intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh thông qua việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm đơn giản sau khi học bài Chuyển động thẳng đều (SGK Vật lí 10 THPT)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

30
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài "Phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh thông qua việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm đơn giản sau khi học bài Chuyển động thẳng đều (SGK Vật lí 10 THPT)" là nghiên cứu các tài liệu về lý luận dạy học Vật lí, thí nghiệm vật lí phổ thông, bàn về việc tổ chức hoạt động ngoại giờ lên lớp nói chung và hoạt động ngoài giờ của môn Vật lí nói riêng, có cơ sở xác định qui trình của hoạt động thiết kế một số thí nghiệm vật lí lớp 10 nhằm phát huy tính tích cực và bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh thông qua việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm đơn giản sau khi học bài Chuyển động thẳng đều (SGK Vật lí 10 THPT)

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ  TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHÁT HUY TÍNH CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC TỔ  CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ LÀM MỘT SỐ THÍ NGHIỆM  ĐƠN GIẢN SAU KHI HỌC BÀI “CHUYỂN ĐỘNG THẲNG  ĐỀU” (SGK VẬT LÍ 10 THPT)           Người thực hiện: Phạm Văn Hoan           Chức vụ: Giáo viên           SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Vật lí
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ  TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3 MỤC LỤC Trang 1. MỞ ĐẦU 3 1.1. Lí do chọn đề tài…………............…...…….…………………....... SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 1.2. Mục đích nghiên cứu…………………...................………………. 4 1.3.   Đối   tượng   nghiên  4 cứu……………………………………………… 1.4.   Phương   pháp   nghiên   cứu…………….…....... 4 ……………………. 2. NỘI DUNG 5 2.1. Cơ  sở  líPHÁT HUY TÍNH CH  luận  việc tổ  chức hoạỦ  Đ t độỘ NG, TÍCH C ng t ự  làm  một  s ỰốC thí  5 nghiVÀ SÁNG T ệm... ẠO CỦA HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC TỔ    VịỨ 2.1.1. CH   trí, C HO dụngỘ  NG T   tácẠ  T Đ và   đặỰ   điểm   củỘ c  LÀM M a T S   hoỐạt  THÍ NGHI   động   ngoàiỆ   M  5 giờ.........................  ĐƠN GIẢN SAU KHI HỌC BÀI “CHUYỂN ĐỘNG THẲNG  2.1.2. Chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản trong dạy   ĐỀU” (SGK VẬT LÍ 10 THPT) 5 học Vật lí ở trường phổ thông………………………………………….. 2.1.3. Tính chủ  động, tích cực và sáng tạo của học sinh trong học   7 tập... 2.2. Thực trạng vấn đề……………………………………………….. 9 2.2.1. Tình hình giảng dạy của giáo viên……………………………… 9 2.2.2. Tình hình học tập c           Ng ười thực hiện: Phạm Văn Hoan ủa học sinh…………………………………. 9 2.2.3. Tình hình thiết bị          Ch  thí nghiệứ c vủụa nhà tr m c : Giáo viên ường…………………... 9 2.2.4.     Nguyên   nhân          SKKN thu   về   thực   trạngộ c lĩnh v học   tậựpc (môn): V   của   họcậ  t lí sinh   10 …………………. 2.3.   Các   giải   pháp   đã   sử   dụng   để   giải   quyết   vấn   10 đề........................... 2.3.1. Quy trình thực hiện....................................................................... 10 2.3.2. Các nhiệm vụ  học tập mà giáo viên đã giao cho học sinh thực   hiện   và   một   số   sản   phẩm   của   học  11 sinh............................................................ 2.3.3. Dự kiến những khó khăn mà học sinh gặp phải................................ 15 2.3.4. Tổ chức cho các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm  16 với thiết bị đã chế tạo………………………………………………… 2.4.   Tính   khả   thi   của   giải  16 pháp.................................................................... 2.5.   Hiệu   quả   của   giải  16 pháp……………………………………………
  3. 2.5.1. Đối với học sinh............................................................................ 16 2.5.2. Đối với bản thân giáo viên............................................................ 17 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 18 3.1. Kết luận........................................................................................... 18 3.2. Kiến nghị......................................................................................... 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
  4. 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Việt Nam đang đổi mới một cách căn bản, toàn diện nền giáo dục để  nền giáo dục Việt Nam phát triển hòa nhập với quốc tế, theo kịp với sự phát  triển như  vũ bão của khoa học ­ kĩ thuật ­ công nghệ  và tri thức của loài   người đang gia tăng nhanh chóng. Đổi mới giáo dục toàn diện là một lộ trình  đã và đang được thực hiện, một trong những bước đi đầu tiên của quá trình   đổi mới ấy là  đổi mới phương phương pháp, hình thức dạy học và kiểm tra   đánh giá theo định  hướng phát triển năng lực học sinh. Việc đổi mới phương  pháp dạy học phải theo hướng phát triển năng lực học sinh, phát huy cao độ  tính tự lực, tích cực, sáng tạo của học sinh; kết hợp học tập cá nhân với học   tập hợp tác. Môn Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm vì vậy một trong những   khâu quan trọng của quá trình đổi mới phương pháp dạy học Vật lí là phải   tăng cường các hoạt động thực nghiệm của học sinh trong quá trình học tập.   Học sinh không những  được làm quen và tiến hành thí nghiệm trong giờ học  chính khóa mà còn ở các giờ học tự chọn, không những trên lớp học mà còn ở  ngoài lớp, ở nhà.  Việc đưa thí nghiệm vào dạy học làm cho học sinh tiếp cận   với con đường nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học và tiếp thu các kiến   thức một cách dễ dàng và sâu sắc hơn. Thông qua hoạt động thực nghiệm vật  lí, học sinh sẽ  được  củng cố, mở  rộng kiến thức, rèn luyện khả  năng vận   dụng kiến thức vào thực tiễn; rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo; giáo dục tổng hợp và  tinh thần làm việc tập thể; kích thích sự  hứng thú, phát huy cao độ  tính tích  cực và phát triển năng lực sáng tạo.  Hình thức tố  chức cho học sinh tự  thiết kế, chế  tạo dụng c ụ  và tiến  hành các thí nghiệm đơn giản sẽ đem lại hiệu quả dạy học rất cao vì nó phù  hợp với đặc thù bộ môn, đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học hiện nay là  lấy người học làm trung tâm. Lúc này học sinh tiến hành thí nghiệm Vật lí   trong điều kiện không có sự  giúp đỡ, kiểm tra trực tiếp của giáo viên vì vậy   đòi hỏi cao độ tính tự giác, tự lực, tích cực của học sinh trong học tập. Cũng   khác với các loại thí nghiệm khác, thí nghiệm Vật lí  ở  nhà chỉ  đòi hỏi học   sinh sử  dụng các dụng cụ  thông dụng trong đời sống, những vật liệu dễ  kiếm, rẻ tiền hoặc các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản được học sinh chế  tạo  từ  những vật liệu này. Chính đặc điểm này tạo nhiều cơ hội phát triển năng  lực sáng tạo của học sinh trong việc thiết kế, chế tạo và sử  dụng các dụng   cụ nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao. 3
  5. Trong quá trình dạy học bài “Chuyển động thẳng đều” (SGK Vật lí 10  THPT), tôi nhận thấy bài học này không có thí nghiệm theo yêu cầu của SGK,  tuy nhiên kiến thức bài học có sự liên hệ thực tiễn rất phong phú, rất gần gũi  và có nhiều  ứng dụng trong đời sống và kĩ thuật. Có thể  sử  dụng rất nhiều   dụng cụ và thí nghiệm đơn giản, dễ kiếm từ cuộc sống để  minh họa cho bài  học. Chính vì vậy tôi đã giao nhiệm vụ về  nhà cho học sinh tự thiết kế, chế  tạo và tiến hành một số  thí nghiệm đơn giản liên quan đến nội dung bài học  và nhận thấy hiệu quả rất tốt của hoạt động này. Vì vậy tôi xin trao đổi kinh  nghiệm   với   các   bạn   đồng   nghiệp   qua  đề   tài   SKKN   năm   2018   của   tôi   là:  “PHÁT HUY TÍNH CHỦ  ĐỘNG, TÍCH CỰC VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC   SINH THÔNG QUA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ LÀM MỘT SỐ THÍ  NGHIỆM ĐƠN GIẢN SAU KHI HỌC BÀI “CHUYỂN ĐỘNG THẲNG ĐỀU”  (SGK VẬT LÍ 10 THPT). 1.2. Mục đích nghiên cứu Phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh thông qua việc  tổ   chức   hoạt   động   tự   làm   một   số   thí   nghiệm   đơn   giản  sau   khi   học   bài  “Chuyển động thẳng đều” (SGK Vật lí 10 THPT). 1.3. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động của học sinh lớp 10C1, 10C5 của trường THPT Yên Định 3,  trong hoạt động thiết kế, chế  tạo và tiến hành các thí nghiệm đơn giản  liên  quan đến nội dung bài học “Chuyển động thẳng đều” (SGK Vật lí 10 THPT) 1.4. Phương pháp nghiên cứu 1.4.1. Nghiên cứu tài liệu Nghiên cứu các tài liệu về lý luận dạy học Vật lí, thí nghiệm vật lí phổ  thông, bàn về  việc tổ  chức hoạt động ngoại giờ  lên lớp nói chung và hoạt   động ngoài giờ  của môn Vật lí nói riêng, giúp tôi có cơ  sở  xác định qui trình   của hoạt động thiết kế  một số  thí nghiệm vật lí lớp 10 nhằm phát huy tính  tích cực và bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.  1.4.2. Điều tra khảo sát thực tế dạy học Vật lí lớp 10  Thông qua dự giờ, phỏng vấn, phiếu điều tra học tập, tìm hiểu trang thiết   bị thí nghiệm để từ đó xây dựng qui trình hoạt động ngoài giờ  cho phù hợp.  1.4.3. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm Việc nghiên cứu, làm thử  trước tất cả  các thí nghiệm dự  kiến giao cho  học sinh giúp cho tôi lường trước được những khó khăn trong quá trình làm thí  nghiệm để từ đó có phương pháp tổ chức và hướng dẫn học sinh phù hợp 1.4.4. Thực nghiệm sư phạm        Thực hiện kế  hoạch của hoạt động ngoài giờ  nhằm đối chiếu kết quả  đạt được với các nhiệm vụ đã đề ra và đánh giá mức độ hoàn thành so với mục  đích nghiên cứu của đề tài. 4
  6. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm  2.1.1. Vị trí, tác dụng và đặc điểm của hoạt động ngoài giờ  2.1.1.1. Vị trí  Nhà trường phổ thông có ba hình thức tổ chức đào tạo là: Dạy học trên  lớp, giáo dục hướng nghiệp dạy nghề, công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp. 2.1.1.2. Tác dụng  Mục đích bao trùm của hoạt động ngoài giờ lên lớp là hỗ trợ cho dạy học   trên lớp thể hiện ở các mặt sau: + Tạo hứng thú học tập, bồi dưỡng tính ham hiểu biết  + Tạo điều kiện gắn lí thuyết với thực tiễn, nội dung mềm dẻo và phương pháp  sinh động hơn, thời gian đỡ gò bó hơn. + Phát huy tính chủ động, tích cực, phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh. + Rèn cách thức hoạt động nhóm, tập thể, các phẩm chất, nhân cách học sinh  + Phát hiện và bồi dưỡng phẩm chất, năng lực lao động tập thể cho học sinh. 2.1.1.3. Các đặc điểm của hoạt động ngoài giờ ­ Tổ  chức các hoạt động ngoài giờ thường được lập kế  hoạch ngay từ  đầu  năm học.  ­ Số lượng học sinh tham gia là không hạn chế, không phân biệt học sinh giỏi,   kém. ­ Hình thức tổ chức phong phú đa dạng. ­ Việc đánh giá kết quả các hoạt động ngoài giờ của học sinh thông qua: Sản  phẩm, tính tích cực, sáng tạo của học sinh, không cho điểm nhưng động viên  khích lệ học sinh kịp thời. 2.1.2. Chế  tạo và sử  dụng các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản trong dạy  học         Vật lí ở trường phổ thông 2.1.2.1. Các yêu cầu đối với việc chế tạo  các dụng cụ thí nghiệm đơn giản 5
  7. ­ Việc chế  tạo dụng cụ thí nghiệm đòi hỏi ít vật liệu. Các vật liệu này đơn  giản, rẻ tiền, dễ kiếm.  ­ Dễ chế tạo dụng cụ thí nghiệm từ việc gia công các vật liệu bằng các công  cụ  thông thường như  kìm, buá, kéo, cưa, giũa. Chính nhờ  đặc điểm này của   các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản, trong một số  trường hợp, ta có thể  làm   được một số thí nghiệm mà không thể tiến hành được với các dụng cụ có sẵn  trong phòng thí nghiệm.  ­ Dễ lắp ráp, tháo rời các bộ phận của dụng cụ thí nghiệm. Vì vậy, với cùng   một dụng cụ  thí nghiệm, trong nhiều trường hợp ta chỉ cần thay thế các chi  tiết phụ trợ là có thể làm được thí nghiệm khác.  ­ Dễ bảo quản, vận chuyển và an toàn trong chế tạo cũng như trong quá trình   bố trí, tiến hành thí nghiệm.  ­ Việc bố trí và tiến hành thí nghiệm với những dụng cụ thí nghiệm cũng đơn  giản, không tốn nhiều thời gian.  ­ Hiện tượng Vật lí diễn ra trong thí nghiệm với dụng cụ  thí nghiệm đơn  giản phải rõ ràng, dễ quan sát.  2.1.2.2. Sự cần thiết của việc sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản  trong dạy học Vật lí ­ Việc giao cho học sinh nhiệm vụ thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản để tiến hành các thí nghiệm Vật lí có tác dụng trên nhiều  mặt góp phần nâng cao chất lượng kiến thức, phát triển năng lực hoạt động   trí tuệ ­ thực  tiễn độc lập và sáng tạo của học sinh.  ­ Do được tự tay chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm để tiến hành các  thí nghiệm, học sinh nắm vững kiến thức hơn, chính xác và bền vững hơn.   Trong nhiều trường hợp, việc tiến hành thí nghiệm, giải thích hoặc tiên đoán  kết quả  thí nghiệm đòi hỏi học sinh phải huy động các kiến thức đã học  ở  nhiều phần khác nhau của Vật lí. Thông qua đó, các kiến thức mà học sinh   lĩnh hội được củng cố, đào sâu, mở rộng và hệ thống hóa. ­ Việc sử  dụng các thí nghiệm đơn giản trong dạy học Vật lí ở  trường phổ  thông còn cần thiết, bởi vì với các thiết bị  có sẵn trong phòng   thí nghiệm,   trong nhiều trường hợp, “cái hiện đại” của các thiết bị  này che lấp mất bản   chất Vật lí của hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm mà học sinh cần nhận   thức rõ.  ­ Lịch sử phát triển của Vật lí cho thấy: Những phát minh cơ bản thường gắn  với các dụng cụ thí nghiệm đơn giản để nghiên cứu nguyên tắc của những thí  nghiệm do các nhà bác học đã tiến hành (thí nghiệm của Ga­li­lê về  chuyển   động nhanh dần đều trên máng nghiêng, thí nghiệm con lắc Huy­gen xác định  gia tốc trọng trường, thí nghiệm của Tô­ri­xe­li xác định áp suất khí quyển,  các thí nghiệm lịch sử về các định luật chất khí, các thí nghiệm của Fa­ra­đây  về  cảm  ứng điện từ...) góp phần chỉ  ra cho học sinh thấy con đường hình  thành và phát triển các kiến thức Vật lí, bồi dưỡng cho học sinh các phương  pháp nhận thức Vật lí, đặc biệt là phương pháp thực nghiệm.  6
  8. ­  Nhiệm vụ thiết kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản và tiến hành  các thí nghiệm với chúng làm tăng hứng thú học tập, tạo niềm vui vủa sự  thành công trong học tập, phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng  tạo của học sinh.  ­ Ngoài ra, dụng cụ  thí nghiệm đơn giản tự  làm còn có ưu điểm là phục vụ  rất kịp thời và đắc lực cho việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học,  nâng cao hiệu quả dạy học, thậm chí của từng giờ học.  2.1.2.3. Thí nghiệm Vật lí ở nhà là một loại bài tập mà giáo viên giao cho   từng học sinh hoặc nhóm học sinh thực hiện ở nhà ­ Khác với các loại thí nghiệm khác, học sinh tiến hành thí nghiệm Vật lí  trong điều kiện không có sự giúp đỡ, kiểm tra trực tiếp của giáo viên.Vì vậy,   loại thí nghiệm này đòi hỏi cao độ tự giác, tự lực của học sinh trong học tập.  ­ Cũng khác với các loại thí nghiệm khác, thí nghiệm Vật lí ở nhà chỉ đòi hỏi   học sinh sử dụng các dung cụ thông dụng trong đời sống, những vật liệu dễ  kiếm, rẻ tiền hoặc các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản được học sinh chế  tạo  từ  những vật liệu này. Chính đặc điểm này tạo nhiều cơ hội phát triển năng  lực sáng tạo của học sinh trong việc thiết kế, chế tạo và sử  dụng các dụng   cụ nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao.  ­ Loại thí nghiệm này khác với các loại bài làm khác của học sinh  ở  nhà  ở  chỗ: Nó đòi hỏi sự  kết hợp giữa hoạt động trí óc và hoạt động chân tay của   học sinh.  ­ Với những đặc điểm trên, thí nghiệm Vật lí  ở  nhà có tác dụng trên nhiều   mặt đối với việc phát triển nhân cách của học sinh: Quá trình tự lực thiết kế  phương án thí nghiệm, lập kế hoạch thí nghiệm, chế tạo hoặc lựa chọn dụng   cụ, bố  trí tiến hành thí nghiệm, xử  lí kết quả  thí nghiệm thu thập được góp   phần vào việc phát triển năng lực hoạt động trí tuệ  ­ thực tiễn của học sinh.   Việc thực hiện và hoàn thành các công việc trên sẽ  làm tăng rõ rệt hứng thú  học tập, tạo niềm vui của sự  thành công trong học tập của học sinh. Việc   thiết kế  phương  án thí nghiệm, tiên đoán hoặc giải thích các kết quả  thí  nghiệm đòi hỏi học sinh phải huy động các kiến thức đã học, mà nhiều khi ở  các phần khác nhau của Vật lí. Nhờ  vậy, chất lượng kiến thức của học sinh   được nâng cao. Thí nghiệm Vật lí ở  nhà có tác dụng làm phát triển những kĩ   năng, kĩ xảo thí nghiệm, các thói quen của người làm thực nghiệm mà học  sinh đã thu được trong các loại thí nghiệm khác.  ­ Loại thí nghiệm này cũng tạo điều kiện cho giáo viên cá thể  hóa quá trình  học tập của học sinh bằng cách giao cho các đối tượng học sinh khác nhau   nhiệm vụ chế tạo dụng cụ thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm với mức độ khó  dễ  khác nhau, nông sâu khác nhau và mức độ  hướng dẫn khác nhau về  cách  chế  tạo, lựa chọn dụng cụ, tiến hành thí nghiệm... được thể  hiện trong đề  bài.  ­ Khi sử  dụng loại thí nghiệm này trong dạy học Vật lí, giáo viên cần bố  trí  thời gian để  học sinh báo cáo trước toàn lớp các kết quả  đã đạt được, giới   7
  9. thiệu những sản phẩm của mình, nhận được sự đánh giá của giáo viên và tập  thể cũng như động viên và khen thưởng kịp thời.  ­ Thí nghiệm Vật lí ở nhà không những nhằm đào sâu, mở rộng các kiến thức   đã học mà trong nhiều trường hợp các kết quả mà học sinh thu được sẽ là cứ  liệu thực nghiệm cho việc nghiên cứu kiến thức mới  ở  các bài học sau trên  lớp. Nội dung của các thí nghiệm Vật lí   ở  nhà không phải là sự  lặp lại  nguyên xi các thí nghiệm đã làm  ở  trên lớp mà phải có nét mới, không đơn  thuần chỉ là sự tiến hành thí nghiệm với những hướng dẫn chi tiết.  ­ Nội dung các loại bài làm  ở  nhà này rất phong phú, có thể  ra nhiều dạng  khác  nhau:  Mô   tả  phương  án  thí   nghiệm,  yêu  cầu  học  sinh  tiến  hành  thí   nghiệm, tiên đoán hoặc giải thích kết quả thí nghiệm; cho trước các dụng cụ,  yêu cầu học sinh thiết kế phương án thí nghiệm để  đạt được một mục đích   nhất định (quan sát thấy một hiện tượng, xác định được một đại lượng Vật  lí); yêu cầu học sinh chế  tạo một dụng cụ  thí nghiệm đơn giản từ  các vật   liệu cần thiết cho trước, rồi tiến hành thí nghiệm với những dụng cụ  này  nhằm đạt được một mục đích nào đó... Nội dung của các thí nghiệm Vật lí ở  nhà có thể mang tính chất định tính hoặc định lượng.  2.1.3. Tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh trong học tập  2.1.3.1. Tính chủ động trong học tập của học sinh a) Khái niệm tính chủ động trong học tập Tính chủ  động trong học tập là một hiện tượng sư  phạm biểu hiện  ở  việc làm chủ  được hành động của bản thân, không bị  ai chi phối về  nhiều   mặt trong học tập. Vì vậy, nói tới chủ động học tập thực chất là nói đến chủ  động nhận thức và hoạt động theo định hướng của thầy cô.  b) Các biểu hiện của tính chủ động trong học tập Tính chủ động của học sinh trong học tập biểu hiện qua các hành động  cụ  thể  như: chủ  động tham gia vào các hoạt động học tập; chủ  động đón  nhận các nhiệm vụ; chủ động thực hiện các nhiệm vụ; chủ động đóng góp ý   kiến với giáo viên, với bạn bè; chủ  động hoàn thành công việc bằng mọi  cách; học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học  để nhận ra vấn đề mới... 2.1.3.2. Tính tích cực trong học tập của học sinh a) Khái niệm tính tích cực trong học tập Tính tích cực trong học tập là một hiện tượng sư phạm biểu hiện ở sự  cố  gắng cao về  nhiều mặt trong học tập. Học tập là một trường hợp riêng  của nhận thức “một sự nhận thức làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới  sự chỉ đạo của giáo viên” (P.N.Erddơniev, 1974). Vì vậy, nói tới tích cực học   tập thực chất là nói đến tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức là trạng  thái hoạt động nhận thức của học sinh, đặc trưng  ở  khát vọng học tập, cố  gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức.  b) Các biểu hiện của tính tích cực trong học tập 8
  10. + Học sinh khao khát tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ  sung câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu  ra. + Học sinh hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo viên   trình bày chưa đủ rõ. + Học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để  nhận ra vấn đề mới. + Học sinh mong muốn được đóng góp với thầy, những thông tin mới lấy từ  những nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngoài bài học, môn học. c) Các cấp độ của tính tích cực học tập Có thể phân biệt  ở 3 cấp độ  khác nhau từ  thấp đến cao: Cấp độ  1­ bắt  chước Cấp độ 2 ­ Tìm tòi ; Cấp độ 3 ­ Sáng tạo  2.1.3.3. Năng lực sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập a) Khái niệm năng lực sáng tạo Năng lực sáng tạo có thể hiểu là khả năng tạo ra những giá trị  mới về  vật chất hoặc tinh thần, tìm ra các mới, giải pháp mới, công cụ  mới, vận  dụng thành công những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới.  b) Các biểu hiện của sự sáng tạo trong học tập và nghiên cứu vật lí + Từ những kinh nghiệm thực tế, từ kiến thức đã có, học sinh nêu được giả  thuyết.  Trong   chế   tạo   dụng  cụ   thí   nghiệm  thì   học   sinh   đưa  ra   được   các   phương án thiết kế, chế  tạo dụng cụ  và cùng một thí nghiệm đưa ra được   nhiều cách chế tạo khác nhau. Đề xuất được những sáng kiến kỹ thuật để thí  nghiệm chính xác hơn, dụng cụ bền đẹp hơn… + Học sinh đưa ra được dự đoán hệ quả của giả thuyết. Cụ thể là học sinh đưa   ra dự đoán kết quả các thí nghiệm, dự đoán được phương án nào chính xác nhất,   phương án nào mắc sai số, vì sao?. + Đề xuất được phương án dùng những dụng cụ thí nghiệm đã chế tạo để  làm  thí nghiệm kiểm tra các dự đoán trên và kiểm nghiệm lại kiến thức lý thuyết đã  học. + Vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tế một cách linh hoạt như giải thích   một số hiện tượng vật lí và một số ứng dụng kỹ thuật có liên quan. + Những hành động của học sinh trong học tập có mang tính sáng tạo như:  đưa ra được các phương án thiết kế, chế  tạo dụng cụ; đề  xuất được những   sáng kiến kĩ thuật để thí nghiệm chính xác hơn, dụng cụ bền đẹp hơn; đưa ra   dự đoán kết quả các thí nghiệm; so sánh được các phương án thí nghiệm; vận  dụng kiến thức để giải thích hiện tượng vật lí, kết quả thí nghiệm hoặc các   ứng dụng trong kĩ thuật;... 2.2. Thực trạng vấn đề  Trên cơ sở thực tế dạy học bộ môn Vật lí ở trường THPT Yên Định 3,  huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, tôi nhận thấy một số thực trạng sau: 2.2.1. Tình hình giảng dạy của giáo viên 9
  11. Việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học vật lí gặp rất nhiều   khó khăn: Dụng cụ thí nghiệm, các trang thiết bị và cơ  sở  vật chất cần thiết  phục vụ cho việc đổi mới còn thiếu, đội ngũ giáo viên mặc dù cũng đã có rất  nhiều cố  gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học v.v... nhưng vẫn   chưa phát huy hết được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.  + Ở nhiều bài học, giáo viên vẫn mang nặng phương pháp truyền thụ, thuyết  trình, thông báo.  + Giáo viên gần như chỉ tiến hành thí nghiệm biểu diễn trong các bài có yêu   cầu sử dụng thí nghiệm tối thiểu; ít chế tạo thêm các dụng cụ thí nghiệm;  + Các giáo viên rất ít tổ chức hướng dẫn cho học sinh tự thiết kế, chế tạo  và   tiến hành các thí nghiệm vật lí. + Việc tổ chức giờ học tự chọn cho học sinh chưa đạt hiệu quả. Hầu hết các  giờ học tự chọn môn Vật lí, giáo viên tổ chức cho học sinh giải bài tập nên nếu  không tổ chức tốt thì dễ gây nhàm chán, thậm chí lại trở nên nặng nề hơn cho  học sinh.  Đối  với  bài  học “Chuyển   động thẳng  đều” (SGK Vật lí  10 THPT)  không có thí nghiệm được cấp vì vậy giáo viên giảng dạy chủ yếu sử  dụng   phương pháp thuyết trình, chưa có giáo viên nào tổ  chức hoạt động cho học   sinh tự thiết kế, chế tạo và tiến hành các thí nghiệm đơn giản liên quan đến  nội dung bài học. 2.2.2. Tình hình học tập của học sinh ­ Học sinh ít được tham gia hoạt động ngoại khoá về  Vật lí đặc biệt là hoạt  động ngoại khoá thiết kế, chế tạo dụng cụ thí nghiệm. Vì vậy phần lớn học   sinh còn thụ  động, thiếu tự tin trong học tập, chưa chủ động, sáng tạo trong  việc lĩnh hội kiến thức nên kiến thức thu được không bền vững đặc biệt còn   yếu trong việc thiết kế các phương án thí nghiệm. ­ Kết quả  học tập của rất nhiều học sinh chỉ  ở mức độ  nhớ  các khái niệm,   hiện tượng, công thức và vận dụng được các công thức để giải các bài tập.  ­ Học sinh chưa vận dụng được kiến thức để giải thích các hiện tượng vật lí  trong thực tế, không biết về các ứng dụng của kiến thức vật lí trong đời sống  và kĩ thuật. ­ Học sinh chưa hứng thú, chưa phát huy được tính tích cực trong học tập. ­ Các kĩ năng thực nghiệm còn rất yếu. ­ Khả  năng diễn đạt, thuyết trình của học sinh về  một vấn đề  còn rất kém,   thường lúng túng khi diễn đạt ý tưởng của mình hoặc điều muốn hỏi. 2.2.3. Tình hình thiết bị thí nghiệm của nhà trường Mặc dù nhà trường được trang bị  khá đầy đủ  các dụng cụ  thí nghiệm   tối thiểu cho dạy học nội khóa theo yêu cầu SGK và các thiết bị  thí nghiệm  sử  dụng tốt và hiệu quả. Tuy nhiên các thí nghiệm không có trong danh mục  thiết bị thí nghiệm tối thiểu thì không được cấp. Vì vậy nhiều bài học trong   SGK có nêu thí nghiệm nhưng không có dụng cụ để tiến hành, trong đó có bài  10
  12. “Chuyển động thẳng đều” (SGK Vật lí 10 THPT) và các thiết bị  thí nghiệm   đơn giản tự làm rất ít. 2.2.4.  Nguyên nhân về thực trạng học tập của học sinh  Việc dạy và học theo chương trình nội khoá vẫn còn rất nặng nề  do   điều kiện thời gian hạn hẹp, trang thiết bị thí nghiệm chưa đầy đủ để tất cả  các học sinh đều được tham gia tiến hành thí nghiệm, việc dạy học trên lớp  chưa tăng cường hoạt động, phát huy tính chủ  động, tích cực và phát triển  năng lực sáng tạo của học sinh;  các em ít được trực tiếp tiến hành các thí  nghiệm và ít có điều kiện để vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nhiều em còn   cảm thấy chưa yêu thích môn học và không tích cực trong học tập.  Trong dạy học nội khóa đã được trang bị một số thiết bị thí nghiệm tối   thiểu tuy nhiên những thiết bị  chế tạo sẵn đó đôi khi không gần gũi và quen   thuộc với thực tiễn nên các em khó liên hệ và vận dụng vào cuộc sống.  Đa số  các dụng cụ thí nghiệm được cấp đều là thí nghiệm định lượng phục vụ mục   đích nghiên cứu khảo sát các định luật vật lí, ít thí nghiệm định tính về  các  hiện tượng vật lí.  Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thay đổi phương pháp dạy học  nhưng vẫn chưa thực sự  hiệu quả đối với mọi đối tượng học sinh và tất cả  các nội dung kiến thức. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Trong quá trình dạy học tôi thấy một trong những giải pháp để  khắc  phục thực trạng nêu trên là đối với những bài học, những chương trong SGK   có nội dung phù hợp, giáo viên có thể tổ chức hoạt động cho học sinh tự thiết   kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản và sử dụng các dụng cụ đó để  tiến hành các thí nghiệm để  học sinh được vận dụng kiến thức bài học giải   thích các hiện tượng Vật lí có liên quan nhằm củng cố, mở  rộng các kiến  thức trong chương trình nội khóa; rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức để  giải thích các hiện tượng Vật lí trong thực tiễn; rèn luyện kĩ năng thực hành;   kích thích sự  hứng thú, tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học  sinh.  Bài học  “Chuyển động thẳng đều” (SGK Vật lí 10 THPT) là một bài  rất phù hợp để  áp dụng hình thức tổ  chức trên, kiến thức bài học có sự  liên  hệ thực tiễn rất phong phú, rất gần gũi và có nhiều ứng dụng trong đời sống   và kĩ thuật. Có thể  sử  dụng rất nhiều dụng cụ  và thí nghiệm đơn giản, dễ  kiếm từ cuộc sống để minh họa cho bài học. 2.3.1. Quy trình thực hiện ­ Giáo viên lập kế hoạch hoạt động: Xây dựng mục tiêu, nội dung hoạt động,  nghiên cứu các thí nghiệm mẫu, dự kiến phương pháp và hình thức tổ chức hoạt  động. ­ Giáo viên giao nhiệm vụ  cho các nhóm học sinh. Giáo viên định hướng và  giúp đỡ  trong quá trình học sinh tham gia thiết kế, chế  tạo các dụng cụ  thí   nghiệm và tiến hành các thí nghiệm về “Chuyển động thẳng đều”.  11
  13. ­ Tổ  chức cho học sinh một tiết để  các nhóm ra mắt sản phẩm, trình bày và   thuyết trình về các thí nghiệm mà nhóm mình đã chế tạo.  ­ Tổng kết và rút kinh nghiệm: Thực nghiệm sư phạm.  2.3.2. Các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đã giao cho học sinh thực hiện   và một số sản phẩm của học sinh + Nhiệm vụ 1: Chế tạo dụng cụ thí nghiệm về   chuyển động của bọt khí trong  ống thuỷ tinh dài chứa đầy nước ứng với một góc nghiêng nào đó. + Nhiệm vụ  2:  Chế  tạo dụng cụ  thí nghiệm về  chuyển động của quả  bóng  bàn chứa một lượng chất nhớt trên máng nghiêng có rãnh trượt. + Nhiệm vụ  3: Chế tạo dụng cụ thí nghiệm về  chuyển động của các vỏ  lon  chứa các chất lỏng nhớt trên mặt phẳng nghiêng. 2.3.2.1. Thí nghiệm 1: Thí nghiệm nghiên cứu chuyển động thẳng đều của bọt  khí trong ống thuỷ tinh chứa đầy nước đặt nghiêng. * Mục đích thí nghiệm: Chứng tỏ chuyển động của bọt khí trong ống thuỷ tinh  đựng đầy nước với các góc nghiêng khác nhau là chuyển động thẳng đều. * Chế tạo ­ cải tiến dụng cụ thí nghiệm: Bọt khí trong ống có tiết diện S  lớn hơn chuyển động nhanh hơn  ống có tiết diện nhỏ ­ Ống thuỷ tinh trong suốt dài 500mm có tiết diện:  12mm hoăch  18mm hoặc  22mm, một đầu ống kín còn một đầu hở  có thể  đậy kín bằng nút cao su (Có   thể thay thế bằng ống thuỷ tinh của đèn ống bị hỏng).  ­ Để tránh cho ống thuỷ tinh không bị vỡ, đóng chiếc hộp gỗ dài 55cm, gồm có   hai phần: Một phần khoét ở giữa một rãnh dọc theo chiều dài ống là 52cm, sâu   và rộng tương ứng với tiết diện của ống sao cho vừa lọt các ống thuỷ tinh. Một   phần còn lại được khoét rãnh dùng làm nắp đậy. * Tiến hành thí nghiệm: ­ Đổ  nước màu (pha thuốc tím vào nước lọc) vào  ống, đậy kín, trong ống có  chứa một bọt không khí và đặt vào hộp gỗ  12
  14. ­ Đặt một đầu ống lên cao (gọi là đầu B)  ­ Nâng đầu còn lại của ống (gọi là đầu A) lên cao sao cho bọt không khí dịch   chuyển về A sau đó đặt đầu A xuống bàn nhẹ nhàng và cho đồng hồ bấm giây  chạy. Đọc đồng hồ  bấm giây (khi bọt khí chạy đến vạch 10 cm), ghi lại kết  quả vào bảng  Quãng đường S  Thời gian (t) (s) (cm) Lần 1 (t1) Lần 2 (t2) Lần 3 (t3) 10 20 30… ­ Cho bọt khí trở về A và lại tiếp tục tiến hành thí nghiệm tương tự. Khi bọt   khí đi đến vạch 20 cm, 30cm, 40cm,... Ghi kết quả vào bảng trên. Từ số liệu   thu được, vẽ  đồ  thị  biểu diễn mối quan hệ  của quãng đường với thời gian.  Tính vận tốc (v). * Kết quả: Bọt khí luôn chuyển động thẳng đều 2.3.2.2. Thí nghiệm 2: Thí nghiệm nghiên cứu chuyển động thẳng đều của  quả bóng bàn có chứa Glyxerin trên mặt phẳng nghiêng. * Mục đích thí nghiệm: Học sinh thiết kế được phương án và tiến hành thí  nghiệm nhằm phát hiện được chuyển động của bóng bàn chứa chất nhớt trên  mặt phẳng nghiêng là chuyển động thẳng đều.  * Chế tạo dụng cụ: ­ Một khung nhôm có rãnh sâu và rộng dùng để định hướng chuyển động cho   bóng (1). ­ Ba quả bóng bàn giống hệt nhau: Một quả để nguyên còn hai quả dùng bơm  kim tiêm loại to đưa Glyxerin vào một quả  khoảng 1/3 thể  tích và một quả  khoảng 1/2 thể tích của quả bóng rồi dùng keo 502 dán kín lại.   * Tiến hành thí nghiệm: ­ Dùng một khúc gỗ  (2) kê cao một đầu của máng (1), đo góc nghiêng   của  máng. ­ Đặt quả  bóng thứ  nhất không chứa glyxerin lên đầu trên của mặt phẳng   nghiêng, thả nhẹ quả bóng trên rãnh trượt từ đỉnh xuống, quan sát chuyển động  của quả bóng ta thấy quả bóng chuyển động nhanh dần. ­ Đặt quả bóng thứ hai (3) chứa 1/3 thể tích là Glyrerin lên đầu trên của máng  nghiêng (1) và thả nhẹ. ­ Để nghiên cứu tính chất chuyển động của quả bóng, có hai cách: (3) (5) (4) (1) (6) (2) 13 Quả bóng chứa glyxerin đang chuyển  động đều xuống dưới máng nghiêng
  15. Cách 1: Dùng đồng hồ  bấm giây (4) đo thời gian bóng chuyển động được  quãng đường 10cm, 20cm, 30cm, 40cm, 50cm….120cm sau mỗi lần thả bóng  và ghi kết quả vào bảng.  Quãng  Thời gian (t) (s) đường S  Lần 1 (t1) Lần 2 (t2) Lần 3 (t3) (cm) 10 20 120 Lặp lại thí nghiệm nhiều lần để có kết quả chính xác.  Cách 2: Dùng bút dạ (5) đánh dấu vị trí chuyển động của quả bóng sau những  khoảng thời gian bằng nhau liên tiếp là 1s. Dùng thước (6)  đo các quãng  đường mà nó chuyển động được và ghi kết quả vào bảng. Lặp lại nhiều lần   thí nghiệm để có kết quả chính xác.                  Quãng đường S (mm) S1 S2 S3 S… Sn Lần thực hiện Lần 1 Lần 2 Từ  kết các quả  thu được ta vẽ  đồ  thị  biểu diễn mối quan hệ  giữa   quãng đường và thời gian. Dựa vào đồ thị ta xác định được chuyển động của   quả  bóng (ví dụ  khi quả  bóng chứa 1/4 thể  tích Glyxerin) là chuyển động  thẳng đều sau khi nó vượt qua đoạn đường S (ví dụ 20 cm) đầu tiên kể từ vị  trí thả tay (đồ thị s­t là một đường thẳng). ­ Làm tương tự  với các quả  bóng khác và thay đổi góc nghiêng của máng ta  cũng thu được kết quả tương tự  * Kết luận: Sau khi quả bóng chứa Glyxerin chuyển động trên máng nghiêng  qua đoạn đường S đầu tiên kể từ vị trí thả tay, nó chuyển động thẳng đều. 2.3.2.3. Thí nghiệm 3: Thí nghiệm nghiên cứu chuyển động thẳng đều của  vỏ lon chứa chất nhớt trên mặt phẳng nghiêng.  * Mục đích thí nghiệm: Thông qua việc thiết kế phương án và tiến hành thí  nghiệm nghiên cứu về chuyển động của vỏ  lon chứa chất nhớt và thông qua  việc vẽ  đồ  thị  biểu diễn mối quan hệ giữa quãng đường và thời gian nhằm  phát hiện ra được khi vỏ lon chứa một chất nhớt có khối lượng xác định, với  một góc nghiêng nhất định thì sẽ nó sẽ chuyển động thẳng đều.  * Chế tạo dụng cụ: 14
  16. ­ Dùng các vỏ lon bia hoặc nước ngọt (1): Vỏ lon thứ nhất để nguyên, các vỏ  lon khác chứa 100 ­ 200g nước rửa bát hoặc Glyxerin hoặc dầu nhớt xe máy.  Dùng keo dán hoặc băng dính trong dán chặt miệng ống lại. ­ Dùng một tấm gỗ  phẳng, nhẵn kích thước (1500x250x25) mm (2) làm mặt   phẳng nghiêng ­ Để  tạo ra các góc nghiêng khác nhau (khoảng 30 ­ 60 0) của mặt phẳng  nghiêng ta dùng các khúc gỗ (3) có kích thước khác nhau. * Tiến hành thí nghiệm:  ­ Đặt tấm gỗ (2) lên khúc gỗ kê (3) tạo ra một mặt phẳng nghiêng góc nghiêng .  ­ Đặt vỏ lon rỗng (1) lên đầu trên của mặt phẳng nghiêng nhẵn (2) rồi buông  tay, vỏ lon sẽ chuyển động nhanh dần đều xuống dưới mặt phẳng nghiêng. (3) (2) (1) (4) (5) (6) (7) Vỏ lon chứa nước rửa bát  Ba vỏ lon chứa ba chất nhớt khác nhau  đang chuyển động thẳng đều  chuyển động với các vận tốc khác nhau  xuống chân máng nghiêng trên cùng một mặt phẳng nghiêng ­ Đặt các vỏ lon chứa chất lỏng khác nhau (5), (6), (7)... lên đầu trên của mặt  phẳng nghiêng rồi buông tay.  Cách 1: Sau khi các vỏ lon chuyển động được quãng đường khoảng 30cm tính  từ lúc buông tay, bấm đồng hồ (4) để xác định thời gian mà các vỏ lon chuyển  động được sau các quãng đường 20cm, 40cm, …60cm,…100cm.                    ­ Lặp lại thí nghiệm nhiều lần để có kết quả chính xác và ghi vào bảng Quãng đường S  Thời gian (t) (s) (cm) Lần 1 (t1) Lần 2 (t2) Lần 3 (t3) 20 40… 100 Cách 2: Dùng phấn trắng đánh dấu vị  trí chuyển động của vỏ  lon sau những  khoảng thời gian bằng nhau liên tiếp là 1s. Dùng thước đo các quãng đường   15
  17. mà nó chuyển động được. Lặp lại nhiều lần thí nghiệm để có kết quả chính  xác.                 Quãng đường S (mm) S1 S2 S3 S… Sn Lần thực hiện Lần 1 Lần 2 * Kết luận: Như  vậy sau khi vỏ  lon chứa chất nhớt chuyển động qua một  đoạn đường S tính từ  vị trí buông tay,  ứng với mỗi chất lỏng có khối lượng  nhất định và với một góc nghiêng thích hợp, các vỏ  lon chứa các chất lỏng   nhớt khác nhau sẽ  chuyển động thẳng đều trên mặt phẳng nghiêng với một  vận tốc nhất định.  2.3.3. Dự kiến những khó khăn mà học sinh gặp phải  * Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu tính chất chuyển động thẳng đều của bọt khí  trong ống thuỷ tinh đựng nước Ở thí nghiệm này, tôi dự kiến học sinh sẽ gặp một số khó khăn:  ­ Khó tìm được ống thuỷ tinh theo đúng yêu cầu, hoặc nếu có nghĩ đến dùng  đèn ống thuỷ tinh hỏng thì rất khó cắt một đầu của bóng, việc rửa sạch ống   cũng không đơn giản. Khi học sinh gặp khó khăn đó thì giáo viên dự  kiến sẽ  hướng dẫn các em: + Nếu học sinh chưa nghĩ đến dùng đèn ống cắt bỏ một đầu sau đó lại không có  chỗ cắt kính, phải đi rất xa mới làm được thì chúng tôi có thể đưa ra phương   án hướng dẫn học sinh mua ống thuỷ tinh (nếu nơi ở của các em có cơ sở chế  tạo).  + Nếu học sinh có khó khăn không thể có được các ống thuỷ tinh có tiết diện  khác nhau thì GV sẽ  cung cấp cho học sinh các  ống thuỷ  tinh đó và yêu cầu   học sinh tìm phương án hạn chế những nhược điểm của ống thuỷ  tinh là dễ  vỡ.  ­ Một khó khăn nữa mà học sinh gặp phải là không tìm kiếm được nút bằng   cao su để  đậy  ống nghiệm sao cho nó không bị  hở. Khi đó tôi sẽ  gợi ý học  sinh mượn  ở phòng hoá học ở  trường phổ  thông. Nếu không được thì tôi dự  kiến sẽ  mượn  ở phòng thí nghiệm của nhà trường một số nút cao su để  đưa   cho các em. * Nhiệm vụ 2: Thí nghiệm nghiên cứu về chuyển động của quả bóng bàn   có chứa chất lỏng nhớt (Glyxerin, nước rửa bát..). Ở  thí nghiệm này tôi giao cho học sinh với nhiệm vụ  rất cụ  thể, tuy   nhiên khi thực hiện nhiệm vụ  này, học sinh sẽ  không tránh khỏi những khó   khăn. Vì vậy tôi dự kiến hướng dẫn học sinh khi các em như sau: ­ Khó khăn đầu tiên là có thể  có nhóm các em không nghĩ đến việc dùng  khung nhôm của cửa kính, cửa chớp làm đường chuyển động cho bóng bàn.  Nếu vậy, chúng tôi dự kiến sẽ hướng dẫn các em: Vật liệu có thể tạo ra độ  16
  18. phẳng nhẵn tốt nhất mà các em có thể tìm được trong cuộc sống hàng ngày là  những vật liệu nào?    Cách gợi ý này có thể các em sẽ nghĩ đến việc làm mặt phẳng nghiêng  bằng khung nhôm, bằng inox..v.v… nhưng có thể sẽ chưa nghĩ đến việc dùng  khung nhôm có rãnh để  bóng chuyển động. Cũng có thể  các em sẽ  đưa ra  phương   án   dùng   mặt   phẳng   bằng   gỗ,   bào   nhẵn   đi   làm   đường   cho   bóng  chuyển động mà cũng chưa nghĩ đến việc làm rãnh để  định hướng chuyển  động của bóng.      Nếu vậy tôi dự kiến sẽ gợi ý các em bằng các câu hỏi: Nếu các em thả  bóng bàn trên mặt phẳng nghiêng thông thường thì việc thả  bóng  ở  các lần   khác nhau liệu có hoàn toàn giống nhau không và quĩ đạo chuyển động của  bóng trong các lần thả đó có giống nhau không? Nếu quĩ đạo mà bóng chuyển   động  ở  các lần thí nghiệm không giống nhau thì có khó khăn khi nghiên cứu   không?      Với cách đặt các câu hỏi định hướng như vậy sẽ là những gợi ý để các  em suy nghĩ đến việc tạo ra một đường (rãnh) với mặt phẳng nghiêng bằng   gỗ  hay lựa chọn khung nhôm có rãnh để  định hướng chuyển động của quả  bóng sao cho mọi lần làm thí nghiệm, quả bóng chuyển động giống hệt nhau.  * Nhiệm vụ 3: Thí nghiệm nghiên cứu chuyển động của vỏ lon chứa chất  lỏng nhớt trên mặt phẳng nghiêng. Với nhiệm vụ này học sinh có thể sẽ  gặp một số  khó khăn khi nghiên  cứu, tìm  hiểu  qui  luật  chuyển  động của vỏ  lon chứa chất nhớt trên mặt   phẳng nghiêng. Khi đó, tôi dự kiến sẽ gợi ý cho học sinh như sau:  Khi nghiên  cứu tính chất chuyển động của vỏ lon, các em không cần phải làm thí nghiệm  cụ thể, chi tiết ứng với mọi góc nghiêng mà chỉ cần làm trong một số trường   hợp, sau  đó thay đổi góc nghiêng và quan sát, nếu trong một khoảng góc  nghiêng nào đó thấy vỏ  lon chứa chất nhớt chuyển động có vẻ  như  rất đều  thì tập trung vào làm thật kĩ để có được kết quả cụ thể.  2.3.4. Tổ chức cho các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm với  thiết bị đã chế tạo Thời gian: có thể  sử  dụng tiết học tự  chọn hoặc tổ  chức một buổi   ngoại khóa. Các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm với thiết bị  đã chế  tạo và trả  lời các chất vấn và thắc mắc của giáo viên và các bạn học sinh  khác.     Khi báo cáo kết quả trước các thầy cô giáo một số em đại diện cho các   nhóm lúc đầu còn tỏ  ra chưa tự tin về khả năng thuyết trình của mình trước   đông người, nhưng sau đó các em đã tỏ ra rất tự tin và báo cáo rất lưu loát kết   quả mà nhóm của mình đã làm được. 2.4. Tính khả thi của giải pháp ­  Nội dung của hoạt động ngoài giờ nhìn chung là phù hợp với kiến thức mà   các em được học trong giờ nội khoá, đáp ứng được mục tiêu mà đề tài đã đặt   17
  19. ra là phát huy tính chủ động, tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học   sinh.  ­ Học sinh hồ hởi tham gia. + Tất cả  các nhóm đều có sản phẩm báo cáo. Các em tích cực và háo hức   chuẩn bị cho buổi báo cáo như cơ sở vật chất, phần thưởng... + Buổi báo cáo không vắng em nào thậm chí còn có rất nhiều em  ở  các lớp  khác cũng tham dự. Tất cả  học sinh đều mong muốn được tham gia vào các  hoạt động ngoại khoá bổ ích như vậy trong năm học tới. ­ Phương pháp hướng dẫn cho học sinh nhìn chung là hợp lý.  ­ Hình thức tổ  chức hoạt  động theo nhóm tương  đối phù hợp. Việc giao   nhiệm vụ cho các trưởng nhóm báo cáo thường xuyên kết quả hoạt động của  nhóm cho giáo viên là rất hiệu quả.  2.5. Hiệu quả của giải pháp 2.5.1. Đối với học sinh 2.5.1.1. Những biểu hiện của tính chủ  động, tích cực trong hoạt động  của học sinh ­ Các em đều rất hứng thú, tự  nguyện tham gia vào các hoạt động ngoại khóa   một cách tích cực, thoải mái, nhiệt tình. Các thành viên của mỗi nhóm đều chủ  động thực hiện nghiêm túc và hiệu quả nhiệm vụ của nhóm mình.  ­ Học sinh đều tích cực hoàn thành nhiệm vụ của mình. ­ Khi có vấn đề  chưa hiểu hoặc khó khăn không giải quyết được thì các em   đã mạnh dạn, chủ động nhờ giáo viên giúp đỡ. ­ Khi giáo viên hướng dẫn, các em rất chăm chú lắng nghe và suy nghĩ rất tích  cực theo hướng giáo viên gợi mở. Sau đó, đa số  các nhóm đều có thể  chủ  động, tự tìm ra cách giải quyết cho mình. ­ Có nhiều em nghĩ ra phương án thí nghiệm để  giải quyết nhiệm vụ  được   giao thì các em đã chủ động, mạnh dạn trình bày ý tưởng với giáo viên và các   bạn cùng nhóm.  ­ Có nhiều thí nghiệm khó thành công nhưng các em cũng không nản chí. Các  em biểu diễn thí nghiệm nhiều lần và chủ  động tìm hiểu nguyên nhân cũng  như tìm cách để thí nghiệm thành công hơn. ­ Tất cả các nhóm đều cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngoài ra,   các em còn cố  gắng để  có sản phẩm đẹp, bền và có thể  sử  dụng trong giờ  học của các em khóa sau. ­ Các em đều rất háo hức mong đợi đến buổi tổng kết để  được ra mắt các  sản phẩm mà các em đã chế tạo được và giao lưu với nhóm khác.  2.5.1.2. Một số biểu hiện của tính sáng tạo của học sinh ­ Hầu hết các nhóm đều đưa ra được cách chế tạo dụng cụ thí nghiệm.  ­ Trong khi chế  tạo dụng cụ  thí nghiệm các nhóm đều đề  xuất được sáng  kiến để dụng cụ bền, đẹp hơn.  ­ Nhóm nghiên cứu về  chuyển động của quả  bóng bàn chứa chất nhớt: Biết   dùng khung nhôm có rãnh cho bóng bàn chuyển động, một đầu khung nhôm  18
  20. kẹp vào giá đỡ của trụ đứng, có thể dễ dàng thay đổi được góc nghiêng của  máng. ­ Trong thí nghiệm có nhiều phương án, học sinh có thể  so sánh được các  phương án.  ­ Học sinh có thể vận dụng kiến thức thu được một cách linh hoạt trong việc   giải thích các hiện tượng thực tế. Các câu hỏi trong phần thi đố  vui được  dùng để kiểm nghiệm điều này. ­ Kết quả  trong các bài kiểm tra, bài thi các em đã làm tốt các câu liên quan   góp phần không nhỏ vào kết quả chung của cả bài thi. Sau đây là kết quả khảo sát thực tiễn chất lượng bài kiểm tra của học  sinh ở 2 lớp 10C1, 10C5 năm học 2017 ­ 2018 Khi chưa áp dụng đề tài Sau khi áp dụng đề tài       Chất lượng Lớp(Sĩ số) G K TB Y G K TB Y 7 14 15 9 13 25 7 0 10 C1 ( 45) (15.6%) (31.1%) (33.3%) (20%) (28.9%) (55.5%) (15.6%) 5 12 17 11 12 23 10 10C5  (45) (11.1%) (26.7%) (37.8%) (24.4%) (26.7%) (51.1%) (22.2%) 0 2.5.2. Đối với bản thân giáo viên Quy trình đã lập có nội dung và phương pháp phù hợp đối với học sinh,   có tính khả thi và đạt được hiệu quả, mục đích dạy học. Đây là một bài học  kinh nghiệm và nguồn tham khảo để  bản thân và các đồng nghiệp áp dụng  vào   giảng   dạy   cũng   như   tiếp   tục   nghiên   cứu,   phát   triển   về   nội   dung   và  phương pháp hơn nữa. Tổ  chức thành công hoạt động này là một luồng gió mới về  đổi mới  phương pháp dạy học, góp phần thúc đẩy bản thân tôi và các đồng nghiệp  tích cực trau dồi, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tiếp tục hăng say đổi  mới phương pháp dạy học tích cực và hiệu quả  hơn nữa, đồng thời bồi đắp  lòng yêu nghề và sự tận tâm với học sinh. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Qua kết quả của việc tổ chức hoạt động giao các nhiệm vụ tự thiết kế,   chế  tạo các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản và tiến hành thí nghiệm với các   dụng cụ đó cho học sinh lớp 10 ở trường THPT Yên Định 3, Thanh Hóa theo  nội dung, phương pháp và hình thức đã xây dựng, tôi thấy hoạt động này đã  đạt đã đạt được một số kết quả sau đây: + Khắc phục được những điểm còn hạn chế của dạy học nội khóa, đó là học  sinh đã được làm thí nghiệm và vận dụng kiến thức vào thực tiễn nhiều hơn.   Nhờ  đó, các em củng cố, mở  rộng, đào sâu thêm các kiến thức, rèn luyện  được kĩ năng, hình thành tình cảm thái độ đúng đắn. Hình thức mới mẻ và nội  dung hấp dẫn, phù hợp của hoạt động đã thu hút học sinh tham gia một cách   tích cực. Học tập một cách thoải mái, không gò bó tạo điều kiện cho học sinh   chiếm lĩnh tri thức một cách tự  nhiên, kích thích sự  ham hiểu biết, tìm tòi và  19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2