Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học các bài khái quát văn học
lượt xem 1
download
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là khắc phục được một số tồn tại trong thực tiễn dạy học các bài khái quát văn học. Đề xuất một số giải pháp phát huy tính tích cực,chủ động, sáng tạo của học sinh khi dạy học các bài khái quát văn học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học các bài khái quát văn học
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài. Đất nước đang trong thời kì hội nhập, đòi hỏi một đội ngũ những con người trẻ tuổi, năng động và sáng tạo trong mọi lĩnh vực để đáp ứng các nhu cầu đổi mới. Xuất phát từ yêu cầu này đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới căn bản, toàn diện từ mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá … Trong đó có thể nói yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học đang trở thành tâm điểm chú ý trong giáo dục hiện nay. Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại ; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực.”. Từ quan điểm này mỗi giáo viên ý thức sâu sắc rằng phải không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học. Trong chương trình môn ngữ văn, các bài khái quát văn học là một nội dung quan trọng được phân bố đều ở ba khối 10,11,12. Bài khái quát văn học chứa đựng dung lượng kiến thức lớn về các giai đoạn văn học, về diện mạo, đặc điểm, khuynh hướng, thành tựu văn học, về các tác giả văn học.Tri thức ở những bài khái quát này giúp học sinh nhận diện được bức tranh văn học, văn hóa dân tộc một cách toàn diện và hệ thống.Từ đó học sinh có nền tảng kiến thức cơ bản, vững chắc để đi sâu tiếp thu những bài học cụ thể. Tuy nhiên trong thực tế dạy học tôi nhận thấy việc dạy học các bài khái quát chưa được các thầy cô quan tâm đúng mức, chưa có nhiều đổi mới trong phương pháp giảng dạy dẫn đến tiết học nhàm chán, tẻ nhạt, học sinh học tập một cách thụ động, chiếu lệ điều này đồng nghĩa với việc không phát huy được năng lực của học sinh trong quá trình dạy học.Từ thực trạng đó bản thân tôi đã tìm tòi thay đổi phương pháp dạy học, áp dụng những phương pháp, hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực và đạt được những hiểu quả nhất định. Vì những lí do trên tôi quyết định chọn đề tài : “Phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học các bài khái quát văn học” như một đóng góp nhỏ vào công cuộc đổi mới phương phap dạy học môn Ngữ Văn trong trường THPT. II. Mục đích nghiên cứu: Khắc phục được một số tồn tại trong thực tiễn dạy học các bài khái quát văn học. 1
- Đề xuất một số giải pháp phát huy tính tích cực,chủ động, sáng tạo của học sinh khi dạy học các bài khái quát văn học. III. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu: Phạm vi: Các bài khái quát văn học bao gồm bài khái quát về các giai đoạn văn học và khái quát về các tác giả văn học trong chương trình Ngữ Văn THPT. Đối tượng: Học sinh THPT Thời gian: Năm học 2019 2020; 20202021 Địa điểm: Tại trường THPT tôi đang trực tiếp công tác. IV. Phương pháp tiến hành Chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp: Phương pháp phân tích và tổng hợp Phương pháp điều tra khảo sát Phương pháp thực nghiệm V.Đóng góp của đề tài Góp phần hệ thống hoá cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học các bài khái quát văn học. Đề tài đã đưa ra được những giải pháp cụ thể để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học các bài khái quát văn học. Ở đề tài này, chúng tôi đã cụ thể hoá bằng những giải pháp dựa trên thực tiễn của quá trình dạy học có minh họa cụ thể, dễ áp dụng. VI. Cấu trúc Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của sáng kiến kinh nghiệm gồm : Cơ sở lý luận và thực tiễn Một số giải pháp phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học các bài khái quát văn học Khảo sát thực nghiệm 2
- PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. Cơ sở lí luận và thực tiễn 1. Cơ sở lý luận 1.1 Khái niệm, các biểu hiện của tính tích cực Tính tích cực là một trạng thái của hành động trí óc hoặc tay chân của người có mong muốn hoàn thành tốt công việc nào đó. Nó làm cho quá trình học tập, làm việc, tìm tòi có định hướng, từ đó con người dễ làm chủ và điều khiển các hoạt động của mình. Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đi học. Tính tích cực trong hoạt động học tập là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng huy động trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Những biểu hiện của tính tích cực : Chú ý học tập, hiểu bài và nắm chắc kiến thức. Hăng hái tham gia vào mọi hoạt động học tập (thể hiện qua: số lần giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài, ghi chép đầy đủ, nỗ lực hoàn thành công việc được giao và xung phong báo cáo kết quả …). Thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập (thể hiện qua: trả lời được các câu hỏi vấn đáp của giáo viên trong giờ học, đề xuất được các dự đoán, suy luận được các hệ quả từ dự đoán, giải được các bài tập trên lớp, bài tập về nhà, tìm kiếm hay làm mới được các bài tập vận dụng được giao…). Vận dụng được các kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn liên quan. Đọc thêm các tài liệu tham khảo và làm thêm các bài tập nâng cao 1.2 Khái niệm, các biểu hiện của tính sáng tạo: Tính sang tao đ ́ ̣ ược hiêu la s ̉ ̀ ự thê hiên kha năng cua hoc sinh trong viêc suy ̉ ̣ ̉ ̉ ̣ ̣ ́ ̣ nghi va tim toi, phat hiên nh ̃ ̀ ̀ ̀ ững y t ́ ưởng mới nay sinh trong hoc tâp va cuôc sông, ̉ ̣ ̣ ̀ ̣ ́ 3
- từ đo đê xuât đ ́ ̀ ́ ược cac giai phap m ́ ̉ ́ ơi môt cach thiêt th ́ ̣ ́ ́ ực, hiêu qua đê th ̣ ̉ ̉ ực hiên y ̣ ́ tưởng. Trong viêc đê xu ̣ ̀ ất va th ̀ ực hiên y t ̣ ́ ưởng, hoc sinh bôc lô oc to mo, niêm ̣ ̣ ̣ ́ ̀ ̀ ̀ ̀ ̉ say mê tim hiêu kham pha. ́ ́ Năng lực sang tao đ ́ ̣ ược thê hiên qua nh ̉ ̣ ững biêu hiên sau: ̉ ̣ ́ ặt cać câu hỏi khác nhau về một sự vật, hiện tượng; xác định và Biêt đ làm rõ thông tin, ý tưởng mới; phân tích, tóm tắt những thông tin liên quan từ nhiều nguồn khác nhau. ̀ ́ ược ý tưởng dựa trên các nguồn thông tin đã cho; đề xuất giải Đê xuât đ pháp cải tiến hay thay thế các giải pháp không còn phù hợp; so sánh và bình luận được về các giải pháp đề xuất. Trinh bay nh ̀ ̀ ững s uy nghĩ và khái quát hoá thành tiến trình khi thực hiện một công việc nào đó; tôn trọng các quan điểm trái chiều; áp dụng điều đã biết vào tình huống tương tự. ̣ ̀ ̉ Viêc hinh thanh va phat triên năng l ̀ ̀ ́ ực sang tao cung la môt muc tiêu ma môn ́ ̣ ̃ ̀ ̣ ̣ ̀ ̣ hoc Ng ữ văn hương t ́ ơi. Năng l ́ ực nay đ ̀ ược thê hiên trong viêc xac đinh các ̉ ̣ ̣ ́ ̣ tình huống và những ý tưởng, đăc biêt nh ̣ ̣ ưng y t ̃ ́ ưởng được gửi găm trong cac văn ́ ́ ̉ ̣ ̣ ̀ ban văn hoc, trong viêc tim hiêu, x ̉ em xét cac s ́ ự vật, hiên ṭ ượng tư ̀ những góc nhìn khác nhau, trong cach trinh bay quá ́ ̀ ̀ ̀ ̉ ́ ̉ ọc sinh trình suy nghĩ va cam xuc cua h trươc môt ve đep, môt gia tri cua cuôc sông. Năng l ́ ̣ ̉ ̣ ̣ ́ ̣ ̉ ̣ ́ ực suy nghi sang tao bôc lô ̃ ́ ̣ ̣ ̣ ́ ̣ thai đô đam mê va khat khao đ ̀ ́ ược tim hiêu cua h ̀ ̉ ̉ ọc sinh, không suy nghi theo lôi ̃ ́ mon, theo công th ̀ ưc. ́ 2.Cơ sở thực tiễn 2.1.Cấu trúc, thời lượng chương trình của bài khái quát văn học trong chương trình Ngữ Văn THPT – chương trình cơ bản. Lớp Tên bài Số tiết Tổng quan văn học Việt Nam 3 (Tiết 1 3) Khái quát văn học dân gian 2 (Tiết 56) Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỷ X 2( Tiết 3637) Ngữ văn đến hết thế kỷ XIX 10 Đại cáo bình Ngô ( Phần I Tác giả Nguyễn 2 (Tiết 5960) Trãi) 2 (Tiết 8384) Truyện Kiều (Phần I Tác giả Nguyễn Du) Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Phần I tác giả 1(Tiết 20) Nguyễn Đình Chiểu) 3 ( Tiết 28 30) Ngữ Văn Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ 1( Tiết 56) 11 XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 Chí Phèo ( Phần I tác giả Nam Cao) Ngữ văn Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng 3( Tiết 13) 4
- tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỷ XX Tuyên ngôn độc lâp ( Phần I tác giả Hồ Chí 1 (Tiết 6) 12 Minh) 1 (Tiết 20) Việt Bắc ( Phần I tác giả Tố Hữu) Lớp 10: 11 tiết Tổng hợp Lớp 11: 5 tiết Lớp 12: 5 tiết Từ bảng thống kê trên ta có thể rút ra một số nhận xét về kiến thức, thời lượng chương trình của các bài khái quát văn học trong chương trình ngữ văn như sau: Các bài khái quát văn học được sắp xếp theo tiến trình lịch sử thể hiện được sự vận động của nền văn học dân tộc. Có hai kiểu bài khái quát: Khái quát giai đoạn văn học và khái quát về tác giả văn học Thời lượng số tiết dành cho các bài khái quát đã được giãn ra so với các năm học trước như vậy phần nào đã giảm được áp lực về mặt thời gian, đạo điều kiện cho giáo viên tổ chức được nhiều hoạt động hơn trong giờ học. 2.2 Đặc điểm, vai trò của các bài khái quát văn học. Về nội dung các bài khái quát văn học là những nhận định, những đánh giá của các nhà nghiên cứu văn học về lịch sử văn học dân tộc, về tác giả văn học trong các nhìn bao quát của cả nền văn học, từng bộ phận từng thời kì. Về hình thức các bài khái quát văn học trong sách giáo khoa là các văn bản khoa học được viết bằng văn nghị luận gồm có nhiều phần, mỗi phần trình bày một vấn đề bằng hệ thống luận điểm và các luận chứng,luận cứ để làm rõ từng luận điểm. Về mục tiêu các bài khái quát văn học thuộc kiểu bài văn học sử nhằm cung cấp những tri thức khoa học về lịch sử văn học, về tác giả văn học giúp học sinh có các nhìn khái quát về cả nền văn học, về từng thời kì và từng tác giả văn học. Về vị trí, vai trò các bài khái quát văn học có một vị trí vai trò chức năng quan trọng. Từ những đặc điểm, sự kiện, hiện tượng văn học cụ thể qua từng giai đoạn văn học học sinh sẽ ý thức được sự phát triển không ngừng của nền văn học dân tộc. Tri thức khái quát về giai đoạn văn học còn được coi là chìa khóa vàng giúp học sinh hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu ban đầu, năng lực giải quyết vấn đề.Qua đó học sinh sẽ tự xây dựng một phương pháp học tập phù hợp với khả năng và trình độ của mình. Các bài khái quát văn học cũng bồi dưỡng rất tốt những phẩm chất và tình cảm nhân văn cho học sinh như tình yêu nước, lòng nhân đạo, trân trọng truyền thống… 5
- Từ đặc điểm bài học đòi hỏi một phương pháp dạy học đặc thù. Song trên thực tế thực trạng dạy học kiểu bài này vẫn còn nhiều điều cần phải bàn bạc thêm. 2.3 Thực trạng dạy học các bài khái quát văn học trong nhà trường hiện nay. 2.3.1 Về phía giáo viên Khảo sát thực tiễn dạy học các bài khái quát qua thông qua: trao đổi trực tiếp, trên giáo án, trên phiếu trắc nghiệm khách quan và dự giờ trên lớp chúng tôi thu được kết quả sau: Đại bộ phận giáo viên đều không thích dạy các tiết dạy khái quát văn học. Và thực tế cho thấy là trong các tiết thao giảng, các giờ dạy dự thi giáo viên giỏi các cấp các bài khái quát văn học hoàn toàn vắng bóng. Bởi lẽ: + Thứ nhất cho rằng các bài này dễ, có gì đâu mà dạy, sách giáo khoa đã viết đầy đủ, cho học sinh đọc kĩ sách giáo khoa là được.Vì thế giờ dạy trên lớp diễn ra qua loa, nhàm chán, đơn điệu. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa, phát vấn những câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài, học sinh dựa vào vở soạn mà rất nhiều là chép từ sách học tốt để trả lời câu hỏi của giáo viên. Kết quả là học hết bài nhưng học sinh không nhớ được các kiến thức cơ bản, không hình thành được năng lực khái quát, tổng hợp vấn đề một năng lực cần thiết được hình thành trong giờ dạy các bài khái quát, không phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập. + Thứ hai cho rằng dạy các bài khái quát văn học rất khó vì bài dài mà thời gian lên lớp lại ngắn, đòi hỏi giáo viên vừa khai thác bề rộng và bề sâu kiến thức nên dạy thế nào cho hấp dẫn đó quả là một bài toán gian nan. Bài thì khó dạy nhưng lại không thi khảo sát chất lượng cuối kỳ, cuối năm cũng như không thi tốt nghiệp THPT. Vì thế cho nên giáo viên chưa đầu tư tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng giờ dạy. Giáo viên cố gắng chuyển khối lượng kiến thức trong sách giáo khoa đến học sinh một cách vất vả trong một lượng thời gian định sẵn.Trong giờ dạy giáo viên cũng sử dụng phương pháp đặt câu hỏi song phần lớn là câu hỏi tái hiện kiến thức. Chính cách học này làm cho không khí giờ học trở nên rất nặng nề không phát huy được năng lực của người học, làm cho các em mất dần khả năng tự thân vận động để tìm hiểu, nghiên cứu bài giảng, không chịu khó tự học, tự khám phá để mở rộng tầm hiểu biết. Một bộ phận giáo viên ý thức được vị trí, vai trò của dạng bài học này đã cố gắng đổi mới phương pháp dạy học bằng cách sử dụng các phương pháp dạy học tích cực như phương pháp thuyết trình, sử dụng sơ đồ tư duy, thảo luận nhóm (giáo viên thuyết trình hoặc chia nhóm cho học sinh lần lượt thuyết trình) không khí giờ học đã có thay đổi song nhìn chung vẫn nặng về hình thức, kết quả chưa cao đặc biệt chưa phát huy hết tính sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Giáo viên quá lạm dụng phương pháp thuyết trình và sử dụng 6
- sơ đồ tư duy, để cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà và lên lớp chỉ lần lượt các nhóm thay nhau lên thuyết trình. Đối với phương pháp hoạt động nhóm thì vấn đề đưa ra thảo luận thường đơn giản, không kích thích được sức mạnh, trí tuệ của tập thể. Ví dụ: Khi dạy bài “ Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thể kỉ XX” Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm ở nội dung quá trình phát triển và thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975 Nhóm 1: Chặng đường từ 1945 đến năm 1954 Nhóm 2 : Chặng đường từ 1955 đến năm 1964 Nhóm 3: Chặng đường từ 1965 đến năm 1975 Nhóm 4: Văn học vùng đích tạm chiếm Giáo viên cho học sinh đọc sách giáo khoa và thảo luận trong 3 phút rồi cử đại diện lên trình bày. Học sinh cũng chủ yếu ghi lại những nội dung đã được viết trong sách giáo khoa không tư duy huy động kiến thức cũ để chứng minh hay mở rộng vấn đề. Và như vậy theo tôi ở đây giáo viên đã sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực song vẫn nặng về hình thức. Rõ ràng với cách tổ chức tiết học như thế này hiệu quả sẽ không cao, không tạo được hứng thú cũng như vẫn chưa khai thác, phát huy hết năng năng lực của học trò. 2.3.2 Về phía học sinh Thực trạng dạy học văn xét từ phía học sinh còn nhiều vấn đề băn khoăn. Học sinh vốn đã không mặn mà với môn văn lại càng không thích các giờ khái quát văn học và cho rằng nó không quan trọng. Thái độ học tập của các em là đối phó, thụ động. Ở nhà không chịu khó soạn bài thấm chí là nhiều em không đọc bài, phụ thuộc vào sách học tốt, trên lớp thụ động chờ giáo viên cung cấp kiến thức, các em không chịu khó học tập. Hơn nữa kể cả khi giáo viên cung cấp kiến thức bài học các em cũng ghi chép cẩu thả, sơ sài, thiếu hệ thống. Nên khi cần vận dụng kiến thức cho bài học sau các em không làm được. Dần dà “ lỗ hổng ” kiến thức về các giai đoạn văn học ngày một lớn. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát ở hai lớp 11A4, 11A3 có số lượng học sinh là 80 với một số câu hỏi và thu được kết quả như sau: Nội dung điều tra Nội dung câu trả lời Số lượng Tỷ lệ Em hãy nêu các bộ phận Không nhớ 40/80 50% hợp thành văn học Việt Trả lời đúng 18/80 21,5% Nam ? Trả lời sai 22/80 28,5% Em hãy cho biết đặc Không nhớ 36/80 43% điểm văn học dân gian? Trả lời đúng 22/80 28,5% 7
- Trả lời sai 22/80 28,5% Em có biết văn học Không nhớ 22/80 28,5% trung đại Việt Nam bắt Trả lời đúng 40/80 50% đầu từ thời gian nào Trả lời sai 18/80 21,5% đến thời gian nào? Như vậy kết quả cho thấy số lượng học sinh nắm được kiến thức khái quát về đặc điểm, sự phân kì giai đoạn văn học còn rất kiêm tốn, phân đa là không nhớ hoặc nhớ lẫn lộn. 2.3.3 Nguyên nhân Từ thực tế đáng lo ngại đó, chúng tôi đã cố gắng để đi tìm nguyên nhân nhằm tìm ra những giải pháp phù hợp, hữu ích cho quá trình giảng dạy. Bước đầu chúng tôi ghi nhận được những nguyên nhân sau: Thứ nhất kiến thức các bài khái quát văn học thường là những nhận định khoa học khô khan, trừu tượng nên không hấp dẫn cả người dạy lẫn người học. Các kiến thức này lại mang tầm khái quát, tổng hợp rất cao. Điều này đòi hỏi người dạy phải có khả năng bao quát, hệ thống hóa kiến thức và sự am hiểu lớn. Những kiến thức sâu rộng, mang tầm vĩ mô cần được giáo viên tổ chức khéo léo để phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh và quan trọng là làm sao để khai thác được tính sáng tạo của học sinh trong dạng bài học này. Đây là một khó khăn đối với giáo viên. Thứ hai khối lượng kiến thức trong các bài khái quát khá lớn song thời gian dành cho nó lại rất hạn chế mặc dù năm học này đã thực hiện việc tinh giản nội dung chương trình, các bài học đã được giãn ra song nhiều trường vẫn không giãn thời lượng ở các bài khái quát văn học. Ví dụ như bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX bao quát các hiện tượng văn học, các tác giả, tác phẩm lớn… trong gần suốt mười thế kỷ của văn học, vậy mà chỉ được dạy trong hai tiết. Mâu thuẫn này buộc trong giờ học, giáo viên phải cố gắng truyền thụ cho học sinh sao cho hết lượng kiến thức bài học. Nguyên nhân khách quan này cản trở không nhỏ cho công cuộc đổi mới phương pháp dạy học phân môn này. Thông thường để an toàn về thời gian, các thầy cô lựa chọn phương pháp thuyết trình.Thầy cô nói, học trò ghi chép. Sự tiếp thu của học sinh trở nên thụ động, áp đặt nhàm chán. Học sinh không có cơ hội để phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo trong tư duy. Các kỹ năng học tập và năng lực tư duy chưa được khuyến khích và phát triển. Vì thế hiệu quả học tập bộ môn bị giảm sút. Thứ ba về phía giáo viên chưa dành nhiều tâm huyết đầu tư vào các bài khái quát văn học. Nếu như các giờ dạy đọc hiểu tác phẩm văn học được các thầy cô tìm tòi đổi mới về phương pháp thì các giờ dạy bài khái quát văn học 8
- tâm lí của thầy cô là “ dạy cho xong ”. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giờ học. Xuất phát từ cái nhìn tổng thể về vị trí, vai trò, nội dung chương trình cũng như thực trạng dạy học, nguyên nhân cuả thực trạng dạy học các bài khái quát văn học ở trường phổ thông, tôi đã cố gắng tìm tỏi, học hỏi những biện pháp, cách thức để góp phần nhỏ vào việc phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học các bài khái quát văn học. II. Một số giải pháp phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học các bài khái quát văn học. 1. Căn cứ để đề ra giải pháp phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học các bài khái quát văn học. 1.1 Tuân thủ nguyên tắc dạy văn học sử Bài khái quát văn học là một kiểu bài thuộc phân môn văn học sử vì vậy khi dạy kiểu bài này phải tuân thủ các nguyên tắc dạy văn học sử. Dạy văn học sử là một công việc có những yêu cầu khá nghiêm ngặt về mặt nguyên tắc. Để có được phương pháp giảng dạy, cách thức tổ chức giờ học hợp lý và hiệu quả, ngoài những nguyên tắc chung của bộ môn văn, giáo viên còn phải tuân theo các nguyên tắc dạy học có tính đặc thù của kiểu bài văn học sử. Bàn về vấn đề này, cuốn Phương pháp dạy học văn do giáo sư Phan Trọng Luận chủ biên đã trình bày năm nguyên tắc cơ bản: “1, Dạy văn học sử phải giúp học sinh nhận biết được quá trình lịch sử văn học dân tộc với các mốc tiêu biểu có tính kế thừa và phát triển của quá trình đó. 2, Dạy văn học sử phải luôn quán triệt quan điểm duy vật lịch sử và duy vật biện chứng trong việc phân tích, đánh giá các hiện tượng văn học. 3, Dạy học văn học sử phải kết hợp một cách thường xuyên việc rèn luyện năng lực phân tích tổng hợp cho học sinh. 4, Dạy học văn học sử là dạy tri thức mang tính tích hợp, từ đó cần kết hợp việc dạy văn học sử với lý thuyết văn học, dạy tác phẩm, dạy làm văn. 5, Bài văn học sử gắn liền với lịch sử xã hội phải đạt được yêu cầu giáo dục truyền thống văn học và truyền thống dân tộc.”. 1.2 Căn cứ vào đối tượng học sinh Để phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh trong dạy học văn nói chung và dạy học các bài khái quát văn học nói riêng tôi đã vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức và kĩ thuật dạy học tích cực. Căn cứ để lựa chọn sử dụng các phương pháp, hình thức, kĩ thuật là dựa vào đặc điểm, nội dung cụ thể của bài học, từng hoạt động trong bài, đặc biệt là dựa vào đối tương học sinh của từng lớp học để sử dụng hình thức, phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp và đạt hiệu quả. Theo tôi điểu này rất quan trọng vì lâu nay trong quá trình dạy học khi thiết kế hoạt động chúng ta quan tâm nhiều đến mục đích, nội dung bài học mà còn ít quan tâm đến đối tượng người học. Trong thực tế dạy học chúng ta vẫn áp dụng thiết kế hoạt động chung cho tất cả các lớp vì 9
- vậy dẫn đến tình trạng với cùng thiết kế đó lớp học thành công lớp thì “cháy giáo án”. Vì vậy theo tôi trong quá trình giảng dạy trên lớp ta nên vận dụng linh hoạt các phương pháp dựa vào đặc điểm của đối tượng học sinh. Nghĩa là cùng một nội dung, cùng một mục tiêu nhưng cách thức thực hiện ở từng lớp có thể khác nhau. Cùng dạy bài khái quát nhưng ở lớp 10 học sinh đầu cấp có thể chọn hình thức, phương học, kĩ thuật dạy học vừa sức với tâm lí lứa tuổi như tổ chức trò chơi, phương pháp thuyết trình, thảo luận nhóm, sử dụng sơ đồ tư duy…và trong quá trình giáo viên giao nhiệm vụ sẽ phải hướng dẫn cụ thể, chi tiết, thậm chí làm mẫu trước nhưng đến lớp 11, 12 khi các em đã tích luỹ được thêm kiến thức, đã trải nghiệm những hình thức, phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực quen thuộc giáo viên sẽ áp dụng những hình thức, phương pháp, kĩ thuật khó hơn, đòi hỏi sự chuẩn bị công phu hơn như hình thức toạ đàm, giao lưu, lớp học đảo ngược, phương pháp đóng vai, sử dụng mô hình Fayer…Tương tư như vây đối với các lớp đầu khá, các lớp ban xã hội sẽ áp dụng hình thức, phương pháp. kĩ thuật khác với các lớp thường, các lớp tự nhiên. Và có những trường hợp không nên áp đặt phương pháp mà sẽ để những khoảng trống để các em tự lựa chọn cách thức chiếm lĩnh tri thức. Ví dụ: Khi dạy về tác giả Nguyễn Đình Chiểu ở mục I tìm hiểu về cuộc đời của nhà thơ giáo viên chuyển giao nhiệm vụ cho nhóm 1 trình bày nội dung này, giáo viên chỉ nêu yêu cầu công việc không định sẵn cách thức làm chỉ gợi ý cho học sinh để các em tự lựa chọn hình thức chuyển tại nội dung, các em sẽ tự bàn bạc lựa chọn cách thể hiện nội dung theo khả năng, sở thích của mình( Có thể vẽ sơ đồ tư duy sau đó thuyết trình, soạn powerpoint, đóng vai, diễn lại một vài sự kiện trong cuộc đời Đồ Chiểu…) và như vậy cùng một nội dung bài học nhưng ở các lớp khác nhau sẽ thu được sản phẩm khác nhau thể hiện được sự sáng tạo của các em. Và đây là kết quả sản phẩm của lớp 11a5( năm học 2019 2020) được rất nhiều học sinh yêu thích và đón nhận. 10
- 11
- 2.Các giải pháp phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học các bài khái quát văn học 2.1.Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực, sáng tạo và nâng cao chất lượng dạy học. Trong dạy học các bài khái quát văn học giáo viên đã sử dụng một số phương pháp quen thuộc như phương pháp thuyết trình, phương pháp thảo luận nhóm, phát vấn, sử dụng sơ đồ tư duy. Những phương pháp này đã phần nào phát huy năng lực của học sinh trong quá trình tọc tập. Song tôi muốn đề xuất bổ sung thêm các phương pháp dạy học tích cực khác đó là : Phương pháp hướng dẫn học sinh tự học, dạy học nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp đóng vai. 2.1.1 Phương pháp hướng dẫn học sinh tự học Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Hướng dẫn học sinh tự học chính là hình thành và phát huy năng lực tự học của học sinh. Hình thành năng lực tự học có nghĩa là hình thành năng lực nhận thức tích cực, sáng tạo, chủ động cho học sinh. Là hình thành cho học sinh khả 12
- năng phát huy tới mức cao nhất tính tự lực trong học tập và thể hiện được cá tính sáng tạo riêng của mình, thực hiện tốt nhất những mục đích, nhiệm vụ mà môn học đề ra. Nói cách khác, hình thành năng lực tự học cũng là hình thành kiến thức và kĩ năng cho họ. Cho nên hoạt động hướng dẫn học sinh tự học nhằm hình thành năng lực tự học là vô cùng quan trọng. Những bài khái quát văn học là những bài viết được trình bày trong dung lượng dài vì thế hoạt động hướng dẫn học sinh tự học là phù hợp. Hoạt động hướng dẫn học sinh tự học trong các tiết dạy khái quát văn học diễn ra dưới nhiều hình thức : a. Hướng dẫn học sinh tự học trước bài dạy : Ở đây giáo viên yêu cầu học sinh về nhà đọc bài, soạn bài, tìm hiểu thêm tư liệu về các gia đoạn văn học, về tác giả văn học. Để hoạt động này diễn ra một cách hiệu quả giáo viên cần hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết. Trước tiên giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ văn bản, xác định cấu trúc bài học, xác định các luận điểm chính của bài bằng cách gạch chân các nhận định, chép ra vở, sắp xếp thành các luận điểm chính của bài. Ví dụ : Trước khi dạy bài khái quát văn học dân gian ( tiết 5,6) thì cuối tiết 4 (hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ) giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị cho bài học tiếp theo bằng các yêu cầu sau: Đọc bài khái quát văn học dân gian, sơ đồ hóa cấu trúc bài học bằng sơ đồ tư duy. Tìm các nhận định chính của bài và lấy các ví dụ em đã học ở THCS hoặc em biết để làm sáng tỏ các nhận định . Hay trước khi dạy bài tác giả Nguyễn Du ( Truyện Kiều phần I tác giả) giáo viên yêu cầu học sinh tìm đọc các câu chuyện, các giai thoạt về cuộc đời của Nguyễn Du), đọc một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du và tập làm đại sứ văn hoá đọc hãy viết về một tác phẩm của Nguyễn Du mà em yêu thích. a. Hướng dẫn học sinh tự học trong và sau bài dạy:Trong quá trình dạy học trên lớp giáo viên lựa chọn những nội dung quan trọng để trao đổi với học sinh còn lại một số nội dung khác có thể hướng dẫn học sinh về nhà tự học đến tiết học hôm sau giáo viên kiểm tra lại. Ví dụ : Khi dạy bài “ Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX” đến nội dung quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam giai đoạn từ cách mạng tháng Tám 1954 đến năm 1975 giáo viên có thể nêu vấn đề và hướng dẫn học sinh về nhà tự học bằng cách hoàn thiện bảng biểu sau: 13
- 14
- Quá trình phát triển và những thành tựu ban đầu Chặng đường,thành 19451954 19551964 19651975 tựu Chủ đề chính Thơ Văn xuôi Kịch lí luận, phê bình Ở trên lớp giáo viên hướng dẫn học sinh hoàn thành mục thứ nhất chủ đề chính của từng chặng đường, còn thành tựu về thơ, văn xuôi, kich, lí luận phê bình học sinh sẽ tiếp tục về nhà hoàn thành. Sau mỗi bài học giáo viên hướng dẫn học sinh tự học băng cách yêu cầu học sinh làm bài tập trong ứng dụng, mở rộng. Ví dụ khi dạy bài “ khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 “ giáo viên yêu cầu học sinh về nhà làm bài tập ở phần luyện tập : Vì sao có thể gọi văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ XX (từ 1900 đến 1930 ) là văn học giai đoạn giao thời? Thường xuyên sử dụng phương pháp hướng dẫn học sinh tự học chính là góp phần hình thành và phát huy năng lực tự học cho học sinh, đáp ứng nhiệm vụ học tập suốt đời. 2.1.2 Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề: Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề (dạy học đặt và giải quyết vấn đề) là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra trước học sinh một vấn đề nhận thức, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề, sau đó giáo viên phối hợp cùng học sinh (hoặc hướng dẫn, điều khiển học sinh) giải quyết vấn đề, đi đến những kết luận cần thiết của nội dung học tập. Dạy học nêu và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học nhằm phát triển cho học sinh năng lực tư duy, sáng tạo, giải quyết vấn đề. Vậy cần vận dụng phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề như thế nào khi tổ chức dạy học các bài khái quát văn học thì đạt hiệu quả cao nhất? Thứ nhất phát hiện vấn đề: Dựa trên cơ sở sự phân tích tình huống có vấn đề (tình huống này có thể do giáo viên hoặc học sinh tạo ra), giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện vấn đề. Thứ hai giải quyết vấn đề: 15
- ● Tìm phương án giải quyết: Biết thu thập, xử lí các thông tin liên quan đến vấn đề, đề xuất được một số phương án giải quyết vấn đề (các giả thuyết). ● Quyết định phương án giải quyết: Người học trên cơ sở so sánh, đối chiếu các phương án để quyết định phương án tối ưu. ● Lập kế hoạch giải quyết ● Thực hiện kế hoạch Đánh giá phương án đã thực hiện: ● Thảo luận kết quả (khẳng định hoặc bác bỏ giả thuyết đã nêu) và đánh giá ● Kết luận về vấn đề: Tính khả thi/ tính hiệu quả của phương án/ giải pháp? ● Đề xuất vấn đề mới Ví dụ. Ví dụ 1: Khi dạy bài : Khái quát văn học dân gian Việt Nam,ở mục III sau khi tìm hiểu những giá trị cơ bản của văn học dân gian Việt Nam, giáo viên có thể sử dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề để học sinh đưa ra các giải pháp phát huy các giá trị của các tác phẩm văn học dân gian trong cuộc sống hiện đại ngày nay. + Phát hiện vấn đề: Cho học sinh xem một đoạn clip bàn về giá trị của văn hoá dân gian trong cuộc sống hiện đại trong đó có đề cập đén tác phẩm văn học dân gian đang mất dần chỗ đứng trong đời sống văn học ngày nay. Vậy cần phải làm gì để gìn giữ, lưu truyền và phát huy các giá trị của văn học dân gian trong đời sống ngày nay. + Cách giải quyết vấn đề : Học sinh đưa ra các giải pháp để gìn giữ, lưu truyền và phát huy các giá trị của văn học dân gian như tố chức các cuộc thi tìm hiểu văn học dân gian trong trường học, thi hát dân ca, tổ chức ngoại khoá câu lạc bộ văn học dân gian... Ví dụ 2: Khi dạy bài “ khái quát văn học Việt năm từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XX” đến phần tìm hiểu những đặc điểm tính quy phạm của văn học giai đoạn này thông thường giáo viên sẽ thuyết trình hoặc yêu cầu học sinh nêu đặc điểm nghệ thuật và lấy dẫn chứng minh hoạ. Theo tôi chúng ta nên có câu hỏi nêu vấn để để khắc sâu kiến thức đó là cho học sinh thảo luận lí giải vì sao văn học thời kì này lại mang tính quy phạm, giai đoạn trước và sau nó có mang tính quy phạm như vậy không? Để giải quyết vấn đề này buộc học sinh phải vận dụng kiến thức liên môn ( văn học, lịch sử, giáo dục công dân ) để giải thích bởi “ Xã hội nào thì văn học ấy”, tình hình kinh tế xã hội, quan điểm thẩm mĩ của từng thời kỳ ảnh hưởng rất sâu sắc đến quan điểm sáng tác, nội 16
- dung hình thức và quan điểm thẩm mĩ của nhà văn. Nếu học sinh không hiểu kỹ điều đó thì không có kỹ năng hiểu, cảm thụ, phân tích, nhìn nhận đúng những tác giả và tác phẩm. 2.1.3 Phương pháp đóng vai Trong các phương pháp dạy học tích cực, đóng vai là phương pháp phù hợp với đặc trưng dạy học của môn Ngữ văn. Đây là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một vai giả định. Từ đó giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách đứng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được từ vai của mình. Phương pháp đóng vai được thực hiện trong một số nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học, chuyển thể một văn bản văn học thành một kịch bản sân khấu, xử lý một tình huống giao tiếp giả định, trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau…Đối với các bài dạy khái quát văn học phương pháp đóng vai có nhiều dạng khác nhau: + Đóng vai tác giả: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nam Cao, Tố Hữu... + Đóng vai phóng viên, bạn đọc đặt ra những câu hỏi, trình bày suy nghĩ của mình về đặc điểm của giai đoạn văn học hoặc các vấn đề liên quan đến tác giả. + Đóng vai chuyên gia giải đáp thắc, chia sẻ kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả văn học... Cách thức tiến hành như sau: Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ đóng vai: Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho các nhóm, hướng dẫn cách thức, thời gian thực hiện. Bước 2: Tổ chức cho học sinh thực hiện đóng vai + Học sinh lập kế hoạch đóng vai + Thực hiện đóng vai (tại nhà học sinh hay tại lớp, tại trường, trong các buổi ngoại khoá hay tiết học chính khoá). Bước 3. Thảo luận, trao đổi sau khi học sinh đóng vai: Ví dụ 1: Khi dạy bài Đại cáo bình Ngô ( Phần I tác giả Nguyễn Trãi) ở mục I. Cuộc đời. Giáo viên sẽ giao nhiệm vụ cho nhóm 1 tái hiện lại cuộc đời của Nguyễn Trãi bằng phương pháp đóng vai ( Sẽ có một học sinh đóng vai người kể chuyện kể lại cuộc đời của tác giả, một học sinh đóng vai Nguyễn Trãi và một số nhân vật khác để diễn lại một vài biến cố lớn trong cuộc đời Nguyễn Trãi ). Học sinh có thể lựa chọn đóng vai một số cảnh như: + Cảnh cha con Nguyễn Trãi chia tay nhau khi cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh bi giặc Minh bắt đưa sang Trung Quốc. 17
- + Cảnh Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô và hăm hở tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. + Cảnh Nguyễn Trãi bị vu oan và kết án tru di tam tộc Ví dụ 2: Khi dạy bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( Phần 1 tác giả Nguyễn Đình Chiểu) ở mục I. Cuộc đời Giáo viên sẽ giao nhiệm vụ cho học sinh nhóm 1 tái hiện lại cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu + 1 Học sinh đóng vai người dẫn truyện, người này sẽ kể lại cuộc đời của cụ Đồ Chiểu + 1 Học sinh đóng vai Đồ Chiểu và một số nhân vật phụ khác diễn lại cảnh Nguyễn Đình Chiểu đi thi thì nghe tin mẹ mất ông đã khóc mù cả hai mắt, cảnh ông trở về quê hương mở trường dạy học, bốc thuốc... Phần 2. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật thơ văn Nguyễn Đình Chiểu Giáo viên giao việc cho nhóm 3 đóng vai chuyên gia, giáo viên cũng có thể đóng vai chuyên gia để trao đổi trò chuyện, giải đáp những băn khoăn về nội dung và thơ văn của Nguyền Đình Chiểu. 2.2.Đa dạng hóa các hình thức dạy học 2.2.1Tổ chức trò chơi Dạy học thông qua việc tổ chức hoạt động cho học sinh với các trò chơi sinh động dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt động bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tải mục tiêu của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá hay phản biện. Giải pháp này sẽ làm thay đổi không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo,… Hứng thú và chủ động trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành kĩ năng và phát triển nhân cách ở học sinh qua bộ môn Văn. Đối với các bài khái quát việc áp dụng các trò chơi sẽ giúp cho bài học tránh được sự khô khan, nhàm chán khi tiếp xúc với lượng kiến thức tương đối nhiều. Khi Lồng ghép trò chơi trong dạy và cần chú ý một số nguyên tắc: + Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề bài học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho học sinh. + Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi. + Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi. 18
- + Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi. Trong dạy học các bài khái quát, trò chơi có thể được được sử dụng trong nhiều hoạt động khác nhau như khởi động, khởi động kết hợp với hình thành kiến thức, luyện tập đánh giá kết quả, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức… * Tổ chức trò chơi để khởi động tiết học Ví dụ: Tổ chức trò chơi 20 giây trong phần khởi động của bài khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến hết thể kỉ XX Mục đích: Vừa kiểm tra kiến thức về văn học sử Việt Nam vừa tạo hứng thú học tập cho học sinh Nội dung câu hỏi: Văn lớp 9,10,11 Hình thức câu hỏi; + Câu hỏi đơn giản, yêu cầu trả lời ngắn gọn không quá 5 từ + Câu hỏi chỉ xuất hiện trong đúng 20 giây + Có 10 câu hỏi Cách thức tiến hành + Giáo viên chia làm học sinh thành 4 đội chơi, cử hai người giám sát + Giáo viên sẽ đưa ra 10 câu hỏi, các câu hỏi này sẽ được trình chiếu trên màn hình trong vòng 20 giây. + Các nhóm ghi câu trả lời vào bảng phụ + Đáp án sẽ được sẽ được trình chiếu sau khi kết thúc slide cuối cùng + Nhóm nào trả lời nhiều câu đúng nhất nhóm đó sẽ giành chiến thắng. Câu hỏi: Câu 1: Khăn thương nhớ ai… thuộc thể loại gì Câu 2: Truyện An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thuỷ thuộc thể loại truyện… Câu 3: Tấm Cám thuộc thể loại truyện… Câu 4: Những tác phẩm vừa được nêu tên ở ba câu hỏi trên là những sáng tác văn học … do nhân dân lao động sáng tạo nên. Câu 5: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu là các tác giả tiêu biểu của văn học… 19
- Câu 6: Bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam đã chính thức chuyển sang thời kì văn học… Câu 7: “ Chữ người tử tù” là sáng tác thuộc khuynh hướng văn học… giai đoạn 19301945 Câu 8: Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng là những gương mặt nổi bật của khuynh hướng văn học hiện thực… giai đoạn 19301945. Câu 9: Đồng chí là bài thơ ra đời trong giai đoạn kháng chiến … Câu 10: Tiểu đội xe không kính là bài thơ ra đời trong giai đoạn kháng chiến… Sau khi kết thúc câu hỏi số 10 GV chiếu slide đáp án và học sinh đổi chấm chéo câu trả lời của nhau tìm ra đội chiến thắng. 1. Ca Dao 2. Truyền thuyết 3. Cổ tích 4. Dân gian 5. Trung đại 6. Hiện đại 7. Lãng mạn 8. Phê phán 9. Chống Pháp 10. Chống Mĩ *Tổ chức trò chơi trong phần hình thành kiến thức mới Ví dụ : Tổ chức trò chơi đi tìm mật mã ẩn dấu trong ma trận được sử dụng trong mục I. tìm hiểu vài nét về tiểu sử tác giả Hồ Chí Minh ( Tuyên ngôn độc lập, phần I tác giả) Mục đích : Kiểm tra kiến thức về cuộc đời và các tác phẩm của Hồ Chí Minh ( Phần này trước khi học giáo viên đã yêu cầu học sinh tự đọc sách giáo khoa và tìm hiểu thêm về cuộc đời của tác giả Hồ CHí Minh ở nhà, trên lớp giáo viên tổ chức dạy học mục I này qua hoạt động trò chơi đi tìm mật mã và kể chuyện hoặc trình bày một bài hát về Bác Hồ ) Cách thức tiến hành: + Giáo viên phổ biến luật chơi: Trả lời câu hỏi để tìm các mật mã được dấu trong ma trận theo chiều dọc, chiều ngang và đường chéo bằng cách đánh 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 40 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng hệ thống câu hỏi bài tập chương Liên kết hóa học - Hóa học 10 - Nâng cao nhằm phát triển năng lực học sinh
24 p | 70 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Soạn dạy bài Clo hóa học 10 ban cơ bản theo hướng phát triển năng lực học sinh
23 p | 55 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập cho học sinh khi áp dụng phương pháp dạy học theo góc bài Axit sunfuric - muối sunfat (Hóa học 10 cơ bản)
26 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển tư duy lập trình và khắc phục sai lầm cho học sinh lớp 11 thông qua sử dụng cấu trúc rẽ nhánh
24 p | 31 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào dạy học truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
33 p | 73 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực học tập của học sinh thông qua dạy học dự án môn hóa học
54 p | 48 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM phần hóa học phi kim lớp 11 nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
71 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực học văn cho học sinh THPT thông qua kiểu bài làm văn thuyết minh
48 p | 24 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp phát huy tính tự chủ của học sinh lớp chủ nhiệm trường THPT Vĩnh Linh
12 p | 13 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lựa chọn một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích chạy cự ly ngắn 100m cho nam đội tuyển Điền kinh trường THPT Tiên Du số 1- Tiên Du- Bắc Ninh
39 p | 14 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thông qua bài tập thí nghiệm Vật lí
38 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực tư duy cho học sinh thông qua dạy học Bài tập hóa học chương Ancol - Phenol lớp 11 trung học phổ thông
74 p | 8 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tích hợp kiến thức các môn học dạy bài: Cacbohiđrat và lipit
67 p | 30 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn