intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực tự học và hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử cho học sinh qua tổ chức dạy học bài 17 Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946 (lớp 12) theo mô hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của công cụ trực tuyến Padlet

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:50

8
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Phát triển năng lực tự học và hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử cho học sinh qua tổ chức dạy học bài 17 Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946 (lớp 12) theo mô hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của công cụ trực tuyến Padlet" nhằm xác định khả năng áp dụng mô hình LHĐN trong dạy học bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” (lớp 12) nhằm phát triển NLTH của HS nói riêng và góp phần nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực tự học và hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử cho học sinh qua tổ chức dạy học bài 17 Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946 (lớp 12) theo mô hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của công cụ trực tuyến Padlet

  1. PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC VÀ HIỆU QUẢ ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH QUA TỔ CHỨC DẠY HỌC BÀI 17 “NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA TỪ SAU NGÀY 2-9-1945 ĐẾN TRƯỚC NGÀY 19-12- 1946”(LỚP 12) THEO MÔ HÌNH LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG CỤ TRỰC TUYẾN PADLET. A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Trong định hướng phát triển năng lực người học hiện nay, năng lực tự học (NLTH) có vai trò quan trọng không chỉ trong giáo dục nhà trường mà cả trong thực tiễn của mỗi cá nhân. Ngoài việc nâng cao kết quả học tập, tự học còn tạo cơ hội cho người học phát triển và rèn luyện kĩ năng hoạt động độc lập, sáng tạo và học tập suốt đời. Để phát triển được NLTH cho người học đòi hỏi mỗi giáo viên (GV) phải sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, đa dạng hóa các mô hình dạy học… Trong các mô hình dạy học hiện nay, mô hình lớp học đảo ngược (Flipped classroom) là mô hình giáo dục hiện đại đáp ứng được những yêu cầu nêu trên. Thay vì giảng dạy như thường lệ, GV sẽ là người hướng dẫn; ngược lại người học thay vì tiếp thu kiến thức thụ động từ GV, các em sẽ tự tiếp cận kiến thức ở nhà, tự mình trải nghiệm, khám phá, tìm tòi các thông tin liên quan đến bài học. Mô hình mới này giúp học sinh (HS) phát huy và rèn luyện tính tự học, tính chủ động làm chủ quá trình học tập của bản thân mà không bị động, phụ thuộc trong quá trình khám phá tri thức. Để tổ chức mô hình lớp học đảo ngược (LHĐN) hiệu quả, người GV cần có sự hỗ trợ của các công cụ trực tuyến nhằm giúp HS trong quá trình tự học, tự nghiên cứu bài học trước khi đến lớp như Zalo, Messenger, Microsoft Teams, Classdojo, Shubclassroom, Edmodo, Padlet… Trong số đó, Padlet được coi là một công cụ hỗ trợ hiệu quả. Padlet là trang mạng cho phép chúng ta cộng tác với những người dùng khác bằng văn bản, hình ảnh, liên kết và các nội dung khác. Cũng từ đây, GV có thể hướng dẫn và giúp học sinh phát NLTH một cách hiệu quả. Đồng thời, HS sẽ khai thác được học liệu bài học, hoàn thiện những dạng bài tập GV yêu cầu sẵn trước khi vào bài học chính thức và hoàn thiện các bài tập trắc nghiệm khách quan qua mô hình LHĐN để góp phần nâng cao hiệu quả bài thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử. 1
  2. Việc áp dụng mô hình LHĐN trong dạy học môn Lịch sử sẽ khắc phục được hạn chế “cháy giáo án” ở trên lớp do khối lượng kiến thức lớn mà thời gian tiết học có hạn; giúp GV và HS có thời gian để củng cố kiến thức cơ bản và phát triển tư duy bậc cao; giúp HS luyện được nhiều dạng bài tập theo 4 mức độ trong Kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia. Đồng thời, quá trình tự nghiên cứu bài học ở nhà, hoàn thành các nhiệm vụ trước khi đến lớp sẽ hình thành và phát triển NLTH cho HS. Bên cạnh đó, môn Lịch sử nói chung và bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” với nguồn tư liệu phong phú, nhiều kiến thức khó cần khai thác sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc áp dụng mô hình LHĐN. Xuất phát từ những lý do trên và nhằm góp phần đề xuất quy trình dạy học theo mô hình LHĐN trong môn Lịch sử nên tôi chọn đề tài “Phát triển năng lực tự học và hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử cho học sinh qua tổ chức dạy học bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” (lớp 12) theo mô hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của công cụ trực tuyến Padlet” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm. Đây là một đề tài mới, chưa được công bố ở bất kỳ cuộc thi, Luận án, luận văn nào. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Xác định khả năng áp dụng mô hình LHĐN trong dạy học bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” (lớp 12) nhằm phát triển NLTH của HS nói riêng và góp phần nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT nói chung. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài. - Xây dựng quy trình và kế hoạch dạy học bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” (Lịch sử lớp 12) theo mô hình LHĐN với sự hỗ trợ của công cụ trực tuyến Padlet nhằm phát triển NLTH và hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử cho học sinh. - Công cụ đánh giá NLTH của HS thông qua mô hình LHĐN. - Quy trình hướng dẫn học sinh ôn thi và xây dựng ngân hàng bài tập theo đúng 4 mức độ trong bài 17 (Lịch sử lớp 12) để nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT cho học sinh. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá khả năng ứng dụng thực tế và hiệu quả của mô hình đã đưa ra. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Mô hình LHĐN với sự hỗ trợ của công cụ trực tuyến Padlet trong dạy học bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2- 2
  3. 9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” nhằm phát triển NLTH và hiệu quả bài thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử cho học sinh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu tại trường THPT nơi tác giả công tác. 4. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp phân loại, hệ thống; phương pháp quan sát khoa học; phương pháp khảo sát điều tra; phương pháp thực nghiệm; phương pháp toán học thống kê… 5. Đóng góp dự kiến của đề tài 5.1. Ý nghĩa về mặt lí luận - Khẳng định vai trò, ý nghĩa, sự cần thiết của việc áp dụng mô hình LHĐN, ứng dụng Công nghệ thông tin trong trong dạy học bài 17 (lớp 12) nhằm phát triển NLTH và hiệu quả bài thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử cho HS. - Đề tài hướng dẫn cụ thể quy trình xây dựng kế hoạch dạy học theo mô hình LHĐN, quy trình hướng dẫn HS ôn thi tốt nghiệp THPT, xây dựng ngân hàng bài tập trắc nghiệm khách quan đủ 4 mức độ với sự hỗ trợ của công cụ trực tuyến Padlet trong dạy học bài 17 (lớp 12) nhằm phát triển NLTH và hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử cho học sinh. 5.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao nhận thức về lí luận bộ môn, rèn luyện kĩ năng nghiên cứu khoa học và kĩ năng vận dụng lí luận vào dạy học của bản thân. - Đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho GV lịch sử và GV các bộ môn khác. - Đề tài có thể được các trường THPT khác trên địa bàn tỉnh nghiên cứu và vận dụng phù hợp trong dạy học các đối tượng tương ứng. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực tự học và hiệu quả bài thi tốt nghiệp THPT cho học sinh thông qua mô hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của công cụ Padlet 1. Cơ sở lí luận của việc phát triển NLTH cho học sinh thông qua mô hình LHĐN với sự hỗ trợ của công cụ trực tuyến padlet 1.1. Năng lực tự học 1.1.1. Khái niệm “Tự học là tự mình dùng các giác quan để thu nhận thông tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có 3
  4. khi cả cơ bắp (phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh được một lĩnh vực hiểu biết nào đó, một số phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng biến chúng thành sở hữu của mình. Phát minh ra cái mới cũng có thể coi là một hình thức tự học cao cấp”. [3; 407] “Năng lực tự học được hiểu là một thuộc tính kĩ năng phức hợp. Nó bao gồm kĩ năng, kĩ xảo cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho người học có thể đáp ứng những yêu cầu mà công việc đặt ra”. [4; 87] 1.1.2. Biểu hiện của NLTH Theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018, biểu hiện của NLTH bao gồm: - Xác định được nhiệm vụ học tập dựa trên kết quả đã đạt được; biết đặt mục tiêu học tập chi tiết, cụ thể, khắc phục những hạn chế. - Đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập; hình thành cách học riêng của bản thân; tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau; ghi chép thông tin bằng các hình thức phù hợp, thuận lợi cho việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết. - Tự nhận ra và điều chỉnh được những sai sót, hạn chế của bản thân trong quá trình học tập; suy ngẫm cách học của mình, rút kinh nghiệm để có thể vận dụng vào các tình huống khác; biết tự điều chỉnh cách học. - Biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân và các giá trị công dân. 1.1.3. Dạy học phát triển NLTH cho HS trong môn Lịch sử - Dạy học theo định hướng phát triển năng lực nói chung và NLTH nói riêng chính là “Mở rộng dạy học định hướng nội dung bằng cách tạo môi trường, bối cảnh cụ thể để người học được thực hiện các hoạt động vận dụng kiến thức, sử dụng kĩ năng và thể hiện thái độ của mình một cách hiệu quả”. Trong đó, dạy học không những chú ý tích cực hóa hoạt động học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống thực tiễn của cuộc sống, nghề nghiệp. - Việc dạy học Lịch sử theo hướng phát triển năng lực nói chung và NLTH nói riêng chính là cần tích cực hóa cả về hoạt động trí tuệ lẫn chú ý rèn luyện năng lực thực hiện hoạt động tự học gắn với giải quyết vấn đề của thực tiễn nghề nghiệp. Trên nguyên tắc, năng lực chỉ hình thành và phát triển thông qua hoạt động, vì vậy việc phát triển NLTH cho HS trong môn Lịch sử chính là giao nhiệm vụ, tổ chức và quản lí việc thực hiện nhiệm vụ tự học của HS ở nhà cũng như trên lớp thông qua các tài liệu, phương tiện học tập. Thông qua việc sẵn sàng nhận nhiệm vụ và thực hiện các nhiệm vụ tự học, HS tự chiếm lĩnh tri thức cũng như hình thành các phẩm chất và phát triển được NLTH của bản thân. 4
  5. Dựa vào đặc trưng nội dung môn học, chu trình tự học và cấu trúc năng lực, có thể đưa ra một số năng lực thành phần của NLTH giúp học sinh tự học môn Lịch sử ở trường phổ thông như sau: - Năng lực tìm tòi, phát hiện vấn đề. Nội dung chương trình môn LS ở trường phổ thông được biên soạn có mối liên hệ chặt chẽ và trình bày theo hệ thống logic giữa các nội dung sự kiện, hiện tượng LS Việt Nam và thế giới. Bên cạnh đó, đặc thù của môn học rất thuận lợi cho HS có thể tự học bằng cách tự tìm tòi, phát hiện vấn đề. - Năng lực giải quyết vấn đề. Năng lực giải quyết vấn đề là một trong những năng lực cần rèn luyện cho HS, giúp kích thích hoạt động tư duy sáng tạo của HS. Khi giải quyết vấn đề đòi hỏi HS phải huy động các kiến thức, tài liệu thu thập, xem xét đánh giá thông tin một cách chính xác, khoa học, qua đó giúp HS nắm chắc kiến thức. Từ các tình huống có vấn đề, GV buộc HS phài tự tìm cách giải quyết (đây vừa là định hướng nhận thức cho HS, vừa là mục đích của việc tự học của HS). Thông qua các bài tập về nhà, phiếu bài tập, GV có thể rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề cho HS. - Năng lực vận dụng kiến thức vào quá trình tự học bài học Lịch sử ở trên lớp. HS phải nắm chắc các nội dung kiến thức đã học ở trên lớp, kết hợp với quá trình tự tìm tòi nghiên cứu các nguồn kiến thức bổ trợ, để tạo ra các mối liên hệ giữa các nguồn kiến thức với nhau; giúp HS củng cố, khắc sâu kiến thức, làm sáng tỏ các kiến thức trong SGK; nhờ đó HS sẽ hứng thú hơn trong một giờ học LS nói riêng và tự học môn LS nói chung, chất lượng dạy học lịch sử sẽ được nâng cao. - Năng lực đánh giá và tự đánh giá. Kết quả của việc đánh giá, tự đánh giá là điều kiện rất quan trọng giúp HS lựa chọn các hình thức, phương pháp tự học có hiệu quả, đồng thời, biết vận dụng thao tác tư duy phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu. Năng lực đánh giá của HS thể hiện qua khả năng kiểm tra, đánh giá kết quả chất lượng học tập của bản thân và của bạn bè. Điều này không những giúp HS nắm vững kiến thức LS mà còn phát triển khả năng tìm tòi, sáng tạo. 1.2. Lớp học đảo ngược (Flipped classroom) 1.2.1. Khái niệm Mô hình LHĐN là một trong những dạng thức của phương pháp học tập kết hợp (blended-learning). Theo cách hiểu đơn giản, mô hình LHĐN là mô hình học tập, trong đó, người học xem bài giảng (đa số là các đoạn video thu lại bài giảng của người dạy) và nghiên cứu tài liệu do người dạy cung cấp để hiểu nội dung bài học trước khi đến lớp. Thời gian học tập tại lớp sẽ được sử dụng cho các hoạt động thảo luận, giải quyết vấn đề, thực hành và nâng cao kiến thức về nội dung bài học. 1.2.2. Đặc điểm 5
  6. Hình thức của LHĐN, trong sự so sánh với lớp học truyền thống được thể hiện bằng minh họa sau đây: Hình 1. Minh họa về lớp học đảo ngược Trong lớp học truyền thống, HS đến trường nghe giảng bài, sau đó về nhà làm bài tập và quá trình làm bài tập sẽ khó khăn nếu HS không hiểu bài. Như vậy, nhiệm vụ truyền đạt kiến thức phụ thuộc và GV. Theo Thang tư duy Bloom thì nhiệm vụ này chỉ ở những bậc thấp (tức là “Biết” và “Hiểu”), còn nhiệm vụ của HS làm bài tập vận dụng và nhiệm vụ này thuộc bậc cao của Thang tư duy (bao gồm “Ứng dụng”, “Phân tích”, “Tổng hợp” và “Đánh giá”). Điều trở ngại ở đây là nhiệm vụ bậc cao lại do HS và và phụ huynh – những người không có chuyên môn đảm nhận (vì thời gian ở trên lớp không đủ để thực hiện). Với LHĐN, việc tìm hiểu kiến thức được định hướng bởi người thầy (thông qua những bài giảng và tư liệu GV cung cấp và do HS tự tìm kiếm), nhiệm vụ của HS là tự học kiến thức mới này và làm bài tập mức thấp ở nhà. Khi ở lớp, HS được GV tổ chức các hoạt động để tương tác và chia sẻ lẫn nhau. Các bài tập mức cao được thực hiện tại lớp dưới sự hỗ trợ của GV và các bạn cùng nhóm. Như vậy, những nhiệm vụ mức cao trong thang tư duy được thực hiện bởi cả thầy và trò; thời gian của tiết học được sử dụng hiệu quả hơn. Cách học này đòi hỏi HS phải dùng nhiều đến các hoạt đông trí não, qua đó phát triển NLTH của bản thân. 1.3. Sử dụng công cụ Padlet phục vụ trong dạy học theo mô hình lớp học đảo ngược 6
  7. 1.3.1. Khái niệm, vai trò Padlet được dùng trong nhiều lĩnh vực khác nhau từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đặc biệt là giáo dục. Trong xu thế giáo dục mở hiện nay, với phương châm “học mọi lúc, học mọi nơi” và “trong việc học, lấy tự học làm cốt” (Hồ Chí Minh) thì Padlet được coi là một lớp học lí tưởng để tạo ra môi trường học tập tốt. Người GV có thể sử dụng Padlet như một giáo án mở để cả GV và HS cùng tổ chức và hoàn thiện các nhiệm vụ học tập. GV có thể sử dụng Padlet để thiết kế một bài học cụ thể, tổ chức các hoạt động học tập cho HS hoặc hướng dẫn HS tự tìm hiểu, tự học. Với HS có thể sử dụng Padlet như một công cụ lưu trữ thông tin, cùng hoạt động nhóm với bạn bè hay đơn giản là bày tỏ cảm xúc, thái độ, quan điểm của mình. Padlet dưới sự hướng dẫn của GV thực sự là một công cụ hữu ích giúp phát triển NLTH cho HS. 1.3.2. Quy trình thiết kế bài giảng trên Padlet phục vụ quá trình tự học cho HS Đối với mô hình lớp học đảo ngược, Padlet được sử dụng như một công cụ trực tuyến cung cấp đầy đủ học liệu cho HS trong quá trình tự học ở nhà và yêu cầu HS hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Việc thiết kế kế hoạch dạy học trên Padlet (ví dụ bài 17: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà) được thực hiện theo trình tự như sau: - Bước 1: Đăng kí tài khoản trên Padlet: https://padlet.com/, chọn giao diện Tiếng Việt. - Bước 2: Bấm vào Tạo một Padlet: - Bước 3: Chọn định dạng cho Padlet: Người dùng click vào Make a Padlet để chọn dạng phù hợp với ý tưởng dạy học. - Bước 4: Tiến hành tùy chỉnh cho mỗi Padlet. Trong đó, một số tùy chỉnh cần chú ý ở các mục như: + Tiêu đề: GV đặt tên cho Padlet theo bài dạy hoặc mục đích sử dụng. + Mô tả: thông qua mô tả, GV có thể định hướng cho HS bằng cách nêu ngắn gọn về nội dung và mục đích của Padlet. + Địa chỉ: là đường dẫn (link) của Padlet được tạo. GV nên đặt lại địa chỉ này ngắn gọn bằng cách viết tắt tên bài dạy, tên lớp để dễ dàng cung cấp cho HS. + Bình luận: GV click vào cho phép người xem bình luận vào bài đăng để HS có thể viết ý kiến phản hồi. + Các phản ứng: GV có thể lựa chọn một trong các phản ứng như chấm sao, chấm điểm, bỏ phiếu tán thành để HS có thể đánh giá đồng đẳng các sản phẩm học tập của nhau được đăng trên Padlet. 7
  8. - Bước 5: GV sẽ tạo các bài đăng bằng cách nhấn vào dấu cộng “+” bên dưới góc phải. Padlet cho phép người dùng viết trực tiếp, tải tài liệu, dẫn đường link từ trang web… + Để phục vụ quá trình tự học cho HS ở nhà, thông thường GV sẽ tải video bài giảng, tranh ảnh, video, tài liệu tham khảo để HS nghiên cứu. + Đồng thời, GV sẽ đưa ra các nhiệm vụ học tập để HS hoàn thành, ví dụ các phiếu học tập, HS có thể làm trực tuyến hoặc chụp ảnh đăng lên thư mục Phiếu học tập hoặc nếu có gì cần trao đổi, HS sẽ ghi vào thư mục Thảo luận – Trao đổi… Nói chung, việc thiết kế bài giảng trên Padlet không có mẫu chung mà tùy vào ý tưởng dạy học của GV. - Bước 6: GV chia sẻ địa chỉ Padlet cho HS vào học. Có rất nhiều hình thức chia sẻ, GV hãy chọn 1 hình thức chia sẻ thuận lợi nhất cho học sinh của mình: C1: Copy link và gửi qua email, các công cụ Chat, trò chuyện. C2: nhắn tin/ Chia sẻ bằng mã QR code/ Chia sẻ bằng cách nhúng vào trang web/ Chia sẻ trực tiếp qua email/ Chia sẻ lên facebook/ Chia sẻ lên Twitter/ Chia sẻ vào google Classrom. Minh họa: Các bước thiết kế bài giảng trên Padlet (Mã QR) 1.4. Cấu trúc của bài thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử Trong đề thi tốt nghiệp THPT năm 2020,2021, 2022 phần lịch sử Việt Nam 1945 – 1946 có … câu với … điểm. Mức độ đề thi có đủ các cấp độ từ nhớ, hiểu, vận dụng tùy theo ma trận từng năm. Ngoài ra, những hiểu biết về lịch sử giai đoạn này còn có ý nghĩa vận dụng trong việc học tập tốt phần lịch sử lịch sử Việt Nam 1946- 1954, 1954-1975. Tuy nhiên, phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1946 có quá nhiều sự kiện, có nhiều nội dung có sự khác biệt khó xâu chuỗi vì thế nếu không có phương pháp tổ chức hướng dẫn cụ thể và khoa học để các em có định hướng học tập và ôn luyện sẽ dẫn đến hiện tượng ôm đồm kiến thức, nhớ vụn vặt không có tinh hệ thống quy luật, làm cho các em học tập không hiệu quả và chán nản. 2. Cơ sở thực tiễn của việc phát triển NLTH cho HS THPT thông qua mô hình LHĐN (Flipped Classroom) 2.1. Mục đích khảo sát - Tìm hiểu về thực trạng dạy học phát triển NLTH cho HS THPT và việc áp dụng mô hình LHĐN trong thực tiễn dạy học trong bộ môn Lịch sử hiện nay. 2.2. Đối tượng khảo sát: - 20 GV bộ môn Lịch sử và 200 HS cấp THPT ở trên địa bàn Nghệ An. 2.3. Thời gian khảo sát: 8
  9. - Học kì I năm học 2021-2022 và 2022 – 2023. 2.4. Phương pháp điều tra: - Gửi phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp GV và HS. 2.5. Kết quả điều tra cụ thể: Sau khi phân tích kết quả khảo sát cụ thể (Xem Phụ lục 1) chúng tôi xin đưa ra một số kết luận như sau: * Về thực trạng dạy học phát triển NLTH cho HS THPT: - NLTH là một trong những năng lực quan trọng mà nền giáo dục hiện đại cần hướng tới. Tuy vậy, trên thực tế mặc dù cả GV và HSs đều xác định được tầm quan trọng của NLTH (60% HS và 70% GV cho rằng NTH rất quan trọng) nhưng việc dạy học phát triển NLTH cho HS xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà kết quả đem lại chưa cao (chỉ 25% GV đánh giá thực tiễn dạy học phát triển NLTH cho HS đạt mức tốt, 15.5% HS đánh giá NLTH của bản thân đạt mức tốt; số còn lại đạt mức khá và trung bình). - Việc khảo sát cho thấy một số HS đã có nỗ lực trong học tập, chịu khó tự tìm kiếm các nguồn tư liệu ngoài SGK để củng cố thêm kiến thức bài học. Tuy nhiên số lượng này không phải số đông; đa số HS vẫn học thụ động, chưa biết cách tự học hiệu quả, chủ yếu là nghe giảng rồi ghi chép, đọc thuộc lòng kiến thức chứ chưa thực sự hiểu bản chất nội dung bài học. - Phương pháp dạy học của GV vẫn nặng về thuyết trình, đơn thuần chỉ truyền thụ kiến thức, chưa phát huy được năng lực của HS, đặc biệt là NLTH cho HS. * Thực trạng dạy học theo mô hình LHĐN ở trường THPT: - Mô hình LH ĐN với sự hỗ trợ của CNTT sẽ mở ra những cơ hội học tập linh hoạt, tích cực, hiện đại cho HS. Phương pháp này sẽ giúp HS có thêm sự hứng thú trong việc tìm hiểu bài, phát triển NLTH, đồng thời cho phép GV có thêm thời gian để củng cố kiến thức, đi sâu hơn vào nội dung bài học. - Tuy nhiên, hiện nay việc tìm hiểu, áp dụng mô hình LHĐN trong dạy học ở trường phổ thông nhằm nâng cao hiệu quả dạy học vẫn còn là điều vô cùng mới mẻ. Kết quả khảo sát 20 GV bộ môn Lịch sử trên địa bàn Hà Tĩnh cho thấy chỉ 20% GV có biết đến và đã áp dụng mô hình LHĐN vào dạy học; số còn lại 80% GV chưa hề biết đến mô hình giáo dục này. Điều đó có thể khẳng định rằng, hiện nay, mô hình chủ yếu GV áp dụng khi đến lớp vẫn là mô hình học tập truyền thống. - Đối với HS, trong xu thế phát triển hiện nay, nhu cầu của HS đã thay đổi. Điều kiện học tập của HS cũng tốt hơn khi hầu hết các em đều có điện thoại thông minh có kết nối mạng Internet. Để khảo sát nhu cầu đổi mới mô hình học tập của học sinh, chúng tôi đã thực hiện khảo sát 200 HS ở trường THPT. Kết quả, có 17.5% đã được học mô hình LH ĐN, số còn lại là 82.5% chưa biết đến mô hình học tập này. Trong số các HS đã được học mô hình này, các em cho rằng bản thân đã rèn 9
  10. luyện được một số năng lực như: NL sử dụng CNTT để tự học ở nhà, NL giao tiếp và hợp tác, NL giải quyết vấn đề, NL tự học. Có gần 70% học sinh có nhu cầu được học theo mô hình LHĐN. Tuy nhiên cũng có 30% HS muốn học theo mô hình lớp học truyền thống, không muốn thay đổi vì các em chưa quen với mô hình học tập này, cũng như không có nhu cầu tìm hiểu sâu môn Lịch sử. * Thực trạng dạy học bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946” trong chương trình Lịch sử lớp 12 Ban cơ bản: - Thứ nhất, chương trình nặng về kiến thức; mỗi phần đề cập đến một vấn đề (tình hình chung chính sách về chính trị kinh tế, xã hội, cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược và chính sách đối ngoại) có nội dung kiến thức lớn, dàn trải. - Thứ hai, đa số GV vẫn áp dụng mô hình lớp học truyền thống khi lên lớp; phương pháp dạy học nặng về thuyết trình, giảng giải; HS tiếp thu kiến thức một cách thụ động. - Thứ ba, do khối lượng kiến thức lớn, thời gian lên lớp giới hạn nên trong 90 phút của 02 tiết dạy, GV chủ yếu dành để cung cấp kiến thức (thậm chí là không đủ thời gian), vì thế việc hình thành các năng lực cho HS vẫn còn nhiều hạn chế. Như vậy, với những phân tích về cơ sở lí luận cũng như thực tiễn cho thấy việc phát triển NLTH cho HS lớp 12 THPT thông qua mô hình LHĐN sẽ làm thay đổi cách thức giảng dạy, cho phép GV tổ chức được các hoạt động dạy học mang tính tương tác và sáng tạo hơn, HS lại được giải phóng về mặt tâm lí khi không còn các bài học căng thẳng, không còn các bài tập về nhà mà thay vào đó là các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, giúp học sinh bồi dưỡng NLTH của mình và nâng cao chất lượng thi tốt nghiệp THPT. Chương 2: Tổ chức dạy học bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” theo mô hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của công cụ trực tuyến Padlet nhằm phát triển năng lực tự học và hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT cho học sinh 1. Cấu trúc, đặc điểm của bài 17 (lịch sử lớp 12) Theo chương trình hiện hành, bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” gồm có 3 phần: - Phần I: Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945 - Phần II: Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính. - Phần III: Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng. 10
  11. Nội dung kiến thức chương này trình bày khái quát giai đoạn lịch sử Việt Nam 1945-1946 trên 4 lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản. Xét về đơn vị kiến thức, ở chương này cung cấp những kiến thức quan trọng, là tiền đề để HS tìm hiểu giai đoạn lịch sử tiếp theo 1946-1954. Đồng thời, với nguồn tư liệu lịch sử phong phú sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho GV sử dụng linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực nhằm tạo hứng thú cho HS và nâng cao chất lượng giờ dạy. Tuy nhiên, với khối lượng kiến thức lớn và có nhiều kiến thức khó thì việc học bài mới tại lớp, do dung lượng thời gian chỉ gói gọn trong 90 phút/2 tiết nên GV chỉ có thể cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản nhất ở mức độ “biết”, “hiểu” mà không thể trao đổi về các kiến thức ở mức độ “phân tích”, “vận dụng”. Vì thế, việc áp dụng mô hình lớp học đảo ngược vào dạy học bài này là một biện pháp lí tưởng để khắc phục được những khó khăn trên. 2. Xây dựng quy trình bài 17 (lịch sử lớp 12) theo mô hình lớp học đảo ngược với sự hỗ trợ của công cụ trực tuyến Padlet nhằm phát triển năng lực tự học và ôn thi tốt nghiệp THPT cho HS Có rất nhiều quan điểm đề xuất cho quy trình tiến hành LHĐN nhưng tựu chung lại, về cơ bản sẽ trải qua ba giai đoạn chính là: Giai đoạn hình thành kiến thức nền trước khi lên lớp; Giai đoạn hoạt động dạy học trên lớp; Giai đoạn sau giờ học trên lớp. 2.1. Giai đoạn hình thành kiến thức nền trước khi lên lớp (Trước giờ học trên lớp) Minh họa các bước hoạt động trước giờ lên lớp (Mã QR) * Bước 1: GV lựa chọn bài dạy, chủ đề phù hợp; Soạn bài giảng điện tử, chuẩn bị tư liệu thiết kế trên Padlet, yêu cầu HS thực hiện nhiệm vụ học tập. - GV lựa chọn bài dạy/ chủ đề phù hợp với mô hình LHĐN (thường là những bài học có lượng kiến thức lớn hay có những kiến thức khó, nếu dạy học theo lối truyền thống sẽ không có thời gian để củng cố, luyện tập kiến thức cơ bản và trao đổi những kiến thức ở mức độ vận dụng). Ví dụ trong bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” mặc dù SGK chỉ trình bày lượng kiến thức rất cơ bản về tình hình nước VNDCCH sau cách mạng tháng Tám năm 1945; bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính; đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng. Tuy nhiên, đây lại là một bài rất trọng tâm của phần lịch sử Việt Nam, đòi hỏi GV phải cung cấp thêm cho HS những kiến thức ngoài SGK như nghệ thuật đấu tranh ngoại giao, bài học kinh nghiệm của xây dựng và bảo vệ chính quyền. 11
  12. - GV xác định mục tiêu bài học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và định hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho HS. Đặc biệt, một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công của mô hình LHĐN này là GV phải xây dựng được một ma trận mục tiêu rất cụ thể (theo thang bậc nhận thức của Bloom) để có thể xác định rõ năng lực mà HS cần đạt được trước, trong và sau khi đến lớp. - GV chuẩn bị đầy đủ các học liệu dạy học: Để hỗ trợ và kiểm tra việc tự học các kiến thức cơ bản của HS trước khi đến lớp, GV cần thiết kế các học liệu bao gồm bài giảng, video, tư liệu tham khảo, phiếu học tập, đề kiểm tra kết quả tự học của HS. + Đối với bài giảng, đây được coi là công cụ quan trọng nhất mà GV cần đầu tư thiết kế để HS tự học ở nhà. Về thời lượng, video bài giảng nên từ 20 phút trở lại để duy trì sự tập trung của HS; Về nội dung nên chọn lọc những kiến thức cốt lõi nhất đảm bảo sau khi xem xong bài giảng, HS có thể giải quyết được ít nhất 70% các nhiệm vụ được nêu ra trong phiếu học tập; Về hình thức, cần phải xây dựng bài giảng đa phương tiện, có sự kết hợp giữa kênh chữ, kênh hình, video, âm thanh nhằm cuốn hút người học; thiết kế các câu hỏi tương tác trực tiếp trên bài giảng để HS tham gia trả lời. Tuy nhiên, để thiết kế bài giảng Elearning chất lượng, đòi hỏi GV phải có trình độ công nghệ thông tin và mất nhiều thời gian để chuẩn bị, vì thế, GV có thể lựa chọn, sử dụng những bài giảng Elearning có sẵn tại địa chỉ tin cậy như https://elearning.moet.edu.vn/ để sử dụng cho HS trong quá trình tự học ở nhà. + Đối với nguồn tư liệu có thể phân thành hai loại: tư liệu bắt buộc và tư liệu tham khảo. Tư liệu bắt buộc là những tư liệu có nội dung cơ bản, phục vụ trực tiếp cho nội dung bài học và HS bắt buộc phải tìm hiểu trước khi đến lớp. Tư liệu tham khảo là những tư liệu có nội dung mở rộng, nâng cao, dành cho những HS có nhu cầu hiểu sâu hơn về nội dung bài học. Lưu ý khi lựa chọn tư liệu, GV nên chọn những tư liệu đặc sắc, hấp dẫn người đọc và sát với nội dung bài học. + Đối với phiếu học tập, việc hoàn thiện phiếu học tập sẽ đánh giá được mức độ hiểu bài của HS trong quá trình tự học, vì thế cần thiết kế phiếu học tập có nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng; có thể đính kèm hình ảnh, lược đồ, sơ đồ cho HS dễ hình dung và thu hút sự chú ý của HS. (GV có thể sử dụng phần mềm https://www.canva.com/ để thiết kế phiếu học tập hấp dẫn) + Đối với bài kiểm tra, GV nên thiết kế các bài kiểm tra trực tuyến (sử dụng công cụ https://azota.vn/; https:// shub.edu.vn/; https://quizizz.com/... sau đó dán link trên Padlet) nhằm kiểm tra nhanh kiến thức mà HS đã học, đặt giới hạn thời gian làm bài và thông báo thời gian hoàn thành. - Sau khi chuẩn bị xong các học liệu, GV sẽ thiết kế bài giảng trên Padlet (hướng dẫn thiết kế bài giảng trên Padlet đã trình bày ở chương I); gửi đường link hoặc mật khẩu để HS truy cập và yêu cầu HS hoàn thành các nhiệm vụ học tập trong thời gian quy định. 12
  13. * Bước 2: HS thực hiện các nhiệm vụ tự học ở nhà Thông thường, HS sẽ có 4 nhiệm vụ chính:  HS nghiên cứu nội dung bài học trong SGK; bài giảng điện tử, tư liệu GV cung cấp trên Padlet;  Hoàn thành các phiếu học tập nộp lên thư mục Phiếu học tập ở Padlet;  Làm bài kiểm tra kiến thức (click vào đường link dán ở thư mục Bài kiểm tra ở Padlet;  Đặt câu hỏi, nêu những thắc mắc trong quá trình học ở thư mục Trao đổi – Thảo luận ở Padlet. * Bước 3: GV kiểm tra kết quả hoàn thành nhiệm vụ ở nhà của HS qua công cụ Padlet và nắm bắt tình hình của HS trước khi đến lớp - Đối với LHĐN, việc tự học trước khi đến lớp là điều bắt buộc. Bài học trên lớp có đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc vào chính khâu tự học qua mạng (công cụ Padlet) của người học. Vì vậy, GV cần thực hiện bước kiểm tra việc hoàn thành nhiệm vụ ở nhà của HS bằng hình thức sau: Vào các thư mục Phiếu học tập, Bài kiểm tra để kiểm tra số lượng HS tham gia và hoàn thành các nhiệm vụ học tập; Thông qua trang Nhóm của lớp để đôn đốc, nhắc nhở những HS chưa hoàn thành việc tự học. - Với những câu hỏi, thắc mắc của HS (ở thư mục Trao đổi – Thảo luận trên Padlet), GV sẽ ghi chép lại, khái quát thành những vấn đề lớn để cùng cả lớp thảo luận trong giờ học hôm sau. 2.2. Giai đoạn hoạt động dạy học trên lớp Hình minh họa các bước dạy học trên lớp theo mô hình LHĐN (Mã QR)BỔ SUNG MÃ * Bước 1: GV tạo tâm thế vào bài học và nhận xét quá trình tự học ở nhà của HS - Cũng giống như giờ học truyền thống, khi tiến hành lớp học đảo ngược, GV cần thiết kế hoạt động khởi động/hoạt động mở đầu nhằm tạo hứng thú, tâm thế cho HS khi bước vào giờ học. - Bên cạnh đó, thông qua việc kiểm soát việc học qua video bài giảng, mức độ hoàn thành phiếu học tập, bài kiểm tra, GV sẽ nhận xét về quá trình tự học ở nhà của HS, tuyên dương những HS hoàn thành tốt, nhắc nhở những HS chưa tích cực để các em có sự chuẩn bị tốt cho những bài học sau. * Bước 2: GV tổ chức các hoạt động nhằm trao đổi, giải đáp các thắc mắc của HS và tìm hiểu các vấn đề khó ở bậc “nhận thức cao” trong thang nhận thức Bloom - Dựa vào kết quả chuẩn bị bài qua phiếu học tập, kết quả bài kiểm tra và hệ thống các câu hỏi thắc mắc của HS chia sẻ trong phần Trao đổi – Thảo luận trên 13
  14. Padlet, GV sẽ cùng với HS trao đổi, giải đáp các thắc mắc. Quá trình này sẽ dừng lại ở phần kiến thức cơ bản và đây không phải trọng tâm của giờ học. - Ngoài ra, tùy và đặc điểm kiến thức từng bài và đối tượng HS, GV sẽ tổ chức các hoạt động thảo luận cho HS để tìm hiểu các vấn đề khó ở bậc “nhận thức cao” trong thang nhận thức Bloom. Đây là khâu trọng tâm của giờ học trên lớp theo mô hình LHĐN. Nội dung thảo luận thường là những vấn đề do GV thiết kế hoặc những nội dung HS thắc mắc (mức độ khó). Những vấn đề này đòi hỏi sự so sánh, tổng hợp hoặc sự tư duy sáng tạo hay gắn với các hành động thực tiễn… Tất cả đều hướng tới sự phát triển tư duy bậc cao trong thang đo Bloom. Về hình thức, GV có thể sử dụng các phương pháp dạy học tích cực như phương pháp thảo luận nhóm (kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật Think – pair – share, kĩ thuật khăn trải bàn…); phương pháp Game – based learning; phương pháp dạy học dự án; phương pháp đóng vai chuyên gia; phương pháp dạy học giải quyết vấn đề; kĩ thuật KWLH… Qua đó, HS được rèn luyện, phát triển kĩ năng giao tiếp, hợp tác, kĩ năng thuyết trình, phản biện, lắng nghe, tiếp thu ý kiến góp ý… Đồng thời, những vấn đề bàn luận sẽ giúp HS đào sâu, mở rộng hơn về mặt kiến thức. Ví dụ ở bài 17, GV có thể cho HS thảo luận để tìm hiểu các vấn đề mang tính chất phân tích, vận dụng như sau: Rút ra đặc điểm, bài học kinh nghiệm của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản; Phân tích nguyên nhân để đưa nước VNDCCH vượt qua tình thế ngàn cân treo sợi tóc; Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay… Hay chia lớp thành 2 nhóm lớp có 2 quan điểm đối lập nhau (đồng ý – phản đối), phản biện nhau về sách lược “hoà để tiến” của Đảng cộng sản Đông Dương. Hoặc ở bài 17, GV có thể cho HS đóng vai chuyên gia chính trị để xây dựng các giải pháp để đưa nước VNDCCH vượt qua tình thế ngàn cân treo sợi tóc … * Bước 3: GV nhận xét, giải đáp, mở rộng, chốt lại kiến thức - Khi quá trình thảo luận kết thúc, GV cần nhận xét, đánh giá kết quả của HS dựa trên các tiêu chí đánh giá cụ thể về thái độ học tập; sản phẩm học tập; về quá trình hoạt động nhóm; về báo cáo sản phẩm…Bên cạnh đó, GV nên cho HS đánh giá đồng đẳng lẫn nhau. Việc HS có thể tham gia đánh giá, tự đánh giá việc học tập của bản thân và các thành viên trong lớp giúp HS tìm ra những khó khăn trong quá trình học tập và được hỗ trợ kịp thời. - Tiếp theo, GV sẽ hệ thống kiến thức cơ bản của bài học thông qua các công cụ như sơ đồ tư duy, bảng biểu, Infographic để đảm bảo rằng kiến thức được tổng hợp khái quát, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ và hấp dẫn. 2.3. Giai đoạn sau giờ học trên lớp - Đối với HS, nếu ở lớp học truyền thống, HS sẽ làm bài tập do GV giao hay bài tập trong SGK và bài học sẽ kết thúc ở đây. Ở LHĐN, sau giờ lên lớp, HS sẽ tiếp tục mở rộng vấn đề và có thể giải quyết vấn đề theo hình thức cá nhân hoặc hình 14
  15. thức làm việc nhóm. Sau giờ lên lớp, qua lớp học ở Padlet với nguồn học liệu phong phú, bên cạnh việc củng cố lại kiến thức đã học bằng cách xem lại video bài giảng, HS có thể làm các bài nghiên cứu nhỏ và nộp sản phẩm trên thư mục Sản phẩm HS sau giờ học ở Padlet để chia sẻ với mọi người, tạo hứng thú học và tự nghiên cứu cho bản thân và các thành viên khác trong lớp. Ví dụ khi dạy bài 17. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9- 1945 đến trước ngày 19-12-1946. GV yêu cầu HS viết bài luận khoảng 1000 từ với chủ đề: Bài học kinh nghiệm được rút ra từ cuộc đấu tranh ngoại giao sau cách mạng tháng Tám 1945. HS nhận chủ đề bài luận, vận dụng kiến thức đã học trong bài, kết hợp tìm hiểu kiến thức thực tiễn để trình bày. GV có thể gợi ý học sinh một số vấn đề cần tập trung để hoàn thành bài luận: bài học kinh nghiệm cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền Tổ Quốc trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hiện nay; bản thân em có thể vận dụng các đối sách ngoại giao của Đảng trong thời kì này vào việc “đối nhân, xử thế” trong cuộc sống như thế nào? HS có trình bày bài luận theo cách của riêng mình nhưng cần đảm bảo các nội dung sau: + Khái quát các chính sách cơ bản trong hoạt động đấu tranh ngoại giao của Đảng ta từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước ngày 19/12/1946. + Rút ra bài học kinh nghiệm cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền Tổ Quốc hiện nay; + Đánh giá vai trò chỉ đạo sáng suốt của Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh; thể hiện niềm tin và sự biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Bác Hồ; + Liên hệ: vận dụng các bài học kinh nghiệm đó vào cách “đối nhân, xử thế” của bản thân trong cuộc sống như thế nào. - Đối với GV, sau giờ lên lớp, GV sẽ tiếp tục điều chỉnh bài dạy sao cho phù hợp với mức độ nhận thức của HS; tiếp tục hỗ trợ, tháo gỡ các thắc mắc của HS về nội dung bài học trên Padlet. 3. Xây dựng quy trình ôn thi tốt nghiệp THPT bài 17 theo mô hình lớp học đảo ngược góp phần nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT 3.1. Lập kế hoạch hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp THPT Trường xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp cho học sinh ôn thi tốt nghiệp THPT. Dành thời lượng tập trung giảng dạy, luyện tập, ôn tập, phụ đạo các nội dung theo chương trình chuẩn liên quan đến nội dung thi. Trường bám sát hướng ra đề của Bộ GDĐT, của Sở GDĐT để từng tổ điều chỉnh cách dạy, cách kiểm tra và nội dung, hình thức kiểm tra. Trong quá trình giảng dạy, hướng dẫn cách học trên lớp, cách tự học ở nhà, cách làm bài trắc nghiệm. Trường cũng cần quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh như: đối tượng học sinh trung bình, yếu phấn đấu vượt điểm liệt, đạt trung bình, trung bình khá; với học sinh khá, giỏi có thể giao thêm bài tập tổng hợp hoặc bài tập nâng cao để vượt khá, đạt giỏi. 15
  16. Tổ chức ôn tập nhiều vòng: + Ôn tập trong quá trình dạy, học, thực hiện chương trình theo hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của Sở GDĐT. + Ôn tập theo từng chủ đề: nội dung trong mỗi chương, mỗi chủ đề có thể bao gồm kiến thức, kỹ năng của các bài, các phần khác nhau. + Ôn tập tổng hợp kiến thức, kỹ năng của Chương trình THPT của khối 11, 12. + Tổ chức cho học sinh làm một số đề thi HSG các cấp, đề thi thử để giúp học sinh nắm vững hình thức thi và kỹ năng làm bài thi. Thực hiện bám sát các đề thi thử của các trường của Sở GDĐT, với các trang Web luyện thi miễn phí trên mạng xã hội. 3.2. Hướng dẫn học sinh cách xây dựng kế hoạch học tập cá nhân Hiện nay, đa số HS thực hiện các nhiệm vụ học tập còn mang tính “ngẫu hứng”, chưa hình dung được toàn bộ quá trình tự học của mình đang và sẽ thực hiện như thế nào. Trong khi đó, với một khối lượng kiến thức lớn, HS phải hoàn thành chỉ trong một thời gian nhất định. Đối với HS lớp 12, ngoài việc giành thời gian ôn tập 6 môn thi tốt nghiệp các em còn có nhiều môn học khác phải hoàn thành. Vì vậy, từ chương trình học tập, GV cần hướng dẫn HS lập kế hoạch học tập khoa học, với các nhiệm vụ học tập vừa sức, phù hợp với nội dung, điều kiện, thời gian của các em. Sau khi HS đã xây dựng kế hoạch học tập, GV cần có sự kiểm tra, sau đó nhận xét, góp ý về kế hoạch học tập của các em. GV cần hướng dẫn HS thực hiện kế hoạch học tập với các yêu cầu sau: Thực hiện kế hoạch học tập một cách khoa học, sử dụng hợp lí quỹ thời gian học tập; Có phương pháp tự học khoa học, có kế hoạch và thời gian biểu tự học phù hợp với điều kiện của bản thân. Do vậy, nếu HS xây dựng được kế hoạch học tập đúng đắn, khoa học sẽ giúp các em có mục tiêu cụ thể để thực hiện. Người học cần có biện pháp để thực hiện kế hoạch đề ra và có thể tự điều chỉnh kế hoạch một cách linh hoạt…nhằm đạt được các mục tiêu học tập. 3.3. Rèn luyện kỹ năng khai thác sách giáo khoa, tài liệu tham khảo trong quá trình tự học Trong quá trình dạy lên lớp GV nên dành thời gian để hướng dẫn cho học sinh đọc sách giáo khoa đặc biệt là những phần chữ in nhỏ của bài, vì kiến thức được thể hiện qua những đoạn này nhiều khi rất quan trọng, nó là nguồn tư liệu cần thiết để làm giàu kiến thức cho học sinh vì thế ta cần chú ý cho học sinh đọc và tìm hiểu để làm nổi bật trọng tâm của bài. Phân phối chương trình và yêu cầu kiến thức trong chương trình lịch sử ở trường THPT chỉ dừng lại ở mức độ nhất định, nên bài giảng trong SGK đều nhằm mục đích cung cấp kiến thức cơ bản về tiến trình lịch sử thế giới và Việt Nam theo diện rộng, chưa đi vào chiều sâu. Các em phải nắm chắc bản chất các sự kiện, hiện 16
  17. tượng lịch sử, các vấn đề lịch sử và về nhà tìm hiểu thêm tài liệu… để có đủ tự tin, có sự sáng tạo khi giải quyết bất kì đề thi nào. Một việc quan trọng để cung cấp kiến thức cho học sinh là chọn và giới thiệu những tài liệu đảm bảo chất lượng cho các em. Thị trường sách hiện nay khá phong phú, hay dở đan xen, nhưng quỹ thời gian của học sinh thì có hạn, nên tôi chọn và mua hoặc phô tô cho học sinh các sách như: ban khoa học xã hội (NXB Đại học quốc gia), Ôn thi THPT quốc gia năm 2018 (NXB Giáo dục), Giải quyết những vấn đề khó trong ôn thi HSG THPT (NXB Đại học quốc gia), Bồi dưỡng HSG môn Lịch sử trung học phổ thông (NXB Giáo dục)... Sử dụng sách giáo khoa - Lập đề cương chi tiết và các sự kiện, diễn biến lịch sử. Lập đề cương trống, ghi tóm tắt: Lập đề cương trống chi tiết, trình bày dưới dạng phân nhánh hay lập dưới dạng dàn bài đều chung một mục đích là sắp xếp những nội dung cơ bản nhất theo một trình tự kiến thức phù hợp, lôgic, dễ nhớ và dễ hiểu, khi cần có thể tóm tắt hoặc trình bày lại. Trong dạy học lịch sử có dạng yêu cầu lập bảng niên biểu sự kiện lịch sử, do đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh lập đề cương chi tiết những diễn biến hay sự kiện lịch sử đã học, từ đó học sinh về nhà tìm hiểu qua sách giáo khoa tự sàng lọc những nội dung chính cần nhớ và tự mình lập một đề cương chi tiết để củng cố khắc sâu kiến thức đã học. - Làm bài tập về nhà Muốn cho học sinh học tốt hoặc để nhận biết sự tiếp thu của học sinh như thế nào? Người giáo viên ra câu hỏi cho học sinh về nhà làm (cả câu hỏi bài tập lẫn thực hành) câu hỏi đó có thể có ở cuối mục, cuối bài trong SGK. Học sinh về nhà phải làm tất cả các bài tập mà giáo viên đưa ra bằng cách dựa trên bài học hoặc đi tìm hiểu thông qua sách báo, mạng Internet … Muốn làm tốt khâu này, giáo viên phải thường xuyên đánh giá, cho điểm khuyến khích tuyên dương những học sinh tích cực, phê bình những học sinh chưa hoàn thành làm bài tập có như thế mới nắm bắt được tinh thần và thái độ học tập của các em. - Gạch từ khóa Trên cơ sở của SGK, GV có thể định hướng cho HS ôn tập những kiến thức cơ bản bằng việc tìm ra những từ khóa, những câu chốt trong SGK để từ đó nắm được những nội dung quan trọng nhất của cả bài. Bên cạnh đó, SGK còn cung cấp những câu hỏi, bài tập giúp học sinh có thể tự củng cố được kiến thức đã học trên lớp. Trả lời câu hỏi, làm bài tập trong SGK là một biểu hiện tích cực trong học tập của HS, nó giúp học sinh khai thác tốt nguồn tri thức, bổ sung và làm rõ những kiến thức còn mờ nhạt, chưa có thời gian đi sâu khai thác trên lớp. Từ xác định vấn đề trọng tâm bài để gạch chân dưới từ khóa trong SGK, chủ đề, sau đó xây dựng câu hỏi trắc nghiệm. 17
  18. - Thiết kế thẻ nhớ nhân vật Lịch sử: Trong quá trình ôn tập kiến thức Lịch sử, bên cạnh việc cần phải ghi nhớ những mốc thời gian, sự kiện Lịch sử, học sinh còn cần phải ghi nhớ những nhân vật Lịch sử tiêu biểu của từng bài. Do vậy, hướng dẫn HS cách ghi nhớ các nhân vật Lịch sử cũng là một nội dung quan trọng trong quá trình hướng dẫn HS tự ôn tập ngoài giờ lên lớp. Thẻ nhớ là một loại công cụ học tập được thiết kế và in rời dưới dạng văn bản nhằm hỗ trợ học sinh trong việc ghi nhớ các nhân vật, sự kiện, khái niệm một cách logic. Sau mỗi bài, mỗi chương, giáo viên hướng dẫn học sinh lựa chọn các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, các khái niệm cơ bản để lập thẻ nhớ, phục vụ cho quá trình ôn tập của học sinh. Hướng dẫn HS khai thác tài liệu Nội dung chương trình lịch sử quá rộng nên việc hướng dẫn HS tìm hiểu trước bài trong SGK là rất quan trọng. Sách giáo khoa lịch sử THPT được biên soạn – trình bày theo bài, theo tiến trình thời gian. Tôi đã hướng dẫn HS nắm được mục đích, yêu cầu, những sự kiện quan trọng và trọng tâm kiến thức của từng bài học lịch lớp 12. Trên cơ sở đó các em về nhà tìm hiểu kỹ SGK và trả lời những câu hỏi trong SGK yêu cầu. Với cách làm trên khi ôn luyện cho học sinh tôi chỉ tập trung phân tích chuyên sâu những nội dung lịch sử. Để tìm hiểu tài liệu đạt hiệu quả học sinh cần phải: 1. Nắm đề: Đề ở đây là tên đề bài, tên tiểu mục. Nhiều học sinh học thuộc nội dung nhưng lại không nhớ tên tiểu mục, khi làm bài có thể “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, nghĩa là lạc đề. Vậy trước khi học tiểu mục nào, nên nắm chắc tên tiểu mục ấy. Chuyển tiểu mục ấy thành câu hỏi. Ví dụ như “Ba tổ chức Đảng cộng sản nối tiếp nhau ra đời năm 1929”. Tự đặt ra câu hỏi như: “Ba tổ chức cộng sản ấy tên là gì? Tại sao ra đời? Bao giờ? Ở đâu? Có ý nghĩa gì?” Như vậy kích thích hứng thú học tập, hiểu sâu, nhớ lâu. Đó là chủ động trong học tập. 2. Nắm khung: Khung là dàn ý của cả bài hoặc của từng phần. Trước khi học cả bài hay từng phần nên nắm chắc cái dàn ý của nó. Dàn ý thường theo giai đoạn hoặc theo sự kiện, bao gồm: nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa. Nắm khung giúp nhớ có hệ thống và nhớ lâu, dễ trả lời những câu hỏi tổng hợp. 3. Nắm chốt: Lịch sử bao giờ cũng gắn liền sự kiện – địa danh – nhân vật lịch sử. Nên “chốt” là thời điểm gắn với một sự kiện quan trọng hoặc tương đối quan trọng. Ở lịch sử lớp 12 yêu cầu học sinh phải nhớ cả ngày, tháng, năm. Nếu chỉ là tương đối quan trọng, có thể chỉ cần nhớ tháng và năm, thậm chí chỉ nhớ năm, cũng tạm được. Nên tìm các mối quan hệ giữa các chốt về thời gian và sự kiện thì dễ nhớ và nhớ lâu. 18
  19. 4. Thuật ngữ: Cần phải nhớ đúng những thuật ngữ lịch sử, không được nhầm lẫn giữa một số thuật ngữ “tư sản”, “vô sản”, “tổ chức cách mạng”, “tổ chức cộng sản”…vì mỗi chữ có một nghĩa khác nhau. - Ghi nhớ lịch sử bằng câu hỏi ngắn, đáp nhanh lịch sử Mục đích là rèn phản xạ và luyện trí nhớ lịch sử, chống nhiễu loạn sự kiện. Đồng thời là cách ôn tập ngắn nhất, rộng nhất cho đoạn cuối ôn thi, thực sự có ý nghĩa khi đã hoàn thành xong các khâu học tập. Cụ thể phương pháp: + Giáo viên đặt câu hỏi và học sinh điền đáp án. Nêu câu dẫn là 1 câu đơn và điền đáp án vào chỗ chấm (....) sau chữ là GV: “Tình thế nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau ngày 2/9/1945 là ... HS: ngàn cân treo sợi tóc + Hoặc tổ chức cho học sinh thi đấu 1 nhóm đặt câu hỏi còn một nhóm trả lời. Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh xây dựng bộ câu hỏi ngắn và đáp án từng nội dung cụ thể để xây dựng thành ngân hàng ôn tập chung. + Hướng dẫn cách xây dựng dựa vào kiến thức cơ bản tiêu biểu sách giáo khoa và tìm kiếm câu hỏi trên các kênh đề luyện thi. - Ví dụ minh họa phương pháp Câu Nội dung 1 Thuận lợi lớn nhất nước VNDCCH sau ngày 2/9/1945 là chính quyền thuộc về nhân dân 2 Khó khăn lớn nhất nước VNDCCH sau ngày 2/9/1945 là ngoại xâm và nội phản 3 Để khắc phục tình trạng khó khăn về tài chính sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân. 4 Biện pháp về giáo dục nhằm xây dựng chế độ mới ở Việt Nam những năm 1945-1946 là thành lập Nha bình dân học vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ nhằm chăm lo công cuộc chống nạn mù chữ 5 Sự kiện mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai của Pháp là đánh úp trụ sở uỷ ban nhân dân Nam Bộ 6 Chủ trương của ta trong việc đối phó với Trung Hoa Dân quốc trước ngày 06/3/1946 là hoà hoãn để tập trung lực lượng đánh Pháp 19
  20. 7 Tình thế nước VNDCCH từ sau ngày 2/9/1945 là “ngàn cân treo sợi tóc” 3.4. Rèn luyện kỹ năng khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức Từ những kiến thức, sự kiện, giai đoạn lịch sử cụ thể từng phần, từng chương, hãy học các bài Tổng kết phần, chương để rèn luyện kỹ năng khái quát hóa kiến thức và xâu chuỗi vấn đề. Tất cả những kiến thức, những vấn đề và sự kiện lịch sử cốt lõi nhất, nổi bật nhất đều hiện hữu trong các bài Tổng kết và đa phần GV, HS không để ý. HS phải hiểu biết kiến thức lịch sử thật chính xác, hệ thống logic, chặt chẽ theo trình tự biên niên. Việc đánh giá các sự vật, hiện tượng phải khách quan, chính xác, khoa học; không hiểu một cách chung chung, phân tích phiến diện, chắp nối các sự kiện rời rạc rất khó làm bài chỉ trong thời gian ngắn. 3.5. Hướng dẫn HS biết tự ôn tập, củng cố kiến thức và tự kiểm tra, đánh giá * Biết tự ôn tập và củng cố kiến thức - Trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức điều đầu tiên là HS phải nhớ kiến thức LS. Trí nhớ có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người cũng như trong học tập. Trong học tập LS, việc nhớ kiến thức lại càng quan trọng. Nếu HS không nhớ sự kiện hiện tượng LS thì khó có các hoạt động phân tích, so sánh, đánh giá để hiểu bản chất của chúng. - Ôn tập là một khái niệm rộng chỉ công việc phải tiến hành thường xuyên trong quá trình học tập nhằm ghi nhớ, vận dụng các kiến thức đã học làm cơ sở cho việc tiếp nhận kiến thức mới và rèn luyện các KN của HS. Do vậy, ôn tập và ôn luyện đều nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức, KN cho HS. * Biết tự kiểm tra, đánh giá trong học tập LS Tự kiểm tra, đánh giá là một bộ phận không thể tách rời của kiểm tra, đánh giá. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu rằng: tự kiểm tra, đánh giá trong học tập LS là quá trình người học tự thu thập, xử lí những thông tin về việc lĩnh hội kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức, hình thành KN, kĩ xảo của mình so với yêu cầu đặt ra. Vấn đề tự kiểm tra, đánh giá của HS trong THLS thực chất là một trong các hoạt động tự học. Chính vì vậy việc tự kiểm tra, đánh giá trong dạy học LS có ý nghĩa to lớn đối với HS về mặt bồi dưỡng kiến thức, phát triển KN và hình thành thái độ. Sau khi học xong chuyên đề GV giao bài tập về nhà bằng một bài trắc nghiệm tổng hợp kiểm tra nhận thức của HS. Như vậy, hướng dẫn HS biết tự kiểm tra, đánh giá trong học tập LS để phát huy tính tích cực, độc lập của người học là một hoạt động rất cần thiết trong tự học, góp phần thiết thực vào việc đổi mới PPDH LS ở trường THPT nhằm nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2