Cá biệt, có một số học sinh tỏ ra thực sự hờ hững, thiếu nghiêm túc đối với môn học giáo dục công dân. Với suy nghĩ phiến diện, lệch lạc, phần lớn học sinh chỉ học tủ, học vẹt nhằm đối phó với giáo viên. Đến khi kiểm tra thì quay cóp, sử dụng tài liệu… Hiện tượng học sinh không mặn mà trong việc học môn giáo dục công dân đã tồn tại khá lâu, trở thành “nếp”, tạo nên sức ì về mặt tâm lí mà muốn khắc phục không phải dễ dàng. Một thực tế phải nhìn nhận khách quan đó là về mặt nhận thức, về tư tưởng, trong xã hội hiện vẫn còn có một bộ phận không nhỏ chưa hiểu đúng vai trò, vị trí của môn Giáo dục công dân. Vẫn còn có những nhận thức sai lầm đến mức cho rằng đây là môn học không quan trọng, không cần thiết. Trong thực tế thậm chí có hiện tượng một số nơi đã sử dụng giáo viên không có chuyên môn Giáo dục công dân để giảng dạy. Một khuynh hướng khác nghiêng về hướng đồng nhất môn học này với việc tuyên truyền phổ biến chính sách, đường lối hoặc đơn thuần chỉ là môn học có vai trò “minh họa” thuần túy. Chính vì không phân biệt được vai trò khoa học và vai trò “chính trị” nên dẫn tới tâm lý “xem nhẹ”, “coi thường”. Đây là một khuynh hướng sai lầm về nhận thức cần kịp thời có sự điều chỉnh, thay đổi. Về phía người dạy, qua thực tế có thể nhận thấy, phần lớn giáo viên vẫn lên lớp bằng phương pháp truyền thống: thầy đọc, trò chép, tạo cảm giác mệt mỏi, thụ động đối với học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức. Một số giáo viên lên lớp với tâm lý cho rằng môn của mình là môn phụ nên ít có sự quan tâm, đầu tư trong việc soạn giáo án, chuẩn bị bài lên lớp. Bên cạnh đó, việc thiếu những dẫn chứng sinh động trong thực tế cũng như thiếu những dụng cụ trực quan làm cho các tiết học trở nên khô khan, nhàm chán, không gây được sự hứng thú đối với học sinh. Hệ quả tất yếu là chất lượng tiết học có nhiều hạn chế. Đã đến lúc phải có những đánh giá, nhìn nhận thực sự nghiêm túc cả từ phía người dạy lẫn người học; cả các cấp lãnh đạo quản lý, toàn xã hội về 13
- nhận thức cũng như sự cần thiết đầu tư thích đáng với vị trí và tầm quan trọng đặc biệt của môn học. Từ đó có giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn giáo dục công dân đạt hiệu quả, chất lượng cao, nhất là trong sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện nay. Với câu hỏi “Những nguyên nhân thúc đẩy bạn học tốt hơn môn giáo dục công dân?”, nhiều học sinh cho rằng: Ngoài những nguyên nhân gắn liền với mục đích học tập môn Giáo dục công dân, còn có một số nguyên nhân khác. Ví như: Giáo viên tạo không khí học tập vui vẻ, không quá căng thẳng; do có niềm đam mê với môn học; học để tìm tòi những điều mới mẻ, tư duy lý luận logic, sáng tạo hơn; do ý thức bản thân thấy được tầm quan trọng của việc học môn Giáo dục công dân. 2.1.3. Giải pháp: Nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân trong nhà trường hiện nay, trước hết cần nghiêm túc nhìn nhận lại vai trò, vị trí của môn học này trong hệ thống các môn học ở trường phổ thông từ đó đề ra các giải pháp cụ thể và có tính khả thi. Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. GV cần có giải pháp tạo ra và duy trì hứng thú tích cực thực sự cho học sinh đối với môn học giáo dục công dân. Muốn nâng cao hứng thú học tập trước hết phải hình thành, giáo dục động cơ học tập, nhu cầu học tập đúng đắn. Động cơ học tập tốt không tự có mà cần phải được xây dựng, hình thành trong quá trình học sinh đi sâu chiếm lĩnh tri thức với sự hướng dẫn của thầy cô giáo. Động cơ học tập là muôn hình muôn vẻ, muốn phát động động cơ học tập đúng đắn, động cơ chiếm lĩnh tri thức thì trước hết cần phải khơi dậy ở các em nhu cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học tập vì nhu cầu chính là nơi khơi nguồn của tính tự giác, tính tích cực học tập. Mặt khác, hành vi của con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, nhất là ở những học sinh có nhân cách chưa hình thành ổn định, chưa có mục đích sống chủ đạo. Cho nên môi trường khách quan cần có những điều kiện thuận lợi, là mảnh đất màu mỡ để ươm mầm cho hứng thú phát triển: cơ sở vật chất phòng học, thư viện phong phú các đầu sách, những kỳ vọng, sự động viên của thầy cô và gia đình, sự phát huy những truyền thống tốt đẹp, phong trào rèn luyện và thi đua tích cực của học sinh, thầy cô giáo trong nhà trường. Muốn tạo được hứng thú học tập của học sinh đối với môn học Giáo dục công dân thì nhà trường cần thiết thường xuyên tổ chức các hoạt động học tập, sinh hoạt mang tính tập thể. Điều đó sẽ kích thích sự hăng hái thi đua, cạnh tranh lành mạnh. Tổ chức các buổi ngoại khóa, trò chuyện, giao lưu giữa thầy cô - học sinh, học sinh - học sinh nhằm khắc phục những khó khăn gặp phải trong quá trình học tập môn Giáo dục công dân. Tổ chức chương trình giáo dục ngoài giờ, chương trình giáo dục pháp luật, câu lạc bộ tình bạn, tình yêu trong tuổi học trò.... Từ đó, tìm thấy tiếng nói chung, sự đồng thuận giữa các học sinh để các em cùng giúp nhau học tốt hơn. 14
- Đối với người học, cần thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá vai trò của môn học Giáo dục công dân trong việc trau dồi nhân cách, hoàn thiện bản thân, từ đó xác định đúng động cơ và thái độ học tập. Tham gia tích cực các phong trào ngoại khóa. Tích cực chuẩn bị bài, phát biểu xây dựng bài; phân bố thời gian học tập, vui chơi, nghỉ ngơi khoa học, hợp lý. Hứng thú học tập của học sinh được tăng cường phần lớn chịu sự ảnh hưởng bởi giáo viên. Do đó, giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân cần không ngừng trau dồi kỹ năng, phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp, cải tiến phương pháp giảng dạy, đảm bảo việc truyền thụ tri thức ngày càng chính xác, hấp dẫn, có chất lượng. Giáo viên cần giúp cho học sinh thấy được ý nghĩa và vai trò của các kiến thức môn học Giáo dục công dân đối với cuộc sống; giúp học sinh biết cách học thích hợp đối với bộ môn Giáo dục công dân, tăng cường thời lượng, chất lượng thực tế, thảo luận cho môn học, nắm vững lý thuyết, luôn có sự vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống và giải quyết các tình huống trong đời sống theo các khía cạnh khác nhau. Cần có những bài giảng Giáo dục công dân nêu vấn đề, những giờ thảo luận trên lớp, những trò chơi mang tính chất giáo dục để kích thích hứng thú học tập, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Quá trình kích thích hứng thú tích cực học tập không chỉ diễn ra ở bài giảng này hay bài giảng khác mà cần phải diễn ra trong suốt quá trình. Do đó, trong quá trình giảng dạy, người giáo viên cần tạo ra các hoàn cảnh nhằm kích thích hứng thú học tập, tăng tính chủ động sáng tạo của người học. Trong giảng dạy, giáo viên cần chỉ ra được cái mới, cái phong phú, nhiều hình nhiều vẻ, tính chất sáng tạo và triển vọng trong hoạt động học tập môn giáo dục công dân để tạo ra hứng thú vững chắc cho học sinh trong quá trình học tập. Giáo viên cần có những cách thức cụ thể trong việc làm “mềm” hoá môn học vốn được xem là khô khan, trừu tượng này bằng những ví dụ sinh động trong đời sống thực tế. Có thể thay cách thuyết giảng một chiều bằng việc nêu những câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề thảo luận. Trong một số tiết học, trong những tình huống cụ thể, để tạo sự hào hứng và cuốn hút học sinh vào bài học, có thể đưa ra các tình huống cụ thể thực tế, gợi ý cho các em cách giải quyết. Mặt khác, cần đầu tư hơn trong việc sưu tầm tư liệu, tranh ảnh minh hoạ, cùng các dụng cụ trực quan tạo ra sự sinh động cho mỗi giờ lên lớp. Giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân cần thiết tạo tâm lý học thoải mái, không gây áp lực quá căng thẳng cho học sinh; kết hợp học và hành; dạy những điều cơ bản, cần thiết theo đúng chương trình…; giáo viên cần quan tâm đến học sinh, theo dõi về biểu hiện tâm lý của các em từ đó có biện pháp linh hoạt giáo dục, định hướng cho học sinh. Đặc biệt, giáo viên giáo dục công dân phải làm gương, là tấm gương sáng về mọi mặt để học sinh noi theo và thường xuyên thực hiện phương pháp nêu gương trong quá trình truyền đạt môn học Giáo dục công dân. Trước tình trạng học sinh 15
- vi phạm đạo đức, thậm chí vi phạm pháp luật đang có chiều hướng gia tăng hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học đối với môn Giáo dục công dân cần phải được chú trọng. Khi GV tạo được niềm hứng thú và đặc biệt là thay đổi nhận thức về quan niệm môn GDCD thì chắc chắn việc giảng dạy của Gv sẽ mang lại hiệu quả hơn, chất lượng bài thi môn GDCD sẽ được nâng cao hơn. 2.2. Hệ thống hóa kiến thức cơ bản trên cơ sở bám sát tài liệu GDCD, chuẩn kiển thức kĩ năng và giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Để ôn tập kiến thức Gv cần phải hệ thống hóa kiến thức trên cơ sở bám sát tài liệu GDCD, giảm tải của Bộ Giáo dục theo từng bài, vừa củng cố kiến thức cho HS, vừa bổ sung khắc sâu những nội dung trọng tâm của bài. Hệ thống hóa kiến thức có nghĩa là rút gọn nội dung bài ở những cụm từ chốt mà dựa vào đó GV và HS sẽ hình dung được các đơn vị kiến thức trong một bài. 2.2.1. Mục đích: Giúp HS nắm vững kiến thức một cách nhanh nhất, khắc sâu kiến thức trọng tâm. 2.2.2. Cách tiến hành: - GV cho HS tự ôn tập bằng cách tự vẽ sơ đồ hóa nội dung từng bài. - GV chiếu sơ đồ chuẩn lên máy chiếu để so sánh. Ví dụ: khi ôn bài “Thực hiện pháp luật” GV sử dụng sơ đồ tư duy sau: 16
- 2.3. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực phù hợp kích thích tính sáng tạo của học sinh trong quá trình ôn thi TN THPT 2.3.1 Mục tiêu: Phương pháp dạy học tích cực hay thuật ngữ ngắn gọn gọi là dạy học tích cực được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết và phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều “tích cực” trong PPDH; tích cực được dùng có nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng trái lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng thầy giáo chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp thầy giáo tích cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không hiệu quả vì học sinh chưa thích nghi, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế, thầy giáo phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, 17
- sự phối hợp ăn nhịp hoạt động dạy với hoạt động học. Như vậy, việc dùng thuật ngữ “Dạy và học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”. Một số phương pháp thường sử dụng khi ôn thi TN THPT môn GDCD như: phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm, dạy học nêu vấn đề. Dạy học hợp tác theo nhóm là một phương pháp dạy học trong đó dưới sự tổ chức và điều khiển của giáo viên, học sinh chia làm nhiều nhóm nhỏ liên kết lại với nhau trong một hoạt động chung, với phương thức tác động qua lại của các thành viên, bằng trí tuệ tập thể mà hoàn thành các nhiệm vụ học tập. 2.3.2. Cách tiến hành dạy học theo nhóm Bước 1: Thành lập nhóm Có nhiều cách thành lập nhóm theo các tiêu chí khác nhau, không nên áp dụng một tiêu chí duy nhất trong cả năm học. - Nhóm tự nguyện: HS được quyết định mình sẽ ở với nhóm với các bạn nào, do đó các thành viên trong nhóm có cảm giác thoải mái, dễ nhất trí, đảm bảo thành công nhanh nhất. Tuy nhiên, dễ tạo ra sự tách biệt giữa các nhóm, vì vậy cách tạo nhóm như thế này không nên tiến hành thường xuyên. - Nhóm ngẫu nhiên: có thể tiến hành theo nhiều hình thức khác nhau như điểm số, phát thẻ, ghắp thăm, cắt hình. Các học sinh được bình đẳng tránh hiện tượng bè phái trong lớp, các nhóm luôn mới sẽ đảm bảo tất cả các học sinh đều có thể học tập chung nhóm với tất cả các học sinh khác. Tuy nhiên có thể có thành viên không phù hợp, nếu GV không có kinh nghiệm tổ chức có thể gây mất thời gian, mất trật tự. - Nhóm chủ đích: có thể dựa trên trình độ học sinh, hoặc dựa trên những đặc điểm chung của học sinh (sở thích, cùng tháng sinh, mùa sinh). Chia nhóm theo kiểu này sẽ tạo nên sự hỗ trợ, tất cả đều có lợi, tạo nên niềm vui và các học sinh có thể hiểu biết nhau rõ hơn. Cách làm này nếu sử dụng thường xuyên sẽ dẫn đến sự mặc cảm tự ti đối với những học sinh yếu không chịu làm việc hoặc HS khá, giỏi hướng dẫn sai. Nếu sử dụng thường xuyên cũng dễ gây nhàm chán, dễ gây phân biệt nam nữ, mất bình đẳng giới. Bước 2. Tổ chức cho HS học theo nhóm. Các thành viên trong nhóm sẽ cử nhóm trưởng và thảo thuận qui tắc và phân công việc dựa trên nhiệm vụ học tập được giao. Bước 3: Trình bày kết quả, nhận xét đánh giá. Sau khi hoạt động thảo luận kêt thúc thông thường các Gv thường cho các nhóm trình bày, báo cáo kết quả trước lớp, cuối cùng là nhận xét đánh giá của GV. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm Ưu điểm: 18
- - Nâng cao tương tác giữa các thành viên trong nhóm, tăng cường động cơ học tập, làm nảy sinh những hứng thú mới. Kích thích sự giao tiếp, chia sẻ tư tưởng, nguồn lực và cách giải quyết vấn đề. Tăng cường kĩ năng biểu đạt, phản hồi bằng các hình thức biểu đạt như lòi nói ánh mắt, cử chỉ…Khích lệ mọi thành viên tham gia học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, phát triển mối quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau. Đòi hỏi GV phải thiết kế nhiệm vụ cho nhóm, tạo ra sự tương tác trực tiếp giữa các thành viên trong nhóm. - Sự phụ thuộc giữa các thành viên trong nhóm Các thành viên của nhóm cần nhận thức rằng họ cùng trong một nhóm và họ có sự phụ thuộc lẫn nhau. Cả nhóm phải cùng hoàn thành một nhiệm vụ chung. Chính vì vậy, mỗi thành viên cần phải cố gắng hết mình, không phải vì thành tích cá nhân mà còn vì thành công của cả nhóm – cái được tạo nên từ sự cố gắng của từng người và trở thành niềm vui chung của tất cả. - Tính trách nhiệm cá nhân cao. Điều này mỗi thành viên trong nhóm phải được phân công thực hiện một vai trò nhất định, một công việc và trách nhiệm cụ thể. Do đó, phân công nhiệm vụ như thế nào, thực hiện ra sao, kiểm tra đánh giá dưới hình thức nào để từng thành viên trong nhóm thấy rõ trách nhiệm cá nhân của mình là vấn đề đặt ra cho người GV khi tiến hành dạy học theo nhóm. - Sử dụng hợp lý kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội. Các kĩ năng giao tiếp như: tóm tắt xử lý thông tin, yêu cầu giải thích giúp đỡ, khả năng giải quyết bất đồng như kiềm chế bực tức, không nóng giận khi bất đồng ý kiến… là những kĩ năng không thể thiếu được và giúp người học thành công khi làm việc theo nhóm. Hạn chế: - Một số thành viên trong nhóm có thể ỷ lại không làm việc. - Các nhóm có thể đi chệch hướng khi thảo luận. - Tốn thời gian chuẩn bị và thực hiện đôi khi gây ồn ào. - Nếu giáo viên áp dụng cứng nhắc hoặc thời gian hoạt động nhóm quá dài - Khó điều khiển khi làm lần đầu và chưa có kinh nghiệm. Ví dụ minh họa Sử dụng PP thảo luận nhóm khi dạy bài: Thực hiện pháp luật (GDCD 12) Về kiến thức: - Nêu được khái niệm thực hiện pháp luật, các hình thức thực hiện pháp luật - Hiểu được thế nào là vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí; các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí. 19
- Về kĩ năng: - Biết cách thực hiện pháp luật phù hợp với lứa tuổi. Về thái độ: - Có thái độ tôn trọng pháp luật. - Ủng hộ những hành vi thực hiện đúng pháp luật và phê phán những hành vi làm trái quy định pháp luật Định hướng phát triển năng lực: -NL hợp tác -NL tư duy -NL phân tích so sánh -NL xử lý tình huống Giáo viên sử dụng phương pháp thảo luận nhóm: Tìm hiểu các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí * Mục tiêu hoạt động: Giúp HS nắm và phân biệt được các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý * Nội dung hoạt động: Thảo luận nhóm → Đại diện nhóm lên trình bày → lớp góp ý kiến → GV KL * Cách thức tiến hành hoạt động: Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm nhỏ, giao cho các nhóm các tình huống về các loại vi phạm pháp luật. yêu câu học sinh xác định hành vi trong tình huống thuộc loại vi phạm pháp luật nào? rút ra khái niệm về vi phạm pháp luật đó và nêu rõ trách nhiệm pháp lí. Nhóm 1: X (16 tuổi) đến nhà Y chơi, thấy Y đi vắng mà cửa nhà không đóng, X liền vào nhà lấy trộm số tiền 5 triệu đồng. Việc làm trên của X đã bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện. Hỏi: Hành vi vi phạm trên của X là hành vi vi phạm gì? Vì sao? X phải chịu trách nhiệm gì không? Nhóm 2: T 15 tuổi điều khiển chiếc Dream II đang đi trên đường thì bị cảnh sát giao thông yêu cầu dừng lại và xử phạt. Hỏi: Theo em hành vi trên của T thuộc loại vi phạm nào? Tuấn có phải chịu trách nhiệm gì không? Vì sao? Nhóm 3: Do nhu cầu muốn có thêm vốn để kinh doanh H đến ngân hàng làm thủ tục và vay ngân hàng số tiền 30 triệu đồng. Đã đến hạn trả nợ ngân hàng nhưng H cố tình không trả số nợ trên. Hỏi: Hành vi trên của H có vi phạm gì không? vì sao? H có phải chịu trách nhiệm gì không? 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả dạy – học môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh qua tiết 32 – Bài 7: Tác hại của ma túy và trách nhiệm của học sinh trong phòng, chống ma túy"
20 p | 421 | 77
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 54 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Yên Định 3 giải nhanh bài toán trắc nghiệm cực trị của hàm số
29 p | 34 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên và kỹ năng sống cần thiết cho học sinh lớp 12 thông qua Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
29 p | 26 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả quản lý và giáo dục học sinh lớp 10 trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT
37 p | 24 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả phát triển năng lực lập bản vẽ chi tiết thông qua dạy học chủ đề bản vẽ cơ khí cho học sinh lớp 11 THPT
48 p | 38 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học phần Lịch sử Thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại qua phương pháp lập bảng hệ thống kiến thức
19 p | 112 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh lớp 12 thông qua đoạn trích Vợ nhặt (Kim Lân)
33 p | 31 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 35 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy - học qua việc tích hợp nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu trong bài 14 và 15 Địa lí 12
32 p | 32 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hứng thú học tập phần Công dân với đạo đức lớp 10 thông qua việc sử dụng chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
13 p | 12 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 48 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn