Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng một số công cụ hỗ trợ học tập trong các tiết nói và nghe môn Ngữ văn 10 ở trường THPT Tuần Giáo
lượt xem 0
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Sử dụng một số công cụ hỗ trợ học tập trong các tiết nói và nghe môn Ngữ văn 10 ở trường THPT Tuần Giáo" nhằm thu hút học sinh không chỉ chú trọng vào kỹ năng nói mà còn rèn luyện cả kỹ năng nghe; Phát huy tính tích cực, chủ động ở học sinh; Tăng thêm niềm đam mê, hứng thú học tập bộ môn; Tạo điều kiện để mọi học sinh tiếp cận, trân trọng, sử dụng và phát huy bài nói nghe đã được lưu trữ, quảng bá.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng một số công cụ hỗ trợ học tập trong các tiết nói và nghe môn Ngữ văn 10 ở trường THPT Tuần Giáo
- SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐIỆN BIÊN TRƯỜNG THPT TUẦN GIÁO –––– SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI : “Sử dụng một số công cụ hỗ trợ học tập trong các tiết nói và nghe môn Ngữ Văn 10 ở trường THPT Tuần Giáo” Tác giả: Phạm Thị Thanh Hải, Trần Minh Phương Đơn vị công tác: Tổ Ngữ Văn, Trường THPT Tuần Giáo Tuần Giáo, tháng 4 năm 2024 1
- A. MỤC ĐÍCH VÀ SỰ CẦN THIẾT: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất của người học được coi là định hướng, là xu thế, là mục tiêu chung của quá trình tổ chức dạy học của tất cả các môn học, cấp học, ngành học. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực phẩm chất người học góp phần tạo ra những sản phẩm con người tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động làm chủ tri thức, làm chủ môn học. Trong đó, với đặc trưng và thế mạnh riêng, dạy học nói và nghe tập trung phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác, đặc biệt là năng lực ngôn ngữ. Tuy nhiên, việc tổ chức dạy học các tiết nói nghe nói chung và việc rèn luyện hai kỹ năng này chưa thực sự được chú trọng trong dạy học môn Ngữ văn ở chương trình trước đây. Khi Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể ra đời, kỹ năng nói nghe mới được chú trọng và trả lại vị trí xứng đáng nhưng cũng lại đặt ra khá nhiều yêu cầu, thách thức cho cả người dạy và người học. Trong quá trình tổ chức dạy học các tiết nói và nghe, có thể nói, bên cạnh những ưu điểm khi mới tiếp cận chương trình mới như: sự hào hứng, cách tiếp nhận, khai thác, làm chủ có nhiều sáng tạo thì vẫn còn tồn tại không ít những hạn chế như: Người nói, người nghe chưa xác định rõ kỹ năng, nhiệm vụ cụ thể, phương pháp, cách thức nói nghe hiệu quả.Vì vậy, cácc tiết nói nghe chưa thực sự đem lại hiệu quả, niềm đam mê, hứng thú cho học sinh. Việc dạy học Văn nói chung, việc dạy kỹ năng nói nghe hiện nay vẫn còn nợ nhiều câu hỏi như: Làm như thế nào để phát huy toàn diện 4 kỹ năng nghe, nói, đọc viết cho học sinh? Làm như thế nào để học sinh có thể tự tin khi đứng trước đám đông, có khả năng linh hoạt trong việc sử dụng hệ thống ngôn từ, khả năng giao tiếp, phản biện, xử lý các tình huống trong quá trình giao tiếp? Trăn trở về mục tiêu rèn luyện kỹ năng giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ cho học sinh, bản thân tôi đã rất tích cực xây dựng những giải pháp cụ thể trong dạy học môn Ngữ văn nó chung, khi khám phá và định hướng học sinh cách thức làm chủ tiết học trong các tiết nói và nghe. Chia sẻ với quý đồng nghiệp một phần kinh nghiệm đã được áp dụng trong thực tế giảng dạy với đề tài “Chiến lược thu hút học sinh trong các tiết nói và nghe môn Ngữ văn 10” với định hướng và mục tiêu: Giáo viên và học sinh có được những giờ dạy hay, lý thú, bổ ích, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Sự cần thiết phải áp dụng biện pháp: - Giải pháp là thực sự cần thiết để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình dạy học các tiết nói và nghe. - Mục tiêu của chương trình GDPT tổng thể 2018 môn Ngữ văn: Rèn 4 kỹ năng “Đọc, viết, nói, nghe”. Trăn trở về mục tiêu rèn luyện kỹ năng giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ cho học sinh, bản thân tôi đã rất tích cực xây dựng những giải pháp cụ thể trong dạy học môn Ngữ văn nói chung, khi khám phá và định hướng học sinh cách thức làm chủ tiết học trong các tiết nói và nghe. Giáo viên và học sinh có được những giờ dạy hay, lý thú, bổ ích, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Trong quá trình thực hiện tiết nói và nghe, chắc chắn học sinh sẽ gặp phải những khó khăn nhất định. Hơn nữa, trong một lớp thông thường sẽ chia 4-6 nhóm nhỏ để thảo luận, số lượng công việc giáo viên cần giải quyết rất nhiều, vì vậy cần thiết có sẵn công cụ học tập thay thế giáo viên, đồng hành cùng học sinh trong quá trình thực hiện tiết nói và nghe. - Là giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 10, tôi nhận thấy rằng việc dạy học nội dung nói và nghe là khá khó đối với học sinh. Đa số học sinh là người dân tộc (chủ yếu là dân tộc Thái và Mông) nên việc giao tiếp vốn đã nhiều hạn chế lại chưa Học sinh chưa nắm chắc nguyên tắc, kỹ năng nghe và kỹ năng nói. Các em còn lúng túng, thụ động và thiếu tự tin trong quá trình thực hành Nói và nghe. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn áp dụng: “Sử dụng một số công cụ hỗ trợ học tập trong các tiết nói và nghe môn Ngữ Văn 10 ở trường THPT Tuần Giáo” 2
- B. PHẠM VI TRIỂN KHAI THỰC HIỆN: Trong phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm tôi chỉ đề cập đến số vấn đề như: - Sử dụng phiếu học tập, phiếu đánh giá, phiếu tự đánh giá, giấy nhớ, bảng kiểm làm công cụ hỗ trợ học sinh giải quyết vấn đề trong tiết học nói và nghe - Sử dụng phần mềm, hình ảnh, sơ đồ tư duy, đồ vật trực quan khơi nguồn sáng tạo cho học sinh trong cách trình bày bài nói nghe - Sử dụng công cụ hỗ trợ trong khâu kiểm tra, đánh giá sản phẩm và lưu trữ, mở rộng quảng bá, kết nối đánh giá các sản phẩm nói nghe C. NỘI DUNG: I. Tình trạng giải pháp đã biết: Trước đây, việc dạy học văn đang bị bất cân xứng về 4 kỹ năng “Đọc, viết, nói, nghe”. Học sinh chủ yếu được rèn luyện nhiều ở mặt đọc và viết, còn kỹ năng nói rất hạn chế, đặc biệt là kỹ năng nghe thì dường như bị bỏ quên vì chưa thấy chương trình thiết kế có kỹ năng nghe cho học sinh. Điều đáng nói là, trong chương trình THPT môn Ngữ văn trước đây có nhiều bài học hữu ích và thực tế nhằm phát huy kỹ năng nói cho học sinh, như bài phát biểu theo chủ đề, bài tự do phát biểu… Song do quá chú trọng về thi cử, điểm số và với tâm lý “thi gì thì dạy học nấy”, nên các bài học này bị xem thứ yếu, giáo viên và học sinh chỉ lướt qua theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”. Lối mòn quen thuộc mà chúng tôi dạy cho học sinh khi học nói – nghe đó là: yêu cầu học sinh chuẩn bị bài ở nhà, hướng dẫn lý thuyết, học sinh thực hành nói theo dàn ý, lắng nghe và phản hồi trên lớp, giáo viên dung thang điểm để đánh giá. - Rõ ràng là việc dạy học văn hiện nay còn “nợ” nhiều câu hỏi: Làm sao để phát huy toàn diện 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh? Làm sao để kéo việc học văn về với ứng dụng thực tế? Làm như thế nào để học sinh có thể tự tin khi đứng trước đám đông, có khả năng linh hoạt trong việc sử dụng hệ thống ngôn từ, khả năng giao tiếp, phản biện, xử lý các tình huống trong quá trình giao tiếp? Ưu điểm: - Giáo viên đảm bảo được thời gian cho tiết dạy - Đối với các em học khá, giỏi tiếp thu bài học khá tốt, có kĩ năng nói và nghe, biết dựa vào gợi ý để giải quyết yêu cầu của tiết nói và nghe. Hạn chế: - Trong quá trình giảng dạy các tiết nói và nghe, giáo viên còn nặng hướng dẫn lý thuyết, chưa dành nhiều thời gian cho học sinh luyện nói, lắng nghe và phản hồi. - Chưa thể chỉ ra ưu điểm, hạn chế của từng học sinh để tìm cách khắc phục. - Bản thân học sinh cũng chưa nắm rõ kỹ năng nói, nghe cụ thể cần đảm bảo những tiêu chí nào. - Đa số học sinh yếu về kỹ năng nói, thuyết trình và tranh luận. Cho nên, nhiều em trong lớp học thì thụ động, rụt rè; ra ngoài xã hội thì khép nép thu mình vì sợ nói, sợ sai. Việc học văn bị cho thiếu thực tiễn là vì thế. - Học sinh chưa có năng lực biết lắng nghe để nhận thức, thấu hiểu mà ứng xử cho phù hợp. HS chưa quen với lắng nghe để cảm nhận theo cách nghệ thuật, ví dụ như âm điệu của một bài thơ, tiết tấu của một bản nhạc. 3
- - Các em chú trọng tới vấn đề thi cử nên chưa thấy được hết giá trị của việc rèn kỹ năng nói, nghe. II. Mục đích nghiên cứu. - Thu hút học sinh không chỉ chú trọng vào kỹ năng nói mà còn rèn luyện cả kỹ năng nghe. - Phát huy tính tích cực, chủ động ở học sinh. - Tăng thêm niềm đam mê, hứng thú học tập bộ môn. - Tạo điều kiện để mọi học sinh tiếp cận, trân trọng, sử dụng và phát huy bài nói nghe đã được lưu trữ, quảng bá. III. Phương pháp nghiên cứu: 1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết. Đọc sách, nghiên cứu những tài liệu có liên qua đến đề tài. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Quá trình giảng dạy, chúng tôi đã áp dụng những kiến thức mà đề tài đề cập đến để hướng dẫn học sinh học kỹ năng làm văn nghị luận xã hội phát huy hiệu quả, học sinh dễ hiểu bài và có thể thực hành nói và nghe đạt yêu cầu về kỹ năng và kiến thức 3. Phương pháp chọn lọc tư liệu. 4. Phương pháp phân tích tư liệu. 5. Phương pháp tổng hợp tư liệu. IV. Nội dung của giải pháp: Nội dung: Công cụ hỗ trợ cho học sinh khi thực hiện tiết nói và nghe đã được tôi cung cấp sau khi chia lớp thành các nhóm và mỗi nhóm đã nhận được nhiệm vụ. Các công cụ hỗ trợ đó có thể ở dưới nhiều dạng thức như sau: 1. Thứ nhất, sử dụng phiếu học tập, phiếu đánh giá, phiếu tự đánh giá, giấy nhớ, bảng kiểm làm công cụ hỗ trợ học sinh giải quyết vấn đề trong tiết học nói và nghe: - Tác dụng: + Phiếu học tập được chúng tôi chuẩn bị từ khâu soạn bài, lên lớp, sau khi lên lớp và kiểm tra có tính thực tiễn đối với học sinh, tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Các em biết cách sử dụng sách giáo khoa, khai thác các tài liệu tham khảo một cách có hiệu quả. + Rèn luyện cho học sinh năng lực tự học và tự chủ, năng lực hợp tác, năng lực sáng tạo và thẩm mỹ, năng lực tạo lập văn bản (nói) và đánh giá (nghe). + Đảm bảo 100% học sinh được tham gia hoạt động nói nghe, tạo tâm thế, bầu không khí sôi nổi trong tiết học và vẫn tiết kiệm được thời gian. + Chấm điểm cho phần nói cũng như một cách để theo dõi sự tiến bộ của học sinh theo thời gian. Phiếu tự đánh giá cũng hữu ích như một công cụ giảng dạy nêu ra những kỳ vọng để học sinh làm theo. + Trong chương trình GDPT 2018: Bảng kiểm được sử dụng để đánh giá các hành vi hoặc các sản phẩm mà học sinh thực hiện. Với một danh sách các tiêu chí đã xây dựng sẵn, tôi sẽ sử dụng bảng kiểm để quyết định xem những hành vi hoặc những đặc điểm của sản phẩm nói và nghe mà học sinh thực hiện có khớp với từng tiêu chí có trong bảng kiểm không + Giúp người nghe ghi nhớ ý chính của các cuộc thảo luận. Đồng thời tạo hiệu ứng thích thú cho học sinh trong tiết nói và nghe. Bước 1: Giáo viên chuẩn bị phiếu học tập, phiếu đánh giá, phiếu tự đánh giá, giấy nhớ, bảng kiểm trước tiết học. 4
- Bước 2: Học sinh hoàn thiện các nội dung kiến thức vào các phiếu học tập, phiếu đánh gía, phiếu tự đánh giá đã được chuẩn bị. Bước 3: Sau khi học sinh hoàn thiện các phiếu thì cho học sinh trình bày, học sinh khác nhận xét. Cuối cùng giáo viên nhận xét, chính xác hóa nội dung kiến thức. - Phiếu học tập, phiếu tự đánh giá, bảng kiểm dùng để định hướng cho học sinh giải quyết nhiệm vụ học tập trong khâu thực hiện kỹ năng nói: Ví dụ: Dạy nói và nghe bài 2- Vẻ đẹp của thơ ca, ở phần Nói và nghe: “Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ” (Lựa chọn tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử) tại lớp 10A7, tôi yêu cầu: 100% học sinh phải đảm bảo bài nói đầy đủ các thông tin sau trong phiếu chuẩn bị bài: Lí do lựa chọn “Đây thôn Vĩ Dạ”? …………………… Ý nghĩa nhan đề bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”? ……………………. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình? ……………………. Vẻ đẹp của hình tượng thơ? ……………………. Tính độc đáo của các phương tiện ngôn từ? ……………………. Nét hấp dẫn của bài thơ so với một số tác phẩm khác? ……………………. - 100% học sinh tham gia hoạt động mở đầu bằng cách theo dõi video tranh luận về vấn đề: “Đêm thơ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mặc Tử” (https://www.youtube.com/watch?v=Sr_cFSzRLSs) và hoàn thành phiếu yêu cầu (Dành cho cá nhân) Vấn đề được nói đến trong clip trên? …………………………. Nhận xét về giọng của người dẫn chương trình và nhân vật ………………………… được phỏng vấn? Nhận xét về những nội dung trong clip? …………………………. Em ấn tượng bởi thông tin nào? …………………………. Em có sẵn sàng tham gia vào cuộc thuyết trình về thơ Hàn ………………………….. Mặc Tử không? - 100% học sinh hoàn thành vào phiếu hỏi và nộp lại vào cuối buổi học: Em nhớ được những thông tin nào về tác giả Hàn Mặc Tử? …………… Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên xứ Huế qua bài thơ? …………… Theo em, Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ viết về tình yêu hay tình quê? Vì sao? …………… Em cảm nhận được gì về tâm trạng của nhân vật trữ tình qua các câu hỏi tu từ ……………… trong bài thơ? - Sau khi tham gia thảo luận, học sinh dựa vào bảng tự kiểm tra kĩ năng nói: Nội dung tự kiểm tra kĩ năng nói Đạt/chưa đạt - Rút kinh nghiệm về bài thảo luận: + Đã thảo luận đầy đủ các nội dung chuẩn bị trong dàn ý chưa? + Cách thức thảo luận, phong thái, giọng điệu, ngôn ngữ… có phù hợp không? + Các phương tiện hỗ trợ có hiệu quả như thế nào? 5
- - Đánh giá chung: + Điều em hài lòng về bài thảo luận của mình là gì? + Điều gì em mong muốn thay đổi trong bài thảo luận đó? - Phiếu 1321, giấy nhớ, phiếu đánh giá, phiếu tự đánh giá, bảng kiểm dùng để định hướng cho học sinh giải quyết nhiệm vụ học tập trong khâu thực hiện kỹ năng nghe: Ví dụ: Khi dạy bài nói và nghe “Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ” (lựa chọn tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử), chúng tôi đã hướng dẫn học sinh sử dụng giấy nhớ để ghi lại ưu điểm, hạn chế, giải pháp đối với bài nói của bạn, sau đó hoàn thiện vào phiếu học tập 1321: - Một lời cảm ơn: …………………………. - Ba lời khen: …………………………. - Hai điều muốn trao đổi: …………………………. - Một điều góp ý: …………………………. Ví dụ: Trong bài “Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”, chúng tôi đã xây dựng phiếu đánh giá về ý kiến thảo luận như sau: 6
- Ví dụ: Trong bài “Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”, chúng tôi đã xây dựng bảng tự kiểm tra kỹ năng nghe như sau: Nội dung tự kiểm tra kĩ năng ghe Đạt/chưa đạt - Kiểm tra kết quả nghe: + Nội dung nghe và ghi chép lại đã chính xác chưa? + Thu hoạch được những gì về nội dung và cách thức thảo luận về một vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau của bạn? - Rút kinh nghiệm về thái độ nghe: + Đã chú ý và tôn trọng người thảo luận để cùng tìm tiếng nói chung về vấn đề chưa? + Có nêu được câu hỏi và tham gia ý kiến trong quá trình “thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”không? Ví dụ: Trong bài “Thảo luận về văn bản nội quy hoặc văn bản hướng dẫn nơi công cộng”, chúng tôi đã xây dựng hệ thống bảng kiểm tự đánh giá và đánh giá về ý kiến thảo luận như sau: 2. Thứ hai, sử dụng phần mềm, hình ảnh, sơ đồ tư duy, đồ vật trực quan khơi nguồn sáng tạo cho học sinh trong cách trình bày bài nói nghe: Định hướng của chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể là phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong hoạt động làm chủ và chiếm lĩnh tri thức. Vậy điểm quan 7
- trọng, giáo viên cần định hướng để học sinh biết cách sáng tạo trong việc thực hiện bài nói và nghe. - Sử dụng các phần mềm Capcut, Ticktock để thiết kế video, hình ảnh phụ trợ cho nội dung của bài nói. Học sinh có thể cắt ghép video hay cắt ghép hình ảnh để thiết kế video làm công cụ hỗ trợ và làm phong phú thêm cho bài nói. - Xây dựng hệ thống các hình ảnh trực quan, tranh ảnh phù hợp với chủ đề thảo luận, nhằm kích thích tư duy trực quan hình tượng ở học sinh, từ đó học sinh dễ hình dung đối tượng đúng định hướng hơn. - Sử dụng hệ thống sơ đồ tư duy làm phương tiện. Chúng tôi hướng dẫn học sinh khái quát các luận điểm, lý lẽ, các nội dung chính trong bài nói để làm phương tiện hỗ trợ bài nói. Học sinh có thể nhìn vào sơ đồ tư duy để gợi nhắc lại các nội dung cơ bản của bài nói. Sơ đồ tư duy không chỉ thể hiện được tri thức một cách ngắn gọn, khái quát, khoa học mà còn là cơ sở để học sinh có thể dựa vào để thực hiện bài nói của mình tốt hơn. Mỗi nhánh sơ đồ tư duy sẽ biểu thị một nội dung hay một phần trong bài nói của mình. Vì vậy, giáo viên có thể khuyến khích học sinh sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy để tổng hợp, dự kiến hoặc khái quát nội dung bài nói. Bên cạnh đó kĩ năng nghe của các em cũng được cải thiện hơn nhờ kĩ thuật này. Các em biết chắt lọc kiến thức khi “nghe có chọn lọc”, phản ứng với các từ, cụm từ khóa của bài qua sơ đồ tư duy. Đây là một phương tiện hỗ trợ tích cực giúp học sinh tự tin mỗi khi nói, rèn khả năng thuyết trình, bớt e dè, phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập, người nghe hiểu trọn vẹn được ý định của người nói. - Sử dụng các đồ dùng trực quan để hỗ trợ bài nói. Có những bài nói chúng tôi đã hướng dẫn học sinh sử dụng chính đồ dùng trực quan để trao đổi, chia sẻ về bài nói. Điều này có nghĩa là cầm đồ vật có liên quan tới nội dung bài nói để minh họa cho bài nói. Với cách này, học sinh có thể vừa nói, vừa sử dụng đồ vật để mô tả nội dung bài nói. Cách này khá thuyết phục người nghe, người nghe không phải tưởng tượng, hình dung mà được quan sát trực quan và thấy được sự thuyết phục hay không thuyết phục trong bài nói. * Các bước tiến thực hiện: Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh tải phần mềm, chuẩn bị sơ đồ tư duy, hình ảnh, đồ vật trực quan trước tiết học. Bước 2: Học sinh lên bảng Nói và Nghe các nội dung kiến thức trong sơ đồ đã được chuẩn bị, trình chiếu bài Nói trên phần mềm, sử dụng hình ảnh và đồ dung trực quan để thực hiện bài nói. Bước 3: Sau khi học sinh hoàn thiện bài nói thì cho học sinh khác nhận xét. Cuối cùng giáo viên nhận xét, chính xác hóa nội dung kiến thức. Ví dụ: Khi dạy bài nói và nghe “Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ” (Lựa chọn tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử), học sinh lớp 10A7 đã sáng tạo trong cách thể hiện ý tưởng như sau: - Sử dụng hình ảnh để nói: 1-chân dung Hàn Mặc Tử, 2-nơi an nghỉ của Hàn Mặc Tử. 3- bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, 4- thôn Vĩ Dạ, 5-bà Hoàng Cúc, 6-sông trăng, 7-thiếu nữ áo trắng, 8- Sương khói xứ Huế. 8
- - Sử dụng hình ảnh, sơ đồ tư duy để nói và nghe: - Sử dụng phần mềm Tiktok để tạo bài nói: Ví dụ: ở phần Nói và nghe: “Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” với đề tài “Học sinh dùng điện thoại trong trường học – nên hay không?”, Học sinh lớp 10A7 đã dùng điện thoại thông minh để thuyết trình về phần thảo luận của mình. 9
- Trong bài nói và nghe: “Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” với đề tài “Tình yêu học trò, nên hay không” Học sinh lớp 10A7 đã dùng phần mềm Capcut để tạo bài nói. 3. Thứ ba, sử dụng công cụ hỗ trợ trong khâu kiểm tra, đánh giá sản phẩm và lưu trữ, mở rộng quảng bá, kết nối đánh giá các sản phẩm nói nghe: - Sử dụng công cụ kiểm tra đánh giá sản phẩm nói nghe của học sinh: - Giáo viên có thể trao tặng huy hiệu, trao tặng sao (sau nhiều bài nói nghe tốt) bên cạnh những lời động viên, khích lệ kịp thời. - Xây dựng nhóm Zalo, facebook để kiểm tra, đánh giá sản phẩm nói nghe của học sinh. Đó có thể là bài tập chuẩn bị bài của học sinh, sản phẩm nói nghe trên lớp hoặc sản phẩm thực hành nói nghe của học sinh tại nhà qua việc nộp sản phẩm. * Các bước tiến thực hiện: Bước 1: Giáo viên tạo trang page, nhóm Zalo Bước 2: Học sinh gửi bài tập Nói và nghe vào nhóm. Bước 3: Yêu cầu học sinh các lớp like và chia sẻ những bài nói tốt. - Ví dụ: tôi đã trao tặng huy hiệu cho học sinh lớp 10A7 sau bài nói nghe với chủ đề “Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”: 10
- - Lưu trữ, mở rộng quảng bá, kết nối đánh giá các sản phẩm nói nghe: - Học sinh đã chia sẻ sản phẩm nói nghe của bản thân lên trang page, nhóm yêu thích môn văn để cùng lắng nghe các thành viên tham gia đóng góp ý kiến với mục tiêu: vừa học hỏi vừa rút kinh nghiệm. Đây cũng là một cách lưu trữ các sản phẩm nói và nghe tốt để làm tư liệu định hướng cho học sinh trong nhiều năm học. - Mục đích: Đảm bảo 100% học sinh được nói nghe. Với thời lượng mỗi tiết học là 45 phút, để kiểm tra, đánh giá từng học sinh là rất khó. Vì thế, tạo nhóm zalo hay facebook, học sinh có thể nói một mình, nói nghe theo cặp đôi, nói nghe bằng video và gửi vào nhóm lớp để cùng nhận xét, đánh giá theo nhóm. Khi học sinh được nói nghe 100%, giáo viên và các thành viên khác trong lớp học và bản thân chính học sinh đó mới nhìn nhận ra điểm mạnh và điểm hạn chế của bản thân và tìm hướng khắc phục. - Ảnh nhóm Zalo bao gồm các lớp 10A7 trường THPT Tuần Giáo: - Page Facebook: https://fb.watch/pBBtzVveW6/?mibextid=K8Wfd2 11
- V. Khả năng áp dụng của giải pháp: - Trường THPT Tuần Giáo, Huyện Tuần Giáo, Tỉnh Điện Biên. - Đối tượng: Học sinh lớp 10,11 VI. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: a. Với giáo viên tham gia giảng dạy: - Bản thân giáo viên khi thấy chất lượng lớp mình đạt được những mục tiêu mà mình đề ra là một sự thành công lớn. Nhìn kết quả học tập tiến bộ của các em, tôi thực sự thấy hạnh phúc, thấy vui cùng niềm vui của các em và sự phấn khởi của phụ huynh học sinh. - Tổ chức có hiệu quả các tiết nói, nghe, tạo bầu không khí sôi nổi trong lớp học. - Giáo viên có phương pháp cụ thể và sự quan tâm hơn với những đối tượng học sinh khác nhau, đồng thời định hướng được cho học sinh cách chuẩn bị kỹ lưỡng, cách suy nghĩ trước khi nói nghe, cách nhận xét bài nói của bạn, hình thành kỹ năng nghe hiệu quả. b. Với học sinh: - Những học sinh nhận thức chậm có sự tiến bộ, ít nhiều cũng nắm được kỹ năng nói và nghe…Số học sinh có kỹ năng nói và nghe tốt tăng cao. Số học sinh nhút nhát, thụ động giảm hẳn so với trước. - Học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ. Các em diễn đạt lưu loát, truyền cảm, trình bày hợp lí, phát huy được tính năng động, sáng tạo, chủ động giao tiếp hơn trước. - Học sinh đã biết các bước, quy trình thực hiện bài nói nghe hiệu quả, có sự chuẩn bị bài kỹ lưỡng trước các bài nói nghe, nội dung bài nói nghe phong phú, đa dạng và học sinh biết cách sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ để hỗ trợ bài nói của mình. - Với người nghe, các em đã nắm được vai trò, nhiệm vụ của người nghe, đã có kỹ năng nghe hiệu quả, biết nhận xét, đánh giá, trao đổi, thảo luận, tranh biện, rút kinh nghiệm cho chính bản thân mình khi thực hiện hoạt động nói nghe. - Học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin trước đám đông, bài nói của học sinh tiến bộ dần sau mỗi tiết học, kỹ năng lắng nghe của học sinh cũng được thể hiện tốt hơn. - Khi được đặt trong các tình huống có vấn đề, kỹ năng phản xạ của học sinh tốt hơn, các em đã biết phản biện bảo vệ ý kiến cá nhân, biết cách góp ý, động viên, khích lệ nhau. 12
- c. Với các đồng nghiệp cùng tham gia giảng dạy. Các giáo viên tham gia giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong tổ đều đưa ra nhận xét: Những giải pháp đưa ra đều phù hợp với yêu cầu, mục tiêu của các tiết nói nghe, phù hợp với đối tượng học sinh lớp giảng dạy, phù hợp với năng lực của giáo viên. Đặc biệt các giải pháp có nhiều điểm mới, sáng tạo, khi áp dụng vào quá trình tổ chức dạy học các tiết nói và nghe thì thấy đem lại hiệu quả tích cực. d. Với phụ huynh: tin tưởng, yên tâm khi được giáo viên dạy bảo. Bên cạnh đó cũng có sự phối kết hợp với giáo viên và rất phấn khởi khi kỹ năng giao tiếp của con tiến bộ. 2. Kết quả cụ thể. Kết quả khảo sát nhận thức của học sinh Câu hỏi Trước và Đồng ý Không Không sau TĐ đồng ý có ý kiến Câu 1. Kỹ năng nói của em ở mức độ Trước 08/43 35/43 0/43 khá trở lên. Sau 15/43 28/43 0/43 Câu 2. Em biết vận dụng ngôn ngữ phi Trước 06/43 37/43 0/43 cơ thể trong bài nói của mình. Sau 24/43 16/43 0/43 Câu 3. Em nắm được những yêu cầu của Trước 05/43 38/43 0/43 người nghe? Sau 35/43 18/43 0/43 Câu 4. Kỹ năng nghe của em ở mức độ Trước 06/43 37/43 0/43 khá trở lên. Sau 11/43 22/43 0/43 Câu 5. Em biết cách giao tiếp, trao đổi, Trước 07/43 36/43 0/43 thảo luận với người nói, người nghe? Sau 13/43 20/43 0/43 Câu 6. 100% học sinh được tham gia nói Trước 0/43 43/43 0/43 nghe trong tiết học. Sau 43/43 0/43 0/43 Câu 7. Khả năng giao tiếp và sử dụng Trước 10/43 23/43 0/43 ngôn ngữ của em được nâng cao rõ rệt Sau 27/43 16/43 0/43 sau các tiết nói, nghe. Tiến hành khảo sát năng lực nói, nghe của học sinh trước tác động (thông qua kết quả dạy bài Nói và nghe đầu tiên) cho kết quả như sau: Kết quả trước khi thực hiện biện pháp: Kết quả Tốt Khá Đạt Chưa đạt Số học sinh 3 4 30 6 Kết quả sau khi thực hiện biện pháp: Kết quả Tốt Khá Đạt Chưa đạt Số học sinh 10 17 16 0 13
- VII. Phạm vi ảnh hưởng của giải pháp: - Có thể áp dụng triển khai tốt ở nhiều đơn vị trong cùng cấp học. - Những giải pháp đưa ra trong sáng kiến hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển giáo dục, phù hợp với yêu cầu đổi mới, đối tượng học sinh. VIII. Kiến nghị, đề xuất: 1. Danh sách cá nhân được công nhận đồng tác giả sáng kiến: không 2. Kiến nghị khác: Trên đây tuy chỉ là một số suy nghĩ cá nhân, nhưng đó là những cái mà bản thân rất tâm đắc. Là kiến thức học được từ đồng nghiệp xa, gần, là tích lũy của hơn 10 năm học văn và dạy văn của mình. Những giải pháp bước đầu nêu trên đã được anh em giáo viên tổ văn trường THPT Tuần Giáo đã và đang thực hiện, kết quả bước đầu tương đối khả quan, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng, tình cảm của học sinh đối với bộ môn Ngữ văn và thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên phù hợp với Chương trình GDPT 2018. Đổi mới phương pháp là một việc làm khó nên cần phải kiên trì và phấn đấu lâu dài. Điều đó cần được lãnh đạo ngành quan tâm, động viên và trân trọng những cố gắng của anh em giáo viên. Có như vậy môn Ngữ văn trong nhà trường mới được khởi sắc và mới có thể đáp ứng được “thị trường” dạy - học văn hiện nay. Nhà trường cần chú trọng khảo sát về ứng dụng và thực tiễn của kĩ năng luyện tập của giáo viên được đào tạo bồi dưỡng trong thực tiễn dạy học. =================== Xác nhận của HĐ thi đua nhà trường Tuần giáo, ngày 20 tháng 4 năm 2024 NGƯỜI BÁO CÁO Phạm Thị Thanh Hải Trần Minh Phương 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 41 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sử dụng các biến nhớ của máy tính điện tử cầm tay trong chương trình Toán phổ thông
128 p | 148 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ phân bố thời gian giúp học sinh giải nhanh bài tập trắc nghiệm liên quan đến thời điểm và khoảng thời gian trong mạch dao động
24 p | 25 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa lí 10, 12
31 p | 66 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống, khắc sâu kiến thức Hoá học hữu cơ lớp 12 cơ bản
30 p | 43 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập dưới dạng đề kiểm tra sau mỗi bài học, để học sinh làm bài tập về nhà, làm tăng kết quả học tập môn Hóa
13 p | 27 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng Infographic nhằm nâng cao hiệu quả và tăng hứng thú học tập Ngữ văn của học sinh THPT
15 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh lớp 12 trường THPT Trần Đại Nghĩa làm bài kiểm tra đạt hiệu quả cao
41 p | 56 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bản đồ tư duy (mind map) để tổng hợp kiến thức ôn thi tốt nghiệp và đại học cho học sinh khối 12
6 p | 55 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 48 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải để phát triển năng lực tư duy cho học sinh
106 p | 25 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bảng hệ thống kiến thức nhằm nâng cao chất lượng trong ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông phần Lịch sử Việt Nam (1919-1945)
47 p | 41 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép một số tư liệu lịch sử Bình Long trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 -1975
16 p | 53 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn