Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng mô hình Lớp học đảo ngược trong dạy học chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII (Lịch sử lớp 10)
lượt xem 10
download
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến nhằm đề xuất các biện pháp tổ chức và dạy học chủ đề Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII (Lịch sử lớp 10 áp dụng mô hình lớp học đảo ngược nhằm nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng mô hình Lớp học đảo ngược trong dạy học chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII (Lịch sử lớp 10)
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: SỬ DỤNG MÔ HÌNH “LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC” TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ “VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XVIII” (Lịch sử lớp 10) MÔN: LỊCH SỬ
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: SỬ DỤNG MÔ HÌNH “LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC” TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ “VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XVIII) (Lịch sử lớp 10) MÔN: LỊCH SỬ Tên tác giả: HOÀNG DANH HÙNG Tổ bộ môn: Khoa học xã hội Năm thực hiện: 2020 - 2021 SĐT liên hệ: 0384461812 Yên thành, tháng 3 năm 2021
- MỤC LỤC MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................... 1 1.1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 1.2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 2 1.3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu .................................................................... 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................. 3 1.5. Những đóng góp của đề tài .......................................................................... 3 PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ............................................................... 4 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn ............................................................................... 4 1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 4 1.2. Cơ sở thực tiễn ....................................................................................... 10 2. Xây dựng chủ đề dạy học: Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX (Lịch sử lớp 10) ................................................................................................ 12 2.1. Lựa chọn chủ đề ..................................................................................... 12 2.2. Mục tiêu của chủ đề ............................................................................... 13 2.3. Nội dung dạy học chủ đề: Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII (Lịch sử lớp 10) .................................................................................. 14 2.4. Bảng mô tả các mức yêu cầu cần đạt trong chủ đề.................................. 20 2.5. Biên soạn câu hỏi/bài tập của chủ đề theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh........................................................................................ 22 3. Sử dụng mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học chủ đề Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII (Lịch sử lớp 10) .................................................. 35 3.1. Kế hoạch dạy học chủ đề ........................................................................ 35 3.2. Những công việc chuẩn bị cho phương án tổ chức dạy học .................... 37 3.3. Tiến trình dạy học .................................................................................. 40 3.4. Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học chủ đề Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV (Lịch sử lớp 10) ..................................................................... 55 PHẦN III: KẾT LUẬN ...................................................................................... 58 1. Một số kết luận sau khi thực hiện đề tài ........................................................ 58 2. Kiến nghị ...................................................................................................... 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 60 PHẦN PHỤ LỤC Phụ lục 1. PHIẾU KHẢO SÁT THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH VÀ ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Phụ lục 2. PHIẾU TRẢ LỜI HƯỚNG DẪN TỰ HỌC Ở NHÀ SỐ 1 Phụ lục 3. PHIẾU TRẢ LỜI HƯỚNG DẪN TỰ HỌC Ở NHÀ SỐ 2 Phụ lục 4. ĐỀ KIỂM TRA SAU GIỜ HỌC THỰC NGHIỆM VÀ ĐỐI CHỨNG MÔN LỊCH SỬ LỚP 10. NĂM HỌC 2020 - 2021
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TT Từ viết tắt Từ đầy đủ 1 CNTT Công nghệ thông tin 2 GV Giáo viên 3 HS Học sinh 4 SGK Sách giáo khoa 5 THPT Trung học phổ thông
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn đề tài Chúng ta đang sống trong thời đại mà cách mạng khoa học - kỹ thuật phát triển như vũ bão. Công nghệ thông tin và truyền thông thâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực trong đó có giáo dục. Nhờ sự hỗ trợ đó mà chất lượng giáo dục tăng lên cả về mặt lý thuyết lẫn thực hành. Giáo dục đã có thể thực hiện được các tiêu chí mới: học mọi nơi, học mọi lúc, học suốt đời, dạy cho mọi người ở mọi trình độ tiếp thu khác nhau. Năng lực tự học thuộc nhóm các năng lực cốt lõi cần phải hình thành cho người học ngay từ bậc học phổ thông. Làm thế nào để bồi dưỡng năng lực tự học trong thời đại công nghệ thông tin (CNTT)? Với những phương tiện CNTT và truyền thông ngày càng hiện đại, người học dễ dàng truy cập thông tin đa lĩnh vực, đa chiều, thu thập xử lý thông tin như thế nào, vận dụng thông tin thu thập được ra sao để giải quyết các vấn đề học tập nhằm đạt mục tiêu học tập cá nhân, tiến đến xác lập được các kĩ năng tự học, làm hành trang tự học suốt đời? Đây là vấn đề mang tính thời sự cấp thiết của ngành giáo dục khi triển khai thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục sau năm 2015. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã xây dựng định hướng chung, tổng quát về đổi mới PPDH các môn học thuộc chương trình giáo dục: tập trung dạy cách học và rèn luyện năng lực tự học, tạo cơ sở để học tập suốt đời, tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với mục tiêu, nội dung giáo dục, đối tượng HS và điều kiện cụ thể của mỗi trường. Trong bối cảnh cấp thiết đó, môn Lịch sử với đặc thù của một môn Khoa học xã hội, phát triển cho học sinh về tư duy lịch sử, kĩ năng khai thác và sử dụng các nguồn sử liệu, tư duy hệ thống, tư duy phản biện,... Từ đó giúp học sinh có thể nhận thức và vận dụng được các bài học lịch sử để giải quyết các vấn đề của thực tế cuộc sống, góp phần hình thành nên những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế của thời đại. Tuy nhiên, trên thực tế, do nhiều yếu tố khác nhau, việc dạy học lịch sử chưa thực sự phát huy được giá trị và vai trò vốn có của nó. Thực hiện theo yêu cầu đổi mới cách dạy và học của Bộ Giáo dục, đặc biệt trong thời gian qua, do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, ở một số trường trên địa bàn tỉnh Nghệ An cũng đã tiến hành áp dụng các phương pháp, hình thức khác nhau như: dạy học kết hợp, lớp học đảo ngược, phương pháp trực quan, sử dụng CNTT, tổ chức các buổi học tập ngoại khóa,… và đem đến kết quả tương đối khả quan trong việc nâng cao hứng thú học tập cho học sinh. 1
- Mô hình lớp học đảo ngược là một trong những hình thức tổ chức dạy học mới. Hình thức này đã được áp dụng ở nhiều nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới như: Mĩ, Australia,… và đem đến hiệu quả tích cực, với những quan điểm cụ thể như: thúc đẩy người học tích cực trong học tập; tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện những kĩ năng trực tiếp ở trên lớp: làm việc nhóm, trình bày vấn đề; tăng khả năng tương tác giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh. Hiện nay, mô hình này bước đầu đã được áp dụng trong dạy học các môn học nói chung và môn Lịch sử nói riêng. Tuy nhiên, việc triển khai trên thực tế do nhiều yếu tố chi phối nên còn những hạn chế nhất định. Chủ đề dạy học “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII” (Lịch sử lớp 10) là một chủ đề mà học sinh rất khó tiếp cận. Nếu giáo viên tiến hành một tiết dạy truyền thống sẽ không hiệu quả, học sinh dễ nhàm chán. Chính vì lẽ đó, mô hình lớp học đảo ngược có thể hạn chế tối thiểu những nhược điểm đó. Trong lớp học đảo ngược, học sinh ứng dụng CNTT và truyền thông tự học ở nhà, truy tìm kiến thức, các nhóm học sẽ tương tác với nhau qua facebook... Giờ học ở lớp sẽ được GV tận dụng tối đa tổ chức cho HS vận dụng, thực hành kiến thức, thảo luận nhóm hoặc triển khai các dự án, giải quyết các vấn đề mở, giúp HS hiểu sâu hơn đồng thời bồi dưỡng cho HS các năng lực thực hành. Dựa trên các phân tích ở trên, tôi hi vọng rằng việc Sử dụng mô hình “Lớp học đảo ngược” trong dạy học chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII” (Lịch sử lớp 10) sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Khẳng định việc sử dụng mô hình “lớp học đảo ngược” trong dạy học môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông là có hiệu quả. - Đề xuất các biện pháp tổ chức và dạy học chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII” (Lịch sử lớp 10” áp dụng mô hình “lớp học đảo ngược” nhằm nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thong. 1.3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu việc sử dụng mô hình “lớp học đảo ngược” trong quá trình dạy học lịch sử ở trường THPT. - Phạm vi nghiên cứu: + Sách Lịch sử lớp 10 (Chương trình chuẩn) chủ đề: Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII” + Học sinh các lớp từ 10A1 đến 10A6 (Năm học 2020 - 2021) ở Trường THPT Yên Thành 2 - Yên Thành - Nghệ An. + Nghiên cứu, phân tích giáo án, phân tích phiếu xây dựng, góp ý của đồng nghiệp sau khi dự giờ. 2
- + Nghiên cứu, so sánh kết quả kiểm tra, kiểm tra đánh giá giữa những lớp không sử dụng mô hình “lớp học đảo ngược” và những lớp có sử dụng. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Tổng hợp, khái quát, lựa chọn những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm (quan sát, phỏng vấn, so sánh). 1.5. Những đóng góp của đề tài Đề tài này không phải là một vấn đề mới, thậm chí đã được sử dụng tương đối nhiều ở các trường phổ thông trên cả nước và ở một vài trường ở Nghệ An, tuy nhiên qua thực tế nghiên cứu và áp dụng vào giảng dạy chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII”, tôi nhận thấy đề tài có những đóng góp như sau: - Khẳng định vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của việc sử dụng mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học lịch sử ở trường THPT. - Đánh giá được thực trạng của việc sử dụng mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay. - Đề xuất các biện pháp sử dụng mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học lịch sử ở trường THPT theo hướng phát triển kĩ năng tự học, hợp tác và sử dụng CNTT cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử. 3
- PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Các khái niệm cơ bản - Hình thức dạy học kết hợp (Blended learning): là một hình thức dạy học có sự kết hợp giữa phương thức dạy học truyền thống ở trên lớp với phương thức dạy học trực tuyến thông qua Internet. Để có thể áp dụng được Blended learning vào trong giảng dạy, điều kiện tiên quyết là phải có cơ sở vật chất hiện đại cho dạy học (máy chiếu, máy tính, Internet,…), ngoài ra cần phải có nguồn tài liệu học tập online phong phú và đòi hỏi khả năng sử dụng CNTT thành thạo của giáo viên và học sinh. - Lớp học đảo ngược (Flipped classroom): là một trong những mô hình của hình thức dạy học kết hợp. Với mô hình này, cấu trúc của một lớp học truyền thống bị phá vỡ, những gì ở lớp học thông thường diễn ra trên lớp thì sẽ trở thành hoạt động diễn ra ở nhà và ngược lại. Lớp học đảo ngược là tất cả các hoạt động dạy học được thực hiện “đảo ngược” so với thông thường. Sự “đảo ngược” ở đây được hiểu là sự thay đổi với các dụng ý và chiến lược sư phạm thực hiện ở cách triển khai các nội dung, mục tiêu dạy học và các hoạt động dạy học khác với cách dạy truyền thống trước đây của người dạy và người học. Với mô hình này, giáo viên cung cấp bài giảng đã được số hóa (bài giảng điện tử, tài liệu học tập, video clip,...) để học sinh tự tìm hiểu kiến thức mới ở nhà. Tại lớp, học sinh đặt câu hỏi, thảo luận để giải đáp các thắc mắc dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Nếu như một lớp học bình thường, trước khi lên lớp học sinh đọc trước bài, nghe giảng trên lớp và về nhà thì làm những bài tập mà giáo viên giao cho thì với lớp học đảo ngược, quá trình này hoàn toàn ngược lại, xáo trộn lại. Theo đó, giáo viên sẽ thiết kế bài giảng, bài tập, các đoạn video ngắn,… trên các trang Web học tập online và học sinh sẽ lên đó nghe giảng, hoàn thành các bài tập trước ở nhà còn thời gian trên lớp là để thảo luận, tìm hiểu sâu hơn, kĩ hơn các vấn đề khó, các vấn 4
- đề mà học sinh quan tâm. Theo thang nhận thức thì ở mô hình lớp học đảo ngược, các mức độ nhận biết, ghi nhớ các kiến thức cơ bản của bài sẽ được tiến hành ở nhà thông qua việc hoàn thành các bài tập trên Web học online mà giáo viên đã thiết kế. Thời gian trên lớp là dành cho việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực cao hơn: nhận xét, phân tích, đánh giá, vận dụng, sáng tạo. Điều này là ngược lại hoàn toàn với một mô hình lớp học thông thường. 1.1.2. Đặc điểm của mô hình lớp học đảo ngược Mô hình lớp học đảo ngược mang những đặc điểm riêng và trái ngược hoàn toàn so với mô hình lớp học thông thường: - Thứ nhất là: Hoạt động ở nhà và trên lớp được đảo ngược lại. Thay vì nghe giảng và ghi chép kiến thức cơ bản trên lớp, về nhà làm bài bài tập thì với mô hình này, học sinh sẽ nghe giảng và hoàn thiện kiến thức cơ bản ở nhà, trên lớp là thời gian thảo luận, tìm hiểu sâu hơn các vấn đề. - Thứ hai là: Các mức độ nhận thức có sự thay đổi. Trên lớp, học sinh được bồi dưỡng các mức độ nhận thức ở bậc cao: vận dụng, sáng tạo thông qua các hoạt động rèn luyện, thảo luận, phân tích, tư duy sáng tạo để giải quyết các vấn đề của bài học. Còn các mức nhận thức bậc thấp hơn là hiểu, biết thì học sinh sẽ tự bồi dưỡng ở nhà thông qua sự hướng dẫn của giáo viên. - Thứ ba là: Để áp dụng mô hình thì cần phải có sự hỗ trợ của các phần mềm, công cụ học trực tuyến. Lớp học được tiến hành thông qua một trang Web học trực tuyến. Giáo viên sẽ tạo lớp, đăng bài, đăng tài liệu,... sau đó chia sẻ cho học sinh tham gia vào lớp học và thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ của bài học. Cũng từ yêu cầu này, đòi hỏi sự thành thạo, tích cực, chủ động trong việc sử dụng CNTT đối với giáo viên và cả học sinh. 5
- - Thứ tư là: Mô hình đòi hỏi sự tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh khi tự tìm hiểu kiến thức cơ bản ở nhà thông qua hướng dẫn của giáo viên và khi tiến hành thảo luận, phân tích, suy luận, hoàn thiện các sản phẩm… ở trên lớp mà giáo viên giao cho. - Thứ năm là: Với mô hình này, giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn còn người học là trung tâm, chủ động tìm hiểu kiến thức. *Quy trình thực hiện mô hình “lớp học đảo ngược”: - Bước 1: Giáo viên thiết kế bài học trên Web học online, tạo các video (video bài giảng, video tự thiết kế về nội dung bài học, video liên quan tới bài học thu thập được qua mạng,…), tài liệu, các bài tập,... - Bước 2: Chia sẻ đường link và yêu cầu học sinh hoàn thiện trước khi đến lớp (ra hạn thời gian hoàn thành cụ thể). - Bước 3: Hướng dẫn, định hướng cho học sinh tiến hành thảo luận, thực hành các vấn đề khó, tìm hiểu sâu hơn các vấn đề quan trọng. - Bước 4. Dặn dò học sinh về nhà hoàn thiện, bổ sung kiến thức (nếu sai hoặc thiếu) trên Web. *Các yêu cầu và điều kiện sử dụng mô hình “lớp học đảo ngược”: - Về cơ sở vật chất, hạ tầng: Ngoài việc đảm bảo các tiêu chuẩn chung tối thiểu về một phòng học cho môn Lịch sử cấp THPT, để có thể áp dụng được mô hình này một cách hiệu quả nhất thì phòng học cần được trang bị thêm các thiết bị hỗ trợ hiện đại khác như: máy chiếu, màn chiếu, bảng thông minh, máy tính xách tay hoặc máy tính để bàn,... Hiện nay, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho giáo dục nói chung và cho trường lớp nói riêng còn khó khăn, thiếu thốn. Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, các thiết bị hỗ trợ ứng dụng CNTT đã được chú trọng đầu tư và có sự cải thiện đáng kể. Đây là một trong những điều kiện thực tiễn quan trọng để áp dụng mô hình lớp học đảo ngược ở trường THPT. - Về điều kiện, phương tiện học tập của học sinh: Để học sinh có thể tham gia vào vào giờ học có áp dụng mô hình lớp học đảo ngược, ngoài sách giáo khoa, vở ghi chép và các đồ dùng học tập cơ bản, thông thường không đòi hỏi học sinh phải chuẩn bị thiết bị, phương tiện học tập hiện đại. Tuy nhiên, để giáo viên có thể triển khai, tổ chức những giờ học sử dụng mô hình lớp học đảo ngược, tương tác với nhau trên môi trường trực tuyến thì điều kiện tốt nhất là mỗi học sinh hoặc mỗi nhóm học sinh cần có một máy tính kết nối Internet hoặc Wifi. Học sinh cũng nên lập các tài khoản cá nhân hoặc nhóm để đăng nhập trên các ứng dụng. Trong điều kiện học sinh không có máy tính cá nhân, điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sử dụng phòng máy tính, phòng học bộ môn Tin học của trường để học sinh chuẩn bị và tham gia vào bài học. 6
- - Kiến thức và kĩ năng sử dụng CNTT của giáo viên: Bên cạnh những kiến thức về chuyên ngành lịch sử; kiến thức về phương pháp giảng dạy bộ môn thì kiến thức và kĩ năng sử dụng CNTT của giáo viên cũng là một trong những điều kiện tiên quyết, quyết định đến thành công của giờ học có sự áp dụng của mô hình lớp học đảo ngược. Cụ thể, giáo viên cần biết cách giải quyết các vấn đề kĩ thuật cơ bản của máy tính; có khả năng sử dụng CNTT để hỗ trợ cho việc trình bày nội dung bài dạy thêm sinh động, hấp dẫn; hiểu rõ và có thể sử dụng các ứng dụng, phần mềm cơ bản (MS. PowerPoint, Sway, Prezi, Canva, Padlet,...) trong bài dạy; có khả năng học hỏi và cập nhật các ứng dụng, công cụ, phần mềm CNTT mới, giúp tăng cường phương pháp dạy học lịch sử và hoàn thành được mục tiêu bài dạy. Đồng thời, hướng dẫn cho học sinh cách sử dụng CNTT, các thao tác, kĩ năng cơ bản khi sử dụng CNTT để nâng cao hiệu quả học tập lịch sử cho học sinh. - Tinh thần chủ động, sáng tạo của giáo viên và học sinh: Để mô hình này được áp dụng có hiệu quả, đòi hỏi người giáo viên phải năng động, tích cực, chủ động tìm tòi, khám phá hệ thống kiến thức bên ngoài thực tế để đưa ra các yêu cầu, nhiệm vụ hay, hấp dẫn và phù hợp cho học sinh. Đồng thời, có được những kiến thức về CNTT để áp dụng, sử dụng thành thạo, phù hợp các loại phần mềm, công cụ học tập trực tuyến vào trong giảng dạy theo mô hình lớp học đảo ngược. Còn với học sinh, đòi hỏi phải có sự chăm chỉ, tự giác, chủ động, sáng tạo trong việc tìm hiểu kiến thức cơ bản, thảo luận, đưa ra ý kiến cá nhân, hoàn thành các sản phẩm,... mà giáo viên đưa ra, dưới sự hướng dẫn của giáo viên. 1.1.3. Tác dụng của mô hình lớp học đảo ngược Mô hình lớp học đảo ngược đem lại nhiều lợi ích đối với việc dạy - học nói chung và với dạy học Lịch sử nói riêng: - Thứ nhất, học sinh nhận được sự giúp đỡ trong các vấn đề khó gặp phải trong bài. Theo mô hình này, các vấn đề khó thay vì sẽ được giao về nhà làm và không có sự giúp đỡ với mô hình truyền thống thì sẽ được thảo luận trực tiếp trên lớp, có sự hỗ trợ từ các bạn và giáo viên. - Thứ hai, sự tương tác giữa giáo viên và học sinh được gia tăng. Nếu như với lớp học truyền thống, giáo viên là người truyền đạt kiến thức, học sinh chỉ bị động lĩnh hội kiến thức thì với mô hình lớp học đảo ngược, học sinh có nhiều thời gian trao đổi, thảo luận hơn với cả các bạn và giáo viên thông qua thời gian thảo luận, thực hành trên lớp. Qua đó, khoảng cách giữa giáo viên và học sinh cũng dần rút ngắn hơn. - Thứ ba, có thể phân loại được học sinh. Nhờ việc tăng cường sự tương tác, giáo viên cũng có hướng dẫn, quan tâm và hiểu rõ từng học sinh hơn. Từ đó biết được điểm mạnh, điểm yếu của mỗi học sinh và có cơ sở đưa ra những giải pháp thích hợp để phát huy điểm mạnh và dần hạn chế điểm yếu của học sinh. - Thứ tư, tạo ra một bầu không khí học tập sôi động hơn. Khi sự tương tác 7
- tăng lên cũng là lúc học sinh trở thành trung tâm của lớp học, thoải mái đưa ra những ý kiến, nhận định cá nhân của mình, có điều kiện phát huy tối đa khả năng,… Cũng nhờ đó, học sinh thêm yêu bài học, thích tìm tòi, khám phá. - Thứ năm, học sinh có thể làm chủ được thời gian tiếp nhận thông tin của mình. Thay vì không kịp tiếp thu những bài giảng của giáo viên với lớp học truyền thống. Giờ đây, học sinh hoàn toàn có thể tạm dừng, nghe lại những bài giảng đó để hiểu rõ hơn. - Thứ sáu, giúp cho học sinh hay chính giáo viên khi không thể đến lớp được vì có thể trực tiếp trao đổi trên Web học online. - Thứ bảy, thu hút và tạo ra mối quan hệ tốt hơn với học sinh. 1.1.4. Những cơ sở để áp dụng mô hình “lớp học đảo ngược” vào dạy học chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII” (Lịch sử lớp 10) - Trước hết, do xuất phát từ yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học: Nghị quyết số 29, Hội nghị Trung ương 8, Khóa XI đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chuyển sang các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra rất nhiều Công văn gửi cho các Sở, các trường, yêu cầu phải đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh. Theo đó, học sinh là trung tâm còn giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, định hướng. Bài giảng không giàn trải, xác định được vấn đề trọng tâm. Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa, tọa đàm, hướng nghiệp,… để thay đổi không khí, tạo sự mới mẻ cho môn học. Tăng cường thực hành, liên hệ thực tế, chú trọng nhiều tới vấn đề phát triển năng lực và rèn luyện đạo đức cho học sinh. Sáng tạo hơn trong mô hình giảng dạy, kết hợp sử dụng CNTT, dạy học trực tuyến, hay lớp học đảo ngược,… Những quan điểm và định hướng nêu trên không chỉ tạo tiền đề và môi trường pháp lí thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy học nói chung mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng hình thức dạy học mới - mô hình lớp học đảo ngược vào trong giảng dạy nói riêng. Với những đặc điểm như đã nêu, mô hình lớp học đảo ngược hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. - Xuất phát từ những khó khăn thực tế khi dạy học chủ đề “Văn hóa Việt 8
- Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII” (Lịch sử lớp 10): Chủ đề này gồm 02 bài thuộc 02 chương khác nhau trong phần “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XIX”. Cụ thể là: + Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X đến XV (thuộc Chương II: Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV). + Bài 24: Tình hình văn hóa ở các thế kỷ XVI - XVIII (thuộc Chương III: Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII). Có thể nói, đây là một chủ đề dài, khó và tương đối trừu tượng. Kiến thức thuộc chủ đề này là một khối lượng kiến thức tương đối rộng, nội dung rất dài với các lĩnh vực văn hóa khác nhau trải dài từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII gắn với quá trình hình thành, phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam gồm: Tư tưởng, tôn giáo; Giáo dục; Văn học; Nghệ thuật; Khoa học - Kỹ thuật… Trên thực tế hiện nay, khi giảng dạy những nội dung này, nếu chỉ dạy học ở trên lớp, giáo viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn, hầu hết đều không đủ thời gian và điều kiện để khai thác và chuyển tải hết những vấn đề cần thiết đến học sinh. Mặt khác, những kiến thức về văn hóa khác với những kiến thức về kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự. Đây thường là những vấn đề mang tính trừu tượng, có thể quan sát, theo dõi nhưng để hiểu rõ và nắm vững kiến thức thì tương đối khó đối với trình độ nhận thức của các em học sinh lớp 10. Khi học tập chủ đề này, với hệ thống kênh hình phong phú thuộc các lĩnh vực tư tưởng, tôn giáo, giáo dục, nghệ thuật, khoa học - kĩ thuật,… hệ thống các câu hỏi bài tập, hệ thống bảng biểu, bảng thống kê cùng với những vấn đề có tính chất liên hệ đến thực tế ở địa phương học sinh…nên nếu áp dụng mô hình lớp học đảo ngược sẽ phù hợp để kích thích năng lực tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo của học sinh đặc biệt là giáo viên có thể chuyển giao các nhiệm vụ học tập để học sinh thực hiện ở nhà. - Xuất phát từ yêu cầu rèn luyện năng lực tự học cho học sinh và nâng cao tính tích cực, chủ động của giáo viên: Với mô hình này, người giáo viên phải chủ động trong việc tìm hiểu CNTT, các nguồn tư liệu để có thể thiết kế các bài giảng của mình trên Web học trực tuyến. Còn học sinh, đòi hỏi một tinh thần tự giác cao trong việc tìm hiểu kiến thức và hoàn thiện các yêu cầu của giáo viên đưa ra. Với đặc điểm buộc phải sử dụng tới sự hỗ trợ của CNTT, qua mô hình này, giáo viên và học sinh sẽ được tìm hiểu, học tập và rèn luyện thêm về kĩ năng sử dụng CNTT vào trong dạy và học. Không còn đơn thuần là một lớp học thông thường “thầy đọc - trò chép”, học sinh thụ động thu nhận kiến thức từ phía giáo viên. Với mô hình này, học sinh được làm chủ kiến thức, làm chủ giờ học, tự do sáng tạo, tự do phát triển năng lực của bản thân thông qua các nhiệm vụ, yêu cầu của giáo viên và dưới sự hướng dẫn của giáo viên. 9
- Như vậy, có thể nói mô hình lớp học đảo ngược đang và sẽ hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của giáo dục trong thời đại mới, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí: Học mọi lúc, học mọi nơi, học suốt đời, dạy cho mọi người và mọi trình độ tiếp thu khác nhau. Và đây cũng là cơ sở để giáo viên có thể đưa mô hình này vào trong công tác giảng dạy của mình. - Xuất phát từ điều kiện về cơ sở vật chất của nhà trường và học sinh: Trong một vài năm qua, với sự nỗ lực của Nhà trường, dù trong điều kiện khó khăn thiếu thốn nhưng đã cố gắng trang bị hệ thống máy chiếu Projecter cho hầu hết các phòng học. Ngoài ra nhà trường cũng đã lắp đặt hệ thống Wifi mạnh cho toàn trường, ở các dãy nhà học cao tầng đều có lắp đặt Wifi. Đối với học sinh, hiện nay số em có máy tính để bàn hoặc máy xách tay không nhiều, chỉ có các em là con của cán bộ giáo viên hoặc công chức - viên chức hoặc những gia đình có điều kiện. Tuy nhiên, hiện nay đa số các em đều sử dụng điện thoại thông minh, và có kết nối mạng Internet thông qua mạng 3G, 4G hoặc kết nối với Wifi. Điểm tích cực nhất ở các em học sinh hiện nay là đã tương đối thành thạo hình thức học online (học trực tuyến), các em cũng khá thành thạo trong các thao tác như quay phim, chụp ảnh, làm videos, khai thác Internet… Mặt khác, các em luôn có tính muốn thể hiện mình rất cao, đam mê tìm tòi, học hỏi… Đó chính là những điều kiện thuận lơi nhất để giáo viên áp dụng mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII” nói riêng và cả dạy học Lịch sử nói chung. - Xuất phát từ những ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19: Dịch bệnh Covid- 19 đã tác động trực tiếp đến toàn cầu về mọi mặt từ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, thể thao, du lịch… trong đó giáo dục cũng phải chịu những tác động không nhỏ. Để chống lại sự lây lan của dịch bệnh, nhiều hình thức học tập đã được triển khai cho phù hợp, trong đó phổ biến nhất là học online, học trực tuyến, tự học - tự nghiên cứu…. Do đó, việc áp dụng mô hình lớp học đảo ngược vào dạy học cũng là một trong những hình thức phù hợp trong điều kiện dịch bệnh hiện nay. Qua đó, giáo viên vừa đảm bảo được hai yêu cầu là phòng chống dịch bệnh và đảm bảo tiến độ chương trình, đảm bảo việc truyền thụ kiến thức cho học sinh. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Lịch sử nghiên cứu Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về việc sử dụng mô hình lớp học đảo ngược vào giảng dạy. Tất cả các công trình nghiên cứu về vấn đề này đều thừa nhận những hiệu quả tích cực của các mô hình dạy học này đối với quá trình dạy học, đối với cả giáo viên và học sinh. Đối với bộ môn Lịch sử, cho đến nay cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc sử dụng mô hình lớp học đảo ngược vào dạy học. Đặc biệt là mô hình này đã được áp dụng vào thực tế dạy học ở một số trường học, phổ biến nhất là ở các 10
- trường đại học, cao đẳng. Ở cấp THPT, đây là một hình thức dạy học tương đối mới mẻ nên chưa được sử dụng phổ biến, mới chỉ bước đầu áp dụng ở một số trường. Vấn đề sử dụng mô hình lớp học đảo ngược vào dạy học chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII” (Lịch sử lớp 10) cho đến nay chưa có đề tài nghiên cứu. 1.2.2. Thực trạng việc sử dụng mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học Lịch sử tại các trường trung học phổ thông ở huyện Yên Thành - Nghệ An Khi thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành khảo sát và tìm hiểu đối với các giáo viên một số trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành và một số địa phương lân cận; tìm hiểu qua khảo sát các em học sinh lớp 10 của trường THPT Yên Thành 2. Qua tìm hiểu thực tế cho thấy: - Đối với giáo viên: + Về phương pháp, hình thức dạy học: Phần lớn giáo viên chưa từng áp dụng các phương pháp, hình thức dạy học mới vào giảng dạy mà hoàn toàn chỉ sử dụng cách dạy học truyền thống. Còn lại, có một số ít giáo viên đã từng áp dụng các phương pháp, hình thức dạy học mới. Tuy nhiên trong số ít giáo viên đã từng áp dụng phương pháp và hình thức dạy học mới lại không thường xuyên, chủ yếu sử dụng trong các buổi thao giảng, dự giờ… + Về vai trò, ý nghĩa của các phương pháp, hình thức dạy học theo hướng phát triển năng lực và lấy học sinh làm trung tâm: 100% giáo viên đều cho rằng rất có hiệu quả. + Với mô hình lớp học đảo ngược thì phần lớn giáo viên đều chưa từng nghe nói đến, còn số ít thì đã tìm hiểu qua nhưng chưa thực sự hiểu về mô hình này. Trong đó, có một vài giáo viên đã hiểu về mô hình này là sự thay đổi về mục tiêu, mục đích học tập hướng tới thực hành bên ngoài thực tế nhiều hơn, một vài giáo viên hiểu là sự thay đổi về vai trò của giáo viên và học sinh, là sự thay đổi về địa điểm học tập. Mặc dù vây, tất cả giáo viên đều cho rằng vai trò của mô hình này rất quan trọng và muốn được áp dụng vào việc giảng dạy nếu có thể. Họ đã đề xuất mong muốn nhà trường sẽ tạo điều kiện hơn nữa để có thể áp dụng mô hình này vào trong giảng dạy. - Đối với học sinh: Các em có hứng thú cao với các phương pháp dạy học mới và hầu hết các em đều cho rằng nó phù hợp để ứng dụng vào môn Lịch sử ở trường THPT. Trong học tập, các vấn đề liên hệ thực tiễn địa phương luôn thu hút học sinh. Khi được giáo viên hướng dẫn và giao nhiệm vụ cụ thể đồng thời có những động viên khích lệ, học sinh sẽ thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập. + Phần lớn học sinh mong muốn thầy cô thay đổi phương pháp dạy học truyền thống trước đây. Các em đều mong muốn được thầy cô dạy theo các phương pháp, hình thức dạy học mới. Trong đó, phương pháp, hình thức mà học 11
- sinh thích nhất là tổ chức các trò chơi và các buổi trải nghiệm sáng tạo. Riêng với hình thức học trực tuyến, mặc dù rất ít thầy cô áp dụng và chưa hiểu hết về cách dạy học này, nhưng đa số học sinh vẫn mong muốn được học. + Tuy nhiên, để áp dụng mô hình này có hiệu quả, học sinh khẳng định sẽ gặp phải những khó khăn như: áp lực từ bài tập của các môn học khác, khả năng tự học của bản thân còn hạn chế. Ngoài ra, còn những khó khăn như: gia đình không có đủ điều kiện về kinh tế, ở nhà thời gian dành cho học tập và vui chơi bị hạn chế, thời gian cho một tiết học trên lớp bị hạn chế, cơ sở vật chất của nhà trường chưa đủ để đáp ứng việc học,… 2. Xây dựng chủ đề dạy học: Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX (Lịch sử lớp 10) 2.1. Lựa chọn chủ đề Theo UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Ở một góc độ khác, người ta xem văn hóa như là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá trình tương tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là của con người, do con người sáng tạo và vì lợi ích của con người. Văn hóa được con người giữ gìn, sử dụng để phục vụ đời sống con người và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, dù hiểu theo các góc độ khác nhau, nhưng các quan điểm nói trên đều có nét chung đó là: văn hóa là những giá trị tốt đẹp về vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tồn tại nhằm phục vụ cho chính cuộc sống của con người. Theo đó văn hóa bao gồm hai bộ phận: văn hóa vật chất (văn hóa vật thể) và văn hóa tinh thần (văn hóa phi vật thể). Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII là giai đoạn Đại Việt xây dựng và phát triển quốc gia độc lập tự chủ sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc. Chế độ phong kiến được hình thành với các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê, phát triển qua các triều đại Lý - Trần, phát triển đến đỉnh cao dưới thời Lê sơ ở thế kỷ XV. Sang các thế kỷ XVI đến XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu có những dấu hiệu của sự suy thoái và khủng hoảng với sự tranh chấp quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến dẫn đến đất nước bị chia cắt. Có thể nói từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII là giai đoạn gắn liền với sự hình thành, phát triển và bước đầu suy yếu của chế độ phong kiến Việt Nam. Đây cũng là giai đoạn có nhiều biến đổi tự thân trong nội bộ quốc 12
- gia, dân tộc, đồng thời cũng là thời kỳ có biến đổi nhiều từ ngoại cảnh. Tuy nhiên, về mặt văn hóa, đây là giai đoạn mà văn hóa Việt Nam đã trỗi dậy, vươn lên và đạt đến những đỉnh cao với nhiều thành tựu nổi bật. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, cùng với sự nghiệp chính trị, quân sự và phát triển kinh tế, nhân dân ta đã từng bước xây dựng cho mình một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Những thành tựu văn hóa đạt được trong thời kì này, vừa là sản phẩm của sự nghiệp chung, vừa là nền móng vững chắc lâu dài cho dân tộc. Theo đó, trong giai đoạn này, nhân dân ta đã tạo nên những thành tựu lớn trên các lĩnh vực: tư tưởng, tôn giáo; giáo dục; văn học; nghệ thuật; khoa học kĩ thuật… Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, những biến động lớn của tình hình chính tri, xã hội giai đoạn này đã ảnh hưởng to lớn đến tình hình văn hóa. Hơn nữa, ở giai đoạn này, sự phát triển của ngoại thương, của nền kinh tế hàng hóa và giao lưu với thế giới bên ngoài cũng tác động lớn đến đời sống văn hóa của nhân dân Đàng Ngoài và Đàng Trong. Với những nội dung như vậy, chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII” là phù hợp để giáo viên sử dụng mô hình lớp học đảo ngược vào dạy học nhằm nâng cao chất lượng bộ môn cũng như phát triển năng lực học sinh. - Lựa chọn chủ để: “Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVII” tại Chương II Phần hai và Chương III Phần hai của Sách giáo khoa Lịch sử 10 (chương trình chuẩn) gồm 2 bài: Bài 20 - Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X - XV và Bài 24 - Tình hình văn hóa ở các thế kỷ XVI - XVIII. - Thời lượng của chủ đề: 02 tiết. 2.2. Mục tiêu của chủ đề - Về kiến thức: Sau khi học xong chủ đề, học sinh nắm được các nội dung sau: + Tư tưởng và tôn giáo: Sự thay đổi vai trò thống trị về tư tưởng của Phật giáo và Nho giáo. Vài nét về Đạo giáo, tín ngưỡng truyền thống, sự du nhập của Thiên Chúa giáo. + Biết được sự phát triển của giáo dục Nho học thời phong kiến; sự phát triển của văn học chữ Hán và chữ Nôm. + Biết được đặc điểm nổi bật của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc; khái quát về sự hình thành và phát triển những loại hình sân khấu, đặc biệt là múa rối nước; hát quan họ, Nhã nhạc cung đình Huế, hát Ví dặm (Nghệ Tĩnh), cố đô Huế... những di sản văn hóa thế giới của đất nước Việt Nam trong các thế kỉ X - XVIII. + Kể được những công trình khoa học đặc sắc. + So sánh được sự khác nhau về tư tưởng, tôn giáo, giáo dục, văn học, nghệ thuật... giữa các giai đoạn lịch sử. 13
- - Về kỹ năng: Rèn luyện kỹ năng phân tích, so sánh, đánh giá các sự kiện; Kỹ năng khai thác kênh hình, tư liệu có liên quan đến chuyên đề; Kỹ năng hoạt động nhóm, thuyết trình trước tập thể. - Về thái độ: + Bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam. + Giáo dục cho học sinh thái độ trân trọng và có ý thức gìn giữ, bảo tồn các di sản văn hóa của nhân loại, duy trì và phát triển bản sắc văn hóa của ông cha ta. - Định hướng các năng lực hình thành * Năng lực chung: Năng lực tự học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ. * Năng lực chuyên biệt: + Năng lực tái hiện các sự kiện lịch sử dân tộc, các thành tựu văn hóa trong thế kỉ X-XV. + Năng lực thực hành bộ môn: Khai thác, sử dụng tư liệu gốc, tranh ảnh lịch sử,… + So sánh, phân tích sự thay đổi vai trò thống trị về tư tưởng của Phật giáo và Nho giáo, sự hưng, suy giáo dục nho học, sự phát triển của dòng văn học chữ Hán, Nôm, dân gian.. + Vận dụng những kiến thức lịch sử đã học để giải quyết những vấn đề thực tiễn: Biết tìm hiểu thông tin lịch sử về các nhân vật lịch sử như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... + Biết vận dụng kiến thức liên môn các bộ môn Văn học, Địa lí... giải quyết vấn đề bài học, lĩnh hội kiến thức mới. 2.3. Nội dung dạy học chủ đề: Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII (Lịch sử lớp 10) Tóm tắt nội dung Định hướng nội dung Mục tiêu cần đạt chủ đề 1. Tình hình tư tưởng, 1. Tình hình tư tưởng, - Biết được những nét tôn giáo tôn giáo lớn về tình hình tư - Từ thế kỉ X đến thế kỉ a) Phật giáo tưởng, tôn giáo, tín XIV, Phật giáo giữ vị trí ngưỡng ở nước ta qua quan trọng và phổ biến. các giai đoạn lịch sử từ Từ vua đến quan và dân thế kỷ X đến thế kỷ đều sùng đạo Phật, các XVIII. nhà sư được triều đình - Hiểu được sự thay đổi coi trọng. Đạo giáo tồn b) Nho giáo về vai trò của Phật giáo 14
- Tóm tắt nội dung Định hướng nội dung Mục tiêu cần đạt chủ đề tại song song với Nho và Nho giáo trong đời giáo và Phật giáo. Một số sống xã hội phong kiến đạo quán được xây dựng. Việt Nam. - Từ cuối thế kỉ XIV, c) Đạo giáo và các tín - Nắm được những nét Phật giáo và Đạo giáo ngướng truyền thống cơ bản về tình hình Đạo suy giảm. Trong khi đó, giáo, tín ngưỡng truyền ở thế kỉ XV, Nho giáo thống và sự du nhập của được nâng lên địa vị độc Thiên Chúa giáo vào tôn, trở thành hệ tư tưởng nước ta. chính thống của nhà - Đánh giá, nhận xét về nước phong kiến. đời sống tư tưởng, tôn - Từ thế kỉ XVI, Nho giáo, tín ngưỡng của giáo từng bước suy thoái, nhân dân ta thời phong Phật giáo, Đạo giáo có kiến điều kiện phục hồi. - Các tín ngưỡng truyền thống trong dân gian vẫn được duy trì và phát huy như tục thờ cúng tổ tiên, thờ những người anh hùng có công với nước, với làng… - Từ thế kỉ XVI, một số d) Sự du nhập Thiên chúa giáo sĩ đạo Thiên chúa giáo phương Tây theo các thuyền buôn nước ngoài vào Đại Việt truyền đạo Thiên chúa ở cả hai đàng. Do nhu cầu của việc truyền đạo, chữ quốc ngữ theo mẫu tự Latinh cũng ra đời ở thế kỉ XVII. 2. Tình hình giáo dục 2. Tình hình giáo dục - Biết những nét chính - Từ thế kỉ XI đến thế kỉ a) Từ thế kỉ XI đến thế kỉ về tình hình giáo dục - XV: XV khoa cử ở nước ta thời + Thời Lý - Trần: Năm - Thời Lý - Trần phong kiến 1070, vua Lý Thánh - Giải thích thái độ của Tông cho lập Văn Miếu. chính quyền phong kiến Năm 1075, khoa thi quốc đối với hoạt động giáo gia đầu tiên được tổ chức dục qua các thời kì. ở kinh thành. Sang thời - Giải thích tác động của 15
- Tóm tắt nội dung Định hướng nội dung Mục tiêu cần đạt chủ đề Trần, giáo dục, thi cử giáo dục đối với Việt được quy định chặt chẽ Nam thời phong kiến. hơn. - Trình bày truyền thống + Thời Lê sơ: Nhà nước - Thời Lê sơ học hành khoa cử của quy định cứ 3 năm có Nghệ An một kì thi hội để chọn - Hiểu được những đóng tiến sĩ. Trong dân gian, góp và hạn chế của giáo số người đi học ngày dục nho học ở nước ta. càng đông và số người đỗ đạt cũng tăng thêm nhiều. Riêng thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ chức được 12 khoa thi hội, có 501 người đỗ tiến sĩ. Năm 1484, nhà nước quyết định dựng bia ghi tên tiến sĩ. Nhiều trí thức tài giỏi đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. - Từ thế kỷ XVI - XVIII: b) Từ thế kỷ XVI - XVIII + Nhà Mạc tiếp tục phát - Thời Nhà Mạc triển giáo dục, tổ chức đều đặn các kì thi để chọn lựa nhân tài. Thời kì nhà Mạc đã tổ chức được 22 kì thi hội lấy được 485 tiến sĩ. + Nhà nước Lê - Trịnh - Thời Lê - Trịnh được khôi phục, giáo dục nho học tiếp tục được duy trì. Nhiều khoa thi được tổ chức nhưng số người đỗ đạt và đi thi không nhiều như trước. Ở Đàng trong, năm 1646 chúa Nguyễn mở khoa thi đầu tiên. + Ở triều đại Tây Sơn, - Thời Tây Sơn với chính sách chăm lo giáo dục của Quang 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 40 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sử dụng các biến nhớ của máy tính điện tử cầm tay trong chương trình Toán phổ thông
128 p | 148 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ phân bố thời gian giúp học sinh giải nhanh bài tập trắc nghiệm liên quan đến thời điểm và khoảng thời gian trong mạch dao động
24 p | 25 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa lí 10, 12
31 p | 66 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống, khắc sâu kiến thức Hoá học hữu cơ lớp 12 cơ bản
30 p | 43 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập dưới dạng đề kiểm tra sau mỗi bài học, để học sinh làm bài tập về nhà, làm tăng kết quả học tập môn Hóa
13 p | 27 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng Infographic nhằm nâng cao hiệu quả và tăng hứng thú học tập Ngữ văn của học sinh THPT
15 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh lớp 12 trường THPT Trần Đại Nghĩa làm bài kiểm tra đạt hiệu quả cao
41 p | 56 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bản đồ tư duy (mind map) để tổng hợp kiến thức ôn thi tốt nghiệp và đại học cho học sinh khối 12
6 p | 55 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 48 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải để phát triển năng lực tư duy cho học sinh
106 p | 25 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bảng hệ thống kiến thức nhằm nâng cao chất lượng trong ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông phần Lịch sử Việt Nam (1919-1945)
47 p | 40 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép một số tư liệu lịch sử Bình Long trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 -1975
16 p | 53 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn