intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ-phản đối vào dạy học phần nói và nghe (Ngữ văn 10, sách kết nối tri thức với cuộc sống) nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:19

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến "Sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ-phản đối vào dạy học phần nói và nghe (Ngữ văn 10, sách kết nối tri thức với cuộc sống) nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh" được hoàn thành với mục tiêu nhằm giúp HS tự mình kiến tạo tri thức; xây dựng được chính kiến của bản thân; trình bày quan điểm bằng ngôn ngữ nói một cách mạch lạc, thuyết phục, có thái độ tôn trọng người nói, người nghe; có thái độ văn minh trong trao đổi, thảo luận; Góp phần nâng cao hiệu quả giờ học Nói và Nghe nói riêng và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ-phản đối vào dạy học phần nói và nghe (Ngữ văn 10, sách kết nối tri thức với cuộc sống) nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh

  1. BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ THÁNG 11 NĂM HỌC 2024 - 2025 Giáo viên báo cáo: Nguyễn Thị Duyên Tổ: Ngữ văn ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG KĨ THUẬT TRANH LUẬN ỦNG HỘ - PHẢN ĐỐI VÀO DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE (NGỮ VĂN 10, SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG) NHẰM PHÁT TRIỂN TƯ DUY PHẢN BIỆN CHO HỌC SINH A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Tầm quan trọng của tư duy phản biện Xu thế tất yếu của giáo dục là đào tạo những con người có khả năng nhạy bén, linh hoạt ứng biến và thuyết phục người khác bằng khả năng tư duy và lập luận của mình. Trong Chương trình GDPT môn Ngữ Văn 2018 được ban hành kèm theo kèm theo thông tư số 32/2018/TT- BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chi tiết hóa về yêu cầu cần đạt của năng lực ngôn ngữ đối với cấp THPT: “Biết tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hoá tranh luận phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, có sức thuyết phục. Nói và nghe linh hoạt; nắm được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận”. Tư duy phản biện (Critical Thinking) là “một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề”. Như vậy, tư duy phản biện hiểu một cách đơn giản nhất là khả năng suy nghĩ và tư duy đa chiều, phản biện lại vấn đề, xem xét mọi khía cạnh để tìm ra chân lí chứ không dễ dàng chấp nhận mọi ý kiến ngay từ ban đầu. Tư duy phản biện giúp con người vượt ra khỏi các lối mòn trong tư duy, những suy nghĩ theo khuôn mẫu, hướng đến cái mới, thoát khỏi những rào cản của định kiến, đưa ra nhiều phương án khác nhau và lựa chọn phương án tối ưu với những lập luận có cơ sở vững chắc đối với một vấn đề nào đó. Như vậy, việc phát triển tư duy phản biện sẽ kích thích tính chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo hứng thú mới cho họ trong quá trình tìm kiếm, chiếm lĩnh tri thức. Đứng trước một vấn đề, nhất là các vấn đề văn học và xã hội, sẽ nảy sinh nhiều quan điểm, nhiều góc nhìn khác nhau. Những quan điểm đó phản ánh nhân sinh quan, trí tuệ, nhân cách của người nói. Làm thế nào để có thể tranh luận, trao đổi một cách văn minh, lịch sự mà vẫn thể hiện được góc nhìn riêng, quan điểm riêng 1
  2. của mình không phải là điều dễ dàng đối với học sinh. Đối thoại, tranh luận ủng hộ - phản đối là cách giải quyết các mâu thuẫn trên dựa trên sức mạnh của trí tuệ - ngôn từ. Và một trong những hoạt động có nhiều cơ hội để rèn luyện, phát triển tư duy phản biện cho học sinh một cách hiệu quả nhất chính là Nghe và Nói trong môn Ngữ văn. 2. Thực trạng của dạy học Nói và nghe Nói và Nghe là hai kĩ năng sử dụng ngôn ngữ quan trọng cần rèn cho học sinh. Tuy nhiên hai kĩ năng này chưa được chú trọng nhiều trong dạy học Ngữ văn ở các chương trình GDPT trước đây. Chương trình Ngữ văn 2018 ra đời đã trả lại vị trí xứng đáng cho hai kĩ năng Nói và Nghe khi lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói, nghe) làm trục chính xuyên suốt để tổ chức nội dung dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực và phẩm chất của người học. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Đó vừa là cơ hội rèn và phát triển tư duy phản biện, nhưng cũng đặt ra những yêu cầu và thử thách mới cho cả GV và HS trong quá trình dạy và học. Thực tế cho thấy, trong quá trình giảng dạy, một bộ phận không nhỏ giáo viên còn lúng túng trong khâu tổ chức tranh biện cho HS, chủ yếu cung cấp kiến thức, chưa tạo cơ hội để học sinh bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình. Mặt khác, ở các tiết học đó, một số giáo viên lựa chọn các chủ đề quá cũ, không phù hợp với nhịp sống đang diễn ra sôi động hiện nay nên thực sự không thu hút được sự quan tâm từ phía học sinh; đồng thời, khi học sinh phát biểu hoặc trình bày vấn đề thì còn mang tính chất một chiều; thiếu sự tranh biện…Chính vì vậy, các giờ học này khá khô khan, nhàm chán; chưa phát huy được sự tích cực, chủ động từ phía người học. Hơn nữa kỹ năng về “nghe” và “nói” của HS còn nhiều khiếm khuyết. HS yếu về kỹ năng nói, thuyết trình và tranh luận. Đặc biệt là học sinh vùng nông thôn các em có rất nhiều hạn chế về năng lực ngôn ngữ và giao tiếp. Nhiều em trong lớp học ở trường thì thụ động, rụt rè; ra ngoài xã hội thì khép nép thu mình vì sợ nói, sợ sai. Khả năng phản biện ở học sinh THPT còn tồn tại dưới dạng tiềm năng, chưa được khai thác. Rõ ràng là việc dạy học văn hiện nay còn “nợ” nhiều câu hỏi: Làm sao để phát huy toàn diện 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho HS? Làm sao để kéo việc học văn về với ứng dụng thực tế? Làm thế nào để học sinh phát triển được năng lực tranh luận và tư duy phản biện? Trước thực trạng đó, tôi đã trăn trở, tìm tòi, thể nghiệm những phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại để thực hành kĩ năng Nói và Nghe về các vấn đề trong văn học và cuộc sống. Tôi nhận thấy Kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối vừa phù hợp đặc điểm bài học vừa đem lại hiệu quả cao. Vậy nên, tôi mạnh dạn chọn biện pháp “Sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối vào dạy học phần Nói và Nghe (Ngữ văn 10, Sách Kết nói tri thức với cuộc sống) nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh”. 3. Yêu cầu giải quyết - Trình bày được nội dung của biện pháp; quy trình, cách thức tổ chức kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối vào dạy học một số chủ đề Nói và Nghe. 2
  3. - Tổ chức được các hoạt động thảo luận sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối nhằm phát triển KN nói - nghe một cách hiệu quả, góp phần đổi mới PPDH theo hướng PTNL, PC của HS, phát triển tư duy phản biện cho HS. II. MỤC TIÊU - Đổi mới phương pháp và hình thức dạy học để kích thích tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh nhằm phát triển các phẩm chất, năng lực cơ bản được định hướng theo chương trình giáo dục phổ thông mới hướng đến phát triển tư duy phản biện cho học sinh. - Giúp HS tự mình kiến tạo tri thức; xây dựng được chính kiến của bản thân; trình bày quan điểm bằng ngôn ngữ nói một cách mạch lạc, thuyết phục, có thái độ tôn trọng người nói, người nghe; có thái độ văn minh trong trao đổi, thảo luận…. - Góp phần nâng cao hiệu quả giờ học Nói và Nghe nói riêng và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn nói chung. III. TRIỂN KHAI THỰC HIỆN - Đối tượng: Đối tượng học sinh mà chúng tôi triển khai biện pháp là học sinh lớp 10A4, 10A5, 10A6, 10A13 trường THPT Hồng Lĩnh - Phạm vi: Sử dụng kĩ thuật dạy học tranh luận ủng hộ - phản đối phù hợp nhất ở các bài học có chứa các chủ đề xung đột. Vì thế, tôi áp dụng biện pháp trên vào dạy các nội dung Nói và Nghe sau: + Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bài 3, Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận) + Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bài 6, Nguyễn Trãi – dành cho để trợ dân cày) + Thảo luận một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau (Bài 7, Quyền năng người kể chuyện) - Thời gian thực hiện: Năm học 2023 – 2024 B. PHẦN NỘI DUNG I. KĨ THUẬT TRANH LUẬN ỦNG HỘ - PHẢN ĐỐI VÀ CÁCH THỰC HIỆN 1. Kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối Kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối là tiến hành tranh luận bằng cách GV đưa ra một vấn đề tranh luận, gợi mở cho học sinh suy nghĩ, đánh giá về một vấn đề nhất định theo những hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Sau đó dựa trên những tìm hiểu của các em, GV tổ chức cho các em trao đổi, bàn bạc, phản biện về vấn đề đó. HS sẽ đưa ra và bảo vệ quan điểm của mình, phản biện lẫn nhau, đồng thời thuyết phục đối phương theo ý kiến đó bằng những lập luận, lí lẽ, bằng chứng xác thực nhằm làm rõ những khía cạnh khác nhau của vấn đề và làm giàu sự hiểu biết của cá nhân. 2. Cách thực hiện 3
  4. - Bước 1: Các thành viên được chia làm 2 nhóm theo 2 hướng ý kiến đối lập về một luận điểm cần tranh luận. - Bước 2: Thành viên 2 nhóm thu thập thông tin, tài liệu, hình thành các lập luận phản đối hoặc ủng hộ. - Bước 3: Thảo luận thông qua đại diện, mỗi nhóm trình bày lập luận của mình. Nhóm ủng hộ đưa ra luận điểm ủng hộ, tiếp đến nhóm phản đối đưa ra ý kiến phản đối và tiếp tục cho đến hết thời gian - Bước 4: Đánh giá, kết luận II. BIỆN PHÁP SỬ DỤNG KĨ THUẬT TRANH BIỆN ỦNG HỘ - PHẢN ĐỐI VÀO DẠY HỌC PHẦN NÓI NGHE 1. Hướng dẫn HS một số yêu cầu sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối Kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối là một kĩ thuật dạy học mới nên còn xa lạ với học sinh. Chính vì thế Gv đã có những hướng dẫn để học sinh nắm bắt được các yêu cầu khi sử dụng kĩ thuật trong hoạt động Nói và Nghe. Các yêu cầu này được GV soạn thảo thành các học liệu (video, file tài liệu, phiếu học tập, phiếu đánh giá...) sẽ được chuyển đến các em qua các nhóm lớp để các em nghiên cứu ở nhà trước khi tiến hành bài học nhằm trang bị cho hS kiến thức nền, hình thành và phát triển cho HS kĩ năng tự học. (Phụ lục 1) 1.1. Lựa chọn vấn đề tranh luận. Vấn đề tranh luận phải có tính xung đột, gắn với nội dung học tập trong chương trình. Vấn đề phải vừa sức, phù hợp với điểm mạnh và hứng thú của cá nhân và nhóm. Không lựa chọn những vấn đề quá sức, vượt quá khả năng của các em tránh khó khăn, gây ức chế, ảnh hưởng đến tâm lý của các em. 1.2. Mục đích của kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối Mục đích tranh luận là để xem xét chủ đề dưới nhiều góc độ khác nhau. Xác định mục đích tranh luận có ý nghĩa quan trọng, bởi có xác định được mục đích thì mới xây dựng được nội dung tranh luận chất lượng, đúng trọng tâm, tránh sa đà, lạc hướng gây mất thời gian mà không đạt yêu cầu; biết đưa ra các lí lẽ sắc sảo, cách lập luận chặt chẽ, minh chứng thuyết phục để phản bác lại quan điểm của người khác đồng thời bảo vệ quan điểm của mình. 1.3. Hình thức tranh luận ủng hộ - phản đối Có nhiều hình thức để tiến hành tranh luận. Tùy đề tài tranh luận và điểm mạnh của các em mà có thể lựa chọn một trong các hình thức sau: Tổ chức tranh biện theo nhóm (thảo luận giữa các thành viên trong nhóm để thống nhất ý kiến chung và tranh luận giữa các nhóm với nhau) hay Tổ chức tranh biện giữa HS với HS: Mỗi HS sẽ có sự chuẩn bị, trình bày cá nhân, các HS khác sẽ phản biện, góp ý câu trả lời hay bài thuyết trình của các bạn trong lớp. 1.4. Cách tìm kiếm, khai thác các tài liệu tham khảo 4
  5. Các em tìm kiếm trên mạng các bài viết, nghiên cứu liên quan đến chủ đề. Có thể tìm xem trên các diễn đàn, chương trình truyền hình thực tế như Trường Teen hay Thiếu niên nói, ai thông minh hơn, Startup... để học cách trình bày và phản biện. 1.5. Kĩ năng nói, nghe và phản biện (phụ lục 1) 1.6. Quy trình tổ chức hoạt động tranh biện ủng hộ - phản đối Bước 1: Tiếp nhận vấn đề tranh biện: Mỗi bài học có nhiều vấn đề để tranh biện, các nhóm hoặc cá nhân lựa chọn một trong các vấn đề GV gợi ý để đăng kí đồng thời lựa chọn vào nhóm ủng hộ hay phản đối Bước 2: Chuẩn bị nghiên cứu về vấn đề tranh biện. Nhóm trưởng lên kế hoạch, phân công nhiệm vụ, các thành viên chuẩn bị nghiên cứu về vấn đề tranh biện: Bước 3: Tiến hành tranh biện. Quá trình tranh biện sẽ có hai phần: Phần 1: Trình bày + Mỗi nhóm sẽ trình bày về vấn đề mình bảo vệ + Nhóm ủng hộ sẽ trình bày trước + Thời gian cho phần trình bày tối đa là 5 phút Phần 2: Tranh luận + Mỗi nhóm sẽ căn cứ vào phần trình bày của đối phương để phản biện + Thời gian cho mỗi lượt phản biện tối đa là 2 phút + Các thành viên trong mỗi nhóm cần thay phiên nhau, tránh trường hợp chỉ một người tranh biện từ đầu đến cuối Bước 4: Nhận xét đánh giá Các nhóm sẽ đánh giá lẫn nhau dựa trên bảng tiêu chí GV đưa ra. GV đưa ra nhận xét, đánh giá cho mỗi nhóm và chốt lại kiến thức cốt lõi của bài học. Tiêu chí đánh giá sẽ là: + Chất lượng các luận điểm tranh luận. + Kỹ năng trình bày của mỗi nhóm. + Thái độ làm việc và tranh biện của mỗi nhóm. 2. Sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối trong phương pháp dạy học nhóm phần Nói và Nghe “Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bài 3, Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận) 5
  6. *Mục tiêu: - Đạt được các yêu cầu cần đạt: HS xác định rõ vấn đề Nghị luận, bao quát được diễn biến của cuộc thảo luận, thể hiện được thái độ tán thành hay phản đối, nêu được quan điểm, nhận định của của bản thân, tôn trọng người đối thoại. - Mục tiêu của làm việc nhóm chính là cùng nhau cố gắng, hỗ trợ và bù đắp khuyết điểm, phát huy ưu điểm để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngoài ra hoạt động nhóm còn giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác trở nên cởi mở, hòa đồng, thân thiện hơn…Từ đó phát triển năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, kĩ năng thuyết trình và tranh biện cho học sinh. * Nội dung: Giáo viên tổ chức cho các nhóm tranh biện về chủ đề “Sau khi tốt nghiệp THPT nên học đại học hay đi xuất khẩu lao động” * Cách tiến hành: - Gv đưa ra tình huống có vấn đề: Video ngắn do HS quay theo gợi ý của Gv, phỏng vấn nhanh về dự định chọn nghề nghiệp cho bản thân sau khi tốt nghiệp. - Gv dẫn dắt tình huống: Sau khi xem xong video các em sẽ nhận thấy định hướng lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai của các anh chị 12 rất đa dạng. Nhưng có thể dễ dàng nhận ra hai xu hướng chính: Lựa chọn học lên đại học và đi xuất khẩu lao động. Đây cũng không chỉ là một thực trạng đang diễn ra ở trường ta mà là một thực trạng xã hội diễn ra rất phổ biến trên cả nước hiện nay. Vậy Tốt nghiệp THPT nên học đại học hay xuất khẩu lao động? - Thảo luận nhóm + Thành lập nhóm: GV thành lập 2 đội. Đội 1 chọn nên học đại học, đội 2 chọn nên xuất khẩu lao động. GV cho các em lựa chọn, đăng kí đội theo nguyện vọng. Các đội này được tạo nên bởi những em có cùng quan điểm. Mỗi đội sẽ được chia thành 3 nhóm nhỏ để dễ tổ chức thảo luận. + Gv tổ chức các nhóm tiến hành thảo luận (5 phút) . Hai nhóm nhỏ đại diện cho 2 đội dự kiến trình bày sẽ sử dụng sơ đồ tư duy, 4 nhóm còn lại sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn. Kĩ thuật khăn trải bàn: mỗi nhóm 6 bạn. Trên giấy Ao chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các phần xung quanh. Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm. Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh. Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ và đưa ra lí lẽ, lập luận, dẫn chứng theo quan điểm riêng của mình viết vào phần giấy của mình trên tờ giấy Ao. Trên cơ sở những ý kiến của mỗi cá nhân, HS thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy Ao (tờ giấy Ao được coi như “khăn phủ bàn”. - Tổ chức tranh biện theo bảng phân công lượt nói của mỗi đội, mỗi thành viên. (Phụ lục 2) 6
  7. + A là nên học đại học : A1, A2, A3 lần lượt là người nói thứ nhất, nhì, ba; + B là nên đi xuất khẩu ; B1, B2, B3 lần lượt là người nói thứ nhất nhì, ba; + Lượt nói được trình bày ở bảng dưới theo thứ từ người nói thứ nhất (A1) đến người nói cuối cùng (B3). - Đánh giá, kết luận: + Đánh giá các nhóm dựa trên sản phẩm thảo luận, sản phẩm nói – nghe theo bảng tiêu chí cụ thể + Kết luận: Đại học không phải là con đường duy nhất dẫn bạn đến thành công nhưng là con đường ngắn nhất và vững chắc nhất. Tốt nghiệp THPT học đại học hay xuất khẩu lao động? Không có lựa chọn nào là đúng hay sai chỉ có phù hợp hay không phù hợp. Các em hãy lắng nghe ước mơ, khao khát mục tiêu của mình; phân tích rõ hoàn cảnh gia đình, xu hướng xã hội; năng lực bản thân, mục tiêu của mình...để có sự lựa chọn phù hợp nhất. * Kết quả đạt được: - Học sinh tạo được sơ đồ tư duy, hoàn thành các phiếu học tập theo kĩ thuật khăn trải bàn (Phụ lục 3) - Học sinh biết thuyết trình và phản biện. Tiết học diễn ra sôi nổi, hứng thú, nhiều câu phản biện rất chất lượng, nhiều câu trả lời rất thuyết phục và sáng tạo - Học sinh được phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực quan sát, tìm hiểu xã hội; năng lực ngôn ngữ (tranh luận và phản biện) … - Tiết học đã đưa văn học về với đời sống. HS có thêm những góc nhìn khác nhau về các nghề nghiệp để có sự định hướng, lựa chọn đúng đắn trong tương lai. 3. Sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối vào phương pháp tổ chức trò chơi phần Nói và Nghe “Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bài 6, Nguyễn Trãi – dành cho để trợ dân cày) * Mục tiêu: - Đạt được yêu cầu bài học: HS xác định được vấn đề thảo luận, nếu được nhận xét đánh giá về ý kiến của người khác, trình bày được ý kiến của bản thân về vấn đề, tôn trọng người đối thoại. - Việc sử dụng trò chơi trong dạy học nhằm mục đích đem lại không khí vui tươi, sôi nổi, kích thích hứng thú học tập của học sinh. “Học mà chơi, chơi mà học” là cách hay nhất giúp các em khắc sâu kiến thức, hình thành kĩ năng, phát triển các năng lực một cách tự nhiên nhất. * Nội dung: Gv tổ chức cho học sinh tranh luận về chủ đề: Tình yêu tuổi học trò, nên hay không nên. * Cách tiến hành (Phụ lục 4) 7
  8. - Mở đầu tiết học GV sẽ chiếu 1 đoạn video thị phạm (video lấy từ chương trình “Trường Teen” để kích hoạt không khí tranh biện và để học sinh xem mẫu. - Tổ chức trò chơi tranh luận với chủ đề “Tình yêu tuổi học trò, nên hay không nên”? theo mô hình Karl Popper Mô hình Karl Popper là mô hình tranh biện hay được sử dụng tại các cuộc thi đấu tranh biện quốc tế. Mô hình này đang được sử dụng rộng rãi ở một số sân chơi như Trường teen, English chanlean. Mỗi đội chơi có 3 nhiệm vụ chính ; đó là đưa ra và bảo vệ luận điểm ủng hộ phe mình, phản biện đối phương, và đặt câu hỏi. Nhiệm vụ của giám khảo là đánh giá đội nào đã làm tốt hơn ba nhiệm vụ chính nêu trên. - Thành lập các đội chơi, phân công nhiệm vụ + Đội ủng hộ gồm 3 bạn + Đội phản đối gồm 3 bạn + Hội động giám khảo gồm 3 bạn + Các bạn còn lại làm khán giả + 1 bạn làm thư kí thu và tổng hợp phiếu chấm tranh biện của giám khảo. + 1 bạn làm MC - Trước khi bắt đầu chơi + MC dẫn chương trình GV đưa ra chủ đề tranh luận và phổ biến luật chơi. Chủ đề tranh luận là: “Tình yêu tuổi học trò, nên hay không nên”? + Thời gian chuẩn bị cho mỗi đội là 5 phút + Cuộc tranh biện gồm 2 phần chính đan xen nhau: Phần nói của thành viên mỗi đội và phần hỏi đáp giữa đại diện của mỗi đội + Mỗi giám khảo đều nhận được phiếu chấm điểm và chấm điểm độc lập. Giám khảo có 5 phút để nhận xét vòng tranh biện vừa rồi và giải thích về lựa chọn của mình cho các đội. Giám khảo bắt buộc phải lựa chọn đội chiến thắng, không có phương án hòa và quyết định này dựa trên đánh giá độc lập của mỗi giám khảo xét đến yếu tố - Bắt đầu chơi + Đội 1 trình bày quan điểm ủng hộ tình yêu tuổi học trò (3 phút) + Đội 2 trình bày quan điểm phản đối tình yêu tuổi học trò (3 phút) + Đội 2 đưa ra câu hỏi phản biện đội 1. Đội 1 trả lời câu hỏi để bảo vệ quan điểm của đội mình + Đội 1 đưa ra câu hỏi phản biện đội 2. Đội 2 trả lời câu hỏi để bảo vệ quan điểm của đội mình - Kết thúc cuộc chơi: GK nhận xét vòng tranh biện vừa rồi dựa trên các tiêu chí + Chất lượng của luận điểm cả hai đội đã đưa ra 8
  9. + Đánh giá mỗi luận điểm theo đúng hình thức các đội đã trình bày nó + Không áp dụng bất kỳ kì vọng hay quan điệm cá nhận nào của giám khảo khi ra quyết định; + Không áp dụng hiểu biết, chuyên môn về chủ đề được nói đến; + Xác định các vấn đề/xung đột chính trong cuộc tranh biện, chỉ ra đội nào giải quyết tốt hơn và tại sao. - GV nhận xét đánh giá và kết luận: Tình yêu tuổi học trò rất đỗi đáng yêu. Nó có thể mang lại những cảm xúc, niềm hạnh phúc ngọt ngào nhưng nó cũng là con dao hai lưỡi có thể gây nên những hậu quả khôn lường. Các em phải chuẩn bị tinh thần thật tỉnh tảo bản lĩnh để có một tình yêu trong sáng, đúng mực, dung hòa được giữa việc học và yêu. * Kết quả đạt được - Trò chơi diễn ra vô cùng hấp dẫn. Sự cạnh tranh điểm số giữa các đội chơi làm cho trò chơi trở nên kịch tính thu hút lôi cuốn. Phần tranh luận đã mang đến cho các bạn học sinh trong lớp những hiểu biết về tình yêu, những mặt tích cực và hạn chế khi yêu ở tuổi học trò… Từ đó, mỗi bạn sẽ tự rút ra cho mình những bài học bổ ích và lựa chọn cho mình một cách ứng xử thông minh nếu như đến với tình yêu tuổi học trò để không mắc sai lầm và gây ra những hậu quả đáng tiếc. 4. Sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối vào phương pháp dạy học Nêu và giải quyết vấn đề, phần Nói và Nghe “Thảo luận một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau” (Bài 7, Quyền năng người kể chuyện) * Mục tiêu: - Đạt được yêu cầu bài học: HS nêu được vấn đề văn học có những ý kiến khác nhau; phân tích được ưu điểm và nhược điểm của những ý kiến khác nhau, trình bày được quan điểm bản, tạo sự đồng thuận tích cực giữa bản thân và người khác. - Khơi dậy sự hứng thú, lôi kéo sự chú ý và kích thích nhu cầu giải quyết vấn đề. Phát triển các năng lực hợp tác, giao tiếp và năng lực ngôn ngữ cho học sinh * Nội dung: Tranh luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau “Truyện ngắn không có cốt truyện li kì hấp dẫn không thể là một truyện ngắn hay”. Em có đồng tình với ý kiến đó không? Em nghĩ sao về những truyện không có cốt truyện? Liệu răng một chuyện “không có cốt truyện” có còn hay và hấp dẫn người đọc? 9
  10. * Cách tiến hành: (Phụ lục 5) Sơ đồ tiến trình tổ chức hoạt động dạy học qua tình huống có vấn đề của GV Sơ đồ tiến trình học qua tình huống có vấn đề của HS - Trước buổi tranh luận GV nêu vấn đề cần thảo luận cho học sinh - Học sinh suy nghĩ và giải quyết vấn đề theo quan điểm cá nhân ở nhà và chuẩn bị báo cáo bằng file Power Point - 2 bạn đại diện cho 2 quan điểm khác nhau lên thuyết trình. Bạn thứ 1 đồng tình với ý kiến “Truyện ngắn không có cốt truyện li kì hấp dẫn không thể là một truyện ngắn hay”. Bạn thứ 2 có quan điểm ngược lại “Truyện ngắn không có cốt truyện li kì hấp dẫn vẫn có thể là một truyện ngắn hay”. (Phụ lục 4) - GV tổ chức học sinh tranh luận chia phe theo quan điểm của 2 bạn thuyết trình. - GV đánh giá cho điểm các bạn tham gia thuyết trình và phản biện. Thống nhất cách giải quyết vấn đề.vậy * Kết quả đạt được: - Học sinh có năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề một cách sáng tạo hiệu quả qua quá trình nghiên cứu, tìm tòi tài liệu ở nhà. Các em đã tạo ra sản phẩm thuyết trình chất lượng và trình bày sáng tạo. Quá trình thuyết trình và tranh biện HS đã được phát triển tư duy phản biện, năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp và hợp tác. Các phẩm chất và năng lực được hình thành, phát triển thông qua những giây phút trải nghiệm cảm xúc và tham gia trực tiếp vào các hoạt động, nhiệm vụ học tập 10
  11. như đã trình bày ở trên thực sự sẽ thấm sâu và tạo nên sự chuyển biến về chất trong tâm hồn, nhân cách mỗi người học sinh. Điều cốt yếu để tạo nên sự thành công khi sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối trong dạy học Nói và Nghe không chỉ ở năng lực tổ chức mà ở cả nghệ thuật của người thầy. Nghệ thuật khen – chê; sự động viên, khích lệ chân thành; không khí đối thoại tự do, dân chủ, sự trân trọng mọi ý kiến của HS...sẽ phá vỡ mọi bức tường rào cản trong các em. Nhờ vậy, tư duy phản biện của HS sẽ phát triển nhanh chóng và bền vững. III. HIỆU QUẢ 1. Mức độ phù hợp của biện pháp - Mức độ phù hợp với đối tượng học sinh + Các vấn đề tranh luận gần gũi, thiết thực, mức độ vừa phải phù hợp với khả năng, năng lực của các em. Hơn nữa HS ngày nay rất nhạy bén với công nghệ, có tính thần học hỏi cầu tiến, được tiếp xúc với nhiều kĩ thuật dạy học hiện đại nên các em không quá khó khăn khi tiếp nhận nhiệm vụ - Mức độ phù hợp với điều kiện thực tiễn nhà trường + Biện pháp trên phù hợp với chủ trường đổi mới: Ban chuyên môn nhà trường, tổ nhóm luôn chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học thông qua, hội nghị viên chức người lao động, các buổi sinh hoạt chuyên môn … Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, tích cực hóa hoạt động của học sinh, từ bỏ khái niệm dạy học truyền thụ sang dạy học truyền cảm hứng, tạo hứng thú cho học sinh với môn học, giờ học là vấn đề then chốt quyết định chất lượng giảng dạy; phù hợp với điều kiện vật chất, hạ tầng của nhà trường, các phòng học đã có tivi, kết nối mạng internet. - Mức độ đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDH, KTĐG + Sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối vào dạy học phần Nói và Nghe đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, tập trung vào học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, khuyến khích, động viên học sinh tự giác tìm kiếm, tự mình tổ chức và xử lí thông tin thay vì lệ thuộc vào bài giảng của giáo viên. Học sinh có các hoạt động như trao đổi, tranh luận, phân tích. Đó là các kĩ năng cần thiết để nâng cao năng lực giải quyết vấn đề. + Đồng thời, thông qua hoạt động tranh luận, việc kiểm tra đánh giá được đổi mới hơn, phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông 2018, không nặng về kiểm tra, đánh giá kiến thức mà chú trọng đến đánh giá sự tiến bộ của học sinh, về ý thức học tập, thái độ và năng lực hợp tác nhóm, có sản phẩm và tự tin báo cáo sản phẩm của nhóm. 2. Xây dụng tiêu chí đánh giá, sử dụng công cụ đánh giá - Tiêu chí đánh giá: HS hứng thú với các hoạt động học tập, biết sử dụng thành thạo kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối với 3 mức độ: + HS đủ tự tin và mạnh dạn để nói, để phát biểu, không rụt rè, nhút nhát. + HS đủ vốn từ và đủ kiến thức để nói về một vấn đề nào đó mà không phải ấp a, ấp úng. + HS biết cách thể hiện quan điểm của mình bằng những ngôn ngữ và cách thức phù hợp, l ập lu ậ n thuyết phục, có thái độ lịch sự tôn trọng lẫn nhau. - Công cụ đánh giá 11
  12. - Đánh giá kĩ năng nói và nghe của HS chủ yếu đánh giá cá nhân ở sự tiến bộ của từng em qua quá trình học tập. - Ngoài ra đánh giá theo nhóm qua quá trình tranh luận, qua sản phẩm bằng phiếu đánh giá của nhóm trưởng, các nhóm khác, của GV. - Phiếu đánh giá giữa các nhóm. 3. Kết quả cụ thể - Về phía HS: + Sau khi sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối vào dạy học phần nói nghe, tôi nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt theo chiều hướng rất tích cực ở học sinh. Nếu như trước đây các em sợ nói, không dám nói thì nay các em học sinh tỏ ra hết sức hào hứng, thích thú và hợp tác khi được “nói”, được “bộc lộ”, được “lắng nghe”. Tư duy phản biện của các em phát triển rõ rệt. Các em không chỉ biết nói – nghe mà còn biết nói đúng, nói hay và thâm chí nói sáng tạo. Nhiều em vốn tính nhút nhát thiếu tự tin thâm chí chưa bao giờ dám phát biểu ý kiến trước lớp thì nay đã đã trở nên bạo dạn và tự tin hơn, dám đứng lên đặt câu hỏi phản biện. Năng lực ngôn ngữ và giao tiếp của các em cũng từ đó mà được cải thiện rất nhiều. + Khi sử dụng kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối vào các hoạt động Nói và Nghe, các em học sinh tỏ ra hết sức hào hứng, thích thú và hợp tác, các tiết học diễn ra sôi nổi. Dưới đây là bảng số liệu tôi thu được về mức độ hứng thú với phần Nói và Nghe của HS 3 lớp tôi trực tiếp áp dụng biện pháp để giảng dạy: Tổng số Rất hứng thú Hứng thú Bình thường Không hứng HS thú Số HS % Số HS % Số HS % Số HS % 123 56 45.5% 47 38.3% 20 16,2% 0 11.8% + Quan trọng hơn là học sinh có được nhận thức đúng đắn, sâu sắc về các vấn đề xã hội và văn học; hình thành góc nhìn đa chiều, tôn trọng các góc nhìn đa chiều về các vấn đề của đời sống. Hơn nữa, còn là việc hình thành cho học sinh kĩ năng nói – nghe ở bất cứ tình huống nào, môi trường nào trong thực tiễn đời sống. HS trở thành những người nói và nghe một cách chủ động. HS không chỉ được phát triển kĩ năng nói và nghe mà còn có cơ hội để rèn giũa, bồi đắp phẩm chất, thái độ, tình cảm, lối sống có văn hóa. - Về phía GV: Đa dạng hóa các hình thức dạy học, truyền được cảm hứng đến học sinh thông qua những phương pháp dạy học tích cực. Từ việc mong muốn tạo cơ hội cho học sinh được phản biện, được lên tiếng và được lắng nghe, người giáo viên sẽ luôn có động lực thôi thúc để tìm tòi, để sáng tạo nhằm đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tổ chức dạy học. 12
  13. Tuy nhiên phương pháp hay kĩ thuật dạy học nào dù tối ưu đến mấy cũng sẽ có những nhược điểm của nó. Kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối cũng vậy. Nếu thiếu sự đánh giá, tổng kết, nhắc nhở về mục đích tranh luận của GV sẽ dẫn đến sự cực đoan, căng thẳng trong tranh luận, nhìn nhận về vấn đề phiến diện thiếu tính hệ thống. Đánh giá HS sẽ khó đồng bộ, khó lôi kéo một số HS vào hoạt động học. C. KẾT LUẬN I. ĐÓNG GÓP CỦA DỀ TÀI 1. Tính mới của đề tài Trong báo cáo này tôi đã sử dụng kĩ thuật tranh biện ủng hộ - phản đối một kĩ thuật dạy học tích cực, mới mẻ để dạy phần nói nghe. Điều này vừa giúp GV tổ chức tốt giờ dạy nói nghe, HS hứng thú, đảm bảo yêu cầu cần đạt của bài học, phát triển được nhiều năng lực, nhất là năng lực tư duy phản biện. 2. Tính khoa học Biện pháp sử dụng một cách chính xác các thuật ngữ khoa học, được trình bày, lí giải rõ ràng, hệ thống phù hợp lí luận dạy học nói chung và lí luận dạy Ngữ văn nói riêng. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi hướng dẫn học sinh thực hiện hoạt động nói và nghe theo đúng nguyên tắc, gắn hoạt động nói – nghe với đời sống thực tiễn, đảm bảo mục tiêu giáo dục phổ thông, khai thác được đặc thù bộ môn Ngữ văn và sử dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. 3. Tính hiệu quả Tư duy phản biện không thể có ngay lập tức mà cần có quá trình. Trước hết, công việc này phải làm thường xuyên, liên tục qua tất cả các môn học, bài học chứ không phải chỉ có môn Ngữ văn. Lâu dần, tư duy phản biện của học sinh mới trở thành thói quen và được phát triển. Hiệu quả tư duy phản biện ở học sinh là con số định hình mà không định lượng. Nó nằm ngay ở sự tiến bộ từng học sinh về kĩ năng, năng lực trình bày, ở số lượng học sinh chịu suy nghĩ, dám nói, dám phản biện.... Kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối tạo ra ưu thế và hiệu quả trong dạy học Ngữ văn: tạo sự hứng thú tham gia của HS; kích thích tư duy phản biện; HS thể hiện suy nghĩ, quan điểm của cá nhân; biết cách lắng nghe tích cực và tiếp nhận quan điểm của người khác …nâng cao hiệu quả của một giờ Nói và Nghe, góp phần đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy học môn Ngữ văn. Đây cũng là những thay đổi cần thiết để thực hiện chương trình Giáo dục phổ thông 2018 một cách hiệu quả. II. KHẢ NĂNG MỞ RỘNG CỦA ĐỀ TÀI - Kĩ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối phù hợp với các đối tượng học sinh (giỏi, khá, trung bình) trên nguyên tắc lưu ý đến mức độ phản biện, mức độ câu hỏi - Biện pháp này có thể mở rộng cho những nội dung Nói và Nghe khác trong chương trình, áp dụng cho phần Đọc, cũng có thể áp dụng trong giảng dạy môn Ngữ văn đối với học sinh THPT của trường THPT Hồng Lĩnh nói riêng và các trường 13
  14. THPT nói chung. Cũng có thể thực hiện hiệu quả trong dạy học môn Ngữ văn với học sinh THCS. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT - Đối với Sở Giáo Dục đào tạo Hà Tĩnh: Cần tăng cường bồi dưỡng để GV có cơ hội cọ xát, trao đổi và tiếp cận cụ thể nhất về các phương pháp dạy học mới, hướng dạy học phát triển năng lực. - Đối với giáo viên: Cần vận dụng một cách linh hoạt, hiệu quả các phương pháp Dạy học tích cực, cần xây dựng kế hoạch bài học phù hợp với mục tiêu, đối tượng, vận dụng thực tiễn. Mỗi phương pháp, kĩ thuật, hình thức tổ chức dạy học đều có những ưu thế riêng và phù hợp với từng bài học, từng đối tượng học sinh khác nhau. Báo cáo của tôi chỉ là vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân nhằm giúp học sinh phát triển tư duy phản biện – điều mà tôi quan sát thấy cần được thực sự chú trọng ở các trường THPT. Rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng Ban Giám khảo để bản báo cáo được hoàn thiện hơn. 14
  15. PHỤ LỤC 1: CÁC MẪU PHIẾU ĐÁNH GIÁ 1. Bảng kiểm kĩ năng Nói Nội dung yêu cầu Đội 1 Đội 2 Thang điểm 2 1. Bài nói có nêu được vấn đề mình muốn nói 4 2. Bài nói đã đưa ra được các ý kiến, lí lẽ, bằng chứng thuyết phục người nghe hay không? 1 3. Người trình bày bài nói có mạch lạc, rõ ràng, đúng thời gian quy định không? 1 4. Người trình bày có tự tin, nhìn vào người nghe khi nói, sử dụng giọng điệu và điệu bộ hợp lí không? 1 5. Các phương tiện hỗ trợ có được sử dụng hợp lí, tăng hiệu quả cho bài nói không? 1 6. Người trình bày có ghi nhận và phản hồi thỏa đáng những câu hỏi, ý kiến của người nghe không? 10 Tổng điểm Điểm giáo viên đánh giá Điểm TB . 15
  16. Bảng kiểm kĩ năng Nghe Thang Nội dung yêu Nhóm Nhóm Nhóm Nhóm Nhóm Nhóm điểm cầu 1 2 3 4 5 6 1. Nắm và hiểu được nội dung chính phần trình bày bài nói của 3 bạn. 2. Đưa ra được những nhận xét được về ưu điểm hay điểm hạn chế của 3 trong phần trình bày của bạn. 1. 3. Đưa ra ý kiến phản biện có 2 chất lượng 4. Thái độ chú ý tôn trọng, nghiêm túc, động viên khi 2 nghe bạn trình bày. Tổng điểm 10 Điểm giáo viên đánh giá Điểm (TB Điểm GV + Điểm TB cộng của 3 nhóm) : 2 16
  17. 2. Bảng tiêu chí đánh giá bài thuyết trình 17
  18. PHỤ LỤC 2: Bảng phân công lượt lời nói của mỗi đội, mỗi thành viên Thời Người Vai trò Nội dung cụ thể lượng nói nói Trình bày toàn bộ Trình bày toàn bộ phiên tranh biện A1 phiên tranh biện 3 phút của bên nên học đại học bằng sơ đồ tư duy B3 và A1 Hỏi đáp N3 đặt câu hỏi, A1 trả lời 2 phút Phản biện phiên tranh biện của bên Trình bày toàn bộ B1 nên học đại học; Trình bày luận 3 phút phiên tranh biện điểm ủng hộ nên đi xuất khẩu A1 và B3 Hỏi đáp B3 đặt câu hỏi, A1 trả lời 2 phút Phản biện B1; Ủng hộ A1 bằng ▪ cách củng cố luận điểm A1 đã Phản biện B1 và ủng A2 trình bày, ví dụ bổ sung bằng 3 phút hộ A1 chứng, phát triển lý lẽ, Không đưa ra luận điểm mới B1 và A2 Hỏi đáp B1 đặt câu hỏi, A2 trả lời 2 phút Phản biện A2; Ủng hộ B1 bằng ▪ Phản biện A2 và ủng cách củng cố luận điểm B1 đã B2 3 phút hộ B1 trình bày, ví dụ bổ sung bằng chứng A1 và B2 Hỏi đáp A1 đặt câu hỏi, B2 trả lời 2 phút Tổng hợp xung đột▪ Phản biện B2; Phân tích các xung A3 để chứng minh A đột chính để chứng minh A thắng 3 phút thắng ▪ Tổng hợp xung đột▪để Phản biện A2; Phân tích các xung B3 3 phút chứng minh B thắng đột chính để chứng minh B thắng 18
  19. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2