intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội tại trường trung học phổ thông Đô Lương 4

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

39
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trộitại trường THPT Đô Lương 4.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội tại trường trung học phổ thông Đô Lương 4

  1. PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài: Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp: “Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mĩ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề...”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) với mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu đồng thời hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi và những năng lực đặc thù. Với mục tiêu “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện” thì việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội nhằm góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực cho học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục hài hoà về đức, trí, thể, mĩ cho học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông mới đưa ra yêu cầu cần đạt về 5 phẩm chất và 10 năng lực của học sinh phổ thông. Theo đó, chương trình giáo dục phổ thông hình thành và phát triển cho học sinh 5 phẩm chất chủ yếu là yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Chương trình cũng hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi gồm: Những năng lực chung được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Những năng lực chuyên môn, được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, tính toán, tìm hiểu tự nhiên và xã hội, công nghệ, tin học, thẩm mỹ, thể chất. Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, chương trình giáo dục phổ thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng lực đặc biệt (năng khiếu vượt trội) của học sinh. Trường trung học phổ thông Đô Lương 4 nằm ở vị trí hạ huyện Đô Lương, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn đặc biệt dân trí còn thấp. Một số em có những năng khiếu vượt trội: âm nhạc, hội họa, thể thao, diễn viên, dẫn chương trình… nhưng không có điều kiện và cơ hội để phát triển. Các bậc phụ huynh hầu như không quan tâm đến năng khiếu của con và không chọn năng khiếu là một nghề lập nghiệp cho con cái. Tâm lý phụ huynh thường học sinh theo học nghệ thuật hoặc thể thao…. đều là con nhà nòi có bố hoặc mẹ làm trong lĩnh vực nghệ thuật và được giảng dạy bài bản từ nhỏ. Hơn thế nữa, học sinh được học các bộ môn nghệ thuật (âm nhạc, mĩ thuật…) từ chương trình Mầm non đến hết cấp Trung học cơ sở. Còn đến chương trình cấp Trung học phổ thông lại không có trong hệ thống môn học. Chính vì thế một số em có năng khiếu vượt trội không có điều kiện để phát triển tài năng bản thân. Tâm lý của phụ huynh cũng như học sinh là hướng vào học tập tri thức và lựa chọn nghề nghiệp theo xu hướng thời đại chứ không từ năng khiếu. 1
  2. Trước thực tế đó, bản thân tôi thiết nghĩ giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội góp phần vào mục tiêu phát huy phẩm chất và năng lực, góp phần định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nhằm phục vụ cho công tác bồi dưỡng nhân tài cho đất nước khi các em còn đang ngồi trên  ghế nhà trường. Nhằm phát hiện và tạo điều kiện cho những em có năng lực thật sự trong các môn học kể trên được đào tạo, bồi dưỡng thêm để các em phát huy nhiều hơn những năng lực tiềm ẩn, vốn có của các em.Tạo cho học sinh có một sân chơi bổ ích, phát triển tài năng theo sở thích, đam mê nhằm giúp các em có hứng thú hăng say học tập tìm tòi sáng tạo.Từ đó hướng đế mục đích đào tạo con người mới Việt Nam phát triển cân đối, hài hòa và toàn diện. Từ những vấn đề nêu trên, với kinh nghiệm thực tế trong công tác giáo viên chủ nhiệm, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội tại trường trung học phổ thông Đô Lương 4” góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường Trung học phổ thông Đô Lương 4 nói riêng và giáo dục phổ thông nói chung. 2. Mục đích nghiên cứu: Đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trộitại trường THPT Đô Lương 4 3. Nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn 3.2. Phân tích thực trạng công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội trường THPT Đô Lương 4 3.3. Đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội tại trường THPT Đô Lương 4 4. Phạm vi nghiên cứu: Trực tiếp tại trường THPT Đô Lương 4. 5. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh và giáo viên Trường THPT Đô Lương 4 6. Phương pháp nghiên cứu: 6.1. Nhóm phương pháp lý luận. 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Quan sát, điều tra, khảo sát, tổng kết kinh nghiệm trong quản lý giáo dục. 6.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ: Bảng biểu thống kê, sơ đồ... 7. Kết cấu của đề tài: gồm có ba phần: - Phần một: Đặt vấn đề 2
  3. - Phần hai: Nội dung nghiên cứu - Phần ba: Kết luận PHẦN HAI: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lí luận 1.1. Thế nào là học sinh có năng khiếu vượt trội? Một người có năng khiếu được định nghĩa chung nhất là có một hoặc nhiều khả năng vượt trội hơn người bình thường về các hoặt động về thể chất hoặc trí tuệ. Có rất nhiều khái niệm về năng khiếu khác nhau, cụ thể như: Theo Wikipedia là một thành phần năng lực để thực hiện một loại công việc nhất định ở một mức độ nhất định. Năng khiếu vượt trội có thể được coi là “tài năng”. Một năng khiếu có thể là thể chất hoặc tinh thần. Năng khiếu là tiềm năng bẩm sinh để làm một số loại công việc cho dù phát triển hay chưa phát triển. Năng khiếu được hiểu là năng lực về một hoạt động nào đó nhưng chưa có cơ hội bộc lộ ở thành tích cao vì chưa qua tập luyện,rèn luyện nên còn thiếu hiểu biết và chưa thành thạo trong lĩnh vực hoạt động đó và khi trau dồi năng lực đó thì hiệu quả đem lại cao. Năng khiếu vượt trội là những tiền đề bẩm sinh của mỗi con người hay những khuynh hướng đầu tiên tạo điều kiện cho năng lực và tài năng phát sinh, nó bao gồm đặc điểm tâm sinh lý giải phẫu của hệ thần kinh con người và khuynh hướng tâm lý đầu tiên để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển một năng lực nào đó. Năng khiếu của trẻ được hình thành và phát triển từ rất sớm, thậm chí từ lúc bé mới được sinh ra. Khoa học đã chứng minh năng khiếu của trẻ có quy luật giảm dần, có nghĩa là càng lớn, năng khiếu của bé sẽ mai một dần nếu không được phát hiện, bồi dưỡng sớm và đúng cách. Chẳng hạn, với một em bé khi sinh ra có 100% năng lực, nếu được bồi dưỡng từ 3 tuổi, bé sẽ phát huy được 90%, nhưng đến lúc 5-6 tuổi thì chỉ còn 70%, hoặc đến 10 tuổi thì đôi khi chỉ còn 50%. Nhiều trẻ tỏ ra đặc biệt thích một lĩnh vực nào đó, nhưng cha mẹ và nhà trường thiếu quan tâm, vô hình chung đã bỏ phí năng khiếu của trẻ. Vì thế, năng khiếu vượt trội là nền tảng phát triển những tài năng, nếu năng khiếu được phát triển kịp thời và có phương pháp nuôi dưỡng phát triển năng khiếu thì kết quả đem lại hiệu quả cao. Người có năng khiếu còn là người có các cảm giác đặc biệt về nhiều lĩnh vực và nhà trường, phụ huynh cần quan tâm để biết các em có thể rèn luyện và phát triển tốt hơn khả năng của mình. 1.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội Giáo viên chủ nhiệm là người được Hiệu trưởng bổ nhiệm, phân công chịu trách nhiệm về một lớp. Điều lệ trường Trung học ghi rõ: “Mỗi lớp có một giáo 3
  4. viên chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng chỉ định, chọn trong số giáo viên giảng dạy ở lớp đó”. Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng chịu trách nhiệm quản lý toàn diện lớp học từ giáo dục văn hóa cho đến giáo dục đạo đức nhân cách. Chính vì thế có thể nói giáo viên chủ nhiệm là cầu nối đa chiều giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường với tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội tại lớp chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm được xem là “linh hồn của lớp học, là người cố vấn đáng tin cậy dẫn dắt, định hướng, giúp học sinh vươn lên tự hoàn thiện năng lực và nhân cách”. Trong bối cảnh đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay, khi vai trò của người giáo viên có sự thay đổi căn bản, từ chỗ là “người truyền thụ tri thức” sang đóng vai trò của người trọng tài, cố vấn cho hoạt động nhận thức của học sinh thì vai trò của giáo viên chủ nhiệm có những sự thay đổi căn bản. Giáo viên chủ nhiệm trở thành người chịu trách nhiệm chính trong “phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu định hướng nghề nghiệp cho học sinh”. Chính vì thế vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp hết sức quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông; theo dự thảo chương trình phổ thông mới sau năm 2015, Bộ GD&ĐT xác định: “Chương trình giáo dục phổ thông nhằm giúp học sinh phát triển khả năng vốn có của bản thân, hình thành tính cách và thói quen, phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần”. Từ đó để thấy rằng, Với thời gian 4 tiết/ tuần, sự gần gũi, thân thiện giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh sẽ là điều kiện quan trọng để giáo viên chủ nhiệm phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội tại lớp chủ nhiệm. 1.3. Vai trò của việc phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu vượt trội với việc hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực, góp phần định hướng nghề nghiệp cho học sinh Trước hết, về khái niệm, “phẩm chất” theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa là “cái làm nên giá trị của người hay vật”, còn theo Chương trình giáo dục phổ thông, “là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con người; cùng với năng lực tạo nên nhân cách con người”, cũng có thể hiểu: khái niệm phẩm chất bao gồm cả bình diện phẩm chất tâm lí và phẩm chất trí tuệ; “năng lực” được định nghĩalà ”1. Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; 2. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. Năng lực (competency, có nguồn gốc tiếng Latinh là "competentia") được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng nghĩa thông dụng nhất là sự thành thạo, khả năng thực hiện của cá nhân đối với một công việc. Nội hàm của khái niệm năng lực bao gồm các kiến thức, kĩ năng và thái độ mà một cá nhân có thể hành động thành công/giải quyết thấu đáo một nhiệm vụ trong các tình huống mới. Theo Chương trình giáo dục phổ thông, năng lực được quan niệm là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, 4
  5. kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể; phẩm chất là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con người; cùng với năng lực tạo nên nhân cách con người. Như vậy, có thể nói: phẩm chất được đánh giá bằng hành vi, còn năng lực được đánh giá bằng hiệu quả hoạt động. Theo đó, nội dung giáo dục được định hướng nhằm góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung cho học sinh; đồng thời, thông qua việc trang bị những kiến thức cốt lõi, kĩ năng cơ bản về các lĩnh vực nghệ thuật, tập trung hình thành, phát triển năng lực thẩm mĩ và phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu nghệ thuật cho học sinh; giáo dục thái độ tôn trọng, khả năng kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá, nghệ thuật truyền thống của dân tộc trong quá trình hội nhập và giao lưu với thế giới, đáp ứng mục tiêu giáo dục hài hoà về đức, trí, thể, mĩ cho học sinh. Ngay từ bậc học mầm non, giáo dục nghệ thuật đã được chú trọng nhằm“giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết thẩm mĩ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách,...”. Đến bậc phổ thông, giáo dục nghệ thuật được thực hiện thông qua nhiều môn học, mà cốt lõi là môn Âm nhạc và môn Mĩ thuật. Từ lớp 10 đến lớp 12, học sinh được lựa chọn môn học thuộc nhóm môn công nghệ và nghệ thuật phù hợp với định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân. Như vậy, có thể thấy trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, giáo dục nghệ thuật được xây dựng theo quan điểm tập trung phát triển ở học sinh năng lực âm nhạc và mĩ thuật, biểu hiện của năng lực thẩm mĩ trong các lĩnh vực này thông qua nội dung giáo dục với những kiến thức cơ bản, thiết thực; chú trọng thực hành; góp phần phát triển hài hoà đức, trí, thể, mĩ và định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nội dung giáo dục của chương trình được thiết kế theo hướng kết hợp giữa đồng tâm với tuyến tính; thể hiện rõ đặc trưng nghệ thuật âm nhạc, mĩ thuật và bản sắc văn hoá dân tộc; tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hoá dần ở các lớp học trên, đồng thời “bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa các lớp học, cấp học với nhau và liên thông với chương trình giáo dục mầm non, chương trình giáo dục nghề nghiệp và chương trình giáo dục đại học”. Mặt khác, cùng với việc chú trọng khai thác tiềm năng- những yếu tố bên trong của con người, từ đó khơi gợi được tinh thần tự học, niềm đam mê khát vọng sáng tạo của mỗi học sinh mà đặc biệt là nuôi dưỡng tinh thần tự học và học tập suốt đời. Đây là một trong những điểm nhấn quan trọng và then chốt của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay. Nói đến năng lực thẩm mĩ là nói tới cảm xúc thẩm mĩ là yếu tố tiền đề của nhận thức thẩm mĩ, thưởng thức thẩm mĩ và sáng tạo thẩm mĩ...; là nói tới tư duy thẩm mĩ là nói tới một điều kiện cần thiết để con người lĩnh hội thế giới trong tính hoàn chỉnh, phong phú và sinh động vốn có của nó, đồng thời để kiến tạo đời sống tâm hồn cao đẹp, góp phần hình thành và phát triển khả năng “cảm thấy trực tiếp 5
  6. mực thước chân chính để đo giá trị của các hiện tượng” để hình thành và hoàn thiện nhân cách mà nhờ đó mà chủ thể khám phá được cái hay, cái đẹp của tác phẩm và ý nghĩa của đời sống... Đó cũng là những vấn đề đòi hỏi phải có các giải pháp phù hợp nhằm đổi mới chất lượng giáo dục nghệ thuật trong nhà trường phổ thông. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Khái quát về thực trạng công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội của giáo viên chủ nhiệm Trường THPT Đô Lương 4 Trải qua gần 15 năm xây dựng và phát triển, phát huy truyền thống “Dạy tốt - Học tốt”, chất lượng giáo dục toàn diện của trường THPT Đô Lương 4 ngày càng được phát huy và khẳng định, trong đó công tác chăm lo bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, đội ngũ giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi, chăm lo học sinh thi đậu vào các trường Đại học – Cao đẳng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Vì vậy những năm gần đây, trường liên tục cải thiện về chất lượng giáo dục toàn diện và chất lượng đội tuyển học sinh giỏi, giáo viên và học sinh đã tạo được sự hứng khởi và niềm vui thực sự. Học sinh của trường cơ bản thuần nông, chăm chỉ, chuyên cần, tu dưỡng tốt, chịu khó học hỏi, biết vâng lời, quyết tâm cao, tràn đầy nhiệt huyết, sự sáng tạo, cầu thị sự tiến bộ và tỏa sáng. Phụ huynh học sinh thuộc vùng hạ huyện, điều kiện kinh tế khó khăn, nhiều người đi làm ăn xa nhưng hết sức chăm lo, tạo mọi điều kiện cho con em học tập, rèn luyện và tu dưỡng về mọi mặt, luôn theo dõi tình hình học tập của con em, thường xuyên liên hệ với nhà trường, giáo viên chủ nhiệm để cập nhật tình hình học tập, nhất là quan tâm đến đạo đức, tư cách của học sinh. Tuy nhiên, sự quan tâm của phụ huynh đối với các em có năng khiếu vượt trội còn hạn chế. Tâm lý của phụ huynh cũng như học sinh là hướng vào học tập tri thức và lựa chọn nghề nghiệp theo xu hướng thời đại chứ không từ năng khiếu. Trường có quy mô 21 lớp học với đội ngũ 21 giáo viên chủ nhiệm lớp. Các giáo viên được sắp xếp phù hợp tùy theo đặc điểm, năng lực học sinh đặc biệt là năng lực môn học. Thực hiện công tác đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục song song với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi các môn văn hóa, thì việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếu là một trong những nhiệm vụ không kém phần quan trọng của ngành giáo dục nói chung, mỗi nhà trường nói riêng, nhất là trong giai đoạn hiện nay công tác giáo dục toàn diện học sinh cả mặt về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kỹ năng cơ bản để hình thành nhân cách con người, hiểu được cuộc sống và luôn biết vươn lên cái hoàn thiện: Chân- Thiện- Mỹ.  2.2. Một số kết quả đã đạt được trong công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội của giáo viên chủ nhiệm Trường THPT Đô Lương 4 Trong những năm học gần đây, trường THPT Đô Lương 4 đã chú trọng đổi mới công tác giảng dạy và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội các khối 6
  7. lớp, từ khâu xây dựng kế hoạch đến thực hiện kế hoạch và cũng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Nhiều học sinh qua quá trình phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu vượt trội đã phát huy khả năng của bản thân và đạt được những thành tích đáng kể. Nhiều học sinh đạt các thành tích trong các cuộc thi không những trong quy mô nhà trường mà rộng hơn quy mô huyện, tỉnh : võ thuật, âm nhạc, dẫn chương trình, người mẫu, diễn viên….. 2.3. Một số vấn đề đặt ra trong công tác công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội của giáo viên chủ nhiệm Trường THPT Đô Lương 4 Tuy nhiên, chúng ta không bằng lòng với kết quả đã có mà luôn cố gắng phấn đấu để có kết quả tốt hơn nữa trong việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu vượt trội. Vai trò của người thầy đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội. Nếu học sinh có năng khiếu nổi trội, có tư chất thông minh mà không được bồi dưỡng nâng cao thì không thể khơi gợi, phát triển những tố chất sẵn có của các em, như vậy người thầy cũng chưa làm tròn nhiệm vụ của mình. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần chú ý để phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu.“Mỗi người đều là một thiên tài. Nhưng nếu bạn đánh giá một con cá bằng khả năng trèo cây, cả đời nó sẽ tin rằng mình thật là ngu ngốc” (Albert Einstein). Nếu học sinh có năng khiếu nổi trội, có tư chất thông minh mà không được bồi dưỡng nâng cao thì không thể khơi gợi, phát triển những tố chất sẵn có của các em, như vậy người thầy cũng chưa làm tròn nhiệm vụ của mình 3. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội tại trường THPT Đô Lương 4 3.1. Phát hiện học sinh có năng khiếu vượt trội tại trường THPT Đô Lương 4 Cần phải thừa nhận rằng, tài năng về mặt âm nhạc, mỹ thuật, múa, thể thao, văn học… đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của yếu tố bẩm sinh. Trên cơ sở học sinh có năng khiếu thiên bẩm về mặt nào đó, nếu được phát hiện sớm và được bồi dưỡng đúng cách thì năng khiếu bẩm sinh ở các em sẽ phát triển rất nhanh. Giáo viên chủ nhiệm phát hiện một số dấu hiệu chứng tỏ học sinh có năng khiếu như sau: Học sinh có năng khiếu về nhạc lý:  Học sinh có hứng thú với nhịp điệu  Học sinh ghi nhớ âm điệu tốt: Học sinh rất nhanh học thuộc được giai điệu của bài hát, đôi khi có thể sửa khi các bạn hát sai nhạc.  Phân biệt tốt giữa nhạc và các âm thanh khác.  Có thể sử dụng âm nhạc để miêu tả lại những trải nghiệm của mình.  Học sinh dễ hòa nhập với âm nhạc, thích nhảy, múa… 7
  8.  Nếu học sinh có năng khiếu âm nhạc thì là tiền đề rất sớm cho nhiều bộ môn nghệ thuật khác nhau: vũ công, ca sĩ, người mẫu … Học sinh có năng khiếu vận động:  Học sinh có năng khiếu vận động có biểu hiện rất dễ nhận thấy là hiếu động, tò mò hơn hẳn so với các bé cùng tuổi.  Trong các trò chơi vận động trẻ cũng thường tỏ ra trội hơn.  Học sinh có năng khiếu vận động cũng sẽ thích các hoạt động thể chất và hoạt động ngoài trời, lúc nào cũng tràn đầy năng lượng.  Khi lớn hơn một chút học sinh sẽ rất có ý thức về hình thể (đây là yếu tố quan trọng vì nhiều người trưởng thành cũng không hiểu được sự quan trọng của hình thể).  Học sinh có khả năng phối hợp tốt và làm quên với nhịp điệu nhanh, nên nếu học sinh có khả năng vận động tốt hoàn toàn cũng có thể học nhanh các môn khiêu vũ, nhảy múa… Học sinh có khả năng ngôn ngữ:  Học sinh có năng khiếu về ngôn ngữ thường học nói nhanh hơn học sinh đồng tuổi, học sinh cũng có cách diễn đạt về một sự vật sự việc theo cách riêng của các em hết sức thú vị mà người lớn không ngờ đến.  Học sinh liên tục đặt câu hỏi về những vấn đề trong cuộc sống.  Với những học sinh có khả năng ngôn ngữ linh hoạt có thể rèn luyện và phát triển khả năng làm dẫn chương trình, hùng biện….  Cũng với khả năng ngôn ngữ trên, nếu học sinh giàu cảm xúc và thích hóa thân thành các nhân vật khác ngoài bản thân thì học sinh có năng khiếu kịch… Học sinh có năng khiếu hội họa:  Học sinh có năng khiếu hội họa có thể vẽ mọi nơi mọi lúc và luôn thử vẽ trên các chất liệu mới.   Trí tưởng tượng của học sinh có năng khiếu hội họa rất cao, thích khám phá…  Học sinh yêu thích thiên nhiên, yêu thích dã ngoại.  Những bức tranh của học sinh có độ hài hòa về màu sắc rất sớm. 3.1. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội của giáo viên chủ nhiệm Khi bắt đầu nhận lớp chủ nhiêm theo sự phân công của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm cần tiến hành việc điều tra đặc điểm tình hình lớp tới từng học sinh bằng việc soạn một biểu mẫu điều tra để học sinh trình bày đặc điểm tình hình của riêng mình theo mẫu. Phiếu điều tra này có nhiều nội dung, song có một số nội 8
  9. dung rất quan trọng, không thể thiếu giúp phát hiện các học sinh có năng khiếu vượt trội: + Sở trường năng lực, năng khiếu của bản thân ( Chú ý đến những năng khiếu múa, hát, đóng kịch, ngâm thơ, kể chuyện, thể dục thê thao, dẫn chương trình, hài hước..) + Nghề nghiệp của gia đình ( Chú ý những gia đình có nghề làm nghệ thuật, thủ công mĩ nghệ, ...) + Truyền thống hoạt động phong trào của gia đình. Sau đó giáo viên chủ nhiệm làm công việc thống kê kết quả trả lời của học sinh theo những mục đích khác nhau, trong đó có mục đích nhằm phát triển các năng khiếu vượt trội. Việc điều tra này có tác dụng giúp giáo viên chủ nhiệm nắm được khả năng tiềm tàng của lớp mình về năng khiếu vượt trội của các em. Để từ đó có cơ sở rèn luyện, phát huy, khai thác khi có dịp. Thực tế việc điều tra của tôi cho thấy không có một tập thể học sinh nào mà lại không có nhân tố tiềm năng, có năng khiếu vượt trội để phát triển bản thân. Đối tượng chúng ta phải giáo dục là các em học sinh của thế kỉ XXI, không phải là các sĩ tử của thời cụ Khổng Tử, Mạnh Tử. Bởi vậy giáo viên chủ nhiệm cũng phải là những con người năng động của thời đại mới. Có như vậy chúng ta mới có thể hiểu được tâm lý của các em, mong muốn của các em, từ đó có những tư vấn phù hợp, hợp lý, hiệu quả. Chúng ta vẫn giữ vững quan niệm “Tiên học lễ, hậu học văn”, trước hết học làm người sau đó mới học chữ. Giáo viên chủ nhiệm và gia đình cần đưa tới cho các em một niềm tin, một hi vọng trong một xã hội có nhiều biến động và nhiều thước đo giá trị như bây giờ. Các em có nhiều con đường để lập thân, lập nghiệp mà không nhất thiết phải theo con đường đại học. Các em có thể làm nhiều việc khác nhau, thu nhập khác nhau nhưng các em phải luôn là người tử tế, tử tế trong công việc mình làm, tử tế với bản thân (bao hàm cả việc thành thật với chính mình), tử tế với mọi người, tử tế với chính những gì mà mình đang có. Hạnh phúc đối với người giáo viên rất giản dị, đó có thể chỉ là câu chào nho nhỏ của các em khi thầy cô đi qua, đó có có thể là ánh mắt chăm chú, say mê khi thầy cô giảng bài, đó là tiếng cười nói đầy hăm hở, nhiệt huyết của các em khi trở lại trường lấy bằng tốt nghiệp. Là một giáo viên chủ nhiệm, có lẽ ai cũng mong các em có thể hiểu được điều đó. Giáo viên chủ nhiệm xây dựng kế hoạch phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội theo các bước sau: Bước 1: Tìm hiểu đối tượng học sinh Bước 2: Xác định các học sinh có năng khiếu vượt trội Bước 3: Xác định các hoạt động học tập để phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội 9
  10. Bước 4: Lựa chọn phương pháp và đánh giá học sinh Bước 5: Xây dựng bản kế hoạch dạy học 3.2. Bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội thông qua các hoạt động dạy học của giáo viên chủ nhiệm 3.2.1. Tích cực thực hiện đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học Xây dựng kế hoạch bài học theo hướng tăng cường và phát huy tính chủ động, tích cực, tự học của học sinh thông qua việc thiết kế tiến trình dạy học thành các hoạt động học để thực hiện cả ở trên lớp và ngoài lớp học. Năng lực được hình thành và phát triển trong hoạt động và đó là cơ sở quan trọng cho sự phát triển năng khiếu vượt trội của học sinh. Vì vậy, việc thiết kế tiến trình dạy học căn cứ trên lô gich của tâm lí học hoạt động nhận thức và tâm lí học phát triển của học sinh có ý nghĩa quan trọng nhằm đáp ứng quan điểm dạy học từ học sinh, bằng học sinh và vì học sinh. Chú trọng rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu để tiếp nhận và vận dụng kiến thức mới thông qua giải quyết nhiệm vụ học tập đặt ra trong bài học và chuyên đề học tập; cân đối thời gian trong lớp và ngoài lớp nhằm tạo điều kiện khích lệ học sinh luyện tập, thực hành, trình diễn, trình bày, thảo luận, bảo vệ kết quả học tập của mình; giáo viên tổng hợp, nhận xét, đánh giá, kết luận để học sinh tiếp nhận và vận dụng.Căn cứ chương trình môn học, cấp học, tính chất và qui mô bài học, chủ đề và chuyên đề học tập,... tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả việc sử dụng di sản văn hóa trong tổ chức dạy học liên môn và các hoạt động giáo dục học theo Hướng dẫn số 73/HD-BGDĐT- BVHTTDL ngày 16/01/2013 của liên Bộ GDĐT, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sân khấu khóa tác phẩm văn học là một trong những hình thức dạy học đa dạng được áp dụng tại trường THPT Đô Lương 4 trong nhiều năm trở lại đây. Hoạt động này được tổ chức nhằm khơi dậy trong các em học sinh tình yêu đối với tác phẩm văn chương, đồng thời tạo ra một sân chơi để các em học sinh thỏa sức sáng tạo. Có một nhà văn từng nói: “Văn là người. Học văn là để học làm người. Làm người hơn muôn loài ở chỗ có cảm xúc, biết yêu thương cái đẹp, ghét chê cái xấu, cảm thông chia sẻ, biết rơi lệ trước nổi đau, biết cười trong cuộc sống…” Nhưng làm thế nào để học sinh có thể cảm được những cái hay, cái đẹp trong môn Ngữ văn? Làm thế nào để các em yêu thích môn Ngữ văn trong bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay? Đó là điều mà các thầy cô trong tổ bộ môn nói chung và một giáo viên chủ nhiệm đồng thời là giáo viên dạy văn luôn trăn trở để áp dụng vào lớp chủ nhiệm. Những năm học trước, phương pháp “Sân khấu hóa tác phẩm văn học” đã được tôi áp dụng trong một số tiết học văn bản mang lại hiệu quả cao trong việc giúp học sinh chủ động tìm hiểu nội dung tác phẩm đồng thời phát triển năng khiếu vượt trội của các em. Tháng 9 năm 2020, trong Hội thảo chuyên đề: “Đổi mới, sáng tạo trong dạy học” trường THPT Đô Lương 4, phương pháp: “sân khấu hóa tác phẩm văn học” được đưa ra trao đổi, phân tích về tính khả thi trong dạy học 10
  11. môn Ngữ văn. Phương pháp này giúp học sinh chủ động tiếp cận văn bản, thâm nhập vào thế giới của tác phẩm để cảm nhận về các nhân vật và chi tiết trong tác phẩm sau đó tái hiện trên sân khấu lớp học. Ngoài ra học sinh còn được tự mình sáng tạo trong cách diễn xuất làm sao để diễn tả được sâu sắc tính cách, nội tâm của nhân vật mình đóng vai. Với những học sinh không tham gia diễn xuất cũng cần đọc văn bản thật kĩ và cảm nhận về nhân vật trong tác phẩm để đối chiếu với hình ảnh nhân vật được tái hiện trên sân khấu lớp học và đưa ra nhận xét của mình. Từ đó tiết học thực sự gây được hứng thú cho nhiều đối tượng học sinh để các em học tập hiệu quả hơn. Tại lớp chủ nhiệm, việc đưa tác phẩm văn học lên sân khấu đã được thực hiện có nề nếp, hiệu quả. Các tác phẩm ngữ văn, trích đoạn văn học trong chương trình như Chí Phèo, Vợ Nhặt, Nỗi oan Thị Mầu, Số Đỏ... đã được sân khấu hóa với những góc nhìn, cách tiếp cận phong phú, sinh động. Trực tiếp vào vai Thị Mầu trong tiểu phẩm "Thị Mầu ngoại truyện" bạn Đặng Thị Hoa, học sinh lớp 11B do tôi chủ nhiệm đã chia sẻ cảm nhận của mình: “Theo em, sân khấu hóa các tác phẩm ngữ văn, trích đoạn văn học là một cách học hay, lôi cuốn người học. Bởi khi được hóa thân vào nhân vật trong tác phẩm văn học, chúng em tự phân tích, đánh giá, suy nghĩ về tâm lý nhân vật, bối cảnh, diễn biến câu chuyện, qua đó cảm nhận sâu sắc về tác phẩm văn học nói chung và từng nhân vật nói riêng”. Thay vì cho học sinh đọc tác phẩm ngữ văn, thảo luận, trao đổi... tôi đã cho học sinh được học tập theo từng nhóm, chuẩn bị một cách kỹ lưỡng để “hóa thân” vào nhân vật trong các tác phẩm thuộc chương trình giảng dạy. Phương pháp này giúp học sinh chủ động tiếp cận văn bản, thâm nhập vào thế giới của tác phẩm để cảm nhận về các nhân vật và chi tiết trong tác phẩm sau đó tái hiện trên sân khấu lớp học. Ngoài ra học sinh còn được tự mình sáng tạo trong cách diễn xuất làm sao để diễn tả được sâu sắc tính cách, nội tâm của nhân vật mình đóng vai. Với những học sinh không tham gia diễn xuất cũng cần đọc văn bản thật kĩ và cảm nhận về nhân vật trong tác phẩm để đối chiếu với hình ảnh nhân vật được tái hiện trên sân khấu lớp học và đưa ra nhận xét của mình. Từ đó, các tiết học ngoại khóa theo hình thức sân khấu đã thực sự tạo được hứng thú cho đại đa số học sinh để các em học tập có hiệu quả. Phương pháp học này cũng góp phần xây dựng ở các bạn học sinh thói quen đọc sách đề hiểu tác phẩm nhiều hơn. Tìm hiểu được biết, để việc “sân khấu hóa các tác phẩm văn học” có hiệu quả thiết thực, nhiều cơ sở giáo dục đã phát huy tối đa vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên Ngữ văn. Các thầy cô đóng vai trò cốt lõi trong xác định mục đích, nội dung và phương pháp đọc hiểu tác phẩm; xác định cách thức sân khấu hóa (kịch, hát, múa); lựa chọn tác phẩm, xác định phân đoạn và nhân vật rồi dự kiến kế hoạch. Việc lựa chọn tác phẩm ngữ văn, trích đoạn văn học để đưa lên sân khấu cần có sự chọn lọc để bảo đảm tính giáo dục, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh; và nhất là  hạn chế những tình huống “nhạy cảm”, những chi tiết có nguy cơ hiểu lệch lạc, hiểu không đúng... Sau khi được phê duyệt, giáo viên cùng học trò tổ 11
  12. chức thực hiện trên cơ sở thực tế của lớp, chọn cách làm phù hợp, tránh lãng phí thời gian, công sức, chi phí. Tổ chức các buổi học ngoại khóa sân khấu hóa tác phẩm ngữ văn cũng được thực hiện có chọn lọc, tránh làm theo phong trào, dàn trải. Thực tế cho thấy, quá trình nhập vai vào nhân vật, các em học sinh cũng gặp không ít khó khăn, đôi khi còn có sự mâu thuẫn giữa tính cách của học sinh với tính cách của nhân vật; điều này thường làm cho các em không hiểu hết được đặc điểm của nhân vật. Khi đó, học sinh sẽ trao đổi, thảo luận với giáo viên. Quá trình này cũng giúp các em hiểu rõ hơn về nhân vật của mình tái hiện, đây cũng là một lần khắc sâu kiến thức rất hiệu quả. Cùng với đó, phương pháp “sân khấu hóa tác phẩm văn học” cũng làm tăng tính đoàn kết và hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. Các em biết tự phân công nhiệm vụ, có trách nhiệm với mỗi phần việc được giao; từ đó hình thành thói quen làm việc theo nhóm. Phát huy được tính sáng tạo và phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh, phương pháp “sân khấu hóa tác phẩm văn học” là một trong những phương pháp giảng dạy hiệu quả giúp nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn. Đồng thời góp phần bồi dưỡng nhân cách thế hệ trẻ, hướng các em học sinh đến những giá trị chân thiện mỹ. Đặc biệt góp phần không nhỏ trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội tại lớp chủ nhiệm. 3.2.2. Tích hợp giáo dục theo chủ đề và kết nối hệ thống loại hình Với định hướng dạy học giúp học sinh phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, được thực hiện ngay trong quá trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng, việc dạy học tích hợp là một xu thế có nhiều triển vọng trong giáo dục hiện đại. Để hình thành và phát triển năng lực thẩm mĩ cho học sinh, cần đặt giáo dục nghệ thuật trong mối tương quan hệ thống và đồng bộ của loại hình văn học nghệ thuật (bao gồm Âm nhạc, Mĩ thuật và Văn học). Văn học có khả năng khơi gợi tình cảm đạo đức nhân văn của con người, thông qua sự đồng điệu giúp con người nhận thức được ý nghĩa sâu xa của giá trị Chân - Thiện - Mĩ và tình yêu cuộc sống. Ngữ văn là môn học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12. Trong tác phẩm văn học, những hình ảnh, nhịp điệu, tiết tấu ngôn ngôn ngữ thông qua các lớp nghĩa tiềm ẩn và hàm ngôn của Tiếng Việt là những yếu tố cốt lõi mang tính đặc thù của hình tượng văn học, cho nên việc khai thác hiệu quả các yếu tố nghệ thuật của tác phẩm trong quá trình dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp vừa góp phần hình thành và phát triển năng lực văn học - một biểu hiện của năng lực thẩm mĩ; đồng thời vừa tạo ra hiệu ứng “cộng hưởng” nhằm bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm để học sinh phát triển về tâm hồn và hoàn thiện nhân cách. Thực tiễn triển khai đổi mới giáo dục thời gian qua cho thấy: việc dạy học liên môn, tích hợp theo chủ đề đã có những kết quả đáng ghi nhận. Hoạt động của 12
  13. các câu lạc bộ hoặc/và các bài học theo chủ đề đã khai thác từ nhiều bình diện kiến thức và năng lực ngữ văn, âm nhạc, mĩ thuật, giáo dục công dân, ngoại ngữ,... tạo ra những tình huống bộc lộ và cộng hưởng của hiệu quả biểu đạt, khơi dậy cảm xúc mới mẻ và hứng thú cho học sinh. Theo cách thức tổ chức dạy học này, học sinh được phát huy phẩm chất và năng lực thẩm mĩ thông qua việc khai thác tối đa các yếu tố đặc thù của các môn học và kết nối được nhiều bình diện của kiến thức theo mục tiêu cần đạt của những chủ đề khác nhau. 3.2.3. Chuyển từ học chủ yếu qua môn học sang tổ chức theo hình thức kết hợp giữa hoạt động giáo dục, hoạt động trải nghiệm, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, kết nối với cộng đồng Phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội thông qua các hoạt động trải nghiệm và hướng nghiệp. Hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) là những hoạt động có chủ đích, có kế hoạch hoặc có sự định hướng của nhà giáo dục, được thực hiện thông qua những cách thức phù hợp để chuyển tải nội dung giáo dục tới người học nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục.Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành của Việt Nam, kế hoạch giáo dục bao gồm các môn học và hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp). Khái niệm hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) dùng để chỉ các hoạt động giáo dục được tổ chức ngoài giờ dạy học các môn học và được sử dụng cùng với khái niệm hoạt động dạy học các môn học. Như vậy, hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp). Các hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) gồm: - Hoạt động tập thể (sinh hoạt lớp, sinh hoạt trường, sinh hoạt Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh). - Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được tổ chức theo các chủ đề giáo dục. - Hoạt động giáo dục hướng nghiệp (cấp Trung học cơ sở và cấp Trung học phổ thông) giúp học sinh tìm hiểu để định hướng tiếp tục học tập và định hướng nghề nghiệp. - Hoạt động giáo dục nghề phổ thông (cấp Trung học phổ thông) giúp học sinh hiểu được một số kiến thức cơ bản về công cụ, kĩ thuật, quy trình công nghệ, an toàn lao động, vệ sinh môi trường đối với một số nghề phổ thông đã học; hình thành và phát triển kĩ năng vận dụng những kiến thức vào thực tiễn; có một số kĩ năng sử dụng công cụ, thực hành kĩ thuật theo quy trình công nghệ để lảm ra sản phẩm đơn giản. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, kế hoạch giáo dục bao gồm các môn học, chuyên đề học tập (gọi chung là môn học) và hoạt động trải nghiệm sáng tạo; hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo. 13
  14. Trong thời gian qua giáo viên chủ nhiệm đã tiến hành một số hình thức tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo đối với lớp chủ nhiệm để phát hiện, rèn luyện và phát triển năng khiếu vượt trội của học sinh. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, hoạt động tình nguyện, hoạt động cộng đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, múa rối, tiểu phẩm, kịch tham gia,…), thể dục thể thao, tổ chức các ngày hội,… Mỗi hình thức hoạt động trên đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định. Dưới đây là một số hình thức tổ chức của HĐTNST trong nhà trường phổ thông 3.3.3.1.Hoạt động câu lạc bộ (CLB) Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu,… dưới sự định hướng của những nhà giáo dục nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động của câu lạc bộ tạo cơ hội để học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của học sinh như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề,… Câu lạc bộ là nơi để học sinh được thực hành các quyền trẻ em của mình như quyền được học tập, quyền được vui chơi giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; quyền được tự do biểu đạt; tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin,… Thông qua hoạt động của các câu lạc bộ, nhà giáo dục hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng mục đích chính đáng của các em. Câu lạc bộ hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, thống nhất, có lịch sinh hoạt định kì và có thể được tổ chức với nhiều lĩnh vực khác nhau như: câu lạc bộ học thuật; câu lạc bộ thể dục thể thao; câu lạc bộ văn hóa nghệ thuật; câu lạc bộ võ thuật; câu lạc bộ trò chơi dân gian… 3.3.3.2. Tổ chức diễn đàn Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến của mình với đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những người lớn khác có liên quan. Diễn đàn là một trong những hình thức tổ chức mang lại hiệu quả giáo dục thiết thực. Thông qua diễn đàn, học sinh có cơ hội bày tỏ suy nghĩ, ý kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một vấn đề nào đó có liên quan đến nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. Đây cũng là dịp để các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diễn đàn như một sân chơi tạo điều kiện để học sinh được biểu đạt ý kiến của mình một cách trực tiếp với đông đảo bạn bè và những người khác. Diễn đàn thường được tổ chức rất linh hoạt, phong phú và đa dạng với những hình thức hoạt động cụ thể, phù hợp với từng lứa tuổi học sinh. 14
  15. Mục đích của việc tổ chức diễn đàn là để tạo cơ hội, môi trường cho học sinh được bày tỏ ý kiến về những vấn đề các em quan tâm, giúp các em khẳng định vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng định vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng định mình. Qua các diễn đàn, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh và những người lớn có liên quan nắm bắt được những băn khoăn, lo lắng và mong đợi của các em về bạn bè, thầy cô, nhà trường và gia đình,… tăng cường cơ hội giao lưu giữa người lớn và trẻ em, giữa trẻ em với trẻ em và thúc đẩy quyền trẻ em trong trường học. Giúp học sinh thực hành quyền được bày tỏ ý kiến, quyền được lắng nghe và quyền được tham gia,… đồng thời giúp các nhà quản lí giáo dục và hoạch định chính sách nắm bắt, nhận biết được những vấn đề mà học sinh quan tâm từ đó có những biện pháp giáo dục và xây dựng chính sách phù hợp hơn với các em. 3.3.3.3. Sân khấu tương tác Sân khấu tương tác (hay sân khấu diễn đàn) là một hình thức nghệ thuật tương tác dựa trên hoạt động diễn kịch, trong đó vở kịch chỉ có phần mở đầu đưa ra tình huống, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Phần trình diễn chính là một cuộc chia sẻ, thảo luận giữa những người thực hiện và khán giả, trong đó đề cao tính tương tác hay sự tham gia của khán giả. Mục đích của hoạt động này là nhằm tăng cường nhận thức, thúc đẩy để học sinh đưa ra quan điểm, suy nghĩ và cách xử lí tình huống thực tế gặp phải trong bất kì nội dung nào của cuộc sống. Thông qua sân khấu tương tác, sự tham gia của học sinh được tăng cường và thúc đẩy, tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện những kĩ năng như: kĩ năng phát hiện vấn đề, kĩ năng phân tích vấn đề, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo khi giải quyết tình huống và khả năng ứng phó với những thay đổi của cuộc sống,… 3.3.3.4. Hội thi / cuộc thi Hội thi/cuộc thi là một trong những hình thức tổ chức hoạt động hấp dẫn, lôi cuốn học sinh và đạt hiệu quả cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và định hướng giá trị cho tuổi trẻ. Hội thi mang tính chất thi đua giữa các cá nhân, nhóm hoặc tập thể luôn hoạt động tích cực để vươn lên đạt được mục tiêu mong muốn thông qua việc tìm ra người/đội thắng cuộc. Chính vì vậy, tổ chức hội thi cho học sinh là một yêu cầu quan trọng, cần thiết của nhà trường, của giáo viên trong quá trình tổ chức HĐTNST. Mục đích tổ chức hội thi/cuộc thi nhằm lôi cuốn học sinh tham gia một cách chủ động, tích cực vào các hoạt động giáo dục của nhà trường; đáp ứng nhu cầu về vui chơi giải trí cho học sinh; thu hút tài năng và sự sáng tạo của học sinh; phát triển khả năng hoạt động tích cực và tương tác của học sinh, góp phần bồi dưỡng cho các em động cơ học tập tích cực, kích thích hứng thú trong quá trình nhận 15
  16. thức. Hội thi/cuộc thi có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Thi vẽ, thi viết, thi tìm hiểu, thi đố vui, thi giải ô chữ, thi tiểu phẩm, thi thời trang, thi kể chuyện, thi chụp ảnh, thi kể chuyện theo tranh, thi sáng tác bài hát, hội thi học tập, hội thi thời trang, hội thi học sinh thanh lịch,… có nội dung giáo dục về một chủ đề nào đó. Nội dung của hội thi rất phong phú, bất cứ nội dung giáo dục nào cũng có thể được tổ chức dưới hình thức hội thi/cuộc thi. Điều quan trọng khi tổ chức hội thi là phải linh hoạt, sáng tạo khi tổ chức thực hiện, tránh máy móc thì cuộc thi mới hấp dẫn. 3.3.3.6. Tổ chức sự kiện Tổ chức sự kiện trong nhà trường phổ thông là một hoạt động tạo cơ hội cho học sinh được thể hiện những ý tưởng, khả năng sáng tạo của mình, thể hiện năng lực tổ chức hoạt động, thực hiện và kiểm tra giám sát hoạt động. Thông qua hoạt động tổ chức sự kiện học sinh được rèn luyện tính tỉ mỉ, chi tiết, đầu óc tổ chức, tính năng động, nhanh nhẹn, kiên nhẫn, có khả năng thiết lập mối quan hệ tốt, có khả năng làm việc theo nhóm, có sức khỏe và niềm đam mê. Khi tham gia tổ chức sự kiện học sinh sẽ thể hiện được sức bền cũng như khả năng chịu được áp lực cao của mình. Ngoài ra, các em còn phải biết cách xoay xở và ứng phó trong mọi tình huống bất kì xảy đến. Các sự kiện học sinh có thể tổ chức trong nhà trường như: Lễ khai mạc, lễ nhập học, lễ tốt nghiệp, lễ kỉ niệm, lễ chúc mừng,…; Các buổi triển lãm, buổi giới thiệu, hội thảo khoa học, hội diễn nghệ thuật; Các hoạt động đánh giá thể lực, kiểm tra thể hình, thể chất của học sinh; Đại hội thể dục thể thao, hội thi đấu giao hữu; Hoạt động học tập thực tế, du lịch khảo sát thực tế, điều tra học thuật; Hoạt động tìm hiểu về di sản văn hóa, về phong tục tập quán; Chuyến đi khám phá đất nước, trải nghiệm văn hóa nước ngoài… 3.3.3.6. Hoạt động giao lưu Giao lưu là một hình thức tổ chức giáo dục nhằm tạo ra các điều kiện cần thiết để cho học sinh được tiếp xúc, trò chuyện và trao đổi thông tin với những nhân vật điển hình trong các lĩnh vực hoạt động nào đó. Qua đó, giúp các em có tình cảm và thái độ phù hợp, có được những lời khuyên đúng đắn để vươn lên trong học tập, rèn luyện và hoàn thiện nhân cách. Hoạt động giao lưu có một số đặc trưng sau: - Phải có đối tượng giao lưu. Đối tượng giao lưu là những người điển hình, có những thành tích xuất sắc, thành đạt trong các lĩnh vực nào đó, thực sự là tấm gương sáng để học sinh noi theo, phù hợp với nhu cầu hứng thú của học sinh. - Thu hút sự tham gia đông đảo và tự nguyện của học sinh, được học sinh quan tâm và hào hứng. - Phải có sự trao đổi thông tin, tình cảm hết sức trung thực, chân thành và sôi nổi giữa học sinh với người được giao lưu. Những vấn đề trao đổi phải thiết thực, liên quan đến lợi ích và hứng thú của học sinh, đáp ứng nhu cầu của các em. 16
  17. Với những đặc trưng trên, hoạt động giao lưu rất phù hợp với các HĐTNST theo chủ đề. Hoạt động giao lưu dễ dàng được tổ chức trong mọi điều kiện của lớp, của trường. 3.3.2. Tích hợp trong nội dung giáo dục địa phương: Nội dung giáo dục địa phương là những vấn đề cơ bản hoặc thời sự về văn hoá, lịch sử, địa lí, kinh tế, xã hội, môi trường, hướng nghiệp,... của địa phương bổ sung cho nội dung giáo dục theo qui định chung thống nhất trong cả nước, nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết về nơi sinh sống, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, ý thức tìm hiểu và vận dụng những điều đã học để vận dụng vào thực tiễn ở địa phương.Căn cứ vào đặc điểm của từng vùng miền, các cơ sở giáo dục lựa chọn những nội dung phù hợp để biên soạn tài liệu tích hợp giáo dục nghệ thuật theo các chủ đề và hướng dẫn nhà trường trên địa bàn tổ chức thực hiện. Theo cấu trúc của chương trình giáo dục, ở cấp tiểu học, nội dung giáo dục của địa phương được tích hợp với Hoạt động trải nghiệm; ở cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông, nội dung giáo dục của địa phương có vị trí tương đương các môn học khác, do đó, việc tiến hành giáo dục nghệ thuật có thể gắn với: - Các vấn đề về văn hóa, lịch sử truyền thống của địa phương (Lễ hội truyền thống; các loại hình nghệ thuật truyền thống; truyền thống quê hương; phong tục, tập quán địa phương; xây dựng nếp sống văn minh, tôn trọng kỉ cương, pháp luật; danh nhân văn hóa; di tích lịch sử; bảo tàng, lịch sử hình thành và phát triển của địa phương). - Các vấn đề về địa lí, kinh tế, hướng nghiệp của địa phương (Địa lí tự nhiên; địa lí dân cư; địa lí kinh tế xã hội; địa lí du lịch; làng nghề truyền thống; các ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương). - Các vấn đề về chính trị - xã hội, môi trường của địa phương (Chính sách an sinh xã hội; các vấn đề giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, kĩ năng sống; bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học; ứng phó với biến đổi khí hậu). Các giải pháp cơ bản đề xuất trên đây nhằm phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung – trong đó môn Âm nhạc hình thành và phát triển cho học sinh năng lực thể hiện âm nhạc, cảm thụ và hiểu biết âm nhạc, ứng dụng và sáng tạo âm nhạc, góp phần phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu âm nhạc; môn Mĩ thuật hình thành và phát triển cho học sinh năng lực quan sát và nhận thức thẩm mĩ, sáng tạo và ứng dụng thẩm mĩ, phân tích và đánh giá thẩm mĩ, tạo cơ hội để học sinh trải nghiệm và ứng dụng mĩ thuật vào thực tiễn, phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu. Albert Einstein cho rằng: "Tất cả những điều có giá trị trong xã hội con người đều dựa vào cơ hội phát triển hòa hợp trong mỗi cá nhân". Để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có văn hoá, cần cù, sáng tạo trong thời đại toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp 4.0, hoạt động giáo dục nghệ thuật nói riêng và giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường nói chung gắn với hệ giá trị cần hình thành và phát triển toàn diện về năng lực và phẩm chất của mỗi học sinh. 17
  18. 3.4. Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu vượt trội    Để đào tạo ra những con người phát triển toàn diện cả đức - trí - thể - mỹ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì không chỉ có vai trò của nhà trường, mà còn rất cần sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ của gia đình và cộng đồng. Đó là ba môi trường giáo dục quan trọng tạo thành thế “chân kiềng” vững chắc để cùng giáo dục, hình thành nhân cách và vun đắp sự trưởng thành của một con người. Đồng thời, sự phối hợp vững chắc giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng sẽ góp phần sớm phát hiện, rèn luyện và phát triển năng khiếu vượt trội của các em học sinh. Cha mẹ không nên ảo tưởng về năng khiếu của con mình. Khi con tỏ ra đặc biệt thích một lĩnh vực nào đó, hãy kiên trì theo dõi cùng với giáo viên chủ nhiệm để có thể định hướng cho con đúng lúc. Khi đã phát hiện ra trẻ có năng khiếu đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó, cần tạo điều kiện cho con tiếp xúc nhiều với lĩnh vực ấy. Tạo cho con niềm say mê hứng thú, chứ không phải là gáng nặng thành tích, điểm số. Trên thực tế, không phải năng khiếu nào cũng có thể phát triển thành thiên tài. Vì vậy, những năm qua, công tác phối hợp giáo viên chủ nhiệm, gia đình, nhà trường được quan tâm và bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực. 4. Những kết quả đạt được của đề tài PHẦN BA: KẾT LUẬN 1. Bài học kinh nghiệm: 2. Kết luận: 3. Kiến nghị: Tài liệu tham khảo 18
  19. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TIỂU HỌC (Chuyên đề: Đổi mới phương pháp Giáo dục Tiểu học) Việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý. Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân. 19
  20. Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH nói chung và đổi mới PPDH ở Tiểu học nói riêng là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng tất yếu trong cải cách PPDH ở mỗi nhà trường. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực của học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy. Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức(tự chiếm lĩnh kiến thức) với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”. Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học. Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức thích hợp như: học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài lớp... 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1